Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

Quản lý hành nghề luật sư ở việt nam hiện nay – thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng và hiệu quả quản lý

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (309.74 KB, 35 trang )

HỌC VIỆN TƯ PHÁP
CƠ SỞ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TIỂU LUẬN
LUẬT SƯ VÀ NGHỀ LUẬT SƯ

QUẢN LÝ HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY - THỰC TRẠNG
VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG VÀ HIỆU QUẢ QUẢN LÝ

Học viên: XXX
MSHV: XXX
Lớp: XXX
2016
TRANG BÌA
1


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU....................................................................................................................... 3
1.Tính cấp thiết của đề tài..................................................................................................................3
2.Mục tiêu nghiên cứu........................................................................................................................4
3.Giới hạn đề tài.................................................................................................................................4
4.Kết cấu tiểu luận..............................................................................................................................5

CHƯƠNG I CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ.....................5
1.1.Khái niệm luật sư và hành nghề luật sư........................................................................................5
1.1.1.Khái niệm luật sư...................................................................................................................5
1.1.2.Hành nghề luật sư..................................................................................................................6
1.1.3.Đặc điểm của hành nghề luật sư............................................................................................7
1.2.Quản lý hành nghề luật sư............................................................................................................7
1.2.1.Đặc thù của nghề luật sư và vấn đề quản lý hành nghề luật sư.............................................7


1.2.1.1.Đặc thù của hành nghề luật sư.......................................................................................7
1.2.1.2.Vấn đề quản lý hành nghề luật sư..................................................................................8
1.2.2.Quản lý nhà nước về hành nghề luật sư................................................................................9
1.2.3.Hoạt động tự quản của tổ chức xã hội – nghề nghiệp của luật sư.......................................10
1.2.4.Mối quan hệ giữa quản lý nhà nước và tự quản của tổ chức xã hội – nghề nghiệp của luật
sư..................................................................................................................................................11
1.2.5.Nguyên tắc và nội dung quản lý hành nghề luật sư.............................................................12
1.2.5.1.Nguyên tắc quản lý hành nghề luật sư..........................................................................12
1.2.5.2.Nội dung quản lý hành nghề luật sư.............................................................................13

CHƯƠNG II THỰC TRẠNG QUẢN LÝ HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY.................................................................................................................. 15
2.1. Thực trạng quản lý hành nghề luật sư ở Việt Nam hiện nay....................................................15
2.1.1. Hoạt động quản lý nhà nước..............................................................................................15
2.1.2. Hoạt động quản lý của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư.....................................19
2.1.2.1. Hoạt động quản lý của Liên đoàn Luật sư Việt Nam....................................................19
2


2.1.2.2. Quản lý của các Đoàn luật sư địa phương....................................................................20
2.2. Nguyên nhân những hạn chế về quản lý hành nghề luật sư hiện nay........................................22
2.2.1. Quy định của pháp luật về quản lý hành nghề luật sư còn nhiều hạn chế ..........................22
2.2.2. Cơ quan quản lý nhà nước và tổ chức xã hội nghề nghiệp của luật sư quản lý chưa chặt
chẽ................................................................................................................................................23
2.2.3. Việc tuân thủ đạo đức nghề nghiệp và kỷ luật hành nghề của luật sư chưa nghiêm..........24
2.2.4. Một số nguyên nhân khác...................................................................................................25

CHƯƠNG III GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG VÀ HIỆU QUẢ QUẢN
LÝ HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.......................................26
3.1. Một số định hướng quản lý......................................................................................................26

3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả quản lý hành nghề luật sư.............27
3.2.1. Hoàn thiện pháp luật về quản lý hành nghề luật sư và triển khai có hiệu quả các quy định
pháp luật hiện hành......................................................................................................................27
3.2.2. Đào tạo, phát triển đội ngũ luật sư.....................................................................................28
3.2.3. Tăng cường trách nhiệm pháp lý và trách nhiệm nghề nghiệp của luật sư trong hành nghề;
xây dựng đội ngũ luật sư có bản lĩnh chính trị, trong sáng về đạo đức nghề nghiệp....................29
3.2.4. Tiếp tục củng cố và kiện toàn tổ chức và hoạt động của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của
luật sư, tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp...............................................................30
3.2.5. Đổi mới việc thực hiện những nội dung trong công tác quản lý luật sư, đặc biệt là tăng
cường công tác kiểm tra, xử lý vi phạm........................................................................................31
3.3. Một số kiến nghị......................................................................................................................31

KẾT LUẬN................................................................................................................33
TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................34

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xã hội ngày càng phát triển, càng phát sinh thêm nhiều mối quan hệ giữa công
dân với công dân, giữa công dân với các cơ quan, tổ chức và giữa các cơ quan, tổ chức
với nhau. Những mối quan hệ này nhiều khi phát sinh mâu thuẫn, ảnh hưởng đến
quyền lợi của mỗi bên. Điều đó dẫn đến một nhu cầu thiết yếu của các tổ chức, cá
nhân sử dụng các dịch vụ pháp lý do các tổ chức hành nghề luật sư cung cấp để dự liệu
và hành động nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp trong đàm phán, giao kết và
3


thực hiện giao dịch. Đồng thời bảo vệ quyền lợi hợp pháp trong quá trình giải quyết
tranh chấp, thi hành án.. Thực tế cho thấy, nhu cầu sử dụng dịch vụ pháp lý đang tăng
lên một cách rõ rệt. Các tổ chức hành nghề luật sư được thành lập ngày càng nhiều.
Việc phát triển mạnh mẽ của đội ngũ luật sư cùng các tổ chức hành nghề luật sư

hiện nay đã làm tăng thêm tính phức tạp trong công tác quản lý hoạt động hành nghề
luật sư. Nâng cao vai trò của nhà nước trong việc phát triển đội ngũ luật sư đủ về số
lượng, giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ, vững về bản lĩnh chính trị, trong sáng về đạo
đức nghề nghiệp, đáp ứng yêu cầu ngày càng của xã hội đối với chất lượng dịch vụ
pháp lý của luật sư, phục vụ đắc lực cho công cuộc cải cách tư pháp và hội nhập kinh
tế quốc tế là nhiệm vụ cấp thiết hiện nay.
Hơn nữa, hành nghề luật sư có tính đặc thù, các luật sư hoạt động độc lập, tự
chịu trách nhiệm, ngoài việc tuân thủ pháp luật còn phải tuân theo quy tắc đạo đức và
ứng xử nghề nghiệp luật sư. Nhà nước không thể làm thay chức năng của tổ chức xã
hội - nghề nghiệp và cũng không thể quan thiệp vào hoạt động hành nghề của luật sư.
Để tổ chức và hoạt động hành nghề luật sư có hiệu quả thì không thể thiếu vai trò quản
lý của tổ chức xã hội – nghề nghiệp của luật sư. Việc phân định rõ và hợp lý giữa công
tác quản lý nhà nước và chế độ tự quản của tổ chức xã hội – nghề nghiệp của luật sư
giúp cho quá trình quản lý hành nghề của luật sư đạt được những hiệu quả cao, góp
phần nâng cao vị trí, vai trò của luật sư trong xã hội.
Xuất phát từ những yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội và thực trạng tổ chức, hoạt
động hành nghề của đội ngũ luật sư ở nước ta hiện nay, việc nghiên cứu đề tài “Quản
lý hành nghề luật sư ở Việt Nam hiện nay – Thực trạng và giải pháp nâng cao chất
lượng và hiệu quả quản lý” là cần thiết, có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu của tiểu luận là làm rõ được thực trạng quản lý về nghề luật sư và
hành nghề luật sư ở Việt Nam hiện nay. Đưa ra được những quy định về quản lý hành
nghề luật sư. Chỉ ra những điểm bất cập đồng thời đề xuất hướng hoàn thiện quản lý
hành nghề luật sư. Cụ thể:
-

Khái quát một cách có hệ thống các vấn đề lý luận hành nghề luật sư và quản lý
hành nghề luật sư

-


Phân tích, đánh giá thực trạng quản lý hành nghề luật sư hiện nay.

-

Thông qua thực tiễn để thấy được những bất cập trong quản lý hoạt động hành
nghề luật sư.

-

Đề ra giải pháp để nâng cao chất lượng và hiệu quả quản lý hành nghề luật sư.

3. Giới hạn đề tài
Tiểu luận tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận về quản lý hành nghề luật sư,
góp phần từng bước hoàn thiện cơ chế quản lý hành nghề luật sư ở Việt Nam.
4


Phạm vi nghiên cứu là các vấn đề về hành nghề luật sư, nôi dụng của quản lý
hành nghề luật sư trong điều kiện tư pháp ở Việt Nam hiện nay.
Thời gian nghiên cứu là thực trạng quản lý hành nghề luật sư từ khi ban hành
Luật luật sư năm 2006 đến nay.
4. Kết cấu tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung tiểu
luận gồm 3 chương:
Chương 1: Các vấn đề lý luận về hành nghề luật sư
Chương 2: Thực trạng quản lý hành nghề luật sư ở Việt Nam hiện nay
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng và hiệu quả quản lý hành nghề luật



CHƯƠNG I CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ
1.1.

Khái niệm luật sư và hành nghề luật sư

1.1.1. Khái niệm luật sư
Quyền bào chữa của bị can, bị cáo đã có từ lâu. Quyền bào chữa xuất hiện sớm
nhất ở Châu Âu cùng với sự xuất hiện của Toà án và người biện hộ xuất hiện cùng
thẩm phán.
Ở Việt Nam, ngay sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 46/SL ngày 10/10/1945 về tổ chức các đoàn thể luật
sư.
5


Pháp lệnh Tổ chức luật sư năm 1987 quy định những người là công dân nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có phẩm chất, đạo đức tốt; tốt nghiệp đại học
pháp lý hoặc có trình độ pháp lý tương đương; gia nhập Đoàn Luật sư và phải qua một
thời gian tập sự từ sáu tháng đến hai năm và phải qua một kỳ kiểm tra mới được công
nhận là luật sư.
Thay thế Pháp lệnh Tổ chức luật sư năm 1987, tại khoản 1 Điều 1 Pháp lệnh
Luật sư năm 2001 quy định: “Luật sư là người có đủ điều kiện hành nghề theo quy
định của pháp lệnh này và tham gia hoạt động tố tụng, thực hiện tư vấn pháp luật, các
dịch vụ pháp lý khác theo yêu cầu của các cá nhân, tổ chức nhằm bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của họ theo quy định của pháp luật”[17].
Đáp ứng yêu cầu phát triển toàn diện về kinh tế - xã hội, Luật Luật sư năm 2006
ra đời và được sửa đổi bổ sung năm 2012. Tại Điều 2 Luật Luật sư quy định: "Luật sư
là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của luật này, thực hiện
dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức (sau đây gọi chung là
khách hàng)" [3].

Tiêu chuẩn để có thể trở thành luật sư người đó phải là công dân Việt Nam
trung thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt,
có bằng cử nhân luật, đã được đào tạo nghề luật sư, đã qua thời gian tập sự hành nghề
luật sư, có sức khoẻ bảo đảm hành nghề luật sư [3].
1.1.2. Hành nghề luật sư
Theo quy định của Pháp lệnh luật sư năm 2001 thì “hành nghề luật sư” được
hiểu là việc luật sư tham gia hoạt động tố tụng, thực hiện tư vấn pháp luật, các dịch vụ
pháp lý khác theo yêu cầu của cá nhân, tổ chức nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của họ theo quy định của pháp luật [17].
Luật luật sư năm 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2012) đã khái quát hơn, mở rộng
hơn khái niệm “hành nghề luật sư”. Theo đó, hành nghề luật sư là việc luật sư thực
hiện dịch vụ pháp lý bao gồm tham gia tố tụng, tư vấn pháp luật, đại diện ngoài tố tụng
cho khách hàng và làm các dịch vụ pháp lý khác theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ
chức [3].
“Hành nghề luật sư” theo quy định của Luật luật sư là phải hành nghề chuyên
nghiệp, có trình độ chuyên môn sâu về kiến thức pháp lý và kỹ năng hành nghề. Việc
hành nghề luật sư chủ yếu phải bằng trình độ và kinh nghiệm chuyên môn mà đối
tượng phục vụ là khách hàng. Luật sư cung cấp “dịch vụ pháp lý” cho khách hàng và
nhận thù lao từ khách hàng.
Theo thông lệ của các nước trên thế giới, cũng như theo quy định của pháp luật
Việt Nam thì nội dung của hành nghề luật sư bao gồm việc tham gia tố tụng với tư
cách là người bào chữa cho bị can, bị cáo hoặc là người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
6


quan đến vụ án hình sự; hoặc tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện hoặc là
người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trong các vụ án dân sự hoặc hành
chính; hoặc tham gia tố tụng trọng tài để giải quyết tranh chấp; tư vấn pháp luật, soạn
thảo hợp đồng, đơn từ theo yêu cầu của cá nhân, tổ chức; đại diện ngoài tố tụng để

thực hiện các công việc có liên quan đến pháp luật theo yêu cầu của cá nhân, tổ chức
và thực hiện dịch vụ pháp lý khác theo quy định của pháp luật.
Các luật sư được hành nghề tự do, tự do lựa chọn hình thức tổ chức hành nghề
hoặc là Văn phòng luật sư, hoặc là Công ty luật, hoặc là làm việc theo hợp đồng cho
Văn phòng luật sư, Công ty luật, hoặc hành nghề với tư cách cá nhân. Các luật sư tự tổ
chức việc hành nghề của mình theo quy định của pháp luật.
1.1.3. Đặc điểm của hành nghề luật sư
Hoạt động hành nghề luật sư là nhân tố quan trọng hỗ trợ các quan hệ kinh tế
thị trường phát triển, tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh minh bạch, lành mạnh theo
đúng pháp luật và không thể tách rời hoạt động hành nghề của luật sư với các điều
kiện phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Luật sư hành nghề không chỉ quan tâm
đến thù lao của khách hàng và những lợi ích vật chất, tinh thần, mà còn phải quan tâm
đến yếu tố phi vật chất, phi dịch vụ như trong hoạt động Trợ giúp pháp lý miễn phí,
bào chữa theo chỉ định của cơ quan tiến hành tố tụng.
Hoạt động hành nghề luật sư có các đặc điểm:
-

Trước hết phải thể hiện ở việc tuân thủ pháp luật, dựa vào pháp luật để bảo vệ
quyền và lợi ích cho cá nhân, cơ quan, tổ chức bảo đảm sự thật khách quan và
công lý.

-

Thể hiện ở uy tín nghề nghiệp, đây là thuộc tính quan trọng thể hiện bản chất
của hoạt động hành nghề luật sư.

-

Mang đến cho xã hội nói chung và tố tụng tư pháp nói riêng những giá trị của
dân chủ.


-

Thể hiện ở tính độc lập, tính độc lập là điều kiện tất yếu cho hoạt động hành
nghề luật sư.

1.2.

Quản lý hành nghề luật sư

1.2.1. Đặc thù của nghề luật sư và vấn đề quản lý hành nghề luật sư
1.2.1.1.

Đặc thù của hành nghề luật sư

Chức năng xã hội của luật sư là tham gia bảo về cộng lý, góp phần bảo đảm
công bằng xã hội, bảo vệ các quyền tự do, dân chủ của công dân, bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức thông qua việc cung cấp các dịch vụ pháp lý. Các
nước trên thế giới và Việt Nam đều coi nghề luật sư là một nghề đặc biệt so với các
ngành nghề khác. Tính đặc thù được thể hiện ở chỗ:
7


-

Thứ nhất, hành nghề luật sư không lấy điểm xuất phát là vốn và cũng không
dựa vào vốn mà chủ yếu dựa vào kiến thức pháp luật và kỹ năng hành nghề của
luật sư. Nghề luật sư gắn với pháp luật và việc thi hành pháp luật.

-


Thứ hai, luật sư với tư cách là một người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
các chủ thể pháp lý nên luật sư có nhiệm vụ bảo đảm sự công bằng, khách quan
của pháp luật. Thông qua việc tham gia tố tụng, tư vấn pháp luật, luật sư góp
phần trực tiếp vào việc thực thi pháp luật, đưa pháp luật vào cuộc sống. Vì vậy,
luật sư là một nghề trong xã hội, là công cụ hữu hiệu góp phần đảm bảo công
lý.

-

Thứ ba, nguyên tắc của hành nghề luật sư là phải độc lập, liêm chính, nhân
đạo và dũng cảm. Nghề luật sư là không có tính khách quan cao, không chịu sự
chi phối của quyền lực. Vì vậy, nghề luật sư rất chú trọng đến vai trò cá nhân,
uy tín nghề nghiệp của luật sư.

-

Thứ tư, luật sư là một nghề tự do, các luật sư độc lập trong hành động, tự chịu
trách nhiệm về việc hành nghề của mình theo quy định của pháp luật. Hành
nghề luật sư không chỉ đòi hỏi về mặt chuyên môn, tuân thủ pháp luật mà còn
phải chịu sự điều chỉnh khắt khe bởi quy tắc đạo dức và ứng xử nghề nghiệp.

-

Thứ năm, tổ chức luật sư không nằm trong bộ máy nhà nước, hoạt động của
luật sư không chỉ liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích của công dân mà còn
liên quan đến hoạt động quản lý nhà nước bằng pháp luật và có ảnh hưởng đến
hoạt động của các cơ quan nhà nước đặc biệt là các cơ quan tiến hành tố tụng.
Do đó, có thể nói nghề luật sư mang tính “giám sát” hoạt động của các cán bộ
và cơ quan chức năng của nhà nước.


Những đặc điểm đặc thù trên của hành nghề luật sư là những yếu tố rất quan
trọng quy định và chi phối nội dung, cách thức quản lý hành nghề luật sư.
1.2.1.2.

Vấn đề quản lý hành nghề luật sư

Quan niệm về quản lý hành nghề luật sư hiện nay ở nước ta bao gồm hoạt động
quản lý về nhà nước và tự quản của tổ chức xã hội – nghề nghiệp của luật sư (Đoàn
luật sư và Liên đoàn luật sư), mối quan hệ giữa quản lý nhà nước với việc tự quản của
tổ chức xã hội – nghề nghiệp của luật sư. Quan niệm về quản lý như vậy là phù hợp
với những đặc thù của hành nghề luật sư đã nêu ở trên.
Pháp lệnh về tổ chức luật sư năm 1987 đã có quy định những nội dung về quản
lý hành nghề luật sư bao gồm nội dung quản lý nhà nước, cơ quan nhà nước có thẩm
quyền quản lý về hành nghề luật sư, đồng thời quy định chức năng, nhiệm vụ quyền
hạn của Đoàn luật sư với tư cách là tổ chức xã hội – nghề nghiệp của luật sư trong việc
quản lý hành nghề luật sư. Tuy nhiên, Pháp lệnh tổ chức luật sư năm 1987 còn có quan
niệm quá đơn giản về hoạt động quản lý hành nghề luật sư.
8


Khi pháp lệnh luật sư năm 2001, Luật luật sư năm 2006 (sửa đổi, bổ sung năm
2012) được ban hành. Vấn đề quản lý hành nghề luật sư đã bước đầu được coi trọng
hơn. Có những quan niệm chung phù hợp với thông lệ quốc tế và phù hợp với bối cảnh
đất nước. Đã có những quy định rõ hơn về những nội dung quản lý hành nghề luật sư.
Cụ thể hóa nội dung quản lý nhà nước, phân định rõ thẩm quyền quản lý nhà nước,
chức năng nhiệm vụ quyền hạn của Liên đoàn luật sư, Đoàn luật sư trong quản lý hành
nghề luật sư. Tuy nhiên, vẫn chưa làm rõ được mối quan hệ giữa quản lý nhà nước với
hoạt động tự quản của tổ chức xã hội – nghề nghiệp của luật sư. Vì vậy, hoạt động
quản lý hành nghề luật sư còn chung chung, có nơi nhà nước làm thay công việc, can

thiệp quá sâu vào hoạt động tự quản của tổ chức xã hội – nghề nghiệp của luật sư.
Ngược lại, có nơi thì phó mặc việc quản lý hành nghề luật sư cho Liên đoàn luật sư và
các Đoàn luật sư địa phương.
Thực tiễn 10 năm thi hành Luật luật sư năm 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2012)
cho thấy, quản lý hành nghề luật sư vẫn còn nhiều bất cập, hiệu quả chưa cao, nhiều
điểm còn chưa phù hợp với thông lệ quốc tế về nghề luật sư. Cho tới nay, khái niệm
quản lý hành nghề luật sư vẫn luôn là vấn đề gây nhiều tranh luận và còn phải tiếp tục
nghiên cứu, hoàn thiện.
1.2.2. Quản lý nhà nước về hành nghề luật sư
Quản lý nhà nước về hành nghề luật sư là một trong những nội dung quan trọng
có ý nghĩa quyết định trong việc quản lý hành nghề luật sư. Ở các nước trên thế giới,
vấn đề quản lý nhà nước về hành nghề luật sư đều được đặt ra. Các nước có hệ thống
pháp luật và tư pháp khác nhau thì vấn đề quản lý nhà nước về hành nghề luật sư cũng
có nhiều điểm khác biệt cả về vai trò và mức độ quản lý của nhà nước.
Nghề luật sư ở Việt Nam mới được hình thành và phát triển. Vì vậy, quản lý nhà
nước về hành nghề luật sư càng có vai trò và ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Việc quản lý
nhà nước về hành nghề luật sư ở nước ta là phù hợp với thông lệ quốc tế, phù hợp với
điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội. Theo quá trình hình thành và phát triển nghề luật sư
ở nước ta, ở mỗi thời kì lịch sử khác nhau, việc quản lý nhà nước về hành nghề luật sư
cũng khác nhau.
Pháp lệnh tổ chức luật sư năm 1987 và quy chế Đoàn luật sư ban hành kèm theo
Nghị định số 15/HĐBT ngày 21/02/1989 của Hội đồng bộ trưởng quy định nhiều cơ
quan có thẩm quyền quản lý, bao gồm cả cơ quan nhà nước và tổ chức chính trị – xã
hội. Tuy nhiên, Pháp lệnh tổ chức luật sư năm 1987 và Quy chế Đoàn luật sư không
quy định rõ ràng về nội dung và thẩm quyền quản lý của các cơ quan, tổ chức trong
việc quản lý hành nghề luật sư, và đặc biệt là không có quy định về những chế tài xử
lý khi các luật sư vi phạm Pháp lệnh tổ chức luật sư và Quy chế Đoàn luật sư của các
Đoàn Luật sư.
Việc ban hành pháp lệnh luật sư năm 2001, Luật luật sư năm 2006 (sửa đổi, bổ
sung năm 2012) đã cơ bản khắc phục được những nhược điểm của Pháp lệnh tổ chức

9


luật sư năm 1987 nói chung và vấn đề quản lý nhà nước về hành nghề luật sư nói
riêng. Theo đó thì hoạt động quản lý nhà nước về hành nghề luật sư là không thể thiếu.
Nội dung quản lý nhà nước về hành nghề luật sư đã có phân định rõ nội dung và thẩm
quyền quản lý nhà nước, trách nhiệm của các cơ quan nhà nước.
Với những quy định mới được ban hành cho thấy một sự tiến bộ lớn trong việc
quản lý nhà nước về hành nghề luật sư của chính phủ. Tuy nhiên, khi áp dụng vào thực
tế thì hoạt động quản lý hành nghề luật sư theo quy định chưa đạt được hiệu quả cao.
Từ những quy định đem áp dụng vào thực tế vẫn còn một khoảng cách khá lớn. Do đó,
cần phải tiếp tục nghiên cứu và từng bước thay đổi, hoàn thiện công tác quản lý nhà
nước về hành nghề luật sư trong thời gian tới cho phù hợp với thực tiễn.
1.2.3. Hoạt động tự quản của tổ chức xã hội – nghề nghiệp của luật sư
Tổ chức xã hội là hình thức tổ chức tự nguyện của công dân, hoạt động theo
nguyên tắc tự quản nhằm phục vụ những lợi ích hợp pháp của các thành viên và tham
gia vào việc quản lý nhà nước, xã hội.
Hoạt động quản lý xã hội không chỉ được tiến hành bởi các cơ quan công quyền
mà còn được tiến hành bởi các tổ chức xã hội và công dân. Là một bộ phận không thể
tách rời của hệ thống chính trị, các tổ chức xã hội đã góp phần to lơn vào công cuộc
xây dựng và bảo vệ chủ quyền dất nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Tổ chức xã hội – nghề nghiệp là một loại hình tổ chức xã hội đặc thù được nhà
nước cho phép thành luật và hoạt động theo quy định của nhà nước. Muốn trở thành
thành viên của tổ chức xã hội – nghề nghiệp phải đáp ứng đầy đủ những điều kiện do
nhà nước và tổ chức quy định. Hoạt động của các tổ chức xã hội – nghề nghiệp đặt
dưới sự quản lý của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Tổ chức xã hội – nghề nghiệp của luật sư hiện nay là các Đoàn luật sư địa
phương và Liên đoàn luật sư Việt Nam. Tổ chức xã hội – nghề nghiệp của luật sư là
một bộ phận của tổ chức xã hội trong hệ thống chính trị, được thành lập để đại diện,
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của luật sư. Ngoài ra còn có thể bồi dưỡng chuyên

môn nghiệp vụ của luật sư, giám sát việc tâm theo pháp luật, quy tắc đạo đức và ứng
xử nghề nghiệp luật sư, thực hiện quản lý hành nghề luật sư theo quy định của pháp
luật.
Hoạt động tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư là hoạt động
nhân danh chính tổ chức mình để tham gia quản lý luật sư. Đồng thời, trong một số
trường hợp do pháp luật quy định, tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư quản lý
hành nghề luật sư nhân danh nhà nước. Tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư hoạt
động tự quản theo Điều lệ do các thành viên xây dựng trên cơ sở đồng thuận và được
cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt. Trong đó nhà nước không trực tiếp can
thiệp vào công việc nội bộ của chính tổ chức cũng như không sử dụng quyền lực của
mình để sắp xếp người lãnh đạo, hay cách chức của họ trong tổ chức. Có thể nói rằng,
10


tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư được hình thành để hỗ trợ và phối hợp cùng
cơ quan nhà nước giải quyết quản lý về hành nghề luật sư.
Mỗi giai đoạn của quá trình phát triển nghề luật sư, vai trò tự quản của tổ chức
xã hội - nghề nghiệp của luật sư sẽ khác nhau và phụ thuộc vào trình độ, tính chuyên
nghiệp của luật sư. Nếu nội dung quản lý luật sư nặng về quản lý nhà nước, coi nhẹ tự
quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư hoặc ngược lại coi nhẹ quản lý nhà
nước, nặng về tự quản đều ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển nghề luật sư.
Nghiên cứu pháp luật hành nghề luật sư ở Việt Nam trong quá trình hình thành
và phát triển nghề luật sư, chúng ta thấy rằng, vấn đề tự quản của tổ chức xã hội - nghề
nghiệp của luật sư được quy định rất khác nhau trong các giai đoạn lịch sử. Pháp lệnh
tổ chức luật sư năm 1987 đã thể hiện việc xã hội hóa lĩnh vực luật sư một cách triệt để,
quy định chức năng tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư rất lớn. Nhà
nước đã giao cho Đoàn luật sư nhiều quyền, từ việc công nhận luật sư, giám sát hoạt
động hành nghề đến việc thi hành kỷ luật luật sư v.v... Pháp lệnh luật sư năm 2001 và
Luật luật sư năm 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2012) quy định về quản lý luật sư được
thực hiện nguyên tắc kết hợp quản lý nhà nước về hành nghề luật sư với phát huy vai

trò tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư. Sau gần 10 năm thi hành Luật
luật sư, công tác quản lý hành nghề luật sư đã đạt được những kết quả nhất định. Nhìn
chung, các Đoàn luật sư cùng với Liên đoàn luật sư đã có nhiều cố gắng trong việc
thực hiện chức năng tự quản của mình. Đoàn luật sư và Liên đoàn luật sư đã phối hợp
chặt chẽ với các cơ quan có thẩm quyền trong việc quản lý hành nghề luật sư, trong
việc kiểm tra hoạt động hành nghề của các luật sư, tổ chức hành nghề luật sư, kịp thời
phát hiện và xử lý các biểu hiện vi phạm pháp luật và Quy tắc đạo đức, ứng xử nghề
nghiệp luật sư.
1.2.4. Mối quan hệ giữa quản lý nhà nước và tự quản của tổ chức xã hội – nghề
nghiệp của luật sư
Nghề luật sư có những đặc thù riêng nên trong việc quản lý luật sư cũng có
điểm khác biệt so với việc quản lý đối với các ngành nghề khác. Việc quản lý hành
nghề luật sư ở các nước đều là sự kết hợp giữa quản lý nhà nước và tự quản của tổ
chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư. Thông thường, tổ chức xã hội - nghề nghiệp của
luật sư ở các nước được hình thành ở hai cấp là cấp trung ương và địa phương. Tổ
chức xã hội – nghề nghiệp của luật sư Việt Nam hiện nay cũng đang áp dụng mô hình
này, với Liên đoàn luật sư Việt Nam là cấp trung ương và các Đoàn luật sư địa
phương.
Nghề luật sư là một nghề dựa trên sự hiểu biết pháp luật và áp dụng pháp luật.
Chức năng xã hội cao cả của luật sư là hoạt động vì công lý, công bằng xã hội. Hoạt
động hành nghề luật sư ảnh hưởng đến hoạt động quản lý nhà nước bằng pháp luật nói
chung và có ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động của Chính vì thế, việc quản lý luật
11


sư không thể chỉ giao cho tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư mà nhà nước cần có
vai trò quan trọng trong việc quản lý.
Các nước đều quy định cho một cơ quan nhà nước (ở Việt Nam là Bộ Tư pháp)
công nhận luật sư và cơ quan này chịu trách nhiệm quản lý danh sách luật sư. Sở dĩ
nhà nước cần phải nắm việc công nhận luật sư là vì nghề luật sư là nghề tự do nên cần

phải được nhà nước cho phép thì mới được hành nghề. Ngoài việc cấp phép, còn phải
có những quy định cụ thể về việc quản lý hành nghề của luật sư.
Như vậy, việc quản lý luật sư không hoàn toàn giao phó cho các tổ chức xã hội
- nghề nghiệp, mà trong một phạm vi nhất định, cũng có sự can thiệp của quyền lực
nhà nước. Đó là quyền hành pháp hay quyền tư pháp là phụ thuộc vào phương thức tổ
chức quyền lực cụ thể. Bên cạnh sự quản lý của nhà nước thì vẫn phải rất chú trọng
đến vai trò tự quản của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp luật sư. Nhưng vấn đề tự quản
đối với luật sư đến đâu thì cẩn phải có quy định rõ ràng và cụ thể.
Để phát triển nghề luật sư ở Việt Nam đặc biệt trong giai đoạn hiện nay thì vai
trò quản lý của nhà nước cần được tăng cường một bước. Vấn đề này cần được thể
hiện theo hướng bảo đảm sự quản lý chặt chẽ của nhà nước, nhưng vẫn bảo đảm tính
tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các luật sư trong hành nghề và khuyến khích hoạt động
hành nghề của luật sư.
Quản lý nhà nước đối với hành nghề luật sư được thể hiện bằng việc nhà nước
ban hành các văn bản pháp luật về hành nghề luật sư, tổ chức đào tạo, cấp chứng chỉ
hành nghề luật sư, đăng ký hoạt động cho Liên đoàn và các Đoàn luật sư, các tổ chức
hành nghề luật sư và kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm. Nhà nước cần quan tâm đến
việc đào tạo và phát triển đội ngũ luật sư có phẩm chất chính trị, có đạo đức tốt, có
trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao và quy định cụ thể, chặt chẽ về tiêu chuẩn, điều
kiện hành nghề và đặc biệt về hình thức hành nghề của luật sư. Công tác quản lý nhà
nước đối với nghề luật sư cần xuất phát từ đặc thù của nghề luật sư.
Vấn đề quan trọng trong việc xây dựng cơ chế phối hợp trong công tác quản lý
hành nghề luật sư giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền với tổ chức xã hội - nghề
nghiệp của luật sư là xác định rõ mối quan hệ giữa quản lý nhà nước với tổ chức xã
hội - nghề nghiệp của luật sư về hành nghề luật sư. Nhà nước quản cái gì, tổ chức xã
hội - nghề nghiệp của luật sư quản cái gì cần phải được làm rõ.
1.2.5. Nguyên tắc và nội dung quản lý hành nghề luật sư
1.2.5.1.

Nguyên tắc quản lý hành nghề luật sư


Cũng giống như bất kỳ một hoạt động có mục đích nào, quản lý hành nghề luật
sư được tiến hành trên cơ sở những nguyên tắc nhất định. Đó chính là những tư tưởng
chủ đạo rất quan trọng trong tổ chức và hoạt động giúp cho các chủ thể quản lý thực
hiện có hiệu quả các công việc của mình khi được phân công.
12


Nguyên tắc tuân thủ pháp luật và nguyên tắc tự quản của tổ chức xã hội - nghề
nghiệp luật sư là những nguyên tắc cơ bản, chủ yếu trong quản lý hành nghề luật sư.
Đây là những nguyên tắc chi phối mọi hoạt động quản lý của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền và tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư.
Ở Việt Nam, nguyên tắc quản lý hành nghề luật sư nằm trong hệ thống các
nguyên tắc quản lý nhà nước nói chung. Đó là:
-

Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa

Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa là sự tôn trọng và tuân thủ triệt để pháp
luật của các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, đoàn
thể quần chúng, đơn vị kinh tế, lực lượng vũ trang, cán bộ, công chức nhà nước và
mọi công dân trở thành một nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của các
cơ quan trong bộ máy nhà nước, trong đó có cơ quan quản lý hành chính nhà nước.
Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa là nguyên tắc chung trong việc xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Vì vậy, trong tổ chức và hoạt
động hành nghề luật sư ở nước ta, việc tuân thủ triệt để nguyên tắc pháp chế xã hội
chủ nghĩa là yêu cầu cần thiết và khách quan [22].
-

Nguyên tắc kết hợp quản lý nhà nước với chế độ tự quản của tổ chức xã hội –

nghề nghiệp của luật sư, tổ chức hành nghề luật sư [3].

Đây là nguyên tắc riêng, nguyên tắc đặc thù của nghề luật sư. Nguyên tắc này
thể hiện tầm quan trọng trong việc quản lý nhà nước đối với luật sư, đồng thời
khẳng định vai trò tham gia quản lý hành nghề luật sư của tổ chức xã hội - nghề
nghiệp, mối quan hệ, sự phối hợp của cơ quan nhà nước có thẩm quyền với tổ chức
xã hội - nghề nghiệp của luật sư. Tăng cường quản lý nhà nước đối với luật sư và
phát huy tính tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư là đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách của nhà nước trong giai đoạn hiện nay ở nước ta.
1.2.5.2.

Nội dung quản lý hành nghề luật sư

Để thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước về luật sư, quan trọng là cần phải
xác định rõ những nội dung mà nhà nước cần thực hiện. Những nội dung quản lý nhà
nước hành nghề về luật sư được quy định phải tương ứng với sự phát triển của luật sư
và nghề luật sư, phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị xã hội của đất nước. Cụ thể:
-

Xây dựng chiến lược và chính sách phát triển nghề luật sư;

-

Ban hành và hướng dẫn thi hành các văn bản quy phạm pháp luật về luật sư và
hành nghề luật sư;

-

Đào tạo nghề luật sư,


-

Cấp, thu hồi Chứng chỉ hành nghề luật sư; cấp, thu hồi Giấy đăng ký hoạt
động của tổ chức hành nghề,
13


-

Cho phép thành lập, giải thể tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư;

-

Kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về
hành nghề luật sư,

-

Thực hiện các biện pháp hỗ trợ phát triển nghề luật sư và thực hiện quản lý
nhà nước đối với hoạt động hợp tác quốc tế về luật sư.[22]

Vai trò tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp luật sư ngày càng được khẳng
định. Để phát huy hiệu quả quản lý hành nghề luật sư của tổ chức xã hội - nghề nghiệp
luật sư thì những nội dung quản lý hành nghề luật sư của tổ chức xã hội - nghề nghiệp
luật sư cũng cần được cụ thể hóa trên cơ sở những quyền hạn và trách nhiệm nhà nước
giao cho.
Do đó, Liên đoàn luật sư Việt Nam cần:
-

Ban hành quy chế tập sự hành nghề luật sư và hướng dẫn việc thực hiện quy

chế đó;

-

Ban hành quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của luật sư, giám sát việc
tuân thủ các quy tắc đó;

-

Đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền thu hồi Chứng chỉ hành nghề luật sư
đối với người bị xử lý kỷ luật bằng hình thức xóa tên khỏi danh sách luật sư của
Đoàn luật sư;

-

Tham gia xây dựng pháp luật, nghiên cứu khoa học pháp lý;

-

Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý.[22]
Các Đoàn luật sư địa phương cần:

-

Giám sát và nhận xét về kết quả tập sự của người tập sự hành nghề luật sư tại
tổ chức hành nghề luật sư;

-

Đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các luật sư trong hành nghề;


-

Giám sát việc tuân theo pháp luật, quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của
luật sư;

-

Giám sát hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư;

-

Yêu cầu tổ chức hành nghề luật sư chấm dứt hành vi vi phạm pháp luật và khi
cần thiết đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý;

-

Hòa giải tranh chấp có liên quan đến hành nghề giữa luật sư với tổ chức hành
nghề luật sư; giữa các tổ chức hành nghề luật sư với nhau, giữa khách hàng
với tổ chức hành nghề luật sư;

-

Tổng kết, trao đổi kinh nghiệm, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn và thực hiện
các biện pháp khác nhằm nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn cho luật sư,
phản ánh ý kiến đóng góp, kiến nghị của luật sư về xây dựng chính sách, pháp
14


luật của nhà nước, tổ chức để các luật sư tham gia phổ biến, giáo dục pháp

luật v.v...[22]

CHƯƠNG II THỰC TRẠNG QUẢN LÝ HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY
2.1. Thực trạng quản lý hành nghề luật sư ở Việt Nam hiện nay
2.1.1. Hoạt động quản lý nhà nước
Nghề luật sư có vị trí quan trọng đặc biệt trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa và trong xã hội nói chung. Vì vậy công tác quản lý đối với luật sư và nghề luật
sư luôn được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt coi trọng. Sau khi Luật Luật sư có hiệu
lực, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã ban hành kịp thời các văn bản quy phạm
pháp luật hướng dẫn Luật Luật sư 2006.
-

Nghị định số 28/2007/NĐ-CP ngày 26/02/2007 của Chính phủ quy định chi tiết
và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Luật sư. Trên cơ sở các quy định
của Luật Luật sư, Nghị định 28/2007/NĐ-CP đã quy định chi tiết và hướng dẫn
thi hành thống nhất một số điều, khoản về tiêu chuẩn luật sư, cơ sở đào tạo
15


nghề luật sư, tổ chức hành nghề luật sư, thù lao luật sư tham gia tố tụng trong
vụ án hình sự, thành lập, giải thể Đoàn Luật sư, quản lý hành nghề luật sư;
-

Nghị định số 131/2008/NĐ-CP ngày 31/12/2008 của Chính phủ hướng dẫn thi
hành các quy định của Luật Luật sư về tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật
sư. Nghị định 131/2008/NĐ-CP là một bước cụ thể hóa Luật Luật sư về tổ chức
và hoạt động của Đoàn Luật sư, Liên Đoàn Luật sư Việt Nam và công tác quản
lý nhà nước đối với luật sư và hành nghề luật sư nói chung, đối với tổ chức,
hoạt động của Đoàn Luật sư, Liên đoàn Luật sư nói riêng mà Nghị định số

28/2007/NĐ-CP và Thông tư số 02/2007/TT-BTP; đã quy định, đồng thời phát
huy hơn nữa chế độ tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư, đề
cao trách nhiệm của tổ chức luật sư đối với thành viên của mình. Trên cơ sở
các quy định có liên quan của Luật Luật sư và pháp luật về hội, Nghị định đã
quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành những vấn đề về chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn, địa vị pháp lý, thành lập, giải thể, đại hội, phê duyệt Điều lệ, miễn
nhiệm, bãi nhiệm các chức danh của Đoàn Luật sư, Liên đoàn Luật sư, quản lý
nhà nước đối với Đoàn Luật sư, Liên đoàn Luật sư nhằm giải quyết những khó
khăn, vướng mắc phát sinh trong thực tiễn.

-

Nghị định số 60/2009/NĐ-CP ngày 23/7/2009 của Chính phủ quy định xử phạt
vi phạm hành chính trong lĩnh vực tư pháp trong đó quy định cụ thể về hành vi
vi phạm hành chính và hình thức xử phạt trong hoạt động hành nghề luật sư.
Nghị định này thay thế Nghị định số 76/2006/NĐ-CP ngày 02/8/2006 của
Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tư pháp;

-

Thông tư số 02/2007/TT-BTP ngày 25/4/2007 của Bộ Tư pháp hướng dẫn một
số quy định của Luật Luật sư, Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành một số điều của Luật Luật sư. Thông tư 02/2007/TT-BTP hướng dẫn cụ
thể về các điều kiện và thủ tục thành lập cơ sở đào tạo nghề luật sư; hướng dẫn
chi tiết về thủ tục thu hồi Chứng chỉ hành nghề luật sư, thanh tra, kiểm tra và
chế độ báo cáo;

-

Thông tư liên tịch số 66/2007/TTLT-BTC-BTP ngày 19/6/2007 hướng dẫn và

thanh toán chi phí cho luật sư trong trường hợp luật sư tham gia tố tụng theo
yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng.

-

Thông tư 17/2011/TT-BTP hướng dẫn quy định của Luật sư, Nghị định hướng
dẫn Luật Luật sư về tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư do Bộ Tư pháp
ban hành

-

Bộ Tư pháp đã xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ ký ban hành Đề án
thành lập tổ chức luật sư toàn quốc; Đề án đào tạo chuyên gia pháp luật, luật
sư phục vụ yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế giai đoạn 2008-2010; Đề án phát
triển đội ngũ luật sư phục vụ hội nhập kinh tế quốc tế; đặc biệt ngày 05 tháng 7
16


năm 2011, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược phát triển nghề luật
sư đến năm 2020.
Sau khi Luật sửa đổi, bổ sung Luật luật sư năm 2006 có hiệu lực. Các cơ quan
có thẩm quyền tiếp tục ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn:
-

Nghị định 123/2013/NĐ-CP hướng dẫn và biện pháp thi hành Luật luật sư.
Nghị định này ra đời thay thế cho Nghị định số 28/2007/NĐ-CP ngày 26 tháng
02 năm 2007 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số
điều của Luật luật sư, Nghị định số 131/2008/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm
2008 hướng dẫn thi hành các quy định của Luật luật sư về tổ chức xã hội nghề nghiệp của luật sư và Điều 3, Điều 5 của Nghị định số 05/2012/NĐ-CP
ngày 02 tháng 02 năm 2012 sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định về

đăng ký giao dịch bảo đảm, trợ giúp pháp lý, luật sư, tư vấn pháp luật.

-

Nghị định 110/2013/NĐ-CP ngày 24/9/2013 của chính phủ quy định xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân
và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã.

-

Thông tư 19/2013/TT-BTP hướng dẫn tập sự hành nghề luật sư do Bộ trưởng
Bộ Tư pháp ban hành

Bộ Tư pháp và Sở Tư pháp ở các địa phương chủ động trong việc hướng dẫn
những vấn đề liên quan đến tổ chức, hoạt động của luật sư như việc chuyển tiếp đối
với các văn phòng luật sư do một số luật sư thành lập theo Pháp lệnh Luật sư năm
2001 sang hình thức công ty luật hợp danh theo quy định của Luật Luật sư 2006, hoạt
động của các Đoàn Luật sư, việc đăng ký hoạt động cho các tổ chức hành nghề luật sư
v.v… Công tác đào tạo nghề luật sư, bồi dưỡng nghiệp vụ cho luật sư đã được quan
tâm và thực hiện có hiệu quả bước đầu. Học viện Tư pháp đã được thành lập và được
giao nhiệm vụ tổ chức đào tạo nghề luật sư, tính đến tháng 9/2009 Học viện đã đào tạo
8 khóa đào tạo nghề luật sư và cấp chứng chỉ tốt nghiệp cho khoảng 14.000 học viên
[20]. Bộ Tư pháp đã có chính sách ưu tiên đào tạo nghề luật sư miễn phí cho các tỉnh
khó khăn như tỉnh Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Lào Cai, Hà Giang, Tuyên Quang,
Cao Bằng, Bắc Kạn, Quảng Bình, Quảng Trị, Đắk Lắk, Đắk Nông, Gia Lai, Kon Tum,
Bình Phước, Bạc Liêu. Bộ Tư pháp đã tổ chức nhiều khóa, lớp bồi dưỡng nghiệp vụ
cho hàng trăm luật sư về kỹ năng hành nghề, về Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa
Kỳ, về kỹ năng tranh tụng để thực hiện Bộ luật Tố tụng hình sự v.v…
Các Sở Tư pháp đã thực hiện cấp đăng ký hoạt động cho các tổ chức hành nghề
luật sư. Việc cấp đăng ký hoạt động cho các tổ chức hành nghề luật sư chủ yếu tập

trung ở hai thành phố lớn đó là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Theo báo cáo số
01/BC-LĐLSVN ngày 5/1/2013 của Liên đoàn luật sư Việt Nam về tổ chức, hoạt động
năm 2012 và phương hướng hoạt động năm 2013 của Liên đoàn luật sư Việt Nam tính
đến tháng 1 năm 2013 cả nước có 7.476 luật sư, 62 Đoàn luật sư (nhưng hiện nay là 63
Đoàn luật sư) ; 3.467 người tập sự hành nghề luật sư; Tổng số tổ chức hành nghề luật
17


sư là 2.817 tổ chức, trong đó có 2.047 Văn phòng luật sư, 770 Công ty luật và 123 luật
sư hành nghề với tư cách cá nhân [24]. Với số lượng tổ chức hành nghề luật sư và luật
sư lớn như vậy, các sở tư pháp vẫn phát huy vai trò của mình trong công tác thanh tra,
kiểm tra các tổ chức hành nghề luật sư. Trong năm 2010 Sở Tư pháp thành phố Hà
Nội và Thành phố Hồ Chí Minh phối hợp cùng Bộ Tư pháp kiểm tra 140 tổ chức hành
nghề luật sư trên địa bàn thành phố Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Trong năm
2011, Sở Tư pháp thành phố Hà Nội đã thành lập đoàn kiểm tra liên ngành Tư pháp,
Công an, Cục Thuế, Sở Lao động Thương binh và Xã hội, Đoàn Luật sư kiểm tra 60 tổ
chức hành nghề luật sư trên địa bàn Hà Nội [21]. Qua kiểm tra kịp thời phát hiện, xử
lý, chấn chỉnh hoạt động của các tổ chức hành nghề luật sư vi phạm, đồng thời biểu
dương thành tích đã đạt được của tổ chức hoạt động hiệu quả, chấp hành nghiêm chỉnh
các quy định của pháp luật…
Một số Sở Tư pháp thực hiện tốt nguyên tắc kết hợp quản lý nhà nước về hành
nghề luật sư với phát huy vai trò tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư
góp phần phát triển số lượng luật sư, nâng cao chất lượng hành nghề của luật sư. Tuy
nhiên, việc thực hiện nguyên tắc kết hợp quản lý nhà nước với phát huy vai trò tự quản
của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư còn một số hạn chế như việc hiểu về bản
chất, nội dung công tác tự quản của tổ chức luật sư và nguyên tắc kết hợp quản lý nhà
nước về hành nghề luật sư với công tác tự của của tổ chức luật sư còn chưa đầy đủ và
thống nhất, nhiều nơi còn mang tính hình thức. Công tác thanh tra, kiểm tra mới chỉ
tập trung chủ yếu ở hai thành phố lớn là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, còn các
địa phương khác mới chỉ thực hiện việc cấp, cấp lại đăng ký hoạt động cho các tổ chức

hành nghề luật sư còn công tác thanh tra, kiểm tra thì hầu như không thực hiện.
Có thể nói, trong gần 10 năm thi hành Luật luật sư, các cơ quan quản lý nhà
nước đã quan tâm và có nhiều cố gắng trong việc triển khai thực hiện những nhiệm vụ,
quyền hạn trong lĩnh vực quản lý hành nghề luật sư theo quy định của pháp luật.
Tuy nhiên, hoạt động quản lý hành nghề luật sư vẫn còn một số nhược điểm:
-

Nội dung quản lý nhà nước được Luật luật sư 2006 (sửa đổi, bổ sung năm
2012) quy định còn mang tính chất dàn trải, hình thức. Việc Luật luật sư quy
định nội dung quản lý, thẩm quyền quản lý nhà nước về luật sư chưa thể hiện
sự phân cấp mạnh mẽ, đáp ứng nhiệm vụ cải cách hành chính hiện nay. Cơ
quan quản lý nhà nước về hành nghề luật sư ở trung ương chưa thực sự là cơ
quan thực hiện những nội dung mang tầm vĩ mô, trong khi ở địa phương quy
định thẩm quyền quản lý về hành nghề luật sư còn rất chung chung. Quá trình
triển khai thi hành Luật Luật sư chưa kịp thời phát hiện, chủ động tháo gỡ một
số vướng mắc, khó khăn trong tổ chức, hoạt động hành nghề luật sư.

-

Xử lý vi phạm hành chính đối với luật sư, tổ chức hành nghề luật sư là một nội
dung rất quan trọng nhằm tăng cường vai trò quản lý nhà nước, nâng cao tính
hiệu lực quản lý đối với hoạt động hành nghề luật sư, góp phần nâng cao ý
18


thức trách nhiệm, tuân thủ pháp luật của luật sư trong hành nghề luật sư. Luật
luật sư có quy định về nguyên tắc xử lý vi phạm đối luật sư, tổ chức hành nghề
luật sư mà phải dựa vào nghị định xử lý vi phạm hành chính của chính phủ ban
hành. Ngoài ra, trong quá trình hành nghề, luật sư còn có thể vi phạm và phát
sinh các trách nhiệm dân sự và hình sự. Tuy nhiên, vẫn chưa có những quy định

cụ thể về các trường hợp này.
-

Mặc dù Luật luật sư 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2012) đã điều chỉnh cả tổ
chức và hành nghề luật sư Việt Nam và hành nghề luật sư của luật sư nước
ngoài, tổ chức luật sư nước ngoài tại Việt Nam. Tuy nhiên, Luật chưa làm rõ
mối quan hệ giữa luật sư Việt Nam, luật sư nước ngoài tại Việt Nam; giữa tổ
chức luật sư Việt Nam, tổ chức luật sư nước ngoài tại Việt Nam; giữa luật sư
nước ngoài với Liên đoàn luật sư Việt Nam và Đoàn luật sư địa phương v.v...
Do đó, công tác quản lý tổ chức luật sư nước ngoài, luật sư nước ngoài hành
nghề tại Việt Nam sẽ gặp rất nhiều khó khăn khi thi hành Luật luật sư. Đặc biệt
là công tác quản lý của tổ chức xã hội - nghề nghiệp luật sư đối với luật sư
nước ngoài hành nghề tại Việt Nam.

-

Công tác tuyên truyền, phổ biến về nội dung của Luật Luật sư, vị trí, vai trò,
tầm quan trọng của luật sư có lúc, có nơi còn coi nhẹ nên chưa thực sự phát
huy hiệu quả cao nhất, chưa ngấm, thấm sâu vào nhận thức của đông đảo cá
nhân, cơ quan, tổ chức.

-

Uỷ ban nhân dân một số địa phương chưa thực sự quan tâm đến công tác quản
lý tổ chức luật sư và hành nghề luật sư; có nơi Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh hầu
như khoán trắng cho Sở Tư pháp, làm cho Sở Tư pháp gặp khó khăn trong việc
quản lý Đoàn luật sư, đặc biệt khi gặp những vấn đề vượt quá thẩm quyền của
Sở Tư pháp. Một số địa phương chưa có sự đầu tư, tăng cường về con người,
cơ sở vật chất cho công tác quản lý, việc áp dụng công nghệ thông tin chưa đáp
ứng được nhu cầu quản lý nhà nước về luật sư và hành nghề luật sư.


-

Sự phối hợp giữa cơ quan quản lý nhà nước về luật sư và hành nghề luật sư với
tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư còn hạn chế do chưa phân định rõ và
hợp lý giữa công tác quản lý nhà nước với trách nhiệm tự quản của tổ chức xã
hội - nghề nghiệp của luật sư. Sự phối hợp của các cơ quan tiến hành tố tụng
với các cơ quan quản lý nhà nước về hành nghề luật sư chưa chặt chẽ dẫn đến
việc quản lý nhà nước thiếu thông tin và kém hiệu quả.

2.1.2.

Hoạt động quản lý của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư

2.1.2.1. Hoạt động quản lý của Liên đoàn Luật sư Việt Nam
Liên đoàn Luật sư Việt Nam ra đời vào tháng 5/2009 là bước ngoặt mang tính
lịch sử đối với nghề luật sư Việt Nam. Theo thời gian hoạt động, dù còn nhiều khó
khăn nhưng Liên đoàn đang từng bước ổn định về tổ chức, cơ cấu bộ máy và bước đầu
triển khai thực hiện có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, qua đó
19


nâng cao, phát huy vai trò tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư. Tuy
thời gian từ khi thành lập đến nay chưa lâu, nhưng Liên đoàn Luật sư Việt Nam đã
triển khai thực hiện nhiều hoạt động và đạt được những kết quả nhất định như:
Về công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức nghề nghiệp của luật sư; Liên
đoàn đang phối hợp với Ban cán sự đảng Bộ Tư pháp, Ban Tổ chức Trung ương Đảng
thành lập tổ chức đảng trong Liên đoàn Luật sư và chỉ đạo các Đoàn Luật sư quán triệt
đầy đủ quan điểm, đường lối của Đảng với tổ chức và hoạt động của luật sư; phát động
“Cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; ban hành bộ

Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư năm 2011.
Về công tác đào tạo, bồi dưỡng: Được sự hỗ trợ của Ban quản lý dự án
DANIDA do Thụy Điển và Đan Mạch tài trợ, Liên đoàn Luật sư Việt Nam đã tiếp
nhận và chủ trì các hoạt động hỗ trợ tăng cường năng lực hành nghề của luật sư, tổ
chức các lớp bồi dưỡng kỹ năng trong hành nghề luật sư cho luật sư của một số Đoàn
Luật sư; soạn chương trình và tổ chức lớp bồi dưỡng bắt buộc về kỹ năng hành nghề
cho luật sư; tổ chức hội thảo khoa học về chống oan, sai trong tố tụng hình sự, tổ chức
tham gia góp ý dự thảo các bộ luật mới được ban hành…[25]
Về công tác giám sát, giải quyết khiếu nại, tố cáo, bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của luật sư: Công tác này bước đầu đã khẳng định được vai trò của Liên đoàn
Luật sư Việt Nam và nâng cao từng bước vị thế của luật sư trong xã hội. Liên đoàn
Luật sư đã phối hợp khá chặt chẽ với các Đoàn Luật sư có liên quan trong việc thẩm
tra, giải quyết hoặc đề nghị các cơ quan có liên quan giải quyết khiếu nại, tố cáo của
luật sư.
Về các công tác khác: Liên đoàn Luật sư đã đẩy mạnh các hoạt động phối hợp
với các Bộ, Ngành và các địa phương trong cả nước, chủ động đề xuất các chương
trình hoạt động chung nhằm tạo thuận lợi trong hoạt động hành nghề luật sư và công
tác tự quản của Liên đoàn, đồng thời từng bước khẳng định vị trí và vai trò của Liên
đoàn Luật sư Việt Nam.
2.1.2.2. Quản lý của các Đoàn luật sư địa phương
Quản lý hành nghề luật sư được thực hiện theo nguyên tắc kết hợp quản lý nhà
nước về hành nghề luật sư với phát huy vai trò tự quản của tổ chức xã hội - nghề
nghiệp của luật sư, bảo đảm sự tuân thủ pháp luật và Quy tắc đạo đức nghề nghiệp luật
sư trong hành nghề. Trong cơ chế kết hợp quản lý nhà nước về hành nghề luật sư với
phát huy vai trò tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư thì vai trò quản lý
của Đoàn Luật sư đối với luật sư là rất quan trọng. Trong thời gian qua, việc quản lý
nghề nghiệp đối với luật sư, tổ chức hành nghề luật sư của các Đoàn Luật sư đã thực
hiện tốt, thể hiện ở các mặt như: Đa số Đoàn Luật sư đã thực hiện tốt công tác giám
sát, kiểm tra việc tuân thủ pháp luật, tuân theo Quy tắc đạo đức nghề nghiệp luật sư và
Điều lệ Đoàn Luật sư của luật sư, tổ chức hành nghề luật sư; kịp thời nhắc nhở, uốn

nắn và có biện pháp xử lý nghiêm minh các trường hợp luật sư vi phạm Quy tắc đạo
20


đức nghề nghiệp luật sư và Điều lệ Đoàn Luật sư, đặc biệt là vi phạm pháp luật, trong
thời gian qua đã có nhiều trường hợp bị xử lý kỷ luật, thậm chí có trường hợp bị xử lý
kỷ luật bằng hình thức xóa tên khỏi danh sách của Đoàn.
Một số Đoàn Luật sư đã tổ chức các hội thảo chuyên đề cho luật sư. Đặc biệt là
tổ chức rút kinh nghiệm đối với luật sư trong các vụ án lớn có tính chất điểm, điển
hình như vụ án Năm Cam và đồng bọn, vụ án xét xử Lã Thị Kim Oanh, v.v… Thông
qua việc rút kinh nghiệm này luật sư đã thấy rõ những mặt được và chưa được, tích
cực và hạn chế về quan điểm bào chữa, kiến thức pháp luật, kỹ năng tham gia tranh
tụng, phong cách, văn hóa ứng xử của luật sư. Ban chủ nhiệm Đoàn Luật sư Hà Nội đã
tổ chức hội thảo “Luật sư Việt Nam và hội nhập quốc tế” với sự tham gia của gần 300
luật sư và đại biểu. Tổ chức hội thảo về “Vai trò của luật sư trong tố tụng hình sự thực trạng và giải pháp”; hội thảo “Vai trò của luật sư trong quá trình giải quyết
khiếu nại hành chính - thực trạng và giải pháp”, tổ chức diễn đàn giao lưu “Luật sư và
doanh nghiệp trong hội nhập quốc tế” hay tham gia hội thảo “Quy chế tập sự hành
nghề luật sư” với Bộ Tư pháp v.v…[20]
Trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Ban chủ nhiệm nhiều
Đoàn Luật sư đã phối hợp chặt chẽ với Sở Tư pháp, các cơ quan tiến hành tố tụng và
các cơ quan quản lý nhà nước khác ở địa phương. Tháng 4/2009 Đoàn Luật sư Hà Nội
cùng với Sở Tư pháp Hà Nội ký Quy chế phối hợp công tác quản lý nhà nước về quản
lý luật sư và hoạt động hành nghề luật sư trên địa bàn thành phố Hà Nội, Đoàn Luật sư
Thành phố Hồ Chi Minh cùng Sở tư pháp Thành phố Hồ Chí Minh đang xây dựng quy
chế phối hợp quản lý hoạt động luật sư trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. [20]
Những kết quả bước đầu đạt được trong công tác quản lý của các Đoàn Luật sư
là vô cùng quan trọng, tạo tiền đề cho việc phát huy hơn nữa vai trò tự quản của tổ
chức luật sư trong giai đoạn tới. Tuy nhiên, trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
của mình, Đoàn Luật sư còn bộc lộ một số hạn chế đó là:
-


Các Đoàn luật sư chưa thể hiện thật rõ nét vai trò đại diện, bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của các luật sư. Việc nắm bắt, tập hợp và phản ánh những bức
xúc, khó khăn, vướng mắc của luật sư đã được nhiều Đoàn luật sư thực hiện,
tuy nhiên nhìn chung vẫn chưa được quan tâm đúng mức, chưa được Ban chủ
nhiệm của nhiều Đoàn luật sư xem là một trong những nhiệm vụ quan trọng
hàng đầu của mình. Hoạt động quản lý, điều hành của Ban Chủ nhiệm còn kém
hiệu quả. Một số Đoàn luật sư trong công tác giám sát, quản lý luật sư tập sự
còn mang tính hình thức. Việc quản lý hành nghề của luật sư có lúc, có nơi còn
biểu hiện sự buông lỏng hoặc vượt quá tầm kiểm soát của Ban chủ nhiệm Đoàn
luật sư.

-

Công tác giáo dục, bồi dưỡng về chính trị, đạo đức nghề nghiệp cho luật sư
chưa được các Đoàn luật sư quan tâm. Việc phát hiện xử lý vi phạm có những
21


trường hợp còn chưa kịp thời, chưa nghiêm minh, vẫn còn hiện tượng nể nang,
e dè hoặc bao che làm cho dư luận xã hội không đồng tình.
-

Công tác bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn cho các luật sư chưa được các
Đoàn luật sư thực hiện thường xuyên, hình thức bồi dưỡng chưa phong phú tùy
theo điều kiện của từng Đoàn luật sư.

-

Ban chủ nhiệm một số Đoàn Luật sư chưa quan niệm đúng đắn về vai trò tự

quản của tổ chức hành nghề luật sư và về quản lý nhà nước đối với hành nghề
luật sư, dẫn đến việc thiếu sự phối hợp với Sở Tư pháp trong việc thực hiện
nhiệm vụ quyền hạn của mình;

-

Việc giám sát hoạt động của các tổ chức hành nghề luật sư chưa được Ban chủ
nhiệm các Đoàn Luật sư quan tâm đúng mức hoặc chưa quan tâm và nhìn
chung chưa được thực hiện tốt. Mặt khác, Ban chủ nhiệm một số Đoàn Luật sư
chưa có quan niệm đúng về trách nhiệm của Đoàn Luật sư trong việc quản lý
các tổ chức hành nghề luật sư, chưa chủ động sáng tạo trong việc thực hiện
nhiệm vụ.

2.2. Nguyên nhân những hạn chế về quản lý hành nghề luật sư hiện nay
2.2.1. Quy định của pháp luật về quản lý hành nghề luật sư còn nhiều hạn chế
Về cơ bản, các văn bản quy phạm pháp luật về hành nghề luật sư hiện nay đã có
nhiều đóng góp tích cực khẳng định tầm quan trọng của luật sư trong xã hội đồng thời
phần nào tạo được một hành lang pháp lý để luật sư hành nghề. Tuy nhiên, các văn bản
pháp luật này vẫn không tránh được những khiếm khuyết, những khiếm khuyết này
xuất phát từ cả nguyên nhân chủ quan và khách quan. Các văn bản quy phạm pháp luật
về quản lý hành nghề luật sư còn quy mang tính chất dàn trải, hình thức. Việc Luật
luật sư quy định nội dung quản lý, thẩm quyền quản lý nhà nước về luật sư chưa thể
hiện sự phân cấp rõ ràng, đáp ứng nhiệm vụ cải cách hành chính hiện nay. Cơ quan
quản lý nhà nước về hành nghề luật sư ở trung ương chưa thực sự là cơ quan thực hiện
những nội dung mang tầm vĩ mô, những chiến lược quản lý cụ thể, trong khi ở địa
phương quy định thẩm quyền quản lý về hành nghề luật sư còn rất chung chung.
Nguyên nhân chủ quan là những vấn đề chưa hoàn hảo trong quá trình các cơ
quan chức năng xây dựng các văn bản liên quan đến vấn đề hành nghề luật sư. Đã có
nhiều học giả cho rằng Việt Nam là một “vương quốc của các văn bản pháp luật” bởi
sự đồ sộ của hệ thống các văn bản pháp luật ở Việt Nam. Nhiều văn bản pháp luật thì

sẽ điều chỉnh được nhiều lĩnh vực cụ thể trong xã hội. Tuy nhiên nhiều văn bản pháp
luật thì cũng khó tránh khỏi nhưng mâu thuẫn giữa các văn bản. Pháp luật về hành
nghề luật sư cũng không nằm ngoài quy luật đó. Vấn đề hành nghề luật sư chịu sự điều
chỉnh của nhiều văn bản pháp luật: luật hiến pháp, luật luật sư, Bộ luật dân sự, luật
thương mại, luật doanh nghiệp, các bộ luật tố tụng cùng với rất nhiều văn bản dưới
luật quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành các luật. Các văn bản này không tránh
khỏi những quy định chưa phù hợp với nhau.
22


Liên đoàn luật sư Việt Nam, Đoàn luật sư địa phương có vai trò rất lớn trong
công tác quản lý hành nghề luật sư, nhưng Luật luật sư chỉ quy định mang tính nguyên
tắc về nhiệm vụ, quyền hạn của Liên đoàn luật sư Việt Nam và Đoàn luật sư địa
phương, quy định như vậy làm cho hoạt động quản lý hành nghề luật sư gặp nhiều khó
khăn bởi Nhà nước sẽ không có "chiếc gậy" để kiểm tra, giám sát hoạt động của tổ
chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư, đồng thời căn cứ pháp lý để xử lý vi phạm pháp
luật đối với tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư khi có vi phạm.
Việc ban hành các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành pháp luật về
hành nghề luật sư và một số lĩnh vực có liên quan đến hành nghề luật sư còn chậm, do
đó một mặt chưa tháo gỡ kịp thời vướng mắc, khó khăn trong hoạt động của tổ chức
luật sư, mặt khác làm giảm hiệu lực và hiệu quả của quản lý nhà nước. Đó là việc
chậm hướng dẫn thống nhất một số quy định của pháp luật về tổ chức luật sư, về thủ
tục tham gia tố tụng đối với luật sư có vướng mắc trong thực tế; không quy định cụ thể
việc thay đổi người đại diện theo pháp luật đối với Văn phòng luật sư…
2.2.2. Cơ quan quản lý nhà nước và tổ chức xã hội nghề nghiệp của luật sư quản
lý chưa chặt chẽ
Ủy ban nhân dân một số địa phương chưa thực sự quan tâm đến công tác quản
lý tổ chức luật sư và hành nghề luật sư, có nơi ủy ban nhân dân cấp tỉnh hầu như
khoán trắng cho Sở tư pháp, làm cho Sở Tư pháp gặp không ít khó khăn trong việc
quản lý, đặc biệt khi gặp những vấn đề vượt quá thẩm quyền quyết định của Sở Tư

pháp. Nhiều Sở Tư pháp còn lúng túng, chưa chủ động trong việc thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn của mình. Lãnh đạo một số Sở Tư pháp chưa có quan niệm đúng về trách
nhiệm quản lý đối với hành nghề luật sư dẫn đến hiện tượng buông lỏng quản lý hoặc
can thiệp không đúng thẩm quyền vào hoạt động hành nghề luật sư tại địa phương.
Sự phối hợp giữa Bộ Tư pháp, ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong việc quản lý nhà
nước về hành nghề luật sư còn hạn chế.
Công tác kiểm tra, thanh tra đối với tổ chức hành nghề luật sư và hành nghề luật
sư chưa được cơ quan quản lý nhà nước ở Trung ương và địa phương quan tâm đúng
mức; việc kiểm tra chưa được thực hiện thường xuyên, kịp thời và hiệu quả chưa cao.
Việc giám sát người tập sự hành nghề luật sư của các Đoàn Luật sư, tổ chức
hành nghề luật sư nhận người tập sự chưa được quan tâm đúng mức và chưa được thực
hiện có hiệu quả. Người tập sự chỉ đăng ký tập sự tại Đoàn luật sư địa phương, tuy
nhiên, trong quá trình tập sự, nhiều người tập sự không báo cáo đầy đủ những thay đổi
trong quá trình tập sự (thay đổi nơi tập sự, luật sư hướng dẫn…) cũng như kết quả tập
sự.
Sự phối hợp giữa đoàn luật sư và cơ quan quản lý nhà nước ở một số địa
phương đối lúc chưa được tốt, việc hiểu về bản chất, nội dung công tác tự quản của tổ
chức luật sư và nguyên tắc kết hợp quản lý nhà nước về hành nghề luật sư với công tác
tự quản của tổ chức hành nghề luật sư còn chưa đầy đủ và thống nhất. Có xu hướng
23


quá đề cao thậm chí tuyệt đối hóa tính tự quản của nghề luật sư, ngược lại, có những
xu hướng quan niệm về quản lý nhà nước đối với nghề luật sư không phù hợp với tính
chất của nghề luật sư là một nghề tự do, có tính độc lập cao trong hành nghề. Trong
việc phối hợp xử lý vi phạm pháp luật, vi phạm quy tắc đạo đức nghề nghiệp luật sư và
những hiện tượng tiêu cực khác của luật sư chưa chặt chẽ.
Năng lực quản lý, điều hành của cơ quan lãnh đạo một số tổ chức xã hội - nghề
nghiệp của luật sư còn hạn chế, chưa thực hiện đầy đủ, có trách nhiệm chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn của mình, có nơi còn hành chính hóa hoạt động quản lý điều

hành. Một số tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư còn quá đề cao vai trò tự quản
của mình hoặc muốn thoát ly khỏi sự quản lý của nhà nước. Liên đoàn luật sư Việt
Nam thành lập chưa lâu, đang trong quá trình củng cố, kiện toàn, chưa thực sự phát
huy hiệu quả tự quản và vai trò của tổ chức xã hội - nghề nghiệp ở Trung ương; chưa
xây dựng được các Quy chế phối hợp về quản lý hành nghề luật sư giữa các cơ quan
quản lý nhà nước về hành nghề luật sư với cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan khác có
liên quan, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội và các Đoàn luật sư.
Nhận thức của các cơ quan tố tụng, đặc biệt là Tòa án và Viện kiểm sát về vị trí,
vai trò của luật sư chưa đầy đủ nên ý kiến phát biểu của luật sư chưa thực sự được tôn
trọng, trên thực tế vẫn còn trường hợp cơ quan điều tra ở một số địa phương gây khó
khăn, cản trở đối với việc thực hiện quyền của luật sư.
2.2.3. Việc tuân thủ đạo đức nghề nghiệp và kỷ luật hành nghề của luật sư chưa
nghiêm
Bên cạnh những luật sư tâm huyết với nghề, nhiệt tình giúp đỡ khách hàng, có
uy tín và kinh nghiệm trong hành nghề và được khách hàng tin cậy, đánh giá cao vẫn
còn chưa nghiêm túc tuân theo những quy định về quản lý hành nghề luật sư. Một bộ
phận luật sư quá coi trọng lợi ích vật chất dẫn đến vi phạm các quy tắc đạo đức nghề
nghiệp luật sư, vi phạm pháp luật nghiêm trọng (có trường hợp luật sư đã thỏa hiệp với
một số cán bộ thoái hóa, biến chất trong các cơ quan tiến hành tố tụng hoặc hứa hẹn
chạy án để nhận thêm tiền của thân chủ ngoài hợp đồng đã ký), một số luật sư còn
chưa có ý thức trách nhiệm cao đối với nghề nghiệp của mình nên chưa thường xuyên
tu dưỡng, rèn luyện về kỹ năng hành nghề cũng như quy tắc đạo đức nghề nghiệp của
luật sư. Trong khi đại đa số luật sư tích cực sử dụng các biện pháp được pháp luật quy
định để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho bị can, bị cáo, đương sự, thì không ít luật
sư thực hiện nhiệm vụ một cách hình thức, qua loa, thay bằng đi tìm những căn cứ,
chứng cứ để gỡ tội cho thân chủ của mình thì lại cố gắng bới móc hồ sơ, tìm ra những
sai sót, sơ suất của các cơ quan tiến hành tố tụng để phê phán, chỉ trích. Một số luật sư
còn có thái độ ứng xử nghề nghiệp không đúng mực với các cơ quan tiến hành tố tụng,
người tiến hành tố tụng và luật sư đồng nghiệp (tác phong bào chữa, sử dụng lời lẽ,
ngôn từ chưa chuẩn xác, quá nặng nề, quá căng thẳng) dẫn đến quan hệ phối hợp giữa

các bên chưa chặt chẽ, chưa thực sự thông cảm và tin cậy lẫn nhau, gây khó khăn cho
quá trình làm sáng tỏ sự thật của vụ án.
24


Công tác theo dõi, giám sát việc tuân thủ pháp luật, tuân theo quy tắc đạo đức
và ứng xử nghề nghiệp luật sư chưa được thực hiện hiệu quả; việc phát hiện, xử lý vi
phạm còn chưa kịp thời, chưa nghiêm minh. Việc bồi dưỡng, giáo dục về đạo đức
nghề nghiệp chưa được thực hiện thường xuyên. Công tác giáo dục về chính trị tư
tưởng cho đội ngũ luật sư hầu như chưa được quan tâm.
Một bộ phận luật sư lại lợi dụng sự hiểu biết pháp luật của mình để vi phạm
pháp luật, lợi dụng danh nghĩa luật sư để gây ảnh hưởng xấu đến trật tự xã hội và an
ninh quốc gia hoặc lợi dụng uy tín nghề nghiệp và tiếng nói của mình trên các diễn đàn
hành nghề để chỉ trích Đảng, Nhà nước, lưu hành tài liệu có nội dung xuyên tạc nhằm
đả kích chính quyền.
2.2.4. Một số nguyên nhân khác
Những khó khăn về cơ sở vật chất, bố trí cán bộ làm công tác quản lý, các bộ
phận làm việc chuyên trách, chuyên nghiệp ở cả nhà nước và tổ chức xã hội – nghề
nghiệp của luật sư chưa phù hợp đã làm ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động của tổ chức
xã hội - nghề nghiệp của luật sư, cơ quan quản lý nhà nước về luật sư và hành nghề
luật sư ở một số địa phương.
Với tính chất của nghề luật sư là nghề tự do, các luật sư cung cấp dịch vụ pháp
lý theo yêu cầu của khách hàng để nhận thù lao từ khách hàng, nên sự phát triển về số
lượng của luật sư trước hết phụ thuộc vào nhu cầu sử dụng dịch vụ pháp lý về xã hội.
Do điều kiện kinh tế - xã hội của nước ta đang phát triển, mức thu nhập của người dân
chưa đồng đều, trình độ dân trí chưa cao nên nhu cầu sử dụng dịch vụ pháp lý trong xã
hội đang ở mức độ thấp. Vì thế, nghề luật sư ở nước ta chưa thực sự có sức hấp dẫn,
thu nhập của nhiều luật sư hoạt động nghề nghiệp chưa đủ để bảo đảm cuộc sống, đặc
biệt đối với các tỉnh miền núi, khó khăn. Do vậy, có thể khiến nhiều luật sư sa vào con
đường tội lỗi, có những hoạt động nghề nghiệp không đúng với những quy định của

pháp luật.
Thêm một nguyên nhân khách quan nữa là một bộ phận nhân dân chưa có cái
nhìn đúng đắn về luật sư và hành nghề luật sư hoặc không đủ kiến thức để hiểu về luật
sư và hành nghề luật sư. Họ không có tinh thần ủng hộ việc phát triển nghề luật sư mà
thậm chí còn có hành vi phá hoại. Bộ phận này tuy không phải đa số nhưng cũng có
ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển của nghề luật sư nói chung và công tác quản lý
hành nghề luật sư nói riêng. Để khắc phục được nguyên nhân này cần kiên trì và phải
có những phương pháp thích hợp, tránh việc đẩy bộ phận này trở thành những phần tử
chống phá, đi ngược lại với đường lối lãnh đạo của Đảng và Nhà nước Việt Nam.

25


×