Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

báo cáo sinh lý động vật ứng dụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (994.45 KB, 28 trang )

MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ.......................................................................................................................................................1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU........................................................................................................................................3
2.1.3 Chuyển hóa lipid.................................................................................................................................13
2.1.4 Mối quan hệ giữa các quá trình phân giải gluxit, protit và nitơ phi protit...........................................14
2.2 Cơ sở khoa học ..........................................................................................................................................14
3.Nguyên tắc sử dụng urê cho động vật nhai lại.................................................................................................15
3.1 Nguyên tắc sử dụng urê cho động vật nhai lại...........................................................................................15
3.2 Ngộ độc urê...............................................................................................................................................16
4.Tiến bộ khoa học kỹ thuật trong việc sử dụng urê làm thức ăn cho động vật nhai lại.....................................17
4.1 Ủ urê, vôi với thức ăn thô xơ (rơm)...........................................................................................................17
4.2 Ủ thức ăn thô xanh....................................................................................................................................20
4.3 Tạo tảng liếm hay bánh dinh dưỡng (MUB)...............................................................................................22
4.4 Các phương pháp khác...............................................................................................................................23
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ..................................................................................................................................25
KẾT LUẬN............................................................................................................................................................25
KIẾN NGHỊ...........................................................................................................................................................25
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................................................................26



ĐẶT VẤN ĐỀ
Việt Nam là một nước nông nghiệp, với trên 70% dân số sống ở nông thôn, thu nhập chính của
nông dân chủ yếu vẫn từ trồng trọt và chăn nuôi. Do vậy, sản xuất nông nghiệp vẫn chiếm một vị trí quan
trong trong nền kinh tế của đất nước. Trong những năm qua, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp và nông thôn, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp đã tạo cơ hội thuận lợi thúc đẩy nền
kinh tế của nước ta phát triển toàn diện. Nông nghiệp đã góp phần không nhỏ vào sự ổn định và phát triển
kinh tế, xã hội, diện mạo nông nghiệp, nông thôn ngày càng được đổi mới, đời sống vật chất, tinh thần
của cư dân nông thôn ngày càng được cải thiện.
Cùng với sự phát triển đời sống xã hội, nhu cầu vật chất của người dân cũng tăng cao, trong đó
nhu cầu về chất lượng lương thực, thực phẩm ngày càng được coi trọng, nhất là nhu cầu về các loại thực


phẩm giàu dinh dưỡng từ chăn nuôi như thịt, trứng, sữa,… Để đáp ứng đầy đủ nhu cầu thực phẩm ngày
càng tăng của xã hội, ngành chăn nuôi của Việt Nam đã có những bước đi phù hợp và đã đạt được những
thành tựu to lớn. Chăn nuôi đã dần chuyển sang chuyên canh, áp dụng khoa học kỹ thuật, hiệu quả kinh
tế tăng cao. Sản phẩm chăn nuôi không chỉ phục vụ cho nhu cầu còn người mà còn là nhân tố tác động
thúc đẩy sự phát triển của nhiều ngành kinh tế khác như trồng trọt, công nghệ chế biến, thủ công mỹ
nghệ,…
Ở nước ta, chăn nuôi động vật nhai lại như trâu, bò, dê cừu đã mang lại một nguồn thu nhập quan
trọng cho phần lớn các hộ gia đình nông thôn, đặc biệt là nông dân ở những vùng trung du, miền núi, nơi
có diện tích bãi chăn thả tự nhiên lớn. Tuy nhiên, ngày nay nhu cầu sản xuất lương thực cùng với tốc độ
đô thị hoá ngày càng cao làm cho diện tích đồng cỏ tự nhiên, đất đai trồng cỏ và chăn thả ngày càng hạn
chế. Do đó, ngoài việc sử dụng thức ăn công nghiệp cũng như nguồn cỏ tươi cho động vật nhai lại thì
việc nghiên cứu phương thức bổ sung urê vào khẩu phần ăn của động vật là hết sức cần thiết.
Động vật nhai lại nhờ cấu tạo đặc biệt của hệ tiêu hóa và sự hoạt động của hệ vi sinh vật sống
cộng sinh trong dạ cỏ mà có thể sử dụng được đa dạng các loại thức ăn thô xơ có giá trị thấp làm nguyên
liệu để chuyển hóa tạo nên sản phẩm có giá trị dinh dưỡng cao. Về nhu cầu dinh dưỡng, động vật nhai lại
cần tới 20g nitơ để duy trì sự sống; 40g nitơ để tăng trọng đối với động vật non; 14,4g nitơ đối với động
vật trưởng thành; 31g nitơ cho sản xuất sữa. Ở nước ta, trong khẩu phần ăn của động vật nhai lại thường
không đủ hàm lượng nitơ vì trong thức ăn thô có hàm lượng đạm thô rất thấp. Trong trường hợp bổ sung
thức ăn giàu đạm như đậu tương, khô dầu lạc, khô dầu đậu phộng, bột cá thì giá thành thức ăn lại rất đắt.
Do đó, việc bổ sung nitơ dạng phi protit là rất cần thiết, một trong những nguồn nitơ phi protit là urê.
1


Nhờ sự cộng sinh và hoạt động đặc biệt của hệ vi sinh vật trong dạ cỏ nên động vật có thể chuyển hóa
được các hợp chất nitơ phi protit đơn giản để biến chúng thành nguồn protein vi sinh vật có giá trị sinh
học cao mà động vật có thể sử dụng được dễ dàng. Việc bổ sung urê ở mức độ hợp lý vào khẩu phần của
động vật nhằm tối ưu hoạt động của vi sinh vật dạ cỏ theo hướng có lợi, giúp cho việc tiêu hóa thức ăn
được tốt hơn và nâng cao khả năng sản xuất, hiệu quả chăn nuôi là cần thiết được đặt ra.
Tuy nhiên, phương thức bổ sung nguồn urê này như thế nào để mang lại hiệu quả cao là một vấn
đề cần được đặt ra. Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi thực hiện bài tiểu luận:

“Tiến bộ khoa học kỹ thuật trong việc sử dụng urê làm thức ăn cho động vật nhai lại”

2


TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1. Đặc điểm tiêu hóa của động vật nhai lại
1.1 Cấu tạo, chức năng các bộ phận của đường tiêu hóa
1.1.1 Dạ dày kép
Đường tiêu hóa của động vật nhai lại được đặc trưng bởi hệ dạ dày kép gồm 4 túi, trong đó ba túi
trước (dạ cỏ, dạ tổ ong, dạ lá sách) được gọi chung là dạ dày trước, không có tuyến tiêu hóa riêng.
Túi thứ 4 gọi là dạ múi khế, tương tự dạ dày của động vật dạ dày đơn, có hệ thống tuyến tiêu hóa phát
triển mạnh. Kích thước 4 túi thay đổi theo tuổi. Dung tích dạ dày 140 – 230 lít, ở động vật non 95 –
150 lít.

Cấu tạo dạ dày kép của động vật nhai lại

 Dạ cỏ: là túi lớn nhất, chiếm hầu hết nửa trái của xoang bụng, từ cơ hoành đến xương chậu.
Dạ cỏ chiếm 85 – 90% dung tích dạ dày, 75% dung tích đường tiêu hóa, có tác dụng tích trữ,
nhào trộn và chuyển hóa thức ăn. Dạ cỏ không có tuyến tiêu hóa mà niêm mạc có nhiều núm
hình gai. Sự tiêu hóa thức ăn trong dạ cỏ nhờ hệ vi sinh vật cộng sinh. Dạ có có môi trường
thuận lợi cho vi sinh vật lên men yếm khí, nhiệt độ tương đối ổn định trong khoảng 38 – 42 oC,
pH từ 5,5 – 7,4.
Có tới khoảng 50 – 80% các chất dinh dưỡng trong thức ăn được lên men ở dạ cỏ. Sản
phẩm lên men chính là các axit béo bay hơi, sinh khối vi sinh vật và các khí (metan và
cacbonic). Phần lớn axit béo bay hơi được hấp thu qua vách dạ cỏ trở thành nguồn năng lượng
chính cho động vật nhai lại, các khí được thải ra ngoài qua phản xạ ợ hơi. Trong dạ cỏ còn có
sự tổng hợp các vitamin nhóm B và vitamin K. Sinh khối vi sinh vật và các thành phần không
lên men được chuyển xuống phần dưới của đường tiêu hóa.
Sản phẩm cuối cùng của quá trình lên men ra khỏi dạ cỏ và các cơ chất được nạp vào

thông qua thức ăn ăn vào hàng ngày, có sự chế tiết vào dạ cỏ những chất cần thiết cho vi sinh
vật phát triển và khuyếch tán ra ngoài những sản phẩm tạo ra trong dạ cỏ. Ðiều này làm cho
3


áp suất thẩm thấu của dạ cỏ luôn ổn định. Thời gian thức ăn tồn lưu trong dạ cỏ kéo dài tạo
điều kiện cho vi sinh vật công phá. Những điều kiện đó là lý tưởng cho sự phát triển của vi
sinh vật dạ cỏ. Ðiều này được đánh giá bởi sự phong phú về chủng loại và mật độ vi sinh vật.
Môi trường dạ cỏ được kiểm soát và điều khiển bởi nhiều yếu tố như: Số lượng và chất
lượng thức ăn ăn vào, nhào trộn theo chu kỳ thông qua co bóp dạ cỏ, tuyến nước bọt và sự
nhai lại, sự khuyếch tán và chế tiết vào dạ cỏ, hấp thu dinh dưỡng từ dạ cỏ, chuyển dịch các
chất xuống bộ máy tiêu hóa.
 Dạ tổ ong: là túi nối liền với dạ cỏ, niêm mạc có cấu tạo giống như tổ ong. Dạ tổ ong có chức
năng chính là đẩy các thức ăn rắn và thức ăn chưa được nghiền nhỏ trở lại dạ cỏ, đồng thời
đẩy các thức ăn lỏng vào dạ lá sách. Dạ tổ ong cũng giúp cho việc đẩy các miếng thức ăn lên
miệng để nhai lại. Sự lên men và hấp thu các chất dinh dưỡng trong dạ tổ ong tương tự như ở
dạ cỏ.
 Dạ lá sách: là túi thứ ba, niêm mạc được cấu tạo thành nhiều nếp. Dạ lá sách có nhiệm vụ
chính là nghiền ép các tiểu phần thức ăn, hấp thu nước, muối khoáng và các axit béo bay hơi
trong dưỡng chấp đi qua
 Dạ múi khế: là dạ dày tuyến gồm có thân vị và hạ vị. Các dịch tuyến múi khế được tiết liên
tục vì dưỡng chấp từ dạ dày trước thường xuyên được chuyển xuống. Dạ múi khế có chức
năng tiêu hoá men tương tự như dạ dày đơn nhờ có HCl, pepsin, kimozin và lipaza.
1.1.2 Rãnh thực quản
Rãnh thực quản là 2 gờ cơ chạy dài từ cửa thượng vị đến dạ lá sách và có hình lòng máng. Khi
thức ăn lỏng hay nước, nó khép kín lại thành rãnh để dẫn thức ăn lỏng hay nước vào dạ lá sách và dạ
múi khế.
Việc đóng mở rãnh thực quản có tính phản xạ khi mút hay bú, uống nước hoặc sữa làm hưng phấn
cơ quan nhận cảm ở môi, lưỡi, miệng, hầu. Xung động theo các dây thần kinh lưỡi, dưới lưỡi và
nhánh hầu thần kinh sinh ba truyền vào hành tủy. Từ đó, xung động theo dây thần kinh phó giao cảm

có tác dụng làm đóng rãnh thực quản.
Đối với động vật non bú sữa, dạ cỏ và dạ tổ ong kém phát triển, sữa sau khi bú qua thực quản
được dẫn trực tiếp xuống dạ lá sách và dạ múi khế qua rãnh thực quản.
Trong điều kiện bình thường, ở động vật trưởng thành rãnh thực quản không hoạt động nên cả
thức ăn và nước uống đều đi thẳng vào dạ cỏ và dạ tổ ong.
1.1.3 Tuyến nước bọt
Nước bọt ở động vật nhai lại được phân tiết và nuốt xuống dạ cỏ tương đối liên tục. Nước bọt có
kiềm tính nên có tác dụng trung hoà các sản phẩm axit sinh ra trong dạ cỏ. Nó còn có tác dụng quan
trọng trong việc thấm ướt thức ăn, giúp cho quá trình nuốt và nhai lại được dễ dàng. Nước bọt còn
cung cấp cho môi trường dạ cỏ các chất điện giải như Na +, K+, Ca2+, Mg2+… Ngoài ra, trong nước bọt
4


còn có urê và photpho, có tác dụng điều hoà dinh dưỡng N và P cho nhu cầu của vi sinh vật dạ cỏ,
đặc biệt là khi các nguyên tố này bị thiếu trong khẩu phần.
Sự phân tiết nước bọt chịu tác động bởi bản chất vật lý của thức ăn, hàm lượng vật chất khô trong
khẩu phần, dung tích đường tiêu hoá và trạng thái tâm - sinh lý. Động vật ăn nhiều thức ăn thô xơ sẽ
phân tiết nhiều nước bọt. Ngược lại, động vật ăn nhiều thức ăn tinh, thức ăn nghiền quá nhỏ sẽ giảm
tiết nước bọt nên tác dụng đệm đối với dịch dạ cỏ sẽ kém và kết quả là tiêu hoá thức ăn xơ sẽ giảm
xuống.
1.1.4 Ruột
Quá trình tiêu hoá và hấp thu ở ruột non của động vật nhai lại cũng diễn ra tương tự như ở động
vật dạ dày đơn nhờ các men tiêu hoá của dịch ruột, dịch tuỵ và sự tham gia của dịch mật.
Trong ruột già có sự lên men vi sinh vật lần thứ hai. Sự tiêu hoá ở ruột già có ý nghĩa đối với các
thành phần xơ chưa được phân giải hết ở dạ cỏ. Các axit béo bay hơi sinh ra trong ruột già được hấp
thu và sử dụng, nhưng protein vi sinh vật thì bị thải ra ngoài qua phân mà không được tiêu hoá sau đó
như ở phần trên.
1.2 Sự nhai lại
Nhai lại là một thích ứng sinh lý của động vật nhai lại giúp cho con vật ăn nhanh và dự trữ được khối
lượng thức ăn lớn trong dạ cỏ. Nhai lại có liên hệ chặt chẽ với thức ăn thô, ví dụ như bê sau khi đẻ 3 tuần

đã nhai lại khi bắt đầu ăn cỏ.
Sau khi ăn một thời gian nhất định, ở trâu bò 30 – 70 phút, cừu 20 – 45 phút,… con vật bắt đầu nhai
lại. Thời gian nhai lại bình quân 40 – 50 phút, sau đó nghỉ một thời gian rồi lại bắt đầu nhai lại. Động vật
nhai lại 6 – 8 lần /24 giờ, động vật non 16 lần.
Quá trình nhai lại diễn ra như sau: Thức ăn sau khi ăn được nuốt xuống dạ cỏ và lên men ở đó. Phần
thức ăn chưa được nhai kỹ nằm trong dạ cỏ và dạ tổ ong thỉnh thoảng lại được ợ lên xoang miệng với
những miếng không lớn và được nhai kỹ lại ở miệng. Khi thức ăn đã được nhai lại kỹ và thấm nước bọt
lại được nuốt trở lại dạ cỏ.
Thời gian 30 – 70 phút là để vi sinh vật phân giải thức ăn tạo các axit béo để kích thích vào tiền đình
dạ cỏ theo dây thần kinh nội tạng về hành tủy. Từ đây, hưng phấn truyền ra theo dây mê tẩu đến các cơ
quan gây động tác ợ thức ăn lên xoang miệng. Thời gian nhai lại phụ thuộc vào bản chất vật lý của thức
ăn, trạng thái sinh lý của con vật, cơ cấu khẩu phần, nhiệt độ môi trường v.v... Thức ăn thô trong khẩu
phần càng ít thì thời gian nhai lại càng ngắn. Trong điều kiện yên tĩnh động vật sẽ bắt đầu nhai lại (sau
khi ăn) nhanh hơn. Cường độ nhai lại mạnh nhất vào buổi sáng và buổi chiều.

5


1.3 Hệ vi sinh vật dạ cỏ
Hệ vi sinh vật dạ cỏ rất phức tạp và phụ thuộc nhiều vào khẩu phần. Hệ vi sinh vật dạ cỏ gồm có 3
nhóm chính: vi khuẩn (Bacteria), động vật nguyên sinh (Protozoa) và nấm (Fungi).
1.3.1 Vi khuẩn (Bacteria)
Vi khuẩn xuất hiện trong dạ cỏ động vật nhai lại trong lứa tuổi còn non, mặc dù chúng được nuôi
cách biệt hoặc cùng với con mẹ. Thông thường vi khuẩn chiếm số lượng lớn nhất trong VSV dạ cỏ và
là tác nhân chính trong quá trình tiêu hóa xơ.
Tổng số vi khuẩn trong dạ cỏ thường là 10 9 - 1011 tế bào/g chất chứa dạ cỏ. Trong dạ cỏ, vi khuẩn
ở thể tự do chiếm khoảng 30%, số còn lại bám vào các mẩu thức ăn, trú ngụ ở các nếp gấp biểu mô và
bám vào protozoa.
Trong dạ cỏ có khoảng 60 loài vi khuẩn đã được xác định. Sự phân loại vi khuẩn dạ cỏ có thể
được tiến hành dựa vào cơ chất mà vi khuẩn sử dụng hay sản phẩm lên men cuối cùng của chúng. Sau

đây là một số nhóm vi khuẩn dạ cỏ chính:
- Vi khuẩn phân giải xenlulo: Vi khuẩn phân giải xenlulo có số lượng rất lớn trong dạ cỏ của
những động vật sử dụng khẩu phần giàu xenlulo. Những loài vi khuẩn phân giải xenlulo quan trọng
nhất



Bacteroides

succinogenes,

Butyrivibrio

fibrisolvens,

Ruminoccocus

flavefaciens,

Ruminococcus albus, Cillobacterium cellulosolvens.
- Vi khuẩn phân giải hemixenlulo: Hemixenlulo khác xenlulo là chứa cả đường pentoza và
hexoza và cũng thường chứa axit uronic. Những vi khuẩn có khả năng thuỷ phân xenlulo thì cũng có
khả năng sử dụng hemixenlulo. Tuy nhiên, không phải tất cả các loài sử dụng được hemixenlulo đều
có khả năng thuỷ phân xenlulo. Một số loài sử dụng hemixenlulo là Butyrivibrio fibrisolvens,
Lachnospira multiparus và Bacteroides ruminicola. Các loài vi khuẩn phân giải hemixenlulo cũng
như vi khuẩn phân giải xenlulo đều bị ức chế bởi pH thấp.
- Vi khuẩn phân giải tinh bột: Trong dinh dưỡng carbohydrat của động vật nhai lại, tinh bột
đứng vị trí thứ hai sau xenlulo. Phần lớn tinh bột theo thức ăn vào dạ cỏ, được phân giải nhờ sự hoạt
động của vi sinh vật. Tinh bột được phân giải bởi nhiều loài vi khuẩn dạ cỏ, trong đó có những vi
6



khuẩn phân giải xenlulo. Những loài vi khuẩn phân giải tinh bột quan trọng là Bacteroides
amylophilus, Succinimonas amylolytica, Butyrivibrio fibrisolbvens, Bacteroides ruminantium,
Selenomonas ruminantium và Steptococcus bovis.
- Vi khuẩn phân giải đường: Hầu hết các vi khuẩn sử dụng được các loại polysaccharid nói trên
thì cũng sử dụng được đường disaccharid và đường monosaccharid. Celobioza cũng có thể là nguồn
năng lượng cung cấp cho nhóm vi khuẩn này vì chúng có men β - glucosidase có thể thuỷ phân
cellobioza. Các vi khuẩn thuộc loài Lachnospira multiparus, Selenomonas ruminantium... đều có khả
năng sử dụng tốt hydratcacbon hoà tan.
- Vi khuẩn sử dụng các axit hữu cơ: Hầu hết các vi khuẩn đều có khả năng sử dụng axit lactic
mặc dù lượng axit này trong dạ cỏ thường không đáng kể, trừ những trường hợp đặc biệt. Một số có
thể sử dụng axit succinic, malic, fumaric, formic hay acetic. Những loài sử dụng axit lactic là
Veillonella gazogenes, Veillonella alacalescens, Peptostreptococcus elsdenii, Propioni bacterium và
Selenomonas lactilytica.
- Vi khuẩn phân giải protein: Trong số những loài vi khuẩn phân giải protein và sinh amoniac thì
Peptostreptococus và Clostridium có khả năng lớn nhất. Sự phân giải protein và axit amin để sản sinh
ra amoniac trong dạ cỏ có ý nghĩa quan trọng đặc biệt cả về phương diện tiết kiệm nitơ cũng như
nguy cơ dư thừa amoniac. Amoniac cần cho các loài vi khuẩn dạ cỏ để tổng hợp nên sinh khối protein
của bản thân chúng, đồng thời một số vi khuẩn đòi hỏi hay được kích thích bởi axit amin, peptit và
isoaxit có nguồn gốc từ valine, leucine và isoleucine. Như vậy cần phải có một lượng protein được
phân giải trong dạ cỏ để đáp ứng nhu cầu này của vi sinh vật dạ cỏ.
- Vi khuẩn tạo metan: Nhóm vi khuẩn này rất khó nuôi cấy trong ống nghiệm nên những thông
tin về những VSV này còn hạn chế. Các loài vi khuẩn của nhóm này là Methano baccterium,
Methano ruminantium và Methano forminicum.
- Vi khuẩn tổng hợp vitamin: Nhiều loài vi khuẩn dạ cỏ có khả năng tổng hợp các vitamin nhóm
B và vitamin K.
1.3.2 Động vật nguyên sinh (Protozoa)
Protozoa xuất hiện trong dạ cỏ khi động vật bắt đầu ăn thức ăn thực vật thô. Sau khi sinh và trong
thời gian bú sữa, dạ dày trước không có protozoa. Protozoa không thích ứng với môi trường bên

ngoài và bị chết nhanh. Trong dạ cỏ, protozoa có số lượng khoảng 10 5 - 106 tế bào/g chất chứa dạ cỏ.
Có khoảng 120 loài protozoa trong dạ cỏ. Mỗi loài động vật có số loài protozoa khác nhau.
Protozoa trong dạ cỏ thuộc lớp Ciliata có hai lớp phụ là Entodiniomrphidia và Holotrica. Phần
lớn động vật nguyên sinh dạ cỏ thuộc nhóm Holotrica có đặc điểm là ở đường xoắn gần miệng có
tiêm mao, còn tất cả chỗ còn lại của cơ thể có rất ít tiêm mao.
Protozoa có một số tác dụng chính như sau:
7


- Tiêu hoá tinh bột và đường: Tuy có một vài loại protozoa có khả năng phân giải xenlulo nhưng
cơ chất chính vẫn là đường và tinh bột, vì thế mà khi động vật ăn khẩu phần nhiều bột đường thì số
lượng protozoa tăng lên.
- Xé rách màng tế bào thực vật: Tác dụng này có được thông qua tác động cơ học và làm tăng
diện tích tiếp xúc của thức ăn, do đó mà thức ăn dễ dàng chịu tác động của vi khuẩn.
- Tích luỹ polysaccarit: Protozoa có khả năng nuốt tinh bột ngay sau khi ăn và dự trữ dưới dạng
amylopectin. Polysaccarit này có thể được phân giải về sau hoặc không bị lên men ở dạ cỏ mà được
phân giải thành đường đơn và được hấp thu ở ruột. Điều này không những quan trọng đối với
protozoa mà còn có ý nghĩa dinh dưỡng cho động vật nhai lại nhờ hiệu ứng đệm chống phân giải
đường quá nhanh làm giảm pH đột ngột, đồng thời cung cấp năng lượng từ từ hơn cho nhu cầu của
bản thân vi sinh vật dạ cỏ trong những thời gian xa bữa ăn.
- Bảo tồn mạch nối đôi của các axit béo không no: Các axit béo không no mạch dài quan trọng
đối với động vật nhai lại (linoleic, linolenic) được protozoa nuốt và đưa xuống phần sau của đường
tiêu hoá để cung cấp trực tiếp cho vật chủ, nếu không các axit béo này sẽ bị làm no hoá bởi vi khuẩn.
Tuy nhiên gần đây nhiều ý kiến cho rằng protozoa trong dạ cỏ có một số tác hại nhất định :
- Protozoa không có khả năng sử dụng NH3 như vi khuẩn: Nguồn nitơ đáp ứng nhu cầu của
chúng là những mảnh protein thức ăn và vi khuẩn. Nhiều nghiên cứu cho thấy protozoa không thể
xây dựng protein bản thân từ các amit được. Khi mật độ protozoa trong dạ cỏ cao thì một tỷ lệ lớn vi
khuẩn bị protozoa thực bào. Mỗi protozoa có thể thực bào 600 - 700 vi khuẩn trong một giờ ở mật độ
vi khuẩn 109/ml dịch dạ cỏ. Do có hiện tượng này mà protozoa đã làm giảm hiệu quả sử dụng protein
nói chung. Protozoa cũng góp phần làm tăng nồng độ amoniac trong dạ cỏ do sự phân giải protein

của chúng.
- Protozoa không tổng hợp được vitamin mà sử dụng vitamin từ thức ăn hay do vi khuẩn tạo nên
nên làm giảm rất nhiều vitamin cho vật chủ.
1.3.3 Nấm (Fungi)
Nấm trong dạ cỏ thuộc loại yếm khí. Nấm là vi sinh vật đầu tiên xâm nhập và tiêu hoá thành phần
cấu trúc thực vật bắt đầu từ bên trong. Những loài nấm được phân lập từ dạ cỏ cừu gồm:
Neocallimastix frontalis, Piramonas communis và Sphaeromonas communis.
Chức năng của nấm trong dạ cỏ là:
- Mọc chồi phá vỡ cấu trúc thành tế bào thực vật, làm giảm độ bền chặt của cấu trúc này, góp
phần làm tăng sự phá vỡ các mảnh thức ăn trong quá trình nhai lại. Sự phá vỡ này tạo điều kiện cho
vi khuẩn và men của chúng bám vào cấu trúc tế bào và tiếp tục quá trình phân giải xenlulo.
- Mặt khác, nấm cũng tiết ra các loại men tiêu hoá xơ. Phức hợp men tiêu hoá xơ của nấm dễ hoà
tan hơn so với men của vi khuẩn. Chính vì thế nấm có khả năng tấn công các tiểu phần thức ăn cứng
hơn và lên men chúng với tốc độ nhanh hơn so với vi khuẩn.
8


Như vậy sự có mặt của nấm giúp làm tăng tốc độ tiêu hoá xơ. Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối
với việc tiêu hoá thức ăn xơ thô bị lignin hoá.
1.4 Tác động tương hỗ của vi sinh vật trong dạ cỏ
Số lượng loài hoặc giống vi sinh vật trong dạ cỏ thường xuyên thay đổi, nó phụ thuộc vào loại hình
thức ăn và sự tiêu hóa trong dạ cỏ dựa vào sự hoạt động phân giải của các loài vi sinh vật này.
Vi sinh vật dạ cỏ, cả ở thức ăn và ở biểu mô dạ cỏ, kết hợp với nhau trong quá trình tiêu hoá thức ăn,
loài này phát triển trên sản phẩm của loài kia. Sự phối hợp này có tác dụng giải phóng sản phẩm phân
giải cuối cùng của một loài nào đó, đồng thời tái sử dụng những yếu tố cần thiết cho loài sau. Ví dụ, vi
khuẩn phân giải protein cung cấp amoniac, axit amin và isoaxit cho vi khuẩn phân giải xơ. Quá trình lên
men dạ cỏ là liên tục và bao gồm nhiều loài tham gia.
Trong điều kiện bình thường, giữa vi khuẩn và protozoa cũng có sự cộng sinh có lợi, đặc biệt là trong
tiêu hoá xơ. Tiêu hoá xơ mạnh nhất khi có mặt cả vi khuẩn và protozoa. Một số vi khuẩn được protozoa
nuốt vào có tác dụng lên men trong đó tốt hơn vì mỗi protozoa tạo ra một kiểu “dạ cỏ mini” với các điều

kiện ổn định cho vi khuẩn hoạt động. Một số loài ciliate còn hấp thu ôxy từ dịch dạ cỏ giúp đảm bảo cho
điều kiện yếm khí trong dạ cỏ được tốt hơn. Protozoa nuốt và tích trữ tinh bột, hạn chế tốc độ sinh axit
lactic, hạn chế giảm pH đột ngột, nên có lợi cho vi khuẩn phân giải xơ.
Tuy nhiên giữa các nhóm vi khuẩn khác nhau cũng có sự cạnh tranh điều kiện sinh tồn của nhau.
Chẳng hạn, khi động vật ăn khẩu phần ăn giàu tinh bột nhưng nghèo protein thì số lượng vi khuẩn phân
giải xenlulo sẽ giảm và do đó tỷ lệ tiêu hoá xơ thấp. Đó là vì sự có mặt của một lượng đáng kể tinh bột
trong khẩu phần kích thích vi khuẩn phân giải bột đường phát triển nhanh nên sử dụng cạn kiệt những
yếu tố dinh dưỡng quan trọng (như các loại khoáng, amoniac, axit amin, isoaxit) là những yếu tố cũng
cần thiết cho vi khuẩn phân giải xơ vốn phát triển chậm hơn.
Mặt khác, tương tác tiêu cực giữa vi khuẩn phân giải bột đường và vi khuẩn phân giải xơ còn liên
quan đến pH trong dạ cỏ. Chenost và Kayouli (1997) giải thích rằng quá trình phân giải chất xơ của khẩu
phần diễn ra trong dạ cỏ có hiệu quả cao nhất khi pH dịch dạ cỏ > 6,2, ngược lại quá trình phân giải tinh
bột trong dạ cỏ có hiệu quả cao nhất khi pH < 6,0. Tỷ lệ thức ăn tinh quá cao trong khẩu phần sẽ làm cho
axit béo bay hơi sản sinh ra nhanh, làm giảm pH dịch dạ cỏ và do đó mà ức chế hoạt động của vi khuẩn
phân giải xơ.
Tác động tiêu cực cũng có thể thấy rõ giữa protozoa và vi khuẩn. Như đã trình bày ở trên, protozoa ăn
và tiêu hoá vi khuẩn, do đó làm giảm tốc độ và hiệu quả chuyển hoá protein trong dạ cỏ. Với những loại
thức ăn dễ tiêu hoá thì điều này không có ý nghĩa lớn, song đối với thức ăn nghèo nitơ thì protozoa sẽ
làm giảm hiệu quả sử dụng thức ăn nói chung. Loại bỏ protozoa khỏi dạ cỏ làm tăng số lượng vi khuẩn

9


trong dạ cỏ. Thí nghiệm trên cừu cho thấy tỷ lệ tiêu hoá vật chất khô tăng 18% khi không có protozoa
trong dạ cỏ (Preston và Leng, 1991).
Như vậy, cấu trúc khẩu phần ăn của động vật nhai lại có ảnh hưởng rất lớn đến sự tương tác của hệ vi
sinh vật dạ cỏ. Khẩu phần giàu các chất dinh dưỡng không gây sự cạnh tranh giữa các nhóm vi sinh vật,
mặt cộng sinh có lợi có xu thế biểu hiện rõ. Nhưng khẩu phần nghèo dinh dưỡng sẽ gây ra sự cạnh tranh
gay gắt giữa các nhóm vi sinh vật, ức chế lẫn nhau, tạo khuynh hướng bất lợi cho quá trình lên men thức
ăn nói chung.


2. Cơ sở khoa học của việc sử dụng urê làm thức ăn cho động vật nhai lại
2.1 Quá trình chuyển hóa các chất trong dạ cỏ của động vật nhai lại

2.1.1 Chuyển hóa gluxit
 Thức ăn gluxit của loài nhai lại chủ yếu là chất xơ (thức ăn xanh 16 – 20%, ủ tươi 22%, cỏ khô và
rơm 28 – 46%), trong đó có đến 80% là xenlulo và hemixenlulo.
+ Phân giải xenlulo: được phân giải nhờ hệ mẹ do vi sinh vật tiết ra trên màng của nó và sự phân
giải gồm 3 giai đoạn:
Xenlulo Depolymeraza
Polysaccarit β - Xenlobiaz
Xenlobioz Gluconidaza
2 Glucose
Khả năng phân giải xenlulo tới 80% trong dạ cỏ. Nếu thức ăn có nhiều tinh bột, đường dễ hòa
tan hoặc các protit, hợp chất nitơ phi protit dễ tan thì khả năng giân giải xenlulo giảm.
+ Phân giải hemixenlulo:
Hemixenlulo Men VSV
Xilobioz Men VSV
+ Tiêu hóa tinh bột đường (gluxit dễ tan):

Xilose

Tinh bột Men VSV
Dextrin Men VSV
Glucose
Con đường phức tạp:
Disaccarit
Monosaccarit
Men VSV
 Khả năng tiêu hóa xơ phụ thuộc vào:

+ Mức độ lignin hóa: lignin bao ngoài xenlulo tạo độ cứng cho tế bào, lignin không bị phân giải
bởi men tiêu hóa, bền với axit. Thực vật càng già, lignin càng nhiều  khả năng tiêu hóa xenlulo,
hemixenlulo càng kém.
+ Hàm lượng gluxit dễ tiêu: ở pH = 6, lượng vi sinh vật phân giải xơ giảm, pH = 5 hoặc 6 thì
ngừng hẳn  lượng gluxit càng nhiều sẽ ức chế khả năng phân giải xơ của vi sinh vật.
+ Mức độ protein trong khẩu phần: khi bổ sung urê, lượng vi sinh vật/1g chất chứa sẽ tăng lên 
khả năng tiêu hóa của động vật tăng lên.
 Các đường đơn sau khi được tạo thành do quá trình phân giải gluxit sử dụng theo các hướng:
10


+ 6% được hấp thu trực tiếp vào máu vật chủ (động vật nhai lại).
+ 94% được vi sinh vật tiếp tục lên men cho ra các sản phẩm axit béo bay hơi, bao gồm: axit
lactic 20%, axit acetic 60%, propionic, butyric,… Các axit béo bay hơi này một phần được vi
khuẩn sử dụng để tổng hợp nên glycogen và lipid của bản thân chúng. Phần lớn axit béo còn lại
được hấp thu vào máu về gan (động vật nhai lại).
Đường đơn trong dạ cỏ Hấp thu vào máu
Hấp thu vào máu

94%

6%

Vật chủ

Phần lớn

VSV sử dụng

VSV

Phần nhỏ
 Tùy theo trạng thái sinh lý của con vật và tính biệt mà các axit béo được sử dụng theo các hướng:
+ Cung cấp năng lượng: các axit béo bay hơi đi vào quá trình (oxy hóa hoặc được hoạt hóa bởi

acetyl coA để vào chu trình Krebs).
+ Tạo glycogen ở dự trữ ở gan.
+ Tạo mỡ: các axit béo đi theo vòng xoắn Lynen Wayking.
+ Một số axit béo đến tuyến vú để hình thành mỡ sữa.

Cung cấp
năng lượng

Dự trữ: tạo
glycogen

Vỗ béo:
tạo mỡ
Axit béo
bay hơi

Sản phẩm
trung gian

Tạo mỡ sữa

Trong quá

trình trao đổi trung

gian, các axit béo bay hơi hình thành nên thể ceton. Bình thường trong máu loài nhai lại, thể ceton

chiếm 7 – 8 mg %, nếu tăng sẽ bị ceton huyết, thường xảy ra cho động vật khẩu phần có tỷ lệ tinh
bột cao.
Sản phẩm trung gian của quá trình phân giải trên thường sinh ra các khí CH 4, CO2,… Khí
thoát ra ngoài theo phổi hay ợ hơi. Quá trình lên men mạnh, khí sinh ra nhiều và quá trình thoát
hơi bị chậm hay ngừng trệ gây chướng hơi dạ cỏ.
11


2.1.2 Chuyển hóa protit và hợp chất nitơ phi protit
Protit

Peptit

Axit amin
Nitơ
Nitơ phi protit

Ở dạ cỏ có quá trình phân giải protit động thực vật thành các peptit, axit amin, NH3 và đồng thời
cũng có quá trình tổng hợp protit của vi sinh vật. Mức độ phân giải của chúng phụ thuộc vào nhiều
yếu tố, đặc biệt là độ hoà tan.
Trong thức ăn, protit biến động từ 4 – 30%, ngoài ra trong khẩu phần còn có thức ăn giàu protit
như bột máu,… Sự phân giải cũng nhờ hệ men vi sinh vật.
Proteinaza

Protit

Peptidaza

Peptid


Axit amin

Các axit amin này được sử dụng theo 2 hướng:
 Nếu trong khẩu phần giàu gluxit dễ tiêu hóa thì vi sinh vật sẽ sử dụng để kiến tạo bản thân chúng.
 Nếu khẩu phần không có gluxit dễ tan nó sẽ bị phân giải tiếp:
Axit amin

Axit béo + NH3

Các hợp chất nitơ phi protit thường gặp là các dạng axit amin tự do: glutamic, serin,… chúng
được phân giải nhanh và sản phẩm cuối thường là NH3 và nguồn NH3 này cũng được vi sinh vật sử
dụng tạo protit của bản thân.
Deaminaza

RCH(NH2)COOH

RCH2COOH + NH3

Trong các hợp chất nitơ phi protit thì urê là chất được sử dụng rộng rãi làm nguồn bổ sung nitơ
cho động vật nhai lại dựa trên cơ sở đặc điểm tiêu hóa của con vật và sự phân giải urê.
Ureaza

(NH2)2CO

2NH3 + CO2

Sau đó :
NH3 + Cetoaxit

Axit amin


Protit của vi sinh vật

Trong khi tất cả nitơ phi protit được chuyển thành NH 3 trong dạ cỏ thì có một phần protein của
khẩu phần được VSV dạ cỏ phân giải thành NH 3. NH3 trong dạ cỏ là yếu tố cần thiết cho sự tăng sinh
của hầu hết các loài vi khuẩn trong dạ cỏ. Các vi khuẩn này sử dụng NH 3 để tổng hợp nên axit amin
của chúng. Nó được coi là nguồn nitơ chính cho nhiều loại vi khuẩn, đặc biệt là những vi khuẩn tiêu
hoá xơ và tinh bột. Sinh khối vi sinh vật sẽ đến dạ múi khế và ruột non theo khối dưỡng chấp. Tại đây
12


một phần protein vi sinh vật này sẽ được tiêu hoá và hấp thu tương tự như đối với động vật dạ dày
đơn. Khi vi sinh vật chết thì đó là nguồn đạm bổ sung quan trọng cho vật chủ.
Nhờ có VSV dạ cỏ mà động vật nhai lại ít phụ thuộc vào chất lượng protein thô của thức ăn hơn
là động vật dạ dày đơn bởi vì chúng có khả năng biến đổi các hợp chất chứa nitơ đơn giản như urê
thành protein có giá trị sinh học cao. Do đó, để đáp ứng nhu cầu sử dụng và sản xuất ở mức vừa phải
thì không nhất thiết phải cho động vật nhai lại ăn những nguồn protein có chất lượng cao vì hầu hết
những protein này sẽ bị phân giải thành NH3, thay vào đó NH3 có thể sinh ra từ những nguồn nitơ đơn
giản và rẻ tiền hơn. Khả năng này của vi sinh vật dạ cỏ có ý nghĩa kinh tế rất lớn đối với sản xuất.
NH3
Hấp
thụ
vào
máu
đến gan

Vi sinh vật sử dụng
Dạ cỏ

Tổng hợp urê


Tuyến nước bọt

(phần lớn)
Hấp
thụ
vào
máu
đến thận

Thải ra ngoài qua đường nước tiểu
Sơ đồ tổng quát quá trình tiêu hóa nitơ phi proti
2.1.3 Chuyển hóa lipid
Trong dạ cỏ có hai quá trình trao đổi lipid liên quan với nhau: phân giải lipid của thức ăn và tổng
hợp mới lipid của vi sinh vật. Triaxylglycerol và galactolipid của thức ăn được phân giải và thuỷ phân
bởi lipaza vi sinh vật. Glyexerol và galactoza được lên men ngay thành axit bay hơi. Các axit béo giải
phóng ra được trung hoà ở pH của dạ cỏ chủ yếu dưới dạng muối canxi có độ hoà tan thấp và bám
vào bề mặt của vi khuẩn và các tiểu phần thức ăn. Chính vì thế tỷ lệ mỡ quá cao trong khẩu phần
thường làm giảm khả năng tiêu hoá xơ ở dạ cỏ.
Trong dạ cỏ còn xảy ra quá trình hydrogen hoá và đồng phân hoá các axit béo không no. Các axit
béo không no mạch dài (linoleic, linolenic) bị bão hoà (hydrogen hoá thành axit stearic) và sử dụng
bởi một số vi khuẩn. Một số mạch nối đôi của các axit béo không no có thể không bị hydrogen hoá
nhưng được chuyển từ dạng cis sang dạng trans bền vững hơn. Các axit béo có mạch nối đôi dạng

13


trans này có điểm nóng chảy cao hơn và hấp thu (ở ruột non) và chuyển vào mô mỡ làm cho mỡ của
động vật nhai lại có điểm nóng chảy cao.
Vi sinh vật dạ cỏ còn có khả năng tổng hợp lipit có chứa các axit béo lạ (có mạch nhánh và mạch

lẻ) do sử dụng các axit béo bay hơi có mạch nhánh và mạch lẻ được tạo ra trong dạ cỏ. Các axit này
sẽ có mặt trong sữa và mỡ cơ thể của vật chủ.
Như vậy, lipit của VSV dạ cỏ là kết quả của việc biến đổi lipit của thức ăn và lipit được tổng hợp
mới. Khả năng tiêu hoá mỡ của VSV dạ cỏ rất hạn chế, cho nên khẩu phần nhiều mỡ sẽ cản trở tiêu
hoá xơ và giảm thu nhận thức ăn. Tuy nhiên, đối với phụ phẩm xơ hàm lượng mỡ trong đó rất thấp
nên dinh dưỡng của động vật nhai lại ít chịu ảnh hưởng của tiêu hoá mỡ trong dạ cỏ.
2.1.4 Mối quan hệ giữa các quá trình phân giải gluxit, protit và nitơ phi protit
 Các quá trình phân giải gluxit, protit và nitơ phi protit dưới tác động của vi sinh vật diễn ra đồng
thời và liên quan mật thiết với nhau.
 Vi sinh vật có khả năng sử dụng nitơ để tổng hợp nên protit vi sinh vật.
 Có thể sử dụng nitơ phi protit để bổ sung cho các loài nhai lại.
 Protit vi sinh vật rất hoàn hảo, có giá trị sinh học cao, cung cấp cho vật chủ khoảng 100g/24 giờ.
GLUXIT

PROTIT
NITƠ PHI PROTIT

ĐƯỜNG ĐƠN

PEPTIT
NH3

CETOAXIT

AXIT AMIN
AXIT AMIN
PROTIT
CỦA VI
SINH VẬT


Sơ đồ tiêu hóa gluxit, protit và nitơ phi protit trong dạ cỏ
2.2 Cơ sở khoa học
Urê có công thức hóa học là (NH 2)2CO, thành phần nitơ của urê chiếm 42 – 46% (trung bình là
45%). Urê đã được sử dụng từ rất lâu và rộng rãi trong chăn nuôi các loài động vật nhai lại. Bổ sung urê
cho động vật nhai lại chính là cung cấp nitơ từ NH 3 cho hệ vi sinh vật dạ cỏ tổng hợp nên protein của
14


chúng. Lượng protein vi sinh vật tổng hợp được càng nhiều thì việc sử dụng urê càng có hiệu quả. Urê
trong dạ cỏ được phân giải theo phản ứng sau:
NH2
O=C

Ureaza, to

+

H2O

2 NH3 + CO2

NH2
Sỡ dĩ các loài động vật nhai lại sử dụng được urê là vì trong dạ cỏ của chúng có các quần thể vi sinh
vật có khả năng biến đổi, phân giải nitơ trong urê và tổng hợp nên các chất đạm có giá trị sinh học cao
cung cấp cho cơ thể. Quá trình phân giải urê trong dạ cỏ xảy ra rất nhanh (một phân tử men ureaza có thể
phân giải được 46.000 phân tử urê trong 1 giờ). Lượng protein sinh vật tổng hợp được càng nhiều thì việc
sử dụng urê càng có hiệu quả. Nồng độ NH3 quá cao hay quá thấp đều giảm hiệu quả sử dụng urê của vi
sinh vật dạ cỏ trong việc tổng hợp protein vi sinh vật. Khi lượng NH 3 sinh ra nhiều một lúc rất dễ gây ngộ
độc cho động vật.
Bổ sung urê vào thức ăn cho động vật nhai lại sẽ tạo nguồn thức ăn trực tiếp cho hệ vi sinh vật dạ cỏ

phát triển thành số lượng rất lớn, sau đó các vi sinh vật này sẽ dịch chuyển xuống dạ múi khế rồi tại đây
bị tiêu hóa và trở thành nguồn đạm có giá trị sinh học cao, cung cấp cho cơ thể vật chủ.
Ngoài ra, để tăng sự tổng hợp protein của vi sinh vật dạ cỏ cần phải chú ý đến nguồn năng lượng của
vi sinh vật. Cứ 130 – 140g protein (chủ yếu là protein hòa tan) cần 1.000g chất hữu cơ dễ hấp thu.
Để cung cấp năng lượng, người ta cung cấp gluxit. Cần chú ý rằng tất cả các loại gluxit không cùng
một giá trị cho vi sinh vật sử dụng urê. Trong thực tế, những khẩu phần giàu ngũ cốc, ít thức ăn thô,
nhiều xơ là những khẩu phần thích hợp nhất cho việc bổ sung urê.
Những yếu tố có liên quan đến sinh trưởng của vi sinh vật dạ cỏ cũng rất quan trọng đối với hiệu quả
sử dụng urê. Vitamin A hay carotene, các nguyên tố khoáng như Co, Mn, Zn và đặc biệt là S không chỉ
kích thích sự tổng hợp protein từ urê của vi sinh vật dạ cỏ mà còn tăng khả năng tiêu hóa thức ăn.
Sử dụng urê trong chăn nuôi vừa ít kinh phí vừa mang lại hiệu quả cao, ta không cần cho động vật
nhai lại ăn thêm các loại thức ăn có chứa đạm động vật mà chúng vẫn được cung cấp đầy đủ nguồn đạm
có giá trị.
3. Nguyên tắc sử dụng urê cho động vật nhai lại
3.1 Nguyên tắc sử dụng urê cho động vật nhai lại
Khi sử dụng urê, cần chú ý những vấn đề sau đây:

15


 Urê chỉ dùng bổ sung cho những thức ăn nghèo nitơ và giàu gluxit dễ lên men như hạt ngũ cốc,
ngô, cây cao lương ủ chua, những sản phẩm làm khô như bã củ, cỏ khô, rơm,…
 Không bổ sung urê vào khẩu phần cây cỏ họ hòa thảo, họ đậu còn xanh hay ủ chua, bắp cải và cây
cỏ thuộc họ hoa thập tự, bã ướt của củ cải,…
 Khi sử dụng urê cần lưu ý:
+ Chỉ bổ sung urê cho loài nhai lại tuổi từ 6 tháng trở lên, không sử dụng cho động vật non vì ở
động vật non thì dạ cỏ chưa phát triển, do đó hệ vi sinh vật trong dạ cỏ chưa phát triển, khi bổ
sung urê sẽ gây ngộ độc cho động vật.
+ Cung cấp đầy đủ các chất bột đường dễ lên men vào khẩu phần ăn của động vật nhai lại sẽ giúp
cho hệ vi sinh vật dạ cỏ có đủ năng lượng để sử dụng khí NH 3 phân giải ra từ urê và tổng hợp nên

chất đạm, nếu không động vật nhai lại sẽ bị ngộ độc.
+ Trộn với thức ăn khô hay dạng cacbamid tới 45% nitơ. Tuyệt đối không hòa urê cho động vật
uống trực tiếp như vậy sẽ gây hiện tượng ngộ độc urê.
+ Bổ sung khoáng, vitamin A, D,…
+ Đối với những động vật nhai lại trước đó chưa ăn urê thì cần có thời gian làm quen: hằng ngày
cho ăn từng ít một và thời gian làm quen kéo dài từ 5 đến 10 ngày.
+ Khẩu phần nhiều urê làm giảm tính ngon miệng, vì vậy tốt nhất là nên bổ sung thêm đường
hoặc rỉ mật hoặc trộn vào cỏ ủ, trộn đều vào thức ăn hỗn hợp, cho ăn nhiều lần trong ngày, mỗi
lần một ít.
+ Urê nên được trộn kỹ với thức ăn trong khẩu phần, không để để vón cục trong thức ăn vì động
vật dễ bị ngộ độc.
+ Bổ sung theo liều quy định khoảng 20 – 30% nhu cầu protit/24 giờ: Trâu bò 80 – 150g, dê cừu
13 – 18g/con/ngày. Không cho ăn quá liều lượng quy định.
3.2 Ngộ độc urê
 Nguyên nhân:
Ngộ độc urê xảy ra do động vật nhai lại ăn một lúc quá nhiều urê, lượng NH 3 thủy phân từ urê vượt
quá nhu cầu sử dụng của vi sinh vật dạ cỏ. Khi đó, chúng được hấp thu vào máu, đến gan, gan không đủ
khả năng biến đổi làm cho lượng NH3 cao trong máu sẽ gây ngộ độc cho động vật.
 Triệu chứng:
Khi bị ngộ độc urê, con vật sẽ có những biểu hiện sau: ủ rũ, chướng hơi, chán ăn, bồn chồn, tỏ ra sợ
hãi sau đó đi phân liên tục. Quan sát thấy các cơ vùng môi, tai, mắt co giật. Giai đoạn tiếp theo con vật bị
16


đau bụng, tiết nhiều nước dãi, đứng cứng ngắc. Mạch đập nhanh, thở khó, thở kéo dài và giẫy giụa mạnh
trước khi chết.
 Điều trị:
Nguyên tắc: Phải can thiệp sớm và tiến hành theo các bước sau đây:
+ Thải các chất chứa trong dạ dày bằng biện pháp thụt rữa dạ dày với dung dịch thuốc tím 0,1% hoặc
dung dịch bicarbonat 3% làm cho động vật nôn ra càng nhanh càng tốt.

+ Cho động vật uống giấm loãng khoảng từ 1 – 3 lít.
+ Tiêm vào tĩnh mạch động vật 20 – 25g axit glutamic, pha loãng trong dung dịch glucoza 10%.
+ Tiêm vào tĩnh mạch động vật cloruacanxi 10% để chống co giật.
+ Trợ tim cho động vật bằng cafein và long não.
+ Nếu con vật bị chướng hơi phải tìm cách thoát hơi trong dạ cỏ.
+ Ngoài ra, cho động vật uống thêm nhiều nước và các loại thuốc lợi tiểu để đẩy nhanh quá trình thải
urê ra ngoài.
+ Nếu phát hiện muộn và không xử lý kịp thời thì phần lớn sẽ gây tử vong cho động vật.
 Phòng ngừa:
+ Bổ sung lượng nitơ phi protit vào khẩu phần ăn cho động vật theo một liều lượng quy định, chia
làm nhiều lần trong ngày, trộn đều vào thức ăn. Trước và sau khi cho ăn, không cho động vật uống
nước ngay.
+ Nên sử dụng viên nén có độ hòa tan chậm, tốc độ phân giải nitơ phi protein phù hợp với quá trình
tổng hợp.
+ Nên bổ sung urê kết hợp với rỉ mật để tăng hiệu quả sử dụng.
+ Khi bổ sung urê, nên chú ý đến sức khỏe và tuổi của động vật nhai lại. Không được hòa urê vào
nước hoặc thức ăn tinh trực tiếp cho động vật.
4. Tiến bộ khoa học kỹ thuật trong việc sử dụng urê làm thức ăn cho động vật nhai lại
4.1 Ủ urê, vôi với thức ăn thô xơ (rơm)
 Lợi ích từ việc ủ rơm cho động vật nhai lại ăn:
Rơm là sản phẩm phụ của việc trồng lúa. Nguồn rơm hiện nay chỉ được sử dụng khoảng 20-30%
(làm chất độn chuồng chăn nuôi, làm thức ăn cho trâu bò khi đói rét và dùng để trồng nấm ăn...). Như
vậy, sau khi thu hoạch lúa, có 80% lượng rơm tương ứng không được sử dụng mà thường đốt đi. Nếu
dự trữ để chăn nuôi động vật nhai lại thì đây là nguồn thức ăn dồi dào. Nhưng do rơm nghèo chất

17


dinh dưỡng, tỷ lệ tiêu hoá thấp nên muốn sử dụng có hiệu quả phải biết phương pháp ủ rơm. Rơm ủ
theo đúng quy trình kỹ thuật để làm thức ăn cho động vật nhai lại rất có nhiều lợi ích như:

+ Động vật ăn lượng rơm ủ gấp 2 lần rơm khô do rơm ủ mềm và không bị ngộ độc do urê.
+ Tỷ lệ tiêu hoá hấp thu tăng lên 10% so với ăn rơm khô.
+ Tăng lượng đạm (protein) thô trong rơm gấp 2,5 lần, cải thiện thành phần dinh dưỡng.
+ Tăng nguồn thức ăn cho động vật lớn.
+ Động vật tăng trọng nhanh.
+ Đem lại hiệu quả kinh tế cao.
 Các bước tiến hành:
Bước 1: Chuẩn bị hố ủ
Có nhiều loại hố ủ như: hố ủ nổi, hố ủ chìm, nửa nổi nửa chìm, ủ bằng bao ni lông... Hố ủ chìm dễ
làm, ít tốn công và vật liệu nhưng phải lưu ý một số điểm sau đây:
-

Địa điểm đào hố: cao ráo, mạch nước ngầm sâu, dễ thoát nước khi trời mưa, dễ che đậy.

-

Kích thước: Tuỳ theo số lượng động vật nuôi hoặc lượng rơm cần ủ để thiết kế hố ủ. Cứ 1 m 3 hố
ủ được 100 kg rơm. Kích thước dài 2m x rộng 0,5m x sâu 1m.

-

Hố phải chắc chắn, kín. Nên dùng tấm ni lông lót dưới đáy và chung quanh thành hố ủ để nước
và không khí không thoát từ trong ra ngoài hoặc ngược lại.

Bước 2: Chuẩn bị nguyên vật liệu
-

Rơm: 100 kg (Rơm phải khô, sạch, có màu vàng sáng).

-


Nước sạch: 100 lít.

-

Urê: 2 kg.

-

Vôi bột: 2 kg.

-

Dụng cụ: Xô, thùng tưới hoa sen, cân, tấm bạt (ni lông).

Bước 3: Tiến hành ủ rơm (Tính cho ¼ lần trên hố ủ 100 kg rơm)
-

Dùng tấm bạt (ni lông) che phủ thật kín, lót dưới đáy và chung quanh thành hố ủ.

-

Cân 25 kg rơm rải đều vào hố ủ, nén cho chặt.

-

Cân 0,5 kg urê và 0,5 kg vôi bột hoà tan vào 25 lít nước đựng trong xô.

-


Đổ nước đã hoà tan vào bình hoa sen tưới đều lên mặt lớp rơm trong hố. Vừa tưới vừa nén chặt,
tưới từ từ để nước ngấm vào rơm mà không đọng ở đáy.

-

Tiếp tục làm từng lớp 2, 3, 4 tương tự như lớp trên cho đến khi đầy hố ủ.

18


-

Dùng tấm ni lông che phủ thật kín hố ủ, trên cùng dùng đất đắp hoặc đè bằng các vật liệu sẵn có
khác.

Bước 4: Theo dõi hố ủ
-

Sau vài ngày, rơm ở hố ủ xẹp xuống. Vì vậy, phải đắp đất hoặc tấm che sao cho hố ủ luôn luôn
được đậy kín.

-

Chống nước ngấm vào hố khi trời mưa.

-

Bí quyết để thành công là: Nén thật chặt, tưới thật đều, che thật kín.

Bước 5: Kiểm tra chất lượng

-

Rơm ủ xong đem tốt nhất là có màu vàng sáng, không khô, không ướt, mềm, có mùi khai đậm
đặc. Chất lượng rơm phải tốt và đồng đều, không mốc, không ướt và không ứ đọng nước trong hố
ủ.

Bước 6: Lấy rơm cho động vật nhai lại sử dụng
-

Sau 2 - 3 tuần có thể lấy ra cho động vật ăn.

19


-

Lấy ra đến đâu, ăn hết đến đó. Lấy theo từng góc của
hố ủ. Rơm đem khỏi hố để khoảng 30 phút rồi mới
cho ăn bằng cách dàn mỏng ra giữa sân làm bay hết
mùi nồng để động vật dễ ăn.

-

Nếu động vật ăn rơm ủ lần đầu nên tập ăn bằng cách
trộn với cỏ tươi để cho quen dần. Cũng có thể cho
thêm rỉ mật (4 kg rỉ mật cho 100 kg rơm, lượng urê
và nước như trên). Khi đó, giá trị dinh dưỡng của rơm
tăng lên, rơm có mùi thơm, ít hăng hơn và động vật
nhai lại thích ăn hơn. Trong hộ gia đình nếu nuôi
động vật nhai lại ít có thể ủ trong từng bao ni lông. Tỷ lệ rơm, nước, urê như phương pháp trên,

cách làm khác là rải đều rơm ra giữa nền sân (nền xi măng hoặc lót ni lông), vừa tưới nước hoà
tan vừa nén chặt sau đó bỏ vào bao nén chặt rồi buộc miệng bao thật kín.

4.2 Ủ thức ăn thô xanh
 Lợi ích từ việc ủ thức ăn thô xanh:
-

Cải thiện được thành phần dinh dưỡng, tăng lượng thức ăn cho động vật, động vật tăng trọng
nhanh.

-

Tăng khả năng tiêu hóa hấp thu của động vật.

-

Giảm thiểu sự ảnh hưởng của độc tố (đối với những nguyên liệu có chứa độc tố).

-

Khắc phục tính thời vụ của cây trồng.

-

Tăng nguồn thức ăn cho động vật lớn.

-

Đem lại hiệu quả kinh tế cao.


 Các bước tiến hành:
Bước 1: Chuẩn bị nguyên liệu, nơi ủ
-

Nguyên liệu:
+ Thức ăn xanh: cỏ, ngọn lá mía,…: 100 kg
+ Rỉ mật: 4 kg
+ Muối: 0,5 kg (nếu không có rỉ mật có thể thay thế bằng
cám: 3 – 4 kg)

-

Nơi ủ:
+ Dùng bể, thùng phuy.
20


+ Đào hố lót ni lông.
+ Dùng túi ni lông.
Bước 2: Chuẩn bị túi ủ
-

Túi ủ: dài 2,5 – 3m x rộng 1,5 m.

-

Buộc chặt đầu dưới của túi.

Bước 3: Chuẩn bị nguyên liệu và dụng cụ
-


Chặt, thái thức ăn thô xanh dài khoảng 2 – 4 cm.

-

Chuẩn bị các chất bổ sung (theo số lượng thức ăn ủ).

Bước 4: Tiến hành ủ chua
-

Cho nguyên liệu để ủ, đã được thái nhỏ vào túi ni lông dày khoảng 20cm.

-

Tưới rỉ mật hoặc các chất bổ sung (cám, bột sắn) lên mỗi lớp và nén chặt cho đến khi đầy.

-

Rải một lớp rơm khô lên trên thức ăn ủ chua rồi dùng dây cao su buộc chặt miệng túi.

-

Để túi nơi râm mát, tránh nước mưa và chuột cắn túi làm hỏng túi và thức ăn bị chua.

Bước 5: Kiểm tra chất lượng thức ăn ủ chua
-

Thức ăn ủ chua có chất lượng tốt: mùi chua nhẹ, màu vàng sáng.

-


Thức ăn ủ chua có chất lượng kém: mùi chua nặng, màu đen hoặc bị mốc.

Bước 6: Lấy thức ăn ủ chua cho động vật nhai lại sử dụng
-

Sau 2 - 3 tuần có thể lấy ra cho động vật ăn.

-

Kiểm tra thức ăn ủ chua có bị mốc hay không.

-

Lấy ra đến đâu, ăn hết đến đó. Đậy và buộc kín sau mỗi lần lấy.

21


Bước 7: Sử dụng thức ăn ủ chua cho động vật nhai lại
-

Tập cho gia động vật dần.

-

Có thể cho ăn 5kg/100kg thể trọng.
Lưu ý: Đối với bò sữa không cho ăn trước khi vắt sữa.

4.3 Tạo tảng liếm hay bánh dinh dưỡng (MUB)

 Tác dụng của bánh dinh dưỡng
-

Bánh dinh dưỡng còn gọi là tảng urê - rỉ mật là thức ăn bổ sung các chất dinh dưỡng như: Nitơ
phi protit, năng lượng, khoáng đa - vi lượng cho động vật, làm tăng khả năng ăn của chúng đối
với cỏ, rơm, thân cây ngô già ...

-

Bánh dinh dưỡng dễ làm, dễ chuyên chở, có giá trị cao trong mùa khô. Sử dụng bánh dinh dưỡng
sẽ làm tăng hiệu quả trong chăn nuôi động vật, đặc biệt trong nuôi vỗ tại chuồng.

 Các bước tiến hành:
Bước 1: Chuẩn bị nguyên liệu
-

Rỉ mật: có tác dụng làm tăng tính ngon miệng của thức ăn.

-

Cám gạo, bột sắn: cung cấp năng lượng.

-

Urê: nguồn đạm cung cấp phi prôtêin.

-

Vôi bột, xi măng: Vừa là chất kết dính vừa bổ sung khoáng.


-

Bột dây lang, dây lạc khô, bã mía: là chất độn cung cấp chất xơ.

-

Muối ăn, premix khoáng: cung cấp khoáng đa, vi lượng.

Bước 2: Trộn nguyên liệu
-

Trộn urê, muối ăn với rỉ mật tạo ra hỗn hợp 1.

-

Các nguyên liệu còn lại: cám gạo, bột sắn, vôi bột, xi măng, premix khoáng và chất độn trộn với
nhau tạo thành hỗn hợp 2.

-

Trộn đều hỗn hợp 1 và 2 tạo thành hỗn hợp hoàn chỉnh (đảm bảo dẻo mịn, nhiệt độ 30 – 35 oC,
thời gian trộn 15 - 20 phút), trộn xong ủ đống 30 - 45 phút.
22


-

Đóng bánh hỗn hợp bằng khuôn đóng gạch. Để tự khô khoảng 5 - 7 ngày mới sử dụng.

Bước 3: Bảo quản

Bảo quản nơi khô ráo, sạch sẽ.
-

Nếu đưa đi sử dụng ngay thì chỉ cần lót mỗi tảng bằng một miếng giấy.

-

Nếu gói bằng loại giấy vỏ bao xi măng thì có thể bảo quản được khoảng 6 tháng.

-

Nếu gói bằng ni lông thì có thể bảo quản được hơn một năm.

Bước 4: Sử dụng bánh dinh dưỡng cho động vật nhai lại
Bánh dinh dưỡng được để vào máng ăn cho động vật tự liếm, nên đặt trong máng gỗ buộc chặt
trên tường cho động vật tự liếm ăn.

Chú ý: Bánh dinh dưỡng chỉ dùng cho động vật nhai lại (trâu, bò, dê) không dùng cho động vật có
dạ dày đơn (lợn, ngựa, gia cầm).
Không hòa được bánh dinh dưỡng vào nước cho động vật ăn vì sẽ dẫn đến ngộ độc. Cho ăn đúng
liều lượng, đối với trâu, bò cho ăn từ 0,4 - 0,8 kg/con/ngày; dê cho ăn từ 0,05 - 0,1 kg/con/ngày.

4.4 Các phương pháp khác
Ngoài các phương pháp nêu trên, người ta còn có thể bổ sung urê trong khẩu phần cho động vật nhai
lại bằng các phương pháp khác như:
-

Ủ urê với canxi.
23



×