Tải bản đầy đủ (.docx) (2 trang)

Giới thiệu hội họa phong cách nhật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (36 KB, 2 trang )

Hội họa phong cách Nhật

Từ lâu, tranh Nhật Bản vẫn được công nhận là có khả năng gợi vẻ đẹp thiên nhiên
rất tinh tế, hoặc những bức tranh đạo thì cách thể hiện rất dễ cảm xúc lòng người.
Khách sành điệu tại các phòng tranh thấy ngay những nét đặc trưng ấy và rất hâm
mộ. Hoàn cảnh sáng tác tranh lại thường khó tìm được. Trong khi đó, nếu biết
chúng, ta có thể phân biệt được sắc thái của những bức tranh chưa rõ xuất xứ.
Tranh Nhật xuất hiện đầu tiên dưới sự bảo trợ của các tông phái Phật giáo và giới
quý tộc triều đình. Sau đó, các vị tướng quân lãnh đạo và giới thương nhân là
những nhà bảo trợ rất ham chuộng tranh. Họa sĩ đa số là chuyên nghiệp, dù Phật
giáo có khuyến khích vẽ tranh làm phương tiện định tâm. Đặc biệt thời kỳ Edo
(1615-1868), một số dân trí thức Nhật Bản bắt chước giới Nho gia Trung Hoa vẽ
tranh, xem đó là một trong những sinh hoạt không thể thiếu của tầng lớp thượng
lưu văn hóa cao.
Phật giáo là yếu tố xúc tác sớm nhất, quan trọng nhất đối với sự phát triển ngành
họa Nhật Bản. Bắt đầu từ thế kỷ VII, và nhiều thế kỷ sau, khi thăng khi trầm, một
số lớn kiểu tranh Phật giáo đã thịnh hành ở lục địa Á châu được người Nhật hấp thu
và đồng hóa. Phật giáo khi du nhập vào đất Nhật phân chia thành nhiều tông phái.
Mỗi tông phái đề cao một số khía cạnh nào đó trong hệ thống giáo lý tổng quát.
Cho nên sự khác biệt về quan điểm và pháp môn tu tập khiến nội dung và chức
năng của tranh cũng khác. Dù thuộc trường phái nào, với chỉ một bức tranh hay cả
bộ tranh, họa sĩ cũng cố gắng tạo một cảnh trí, hoặc gây những khoảnh khắc tác
động mạnh mẽ vào tâm người xem, khiến lòng tin họ được vững mạnh, hoặc tăng
trưởng thêm niềm tin sẵn có, và chuyển hóa cuộc sống thường ngày thành an lạc,
giải thoát.
Vào thế kỷ XIII, trong cuộc biến động xã hội rộng lớn lật đổ quyền cai trị của vương
triều Nhật Bản, các phong trào Phật giáo mới của giới bình dân không chấp nhận lối
tu Phật theo kiểu huyền bí và độc quyền đẳng cấp dưới sự bảo hộ của vương triều.
Họ chủ trương theo những đường lối trực tiếp, thẳng tắt và quân bình hơn để tiến
đến giác ngộ giải thoát. Tông phái lớn nhất của họ, tông Tịnh Độ, lấy tên theo một
cõi Phật huy hoàng, an lạc, là cõi tái sanh của những kẻ chỉ cần nhất tâm tu theo




niềm tin đơn giản nhưng chắc thật nhất.
Phật tử Tịnh độ hâm mộ những bức tranh vẽ các vị Bồ tát hiền hòa, đầy lòng từ và
dễ thân cận, thường hóa hiện vào đời, cứu nhân độ thế. Thể loại tranh “raigozu”
thường vẽ Đức Phật Di Đà, vị Phật giáo chủ của tông đồ phái Tịnh Độ, và chư Bồ tát
hiện xuống trần rước thần thức người mới chết. Loại tranh này treo ở nơi người hấp
hối dễ thấy, cho tâm được an ổn.
Vương triều Nhật Bản cũng đóng vai trò quan trọng trong việc quyết định nội dung
và chức năng của ngành hội họa, vì phần nhiều các thi hào cổ đại xuất thân từ
hoàng tộc. Thơ họ cho thấy các vấn đề của nhân loại và của tâm mỗi người phản
ánh nơi thiên nhiên. Giáo lý nhà Phật nói về tính vô thường, tạm bợ của vạn pháp
làm đậm nét thêm những bài học từ thiên nhiên của các thi hào ấy. Do đó, chủ đề
chính yếu của ngành hội họa Nhật Bản vẫn là các dáng vẻ của thiên nhiên trời đất
qua bốn mùa. Tranh thuật sự, kể chuyện, nói lên phong cách vương giả, những tập
tục lối sống của vua quan triều đình, cũng là nguồn đề tài phong phú khác. Thời kỳ
Edo, những thay đổi xã hội nâng cao quyền hạn của giới thương nhân cho phép họ
hấp thu khiếu thẩm mỹ và tập tục của giới quý tộc. Cho nên một thương nhân buôn
rượu sa kê giàu có đã đặt họa sĩ Ikeda Koson (1806-1866) vẽ bộ tranh đẹp miêu tả
những nghi lễ của hoàng tộc.
Tranh Nhật Bản tại các phòng trưng bày phần lớn được họa vừa có mục đích giáo
dục, vừa để thưởng lãm. Tuy nhiên, hai mục đích này thường không hẳn có ranh
giới rõ rệt. Tranh tại các phòng trưng bày được xếp loại theo chủ đề, có thể là cùng
giai đoạn lịch sử, hoặc cùng đề tài, hay đánh dấu một thời điểm nào đó trong quá
trình phát triển nét họa riêng của mỗi họa sĩ. Truy tìm bối cảnh sáng tác và lưu
hành của tất cả các bức tranh trong một nhà bảo tàng là công việc rất nản lòng,
nếu không muốn nói là không thể thực hiện nổi. Tuy nhiên, mỗi khi người ta có thể
tạo lập lại gốc tích, ý nghĩa của một bức tranh, ta càng có cơ hội thấy rõ được
những giao xen phức tạp giữa các vai trò xã hội và mỹ học của bức tranh ấy.




×