Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Tóm tắt luận văn thạc sĩ: Sự vận động của tư tưởng “Cư trần lạc đạo” trong văn chương Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (227.09 KB, 24 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Có thể nói, trong suốt chiều dài lịch sử, Phật giáo và văn hóa Phật giáo đã đồng
hành cùng dân tộc, trở thành một phần cốt yếu của văn hóa Việt Nam, tạo nên vẻ đẹp
và bản sắc dân tộc. Tìm hiểu giá trị đích thực của văn chương Phật giáo là việc làm
cần thiết cho nền văn hóa nước nhà, nhất là trong thời đại hội nhập.
Các sáng tác của dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử ngày càng được quan tâm thỏa
đáng từ giới nghiên cứu trong và ngoài nước cũng như bạn đọc gần xa. Đặc biệt là
hiện tượng Hoàng đế - Thiền sư - Thi sĩ Trần Nhân Tông.
Là một dòng Thiền dân tộc lấy chủ thuyết “Cư trần lạc đạo” làm tôn chỉ hoạt
động, Thiền Trúc Lâm đã có nhiều đóng góp đối với lịch sử và văn hóa dân tộc. Tìm
hiểu tư tưởng “Cư trần lạc đạo” không những giúp chúng ta bồi đắp niềm tự hào đối
với di sản văn hóa của cha anh đi trước để lại mà còn thể hiện niềm tri ân sâu sắc đối
với các giá trị truyền thống, đồng thời phát huy giá trị các di sản của tiền nhân trong
thời đại hội nhập với tinh thần “Ôn cố tri tân”.
Chính vì vậy, trong khuôn khổ công trình này, chúng tôi lựa chọn và triển khai
đề tài: “Sự vận động của tư tưởng “Cư trần lạc đạo” trong văn chương Thiền phái
Trúc Lâm Yên Tử”.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Những nghiên cứu về Phật học, Thiền học thời Trần
Phật giáo nói chung và Thiền học nói riêng có bề dày lịch sử nghiên cứu.
Thiền uyển tập anh ngữ lục, Tam tổ thực lục là những tác phẩm ghi chép tương
đối hệ thống các tông phái Thiền học và các vị Thiền sư nổi tiếng.
Việt Nam Phật giáo sử luận (Nguyễn Lang) đã dành 7 chương để giới thiệu về
Phật giáo đời Trần và Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử.
Lê Mạnh Thát, Nguyễn Tài Thư, Nguyễn Duy Hinh, Nguyễn Hùng Hậu
cũng đã có những công trình nghiên cứu quy mô về Phật giáo Việt Nam. Đặc biệt
là Lê Mạnh Thát.
Nhiều luận án nghiên cứu tư tưởng triết học của các nhân vật Thiền Trúc Lâm:
“Tư tưởng triết học của Thiền phái Trúc Lâm đời Trần” (1996) của Trương Văn
Chung, “Tư tưởng triết học của Tuệ Trung Thượng sĩ” của Nguyễn Đức Diện, “Tư



1


tưởng triết học của Trần Nhân Tông” (2011) của Bùi Huy Du. Những công trình trên
đã hệ thống hóa những quan niệm triết học của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử.
Ngoài ra, chúng ta cũng phải kể đến quá trình sưu tập, biên dịch và bình chú
các kinh sách Phật giáo như: Bát nhã, Viên giác, Hoa nghiêm, Pháp hoa,… của các
thế hệ học giả Phật tử Việt Nam.
2.2. Những nghiên cứu về thơ Thiền thời Lý - Trần và cảm hứng “Cư trần lạc đạo”
Những bộ khảo cứu, sưu tầm về văn học thời Lý - Trần đầu tiên phải kể tới
Tinh tuyển chư gia luật thi (Dương Đức Nhan), Trích diễm thi tập (Hoàng Đức
Lương). Tiếp đó là Khóa hư lục (Trần Thái Tông), Thượng sĩ ngữ lục (Tuệ Trung
Thượng sĩ), Thiền uyển tập anh ngữ lục (khuyết danh), Tam tổ thực lục,… Thơ văn
Lý - Trần (3 tập) do nhóm tác giả Viện Văn học thực hiện. Tinh tuyển văn học Việt
Nam, tập 3 do Nguyễn Đăng Na chủ biên.
Nghiên cứu về thơ văn Lý - Trần đã có một quá trình lâu dài với nhiều công
trình của Dương Quảng Hàm, Nguyễn Đổng Chi, Ngô Tất Tố. Gần đây, văn học Lý Trần đã được nhiều tác giả như Nguyễn Huệ Chi, Trần Thị Băng Thanh, Kiều Thu
Hoạch, Nguyễn Hữu Sơn, Đoàn Thị Thu Vân, Trần Nho Thìn, Nguyễn Phạm Hùng,
Nguyễn Công Lý,… nghiên cứu với những góc nhìn khác nhau.
Thơ Thiền thời Lý - Trần cũng trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều luận
văn, luận án. Đoàn Thị Thu Vân với đề tài “Khảo sát một số đặc trưng nghệ thuật
của thơ Thiền Việt Nam thế kỷ XI - thế kỷ XIV”, đi sâu khảo sát và tìm hiểu những đặc
sắc của thơ Thiền Việt Nam; Nguyễn Công Lý với đề tài “Văn học Phật giáo Lý Trần: diện mạo và đặc điểm, đã dành chương 4 (trong tổng số 4 chương) trình bày về
năm đặc điểm cơ bản nhất của văn học Phật giáo thời Lý - Trần.
Từ những năm cuối thế kỷ XX, trên các tạp chí khoa học chuyên ngành như
Tạp chí Văn học, Tạp chí văn hóa dân gian, Tạp chí nghiên cứu Phật học… có nhiều
bài viết nghiên cứu về thơ Thiền thời Lý - Trần.
Đầu của thế kỷ XXI, nhiều Hội thảo khoa học về Thiền phái Trúc Lâm đã được
tổ chức : “Tuệ Trung Thượng sĩ với Thiền tông Việt Nam” (2000), “Đức vua - Phật

hoàng Trần Nhân Tông, cuộc đời và sự nghiệp” (2008), “Bảo tồn và phát huy di sản
Đệ tam tổ Thiền phái Trúc Lâm Huyền Quang và Lễ hội Côn Sơn” (2009), “Phật
giáo Trúc Lâm Yên Tử và công tác quy hoạch, bảo tồn và phát huy những giá trị của
khu di tích Yên Tử hiện nay”.
2


Tư tưởng “Cư trần lạc đạo” cũng được đề cập trong các luận án tiến sĩ triết học
lấy đề tài tư tưởng triết học của Trần Nhân Tông (như đã nói ở trên) và qua một số
bài viết tản mạn của Nguyễn Kim Sơn, Hòa thượng Thích Phước Đạt,…
Như vậy, Thiền học nói chung và thơ Thiền Lý - Trần nói riêng đã được
nghiên cứu tương đối toàn diện. Tuy nhiên, tính cho đến nay, chưa có một chuyên
luận hay một công trình khoa học nào thực sự tập trung tìm hiểu quá trình vận động
từ khởi nguồn đến đỉnh cao và thế tục hóa của tư tưởng “Cư trần lạc đạo”.
3. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu: Những sáng tác của Trần Nhân Tông, Huyền Quang, Tuệ
Trung Thượng sĩ, Trần Thái Tông và Thường Chiếu.
Đối tượng nghiên cứu: Tư tưởng “Cư trần lạc đạo”, những biểu hiện cùng quá
trình vận động từ cội nguồn đến khi phát triển tới đỉnh cao.
4. Mục đích nghiên cứu
Trước hết, nhận diện, lý giải và đánh giá cội nguồn hình thành, những biểu
hiện cùng quá trình vận động và những đóng góp của tư tưởng “Cư trần lạc đạo” đối
với lịch sử và văn hóa dân tộc.
Từ đó, rút ra những bài học thực tiễn trong công tác bảo tồn, phát huy các giá
trị văn hóa truyền thống trong thời đại hội nhập.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu: liên ngành; loại hình học; so
sánh văn học; phân tích, tổng hợp.
6. Cấu trúc luận văn
Chương 1: Cơ sở hình thành và phát triển của tư tưởng “Cư trần lạc đạo”.

Chương 2: Tư tưởng “Cư trần lạc đạo” – Từ Thường Chiếu, Trần Thái Tông
qua Tuệ Trung Thượng sĩ đến Trần Nhân Tông và Huyền Quang.
Chương 3: Những đóng góp của tư tưởng “Cư trần lạc đạo”.
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1:
CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
CỦA TƯ TƯỞNG “CƯ TRẦN LẠC ĐẠO”

3


Theo kết quả nghiên cứu của Nguyễn Kim Sơn, tinh thần nhập thế của Thiền
phái Trúc Lâm Yên Tử cần được nhìn nhận từ hai phương diện, một là những căn cội
triết học và hai là cơ sở thực tiễn, những lý do thực tiễn. [46; tr. 41]. Người viết căn
cứ vào đó mà đi tìm cơ sở hình thành và phát triển của tư tưởng “Cư trần lạc đạo”.
1.1. Sự dung thông Tam giáo – Cơ sở triết học của tư tưởng “Cư trần lạc đạo”
Xét về cơ cấu, đó là sự hội nhập triết học và phương pháp tu dưỡng, cảnh giới
tinh thần của cả Tam giáo, lấy Thiền làm cơ sở để tiến hành hội nhập.
1.1.1. Phật tính luận – trục tâm của tư tưởng
Thiền tông quan niệm: Tất thảy mọi người đều có Phật tính. Bồ Đề Đạt Ma, Tổ
sư của Thiền tông đúc kết phương pháp chứng ngộ: “bất lập văn tự, trực chỉ nhân
tâm, kiến tính thành Phật” (không lập văn tự, hướng thẳng nhân tâm, thấy tính thành
Phật).
Trong Pháp bảo đàn kinh, Huệ Năng đưa ra mệnh đề rất quan trọng: “tức tâm
tức Phật” (Tâm đấy chính là Phật đấy). Phật tính cũng là Nhân tính, do đó tri tính,
minh tâm kiến tính (thấy tính, biết tính, làm sáng lòng để thấy tính) chính là con
đường giải thoát, con đường giác ngộ thành Phật.
Từ quan niệm về Phật tính như trên, Thiền Huệ Năng đã mở ra một đường
hướng tu hành, đường hướng giác ngộ cho số đông. Ai có thể quay về với bản tâm tự
tại thanh tĩnh của mình, có thể diệt vọng niệm, loại thi phi… là có thể kiến tính thành

Phật. Và cũng do nhân tính và Phật tính hợp làm một, nên Phật tính cũng không tách
rời nhận thức cảm tính bình thường.
Phật tính luận và phương pháp tu Thiền theo cách minh tâm kiến tính, đốn ngộ
thành Phật là cơ sở triết học quan trọng nhất của tư tưởng “Cư trần lạc đạo.
1.1.2. Triết học nhân sinh Đạo gia – một cách “nói hộ” tư tưởng Thiền
Triết học nhân sinh của Đạo gia có mặt một cách khá đậm nét và là một cách
“nói hộ” cho nhiều tư tưởng Thiền.
“Hòa kỳ quang, đồng kỳ trần” [35; tr. 15] là một đặc sắc tư tưởng của Lão Tử.
Lão Tử nêu quan điểm “hòa quang đồng trần” để giải thích về lẽ Huyền đồng. Người
đời sau dùng “hòa quang đồng trần” để chỉ triết lý sống nổi chìm cùng thế tục, tùy tục
tùy thời hành xử, không để lộ ra một sự khác biệt hay đặc biệt nào.
Các thiên Tiêu dao du và Tề vật luận trong sách Trang Tử tập trung thảo luận
về vấn đề căn cội khiến con người không mất tự do. Con người sở dĩ bị trói buộc tinh
4


thần chính do thái độ phân biệt tốt xấu, thiện ác, giàu nghèo, tâm vật… tức là: Đãi.
Muốn đạt tới tự do tiêu dao tuyệt đối, người ta cần loại bỏ chấp đãi, đạt tới vô sở đãi.
Chính triết học nhân sinh Lão - Trang đã góp phần tạo nên căn cơ triết học cho
tư tưởng “phàm thánh bất dị”, “nhậm vận tùy duyên”, “cư trần lạc đạo” của cả dòng
Thiền đời Trần nói chung và Thiền học của Trần Nhân Tông nói riêng.
1.1.3. Tư tưởng “lạc đạo” của Nho gia với phương pháp tu dưỡng của Thiền tông
Phật tính luận theo kiến giải của Huệ Năng là sự dung hợp quan niệm bản thể
Phật tính với Nhân tính, Tâm tính luận của Nho gia.
Nho gia là học thuyết nhập thế. Tâm tính học của Nho gia chủ trương tu tâm
dưỡng tính ngay trong các quan hệ nhân tình thế tục: cha con, anh em, chồng vợ.
Phương pháp tu dưỡng của Nho gia là hướng vào nội tâm, tự phản tỉnh, tự điều tiết.
Quan niệm về Nhân tính là cơ sở triết học của thuyết tu dưỡng. Tu dưỡng theo
Nho gia, là nhằm đạt tới sự hoàn thiện của nhân cách, trong tu dưỡng có lạc thú của
sự rèn luyện. Lạc thú của Nho gia là lạc thú trong chính sự tu dưỡng, trong việc xử lý

các quan hệ trong cõi hiện thế, cõi đời thực. Sự siêu việt của Nho gia chính là một
loại siêu việt đặc biệt - siêu việt nội tại, siêu việt trong chính tâm tính.
Nho gia đã góp phần đáng kể vào việc hình thành quan niệm sự giác ngộ
không tách rời con người.
1.2. Tinh thần thời đại – Cơ sở thực tiễn của tư tưởng “Cư trần lạc đạo”
1.2.1. Thời đại anh hùng với “hào khí Đông A” bất diệt
Trải qua hơn 200 năm xây dựng và phát triển dưới triều Lý (1009 - 1225), đến
triều Trần, nước Đại Việt đã trở thành một quốc gia cường thịnh.
Giai cấp phong kiến thời Trần là một lực lượng tiến bộ, trở thành đại biểu của
nhân dân. Với chủ trương “thân dân”, “trọng dân”, nhà Trần quy tụ được sức mạnh
toàn dân tộc trong kháng chiến chống ngoại xâm cũng như trong xây dựng và phát
triển đất nước. Tiềm năng của dân tộc được hồi sinh mạnh mẽ, nội lực dân tộc được
phát huy hết chiều kích tạo nên những thành tựu nổi bật về nhiều phương diện: về
quân sự, ba lần đánh tan quân Nguyên Mông để “non sông nghìn thuở vững âu
vàng”; về chính trị, tạo ra vị thế bình đẳng với Trung Hoa, khiến các nước lân bang
phải vị nể; về văn hóa, tạo dựng được một nền văn hóa phong phú, giàu bản sắc với
tầm vóc khiến cả người Trung Hoa cũng phải ngợi ca. Văn học thời Trần cũng có

5


những bước phát triển mới so với văn học thời Lý, đưa thơ từ chỗ trừu tượng, cao
siêu đến chỗ gần gũi, bình dị và giàu ý vị trữ tình.
“Hào khí Đông A” cùng với khí thế hồ hởi của thời đại đã góp phần tạo nên
hình ảnh những con người mang vẻ đẹp đặc biệt. Hình ảnh những con người ấy đã in
đậm dấu ấn trong văn học, làm cho văn học thời Trần lấp lánh tinh thần nhân văn,
độc đáo và hấp dẫn.
1.2.2. Thời đại Phật giáo thịnh trị, ảnh hưởng sâu sắc đến toàn bộ đời sống tinh
thần xã hội
Thời Trần là một giai đoạn mà đạo Phật thật sự hoà nhập vào lòng dân tộc, từ

hình thức đến nội dung.
Bấy giờ, chùa chiền được dựng lên ở khắp nơi, từ kinh đô Thăng Long cho đến
mọi miền của đất nước; số người xuất gia tu hành rất đông. Trong số đó có cả những
người trong hoàng tộc, thậm chí là hoàng đế. Ba vị vua đầu tiên của vương triều đều
là những Thiền giả đã chứng ngộ. Các vua kế tiếp đều là Phật tử nhiệt thành, hết lòng
bảo trợ Phật giáo. Triều đình có viện Tả Nhai là nơi nhà vua cùng với các bậc cao
tăng bàn luận về Phật học.
Phật giáo trong dân chúng phát triển, dân tự động đóng góp công của xây dựng
chùa làng, cúng ruộng đất nuôi tăng. Đạo Phật có ảnh hưởng đến mọi lĩnh vực của
đời sống, văn hóa, tư tưởng, hòa đồng với hầu hết các hình thức tín ngưỡng, tập tục
sơ khai. Cũng không biết tự bao giờ, những ngôi chùa đã mọc lên như một bộ phận
hữu cơ, gắn bó thân thiết với cộng đồng xã hội: “Đất vua, chùa làng, cảnh Bụt”.
Ưu điểm lớn nhất của Phật giáo là tinh thần khoan dung và tự do. Chính nếp
sống và tư duy theo tinh thần khoan dung Phật giáo đã tạo nên một xã hội khai
phóng, khiến cho mọi tôn giáo, mọi hệ tư tưởng được cùng nhau phát triển, phát huy
tối đa tinh hoa thời đại, tạo cho xã hội một đời sống tinh thần phong phú.
Sự ra đời của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử mang ý nghĩa rất lớn về tính tự
chủ của dân tộc ta từ kinh tế, chính trị, văn hóa mà đến cả tôn giáo cũng không bị lệ
thuộc vào các dòng Thiền trước ảnh hưởng từ Trung Hoa. Từ mô hình tổ chức đến
nội dung tu tập, hành trì thể hiện bản sắc dân tộc Đại Việt lúc bấy giờ.
Đặc sắc của dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử là tính nhập thế tích cực. Đạo
không tách rời đời và đời cũng không thiếu vắng đạo. Có thể nói rằng các vị vua, các
Thiền sư thời Trần đã sử dụng đúng tiềm năng của đạo Phật, khiến Phật giáo trở
6


thành một thế lực hùng mạnh yểm trợ cho công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước
của triều đình.
Tiểu kết: Khởi nguyên từ sự dung hợp những triết lý của Nho - Phật - Lão trong buổi
“Tam giáo đồng nguyên” (Phật tính luận của Thiền học, tư tưởng “Hòa quang đồng trần”,

“Vô sở đãi”, “Tùy duyên, tùy tục” của Lão - Trang, triết lý “Lạc đạo” của Nho gia), tư
tưởng “Cư trần lạc đạo” được ươm mầm từ chính những đòi hỏi cấp bách của lịch sử dân
tộc. Nhìn nhận tư tưởng ấy có gốc rễ từ sự dung hòa Nho - Phật - Đạo trên cơ sở tiếp biến
văn hóa, đồng thời đáp ứng nhu cầu cấp bách của thực tiễn lịch sử và phù hợp với thực tế
Đại Việt, là một cách nhìn khách quan mang tinh thần khoa học.
CHƯƠNG 2:
TƯ TƯỞNG “CƯ TRẦN LẠC ĐẠO” – TỪ THƯỜNG CHIẾU,
TRẦN THÁI TÔNG QUA TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ
ĐẾN TRẦN NHÂN TÔNG VÀ HUYỀN QUANG
Theo Đoàn Thị Thu Vân, tư tưởng “Cư trần lạc đạo” là tôn chỉ của Sơ tổ và là
tư tưởng nhất quán của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, được thể hiện qua bốn điểm: 1
- Nên sống hòa mình với đời, không câu chấp; 2 - Hành động tùy duyên, tức là làm
việc cần làm, đúng lúc phải làm và không trái quy luật tự nhiên; 3 - Tự tin vào mình,
trở về khơi dậy tiềm lực của chính mình, không tìm cầu tha lực; 4 - Không nô lệ vào
bất cứ cái gì, dù Thiền hay Phật. Để được như vậy, các nhà tư tưởng Thiền phái đã
có cả quá trình hoạt động và đúc kết từ thực tiễn trong tiến trình hình thành tư tưởng
“Cư trần lạc đạo” đi từ “tùy tục” của Thường Chiếu, đến “biện tâm” của Trần Thái
Tông, chuyển qua “hòa quang đồng trần” của Tuệ Trung Thượng sĩ, “tùy duyên lạc
đạo” của Trần Nhân Tông và sau cùng là cảm hứng thế tục của Huyền Quang.
2.1. Chủ trương “tùy tục” của Thường Chiếu và tư tưởng “biện tâm” của Trần
Thái Tông – những nền móng đầu tiên
2.1.1. Chủ trương “tùy tục” của Thường Chiếu - dấu gạch nối giữa ba tông phái
Thiền đời Lý với dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử
Thường Chiếu (? - 1203), là một Thiền sư đời Lý, thuộc thế hệ thứ 12 của
Thiền phái Vô Ngôn Thông. Ngoài công xiển dương và truyền dạy giáo lý Phật
pháp cho tăng chúng, Thiền sư còn có công thống nhất ba Thiền phái lúc bấy giờ.

7



Thường Chiếu đã truyền dạy cho học trò của mình nguyên tắc “tùy tục”, nghĩa
là làm giống cuộc đời. Tuy nhiên, ông chủ yếu nhấn mạnh chữ “tùy” với ý nghĩa “tùy
tục” về lẽ sống chết chứ chưa hẳn là sự “tùy nghi”, “tùy duyên. Chính vì không phân
biệt với cuộc đời như thế mà Thiền sư có thể ung dung đón nhận tất cả, kể cả cái chết
một cách bình thản. Bài kệ ông đọc trước lúc lâm chung biểu lộ phong thái của người
đã giải thoát, tìm thấy rằng thực hữu tràn đầy kia không nơi đâu và không lúc nào
không phải là quê hương mình.
Chủ trương “tùy tục” của Thường Chiếu đã gợi mở đường hướng cho sự ra đời
của Thiền phái duy nhất đời Trần. Tư tưởng “tùy tục” của ông, về sau được Tuệ
Trung Thượng sĩ phát triển, trở thành nếp sống đạo “hòa quang đồng trần” mang cốt
cách và bản lĩnh Thiền tông Đại Việt.
2.1.2. Trần Thái Tông, người đặt nền móng tư tưởng cho Thiền phái Trúc Lâm
Yên Tử với triết lý “biện tâm”
Thái Tông Hoàng đế, “họ Trần, tên húy là Cảnh,… khoan nhân đại độ, có
lượng đế vương, cho nên có thể sáng nghiệp truyền dòng, lập dựng kỉ cương chế độ
nhà Trần thực to lớn vậy” [36; tr 37].
Muốn được giác ngộ và giải thoát, Trần Thái Tông khuyên mọi người, không
kể tăng hay tục, hãy “biện tâm”. Theo Kinh Pháp cú, “biện tâm” là uốn nắn cho tâm
thẳng, như thợ làm tên uốn nắn cho tên thẳng, là “điều phục tâm”, “phòng hộ tâm”,
“an trú tâm”, khiến tâm không còn tham lam, sân hận, siêu việt lên trên thiện ác.
Trong Phổ khuyến phát Bồ đề tâm, Trần Thái Tông cho rằng: sự giác ngộ, trí
tuệ Bát Nhã có đầy đủ trong mọi người, chẳng cần tìm đâu xa, tức phải “biện tâm” thì
sẽ thấy được “tính”, giác ngộ thành Phật. Do đó, cầu Phật, cầu chân lý không thể
hướng ngoại mà phải hướng nội. Trong bài luận về niệm Phật, ông cho rằng người là
Phật, nhưng người lại không tự biết, cho nên gọi là “Phật sống”. Trong Tọa Thiền
luận, Thái Tông cho rằng những ai đã lĩnh hội được Phật tính nơi mình rồi thì người
đó không còn tạo nghiệp nữa.
Niệm Phật luận trình bày rõ công phu “biện tâm”. Theo ông, mọi niệm thiện, ác
cũng đều là tạo nghiệp, không phải là giải thoát, chỉ khi đạt tới cảnh “như như bất
động” mới là “chân giải thoát”. “Bất động”, nên hiểu là không động niệm, không thủ

chấp, không vướng mắc. Đó là tâm thức sáng suốt (Quốc sư Phù Vân nói với Trần
Thái Tông khi vua lên núi Yên Tử: “Lòng lặng mà hiểu, đó chính là chân Phật”). Khi
8


trả lời câu hỏi đạo của nhà sư Tống Đức Thành, vua nói “tâm vô” chưa phải là giác
ngộ. Ý vua nói “lặng”, “vô niệm” thôi thì chưa đủ, mà trí tuệ phải chiếu sáng thì mới
giác ngộ được.
Thực chất của “kiến tính”, đó là sự trở về với “quê hương” bản tâm nguyên sơ,
tĩnh lặng mà thuần khiết của mỗi chúng sinh. Và giải thoát theo triết lý Thiền ở đây
chẳng khác gì hơn là sự tỉnh thức tuyệt đối, cao độ, vượt lên trên mọi chấp trước và
lầm kiến, để sống sinh động và trọn vẹn trong cái hữu hạn của cuộc đời và cái vô hạn
của bản nguyên tuyệt đối thanh tịnh (Tứ sơn kệ trong Khoá hư lục).
Triết lý “biện tâm” của Trần Thái Tông đã đặt nền móng tư tưởng cho Thiền
phái Trúc Lâm Yên Tử về sau. Phật giáo “biện tâm” là Phật giáo của mọi người. Tư
tưởng đó làm cho đạo Phật mặc dù có giáo lý cao siêu, thâm diệu nhưng vẫn có nền
tảng quần chúng rộng rãi.
2.2. Bản lĩnh “hòa quang đồng trần” trong sáng tác của Tuệ Trung Thượng sĩ
Tuệ Trung Thượng sĩ Trần Tung (1230 - 1291) là một trong những nhà Thiền
học xuất sắc của nước ta trong triều đại nhà Trần. Tuệ Trung Thượng sĩ tu Phật
nhưng không khép mình vào “tam quy, ngũ giới”. Ông là nhà Thiền học thông tuệ,
sắc sảo trong suy nghĩ và hành động.
2.2.1. Tư tưởng “tùy duyên”
Kế tục lối sống “tùy tục” của Thường Chiếu và các vị Thiền sư đi trước, Tuệ
Trung Thượng sĩ đã sáng tạo nên một triết lý “sống đời vui đạo” vô cùng độc đáo. Đó
chính là thái độ sống, lối sống “tùy duyên” của Thiền tông.
Thượng sĩ quan niệm sống ở đời là phải biết “tùy nghi”, không nên khư khư
chấp vào quy tắc cứng nhắc. Lĩnh hội được cái tinh túy của Thiền, Tuệ Trung đã tạo
nên một cách sống đẹp hòa hợp với quy luật tự nhiên.
Trong lòng bình thản, không vướng bận thị phi thì dù ở cảnh ngộ nào, nếu biết

sống “tùy duyên” con người cũng sẽ an nhiên, tự tại (Tự tại).
Trong quan niệm của Thiền gia lỗi lạc này, Thiền chính là ở chỗ hành xử hợp
thời, Thiền là ở tâm. Thiền tông không chỉ là một tôn giáo mà còn là một cách sống, một
đạo sống đẹp giúp con người đạt đến hạnh phúc đích thực ngay trong cuộc sống này.
Song cũng cần lưu ý rằng: đề cao lối sống “tùy duyên” không đồng nghĩa với
việc Thượng sĩ khuyến khích con người sống phóng túng buông thả. Qua tư tưởng

9


“tùy duyên”, Tuệ Trung đã xây dựng một quan niệm sống tích cực, lạc quan, hợp
thời.
2.2.2. Tinh thần “phá chấp” triệt để
Thượng sĩ chú trọng đề cao con đường “đốn ngộ” hơn là viện vào giáo lý, khái
niệm để đạt đạo. Người muốn chỉ rõ kinh điển chỉ là “phương tiện” dẫn con người
đến với đạo, không phải là cái đích để con người bám víu vào đó.
Theo Tuệ Trung, sở dĩ con người thường mê lầm, bám víu vào khái niệm là do
họ có cái nhìn “nhị kiến” (cách nhận thức lưỡng phân). Thượng sĩ cực lực đả kích cái
nhìn “nhị kiến” phân chia thế giới thành hai cực rạch ròi. Bằng cách nói riêng của
mình, Thượng sĩ mang đến cho người có "thượng căn", "thượng trí" cơ hội giác ngộ
đột ngột, không cần qua nhiều năm tham khảo.
Với Tuệ Trung, không thể phân biệt phàm với thánh, Phật với chúng sinh, "có"
và "không", "phiền não" với Bồ đề, "chân như" và "vọng nghiệp",… Đặc biệt, vấn đề
mà con người lầm lạc nhiều nhất là đem đối lập sinh với tử cũng bị Tuệ Trung phê
phán mạnh mẽ. Thái độ khôn ngoan nhất để thoát khỏi sự mê lầm là không bắt đuổi đối
tượng ngoài tự thân.
Phủ định cái nhìn “nhị kiến”, Tuệ Trung không rơi vào sự phủ định hư vô chủ
nghĩa. Ngược lại, nhờ nó ông trút bỏ được mọi sự ràng buộc trong nếp nghĩ cũng như
trong nếp sống. Ông không buộc mình vào cực này hay cực kia, lại ăn thịt uống rượu
như người trần tục. Tinh thần phá chấp triệt để của Thiền tông đã được Thượng sĩ thể

hiện trọn vẹn và sinh động.
2.2.3. Tinh thần tự tin vào bản thân
Trên nền tảng tư tưởng của các bậc tiền bối, cái mới của Tuệ Trung là triệt để
nhấn mạnh kêu gọi con người từ bỏ sự tìm cầu bên ngoài để trở về với chính mình,
lắng nghe sự diệu kì của “Phật tính” trong chính ta. Thượng sĩ đã nhiều lần khẳng
định mạnh mẽ: Phật và chúng sinh không khác nhau.
Ông đề xuất con người hãy quay về tìm lấy trong mình tinh thần trẻ thơ còn
hồn nhiên chân chất, còn nguyên vẹn Phật tính, chưa bị sắc tướng làm cho sai lạc.
Từ chỗ nhìn nhận đúng tầm quan trọng của cái “Tâm”, Thượng sĩ đã truyền
cho con người sự tự tin mạnh mẽ. Theo ông khi con người đạt đến cái “Tâm” vi diệu
thì chẳng cần niệm Phật hay tu Thiền nữa.

10


Trên cơ sở phát triển chủ trương “tùy tục” của Thường Chiếu, tư tưởng “hòa
quang đồng trần” ở Tuệ Trung Thượng sĩ đã “khai tâm” cho Trần Nhân Tông, để vị
vua Đại Việt khi ấy tổng kết thành chủ thuyết “Cư trần lạc đạo”, làm nền tảng tư
tưởng và tôn chỉ hoạt động cho Thiền phái Trúc Lâm.
2.3. Tư tưởng “tùy duyên lạc đạo” trong thơ văn của Sơ Tổ Trần Nhân Tông –
người lập thuyết cho Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử
Trần Nhân Tông là vị vua anh minh, nhà lãnh đạo kinh luân, nhà ngoại giao tài
ba, Thiền sư lỗi lạc, nhà văn hóa uyên áo và nhà thơ xuất sắc của dân tộc. Ở bình diện
nào, người ta cũng phát hiện những điều thú vị, kỳ lạ ở danh nhân kiệt xuất này.
“Cư trần lạc đạo” - sống trong cõi trần vui với đạo - thực chất là một tuyên
ngôn hợp nhất triết lý căn bản của Thiền phái Trúc Lâm tạo nên một đường lối sống
đạo hết sức đặc sắc, dung hòa lý tưởng và hiện thực.
2.3.1. “Cư trần lạc đạo” – minh triết siêu việt thế tục
“Cư trần” - sống trong cõi đời, Đức vua - Phật hoàng Trần Nhân Tông đã thừa
nhận sự tồn tại của huyễn thân. Cõi trần là một chặng đường trong luân hồi, nhưng

chính là giai đoạn để giác ngộ chân lý. Phật hoàng lấy hiện tại, khi con người mắc lại
ở cõi trần, làm căn bản để giải quyết mối tương quan cõi đời - con người - đạo.
“Lạc đạo” - vui với đạo, là một tâm thế hành đạo. “Lạc” ở đây là Niết bàn tại
thế, là niềm vui, hạnh phúc chân thật, xuất phát từ nội tâm, từ sự trực ngộ được thể
tính thanh tịnh của tâm.
Yếu chỉ “Cư trần lạc đạo” muốn nói rằng: ngay giữa cõi đời náo nhiệt vẫn có
thể hưởng được cái thú thanh tao của Thiền. Lạc thú của Thiền là lạc thú giải thoát, là
cảnh giới tâm lạc, nhưng tâm lạc giữa thực tại, giữa cuộc đời.
“Cư trần lạc đạo” là minh triết siêu việt thế tục, là một phương châm sống, là
khí phách siêu thoát, phóng dật của bậc trượng phu. Nhờ hiểu bản chất cuộc đời mà
không bị thị phi, danh lợi của đời chi phối, đưa đẩy. Đồng thời, cũng nhờ thật sự hiểu
đạo và đời thì mới tự tại sống trong bụi bặm trần ai mà vẫn ung dung giữ niềm vui
cao quý, trong sáng, lâu bền, chứ không vui cái vui tạm bợ, hư giả của cuộc đời.
Thi phẩm Thiên trường vãn vọng là sự hoà điệu, giao duyên giữa thơ và Thiền.
Tất cả vẻ đẹp của ngoại giới đều có sự tương thông với tâm Thiền nên thấm đẫm
Thiền vị. Đó là tâm thức Thiền của Điều Ngự Trần Nhân Tông. Thiền phái Trúc Lâm
không hướng con người vào một cõi tồn tại khác sau cái chết mà khuyên bảo con
11


người hãy chấp nhận hiện thực như nó đang tồn tại. Vấn đề là cần thay đổi thái độ với
chính hiện thực ấy, thực hiện xây dựng một Tịnh thổ ngay trong thực tại, nghĩa là “ở
đời mà vui đạo”.
2.3.2. “Tùy duyên bất biến” – chìa khóa mở cửa cuộc sống an lạc
“Tùy duyên bất biến” nghĩa là: hình thức tướng trạng thay đổi tùy theo ngoại
duyên, nhưng bản chất thì không bao giờ thay đổi.
Trong mối quan hệ giữa “tùy duyên” và “bất biến”, “bất biến” là gốc. Mất phần
“bất biến” là mất lập trường của đệ tử Phật. Tu hành phải đạt được “bất biến”, nhưng
từ “bất biến” chúng ta “ứng vạn biến”, tức “tùy duyên”.
“Tùy duyên bất biến” nghĩa là luôn giữ gìn bản sắc, tinh hoa của Chính pháp

nhưng không cứng nhắc, giáo điều để rồi tự đánh mất sự linh hoạt.
Bài Xuân vãn thể hiện lạc thú với tâm bản thể siêu việt ngay giữa cõi trần khi
trực ngộ quy luật tự nhiên. Con người ấy thời tuổi trẻ lầm tưởng thế gian là vĩnh cửu
nên lòng xao xuyến mừng vui khi xuân về hoa nở, xót xa nuối tiếc khi xuân đi hoa
tàn, giờ đây hiểu được lẽ thật của cuộc đời nên có thể an nhiên nhìn sự vật vần xoay.
Trong hợp thể linh động “tùy duyên bất biến”, “tùy duyên” và “bất biến” gắn
bó hữu cơ, xuyên thấm vào nhau không thể tách rời. Theo đó, con người cần nắm
được cái cốt tủy, tinh yếu Thiền học, nhưng vận dụng trong thực tiễn phải linh hoạt,
tùy theo ngoại duyên.
2.3.3. “Gia trung hữu bảo” – nguyên tắc “không - truy - tầm”
Kinh Pháp hoa nói rằng: trong chiếc túi da ô uế có viên minh châu, hay trong
cái thân tứ đại ngũ uẩn có viên ngọc quý. Nếu tìm hay sử dụng được nó, chúng ta sẽ
thành Phật, thành hiền thánh.
Tiếp thu và kế thừa quan niệm của người thầy Tuệ Trung Thượng sĩ, Trần
Nhân Tông cho rằng Bụt ở trong bản thân mình, không phải tìm đâu khác bên ngoài.
Nghĩa là “gốc”, “bản” ở chính trong tâm ta. Chính vì đánh mất gốc, mất của báu nên
mới phải tìm Phật mà không biết Phật là tịnh độ, là lòng trong sạch dẫn đến mải mê
đi tìm ở ngoài mình. Thế nên, mọi sự tìm kiếm ông Phật từ bên ngoài sẽ là nỗ lực dã
tràng xe cát, là việc truy tìm lông rùa sừng thỏ.
Ý hướng tư tưởng tự mình trở về thực hiện lấy “tự tính giác ngộ” bằng phương
pháp không đối tượng hóa “tự tính giác ngộ” ấy để chạy theo đuổi bắt của Phật hoàng

12


nước Việt, với Nguyễn Lang chính là nguyên tắc không - truy - tầm trong Thiền học đời
Trần.
Trần Nhân Tông còn dùng khái niệm “tính sáng”. Theo một nghĩa nào đó,
“tính sáng” cũng chính là Phật. Nếu giữ được tính sáng trong lòng thì dù ở đâu cũng
có thể tu hành được, nhân duyên dẫu có biến đổi thế nào cũng không còn lo ngại.

Không phải tìm chân lý và sự giải thoát từ thế giới ngoại tại, mà tìm sự siêu việt từ
nội tại (Sơn phòng mạn hứng I).
Yếu chỉ “phản quan tự kỷ” mà Tuệ Trung truyền cho Trần Nhân Tông đã được
hoàng đế - Thiền sư đúc kết trở thành chân lý cho những ai muốn cầu Phật giữa đời.
2.3.4. “Đối cảnh vô tâm” – con đường ngộ Đạo
“Đối cảnh vô tâm” có nghĩa là khi lục căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) tiếp
xúc với lục trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) mà tâm không khởi tham, sân, si,
ưu, bi, khổ, não. Nói cách khác, “vô tâm đối cảnh”, tức là trước mọi biến dịch bên
ngoài, tâm hoàn toàn an nhiên, dứt trừ mọi vọng niệm để “kiến tính thành Phật”.
Trần Nhân Tông ý thức được tính chất vô thường của thời gian trần thế, ý thức
được sự hữu hạn của đời người là để chấp nhận quy luật và vượt lên trên nó, đạt đến
cảnh giới cao nhất của sự giác ngộ (Xuân vãn).
Bài Xuân cảnh cũng thể hiện tinh thần “đối cảnh kiến chân như”. Nếu tâm
thanh tĩnh thinh không thì chân thể của tồn tại, thế giới bản thể hiện ra trước mắt.
Không cần đi đâu xa nhưng giữa thực tại của thế giới cảm tính thanh tĩnh mà cảm
nhận về thế giới bản thể.
Cảm giác bình thản của tâm hồn người khi đã hiểu lẽ “sắc không” một lần nữa
được Trần Nhân Tông diễn tả trong bài thơ Sơn phòng mạn hứng II. Cái tâm được
nhắc đến ở đây là “tâm không vọng động”, cái tâm đã loại bỏ thị phi, họa phúc; trở
nên “vô đoan”, “vô cầu”, “vô ngại” và không còn bị thế giới ngoại vật chi phối.
Những triết lý huyền vi của các bậc tiền bối được Trần Nhân Tông tiếp thu một
cách sáng tạo để phù hợp với văn hóa - tín ngưỡng dân gian Đại Việt với nhu cầu thế tục
hóa Thiền. Triết lý Trần Nhân Tông đã sáp hợp được một cách tài tình việc đề cao, nâng
tầm cho cái tâm con người trong việc làm chủ thể xác, quán xuyến ngoại giới một cách
siêu nghiệm của Thiền học với triết lý sống giản dị, hướng thiện của dân tộc. Đây có lẽ
là đóng góp quan trọng nhất của Trần Nhân Tông vào triết lý nhân sinh của người Việt.

13



2.4. Cảm hứng thế tục trong thơ ca Thiền sư – thi sĩ Huyền Quang
Huyền Quang (1254 - 1334), tên thật là Lý Đạo Tái. Ông là vị tổ thứ ba
dòng Thiền Trúc Lâm. Có thể nhận định ngắn gọn về Huyền Quang như sau: một đạo
nghiệp lừng lẫy, một thi nghiệp tài hoa và trang đời đầy huyền thoại.
Tư tưởng “Cư trần lạc đạo” đến Huyền Quang, có thể nói là đã hoàn thành quá
trình thế tục hóa. Những vần thơ tư tưởng của ông, vì thế vẫn là thơ Thiền, nhưng thấm
đậm những xúc cảm nhân sinh của một con người trần thế.
2.4.1. Tâm hồn thi sĩ giàu cảm xúc trước thiên nhiên
2.4.1.1. Cảm thức trước vẻ đẹp thiên nhiên
Trong mấy chục năm xuất gia đầu Phật, Huyền Quang đều dành phần lớn thời
gian tu hành tại chùa Vân Yên trên non cao Yên Tử. Đỉnh Vân Yên, núi Yên Tử, với
Huyền Quang chính là biểu tượng cho nơi an trú tâm linh của mỗi người. Vì thế
“Buông niềm trần tục / Náu tới Vân Yên” là một cách để Thiền sư ẩn mình vào trong
thiên nhiên bao dung, nơi không còn khởi lên vọng động của tâm. Khi ấy cõi tâm của
Thiền sư cũng hồn nhiên trống rỗng như am vắng trên non, như mây khói phiêu du
đầu núi.
Nếu như không gian non cao Yên Tử là cảm thức về cõi an nhiên và tịch liêu
của tâm Thiền thì không gian trời nước mênh mang là cảm thức về thú giang hồ tiêu
dao. Trên nền không gian ấy, nhà thơ lên đường ngao du như một khách hải hồ trên
một lá thuyền con giữa mênh mông sóng nước (Chu trung, Phiếm chu). Hồn thơ
Huyền Quang đã vĩnh cửu hóa khoảnh khắc tương giao hội tụ những vẻ đẹp tượng
trưng cho thú tiêu dao hồ hải: bóng trăng, dòng trôi, tiếng sáo, màn sương,...
Cảm thức giải thoát thường hiện diện trong thơ Huyền Quang. Con người vẫn
sống giữa cuộc thế nhưng với một niềm hoan lạc thầm kín, an nhiên tự tại, kết đọng
trong những khoảnh khắc “quên” thần diệu, khi con người đạt được trọn vẹn niềm
hạnh phúc tự nhiên, tự tại của cuộc sống. Tảo thu là bài thơ thể hiện rõ nét cảm thức
giải thoát ấy. Giây phút “quên” đó của nhà Thiền cũng chính là giây phút xuất thần
của nhà thơ, vì theo Nghiêm Vũ đời Tống, người chủ trương lấy Thiền để xét thơ vì
giữa hai bên có chỗ đồng điệu đặc biệt. Điều này cho thấy không có sự mâu thuẫn
giữa Thiền gia và nghệ sĩ xét về mặt cảm thức, và Huyền Quang là một trường hợp

tiêu biểu cho sự hài hòa đó, người đưa Thiền vào hồn thơ, để cho Thiền thấm đẫm
chất thơ, chan hòa cùng thế tục.
14


2.4.1.2. Niềm khao khát hòa nhập với thiên nhiên
Khác với phong thái tiêu dao tự tại “phóng cuồng” của Tuệ Trung ít nhiều
mang ý vị triết học, thi hứng của Huyền Quang ký thác nơi cuộc sống hiện thực
quanh mình, đặc biệt là thiên nhiên nơi nhà thơ sống và đặt bước ngao du đến. Ở bài
Phiếm chu, tâm hồn người trên thuyền chơi vơi cùng sóng nước, man mác cùng hơi
thu, hòa âm trong tiếng sáo thuyền câu và mênh mang cùng lòng sông tràn ngập ánh
trăng. Đó là một sự buông thả hết mình, trọn vẹn.
Thơ thiên nhiên của Huyền Quang trao gửi cho người đời sau chiếc chìa khóa
để mở vào thế giới sáng tạo không giới hạn. Đó là không đứng ngoài quan sát mà hòa
nhập tâm vào cảnh để cảm nhận được hết cái huyền diệu của thiên nhiên (Cúc hoa,
IV). Đó là những giây phút “quên”, để sự hữu hạn của tư duy lý tính được thay bằng
ánh sáng sâu thẳm, huyền diệu của tâm linh. Có khi nhà thơ trực tiếp nhắc đến nó
(Cúc hoa, III, VI). Nhưng cũng có khi nơi gian nhà đá, hòa lẫn cùng mây... sư ở trên
giường Thiền, kinh ở trên án không còn để ý thời gian, đến khi chợt nhớ ra thì lò tàn,
củi lụi, mặt trời lên đã ba cây sào (Địa lô tức sự). Có khi một tấm lòng đã lặng nên
không biết tiếng dế vì ai mà cứ nỉ non mãi (Sơn vũ).
Người nghệ sĩ dường như có thể giao tiếp với cảnh vật (Thứ Bảo Khánh tự
bích gian đề). Nhà thơ cổ điển thường tức cảnh mà sinh tình, nói lên nỗi lòng của
mình trước cảnh vật. Còn Huyền Quang thì nhập vào làm một với cảnh mà nói hộ
cái tình, cái khao khát giao hòa của cảnh vật.
Hòa nhập với thiên nhiên là niềm mong muốn, niềm vui mà Huyền Quang luôn
ngóng vọng. Đó cũng là triết lý nhân sinh của ông về mối quan hệ giữa con người và
thiên nhiên. Con người sinh ra từ thiên nhiên, sống hòa hợp với thiên nhiên, song
cũng không ngừng sáng tạo nên thiên nhiên bằng sự tự do của mình.
2.4.2. Tấm lòng Thiền sư với những cảm xúc đời thường

Huyền Quang là một Thiền sư nặng lòng với cuộc đời, với tình người theo
đúng tinh thần “tuy vui cảnh Bụt chưa nguôi lòng trần”.
2.4.2.1. Nỗi đau “thế thái nhân tình”
Huyền Quang, với nhãn quan của người học đạo, trước hoàn cảnh của mình,
hay trước sự kiện diễn ra trước mắt, cũng có những xúc cảm nhất định. Và xúc cảm
ấy không chỉ dừng lại ở sự rung động do tấm lòng thương đơn thuần, mà còn là sự sẻ

15


chia cho những con người bất hạnh (Ai phù lỗ). Ở đó, ta thấy một Huyền Quang nặng
trĩu tình đời, tình người, một con người trần thế.
Huyền Quang không chỉ thương những người bị tù tội bằng gông cùm, song
sắt, mà còn tiếc cho những kẻ cam tâm biến mình thành nô lệ của gông cùm danh lợi
(Tặng sĩ đồ đệ tử).
Bài Sơn vũ diễn tả một thoáng bâng khuâng của Thiền sư vì một nỗi niềm nhân
thế. Theo Phật tu hành từ lâu nhưng hình như nỗi buồn trần tục vẫn chưa siêu thoát,
nên nghe tiếng dế lòng khôn nguôi rầu rĩ.
Vẫn thấy bóng dáng Thiền trong những câu thơ đầy ưu tư của bài Quá Vạn
Kiếp, đó là triết lý về cõi nhân sinh vô thường. Nhưng nhìn ở góc độ một thi nhân, ta
thấy câu thơ tựa hồ một tiếng thở dài, vì vũ trụ thì vô cùng, mà đời người hữu hạn:
Trăm năm trôi qua chỉ như cái búng tay. Để rồi khi chợt tỉnh giấc trưa, ngoảnh nhìn
lại cõi đời bụi bặm mà dường như say choáng váng.
Tâm hồn nghệ sĩ đa cảm của Huyền Quang có lúc thoáng sầu trước cảnh vật
hoang tàn, cô liêu trong bài thơ Thứ Bảo Khánh tự bích gian đề.
Vì những vần thơ như trên, đã có những lúc, thơ Huyền Quang bị đánh giá là
“cơ hồ không giống thơ của một Thiền sư”. Có thể nhận thấy, bên cạnh con người tôn
giáo, thẳm sâu trong Huyền Quang là một trái tim tha thiết với những xung động tế vi
của trời đất và con người.
2.4.2.2. Những tâm sự cá nhân

Trái với tâm hồn thanh thản được thể hiện trong bài phú Nôm (Vịnh Vân Yên
tự phú), người đọc có thể nhận thấy “cái tôi” tác giả thấp thoáng trong từng vần thơ
chữ Hán còn lại của Huyền Quang. Đó là nỗi day dứt vì tài sức mình có hạn mà trách
nhiệm với đạo quá nặng nề (Nhân sự đề Cứu Lan tự).
Thơ ca Huyền Quang man mác một niềm cô liêu khó tả. Với Huyền Quang,
bản lĩnh bình tâm thấu hiểu trước mọi biến đổi của cuộc sống khiến ông coi cô
liêu là một niềm an lạc, được cô đơn trong sự an nhiên tự tại là một niềm hạnh
phúc, bởi trong cô liêu con người có thể khám phá và thưởng thức vô vàn vẻ
đẹp.
Đằng sau tấm áo cà sa ẩn giấu một trái tim thi sĩ vô cùng nhạy cảm với thiên
nhiên. Có thể quên đời, quên thân nhưng làm sao quên được những quen thuộc của cỏ
cây, hoa lá. Vũ trụ xoay vần biến thiên, mùa nào hoa cỏ ấy, những thân thuộc muôn
16


đời đâu dễ mất đi. Vẫn có đây những xào xạc đời thường, những yêu dấu nhân sinh
nơi chốn tĩnh hòa rất mực ấy...
Đối với những kẻ chỉ biết vui vật dục tầm thường thì ngồi nhìn cuộn khói tỏa
ra từ bếp lửa trong đêm sắp tàn, thấy có gì vui đâu? Vậy mà Huyền Quang cùng với
chú tiểu đồng dường như bắt gặp được niềm vui chứa chan trong lòng (Địa lô tức sự).
Khi Huyền Quang ghi lại bài thơ Xuân nhật tức sự của một nhà thơ đời Tống
vào trong tập thơ của mình, ông nắm bắt tức thì vẻ đẹp vô ngôn của cô gái khi tay
dừng thêu vì lặng ngắm cảnh sắc tuyệt đẹp của mùa xuân. Sự bén nhạy của tâm hồn
nghệ sĩ trong Huyền Quang đã không bỏ qua bức tranh tình ý hòa hợp và gợi nhiều
tầng cảm hứng ấy.
Có thể mượn thuật ngữ “đa thanh” của Bakhtin để nhận định về thơ Huyền
Quang. Quả thật, thơ của ông có nhiều tiếng nói: khi vui, khi buồn; khi thương mình,
khi thương người; khi phiền trách, khi an ủi; khi cô đơn, khi hòa đồng…
Sau Huyền Quang, Thiền Trúc Lâm không còn được nghe nhắc đến nữa. Theo
Đoàn Thị Thu Vân [68; tr. 68], có thể giải thích điều này từ hai lý do:

Thứ nhất, tính chất nghệ sĩ của Huyền Quang không thích hợp với chức trách
của một vị giáo chủ, ít nhiều phải bị ràng buộc trong việc tổ chức môn phái, xiển
dương đạo pháp, trước thuật sách vở.
Thứ hai, có thể Huyền Quang đã đi đến tận cùng tôn chỉ của Thiền nói chung
và Thiền Trúc Lâm nói riêng bằng cách dùng “vô tự chân kinh” (kinh không chữ)
thay cho truyền đạo, giảng pháp, tức để Thiền hòa vào đời sống một cách tự nhiên.
Nguyễn Kim Sơn giải thích thoái trào của Thiền trên phương diện lịch sử xã
hội. Sự kết thúc của Thiền nằm trong thế “cáo chung” của Phật và sự lên ngôi của
Nho giáo. Từ đây, Phật giáo đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử vẻ vang của nó và tiếp
tục sống trong dân gian để nhường lại vũ đài chính trị cho Nho giáo. Trong văn học,
hiện tượng này được biểu hiện ở quá trình điển phạm hóa loại hình văn học nhà Nho,
bắt đầu từ Trần Nhân Tông qua Nguyễn Trãi đến Lê Thánh Tông.
Tiểu kết: Tư tưởng “Cư trần lạc đạo” là tôn chỉ hoạt động của Thiền phái Trúc
Lâm Yên Tử, được Sơ tổ Trần Nhân Tông tổng kết từ chính cuộc đời hành đạo của
mình, trên cơ sở kế thừa tinh hoa Thiền học từ các bậc tiền bối. Có thể tìm thấy
những biểu biện đầu tiên của tư tưởng này ở chủ trương “tùy tục” của Thiền sư
Thường Chiếu đời Lý, tư tưởng “biện tâm” (uốn nắn tâm, điều chỉnh tâm) để đạt tới
17


sự tự tại giải thoát ngay giữa cõi trần của Trần Thái Tông. Tuệ Trung Thượng sĩ chủ
trương “hòa quang đồng trần” (hòa ánh sáng cùng thế tục). Trần Nhân Tông khái quát
và hệ thống hóa những tư tưởng của các bậc tiền bối thành chủ thuyết “Cư trần lạc
đạo”. Tinh thần “tùy duyên lạc đạo” mà Trần Nhân Tông phát biểu đã trở thành
phương châm sống đời vui đạo của toàn thể quốc gia Đại Việt khi ấy. Đến Tam tổ
Huyền Quang, tư tưởng “Cư trần lạc đạo” được đẩy tới giới hạn tận cùng, đã hòa vào
thế tục. Ở đó, ta bắt gặp một Thiền sư ngộ đạo, ung dung sống giữa cõi trần ai mà vẫn
để lòng rung động với những nỗi niềm nhân thế. Như vậy, sự vận động của tư tưởng
“Cư trần lạc đạo” được phản ánh trong trước tác của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử đã
trải qua một quá trình phát triển lâu dài, với sự tiếp nối và kế thừa, gắn với khuynh

hướng thế tục hóa, để rồi Phật học dần nhường bước cho Nho giáo trong quá trình
phát triển của lịch sử dân tộc.
CHƯƠNG 3:
NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA TƯ TƯỞNG “CƯ TRẦN LẠC ĐẠO”
Tư tưởng “Cư trần lạc đạo” với nội dung phong phú mà nhất quán đã tạo nên
tính chất nhập thế tích cực của dòng Thiền Trúc Lâm. Chính tính chất nhập thế này
đã khiến Thiền Trúc Lâm Yên Tử có nhiều đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc cũng như trong công cuộc chấn hưng nền văn hóa Đại Việt.
3.1. Đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước
3.1.1. Hình thành mẫu người Phật tử với tinh thần nhập thế tích cực, góp phần ổn
định xã hội
Chính tư tưởng tu hành và giác ngộ ngay giữa trần tục của chủ thuyết “Cư trần
lạc đạo” đã hình thành nên mẫu người Phật tử biết đem đạo ứng dụng vào đời. Mẫu
người lý tưởng mà Thiền phái Trúc Lâm hướng tới là con người Bồ tát kết hợp với
con người trượng phu. Đó là con người tu Thiền, dù là xuất gia hay cư sĩ, luôn sống
đạo hạnh, giản dị, trong sáng. Đó là con người sống có kỷ luật, có lý tưởng, hiếu
thảo với cha mẹ, trung thành với Tổ quốc, đồng thời góp phần xây dựng cuộc sống
qua những hành động thiết thực.
Hình tượng này là tiêu biểu cho mẫu người Đại Việt thời đại Đông A nói
chung, chứ không phải riêng cho Phật giáo. Những người làm nên sự nghiệp hào

18


hùng của dân tộc ta vào thời này hầu hết là Phật tử (Tuệ Trung Thượng sĩ Trần Tung,
Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông,…)
Việc Trần Nhân Tông đi khắp các chốn thôn dã, khuyên dân bỏ những hủ tục, mê tín
và thực hành giáo lý “thập thiện” đã phán ánh chính sách dùng Chính pháp để an dân Nó
được các nhà lãnh đạo dùng làm “pháp luật quốc gia” nhằm đem lại sự bình an cho xã hội.
3.1.2. Đóng góp trong ba cuộc kháng chiến chống đế quốc Nguyên Mông xâm

lược và sự nghiệp “Nam tiến”, mở mang bờ cõi Đại Việt
Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược thế kỷ XIII của triều đại nhà Trần là
một bài ca anh hùng bất hủ, là sự kết tinh lòng yêu nước, khí phách anh hùng, trí
thông minh sáng tạo và sức mạnh đoàn kết của dân tộc. Từ mọi tầng lớp xã hội, từ
các thành phần dân tộc, qua kháng chiến, đã xuất hiện biết bao con người và sự tích
anh hùng tiêu biểu cho phẩm chất cao quý của “hào khí Đông A”: Trần Quốc Tuấn,
Hoài Văn hầu Trần Quốc Toản, Phạm Ngũ Lão,… Tinh thần nhập thế tích cực của chủ
thuyết “Cư trần lạc đạo” kết hợp với tư tưởng yêu nước truyền thống của dân tộc
không chỉ làm nên một bản lĩnh ý chí chiến đấu mà còn là nền tảng của chính sách
ngoại giao mềm dẻo với cường địch, tạo nên sức mạnh tổng hợp của dân tộc, biến
thành những làn sóng quét sạch bè lũ cướp nước.
Châu Ô và châu Lý “vuông ngàn dặm” của Champa đã được sáp nhập vào Đại
Việt sau chuyến vân du của Trần Nhân Tông năm 1306. Việc mở rộng bờ cõi, xây
dựng một hệ tư tưởng chính thống dưới mô hình Phật giáo, từ đó đặt tiền đề quan
trọng để thống nhất Nam - Bắc, Tây - Đông cả về cương vực, lãnh thổ và tư tưởng,
văn hóa là một chính sách vĩ đại, thể hiện tầm nhìn và trí tuệ thâm viễn cùng tấm lòng
ưu ái cho non nước Đại Việt muôn đời của Phật hoàng Trần Nhân Tông. Đó chẳng
phải là tinh thần nhập thế đầy hăm hở mà tư tưởng “Cư trần lạc đạo” đã đề ra và thực
hành trong đời sống thực tiễn đó sao?
3.2. Đối với công cuộc chấn hưng nền văn hóa Đại Việt
3.2.1. Phát huy giá trị văn hóa truyền thống, xây dựng một hệ tư tưởng độc lập,
riêng có của Đại Việt
Trần Nhân Tông và các Thiền sư tiền bối đã khai sáng dòng Thiền Trúc Lâm
Yên Tử, để nó đi vào lòng dân tộc, một dòng Thiền không chỉ tiếp thu tinh hoa quá
khứ mà còn tổng hợp được những cống hiến của thời đại mình.

19


Quan điểm “Phật tại tâm” của Trần Thái Tông là sự cụ thể hóa của yếu chỉ “tức

tâm tức Phật” trong Thiền Huệ Năng Trung Hoa. Một ông Phật trong chính tâm mình
là một triết lý tưởng chừng giản đơn nhưng lại vô cùng thấm thía đối với những
người Việt Nam vốn quen tư duy hướng nội.
Tuệ Trung Thượng sĩ là một nhà Thiền học tài hoa và bản lĩnh. Ông là “một
gương mặt lạ trong vườn Thiền”, nhưng là một gương mặt Thiền “thuần Việt”. Cái ý
vị tiêu dao, tự tại của bậc ẩn sĩ, nơi ông đã trở thành một cốt cách Thiền mang tinh
thần khai phóng đầy sảng khoái, đậm chất Việt Nam.
Những khai triển của Trần Nhân Tông về “bản” đã sáp hợp với triết lý hướng
thiện, tôn trọng sự bình yên, coi trọng đời sống tâm linh của người Việt. Vì thế nó là
triết lý đi gần ý thức dân tộc nhất, nhập thế nhất.
Với tư tưởng mang đậm tính dân tộc ấy, Thiền phái Trúc Lâm đã thực sự trở
thành một dòng Thiền dân tộc, từ cơ sở lý luận, giáo lý tu tập đến “công đức vô lượng”
trong đời sống thực tiễn.
Xét trên bình diện quốc gia, chủ thuyết “Cư trần lạc đạo” đã quyết định việc hình
thành và phát triển một hệ tư tưởng độc lập của Nhà nước Đại Việt so với Trung Quốc,
khẳng định tinh thần tự chủ, tự cường của nền văn hóa phương Nam trước âm mưu đồng
hóa thâm độc của phong kiến phương Bắc. Hệ tư tưởng Phật giáo mang bản sắc dân
tộc mà Thiền phái Trúc Lâm xây dựng ảnh hưởng tích tực đến sự phát triển của xã
hội, giúp Đại Việt bước nhanh và vững chắc trên con đường phục hưng những giá trị
văn hóa bản địa, đồng thời khơi dậy ở mỗi con người ý thức và hành động thiết thực
để phát triển đất nước.
“Cá tính đặc biệt” mà Nguyễn Lang nhận xét về Thiền Trúc Lâm trong Việt
Nam Phật giáo sử luận, chính là tinh thần dân tộc, là bản sắc dân tộc của tư
tưởng “Cư trần lạc đạo” nói riêng và Thiền phái Trúc Lâm nói chung.
3.2.2. Định hình phong cách riêng cho văn học Phật giáo thời Trần
Tư tưởng “Cư trần lạc đạo” tiếp thêm sức mạnh cho thơ Thiền được chắp cánh
bay cao. Việc sáng tác văn học Phật giáo không chỉ nằm trong phạm vi của giới tu
hành mà có sự tham gia của nhiều thành phần khác. Đối tượng sáng tác được tăng
cường là tiền đề cho một nền thơ ca Phật giáo phát triển nở rộ vào thời Trần.
Những tư tưởng nghệ thuật mới xuất hiện trong văn học Thiền. Vẫn có những

vần thơ suy lý, những luận thuyết tôn giáo,… nhưng bên cạnh đó, bắt đầu le lói
20


những thế giới tâm hồn con người cụ thể với niềm vui và nỗi buồn, thất vọng và hi
vọng, hạnh phúc và khổ đau…
Lần đầu tiên, chúng ta thấy khuynh hướng văn học Thiền thời Trần bắt đầu có
sự phân hóa thành các dòng tâm trạng có sự khác biệt nhau nhất định cùng đồng thời
tồn tại: Khuynh hướng thiên về suy lý, lý tính; Khuynh hướng thiên về trữ tình, cảm
xúc; Khuynh hướng thiên về bày tỏ nỗi niềm thế sự [43; tr. 205]. Dù cho tác phẩm
văn học đó thuộc chi lưu cảm xúc nào, thì chúng vẫn có một điểm chung thống nhất,
đó là sự quán chiếu của tư tưởng Thiền dân tộc Trúc Lâm.
Sự phân hóa thành các khuynh hướng tư tưởng và cảm xúc như trên tất yếu dẫn
đến sự mở rộng chủ đề của văn học Thiền. Rất nhiều tác phẩm văn chương Thiền thời
Trần đề cập tới những vấn đề thường nhật của người tu hành.
Một điểm rất đáng chú ý nữa là các thể loại văn học Phật giáo phát triển mạnh
cả về quy mô và chất lượng. Những thể loại văn học Phật giáo xuất hiện từ thời Lý,
sang thời Trần đã có những thay đổi về chất. Luận thuyết tôn giáo có bước tiến vượt
bậc cả về số lượng và chất lượng. Loại hình ngữ lục Thiền tông đem đến những khả
năng biểu hiện mới. Thể thơ Đường luật kết tinh vẻ đẹp ở những tác phẩm văn
chương hoàn mỹ, điêu luyện, quyện hòa vẻ đẹp của cảm quan thế tục và cảm quan
Thiền. Sự xuất hiện của các bài phú Nôm (Cư trần lạc đạo phú, Đắc thú lâm tuyền
thành đạo ca, Vịnh Vân Yên tự phú) là những thành tựu xuất sắc của văn học thời kỳ
này, chứng minh cho vẻ đẹp và tiềm năng nghệ thuật của ngôn ngữ dân tộc. Sự ra đời
của một hình thức văn học mới - thể ca ngâm - đánh dấu sự trưởng thành và tính tự
lực của nền văn hóa Việt.
Khuynh hướng văn học Thiền thời Trần không những không mất đi cái siêu
thoát, kỳ bí và trong trẻo vốn có từ thời Lý, mà còn được tô đắp thêm những hương vị
ngọt ngào và nồng nàn của cuộc đời trần thế.
3.2.3. Xây dựng triết lý sống tích cực trong tâm thức người Việt

Triết lý sống của người Phật tử Việt Nam bắt nguồn, một mặt từ tiến trình hình
thành, phát triển của lịch sử dân tộc, mặt khác từ quá trình tiếp biến giáo lý căn bản Phật
giáo mà dân tộc ta đã trải nghiệm, hành trì trong viêc thực nghiệm đời sống tâm linh.
Tư tưởng tự lực, tự cường, tin ở sức mình, không “vọng ngoại” là một truyền
thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc ta. Tư tưởng đó đi vào dân gian thành những câu ca
bình dị, hồn hậu nhưng vẫn chứa đựng nội dung triết lý sâu sắc: “Phật ở trong nhà,
21


chẳng cầu Thích Ca ở ngoài đường” hay: “thứ nhất là tu tại gia, thứ hai tu chợ, thứ
ba tu chùa, “Gần chùa gọi Bụt bằng anh / Trông thấy Bụt hiền, bế Bụt đi chơi”.
Phật đã gần người dân như vậy, thì chùa cũng không thể xa dân. Chùa là nơi
kết nối yêu thương, hòa hợp và đoàn kết của muôn dân. Rõ ràng, chùa trở thành thành
lũy kiên cố nhất chống lại mọi sự xâm lược, đặc biệt là chính sách hủy diệt và đồng
hóa văn hóa của ngoại bang trong chiến tranh; khi hòa bình, chùa là nơi bảo lưu, hội
tụ, kết tinh, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, xây dựng đời
sống hạnh phúc cho muôn dân.
Sức mạnh nội tại của triết lý sống của người Phật tử Việt Nam không phải chỉ
ở chỗ nó vũ trang cho con người niềm tin vào tự thân và dân tộc, đất nước mình, mà
còn thật sự đáp ứng được những nhu cầu của đại chúng, của những tầng lớp nhân dân
đông đảo. Đạo Phật đi vào làng với chùa làng và những sinh hoạt Phật giáo dân gian.
Trẩy hội chùa hàng năm là một trong những minh chứng cho sự thể nhập triết lý
sống, nét sinh hoạt văn hóa độc đáo và đẹp đẽ của dân tộc Việt Nam.
Tiểu kết: Triết lý “Cư trần lạc đạo” mà Trần Nhân Tông khái quát đã mở ra một
phong trào nhập thế tích cực của Phật giáo Việt Nam. Trong cả sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ đất nước cũng như công cuộc chấn hưng nền văn hóa dân tộc, tư tưởng “Cư trần
lạc đạo” đều có những đóng góp quyết định. Tinh thần nhập thế được khai phóng từ chủ
thuyết này đã động viên sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, không chỉ bảo vệ thành
công từng tấc đất của non sông trước kẻ thù hung bạo mà còn khẳng định tính tự lực và
sức sống bất diệt của nền văn hóa dân tộc trước âm mưu đồng hóa của người phương

Bắc. Có thể thấy, cứ mỗi lần phục hưng, chấn hưng là một lần Phật giáo Việt Nam trở về
và tiếp tục triển khai tinh thần nhập thế của “Cư trần lạc đạo” để phát huy hơn nữa sức
sống nội tại của dân tộc Việt trong Phật giáo truyền thống.
PHẦN KẾT LUẬN
1. Thời đại nhà Trần với hai đỉnh cao là tư tưởng Phật giáo và sức mạnh chống
ngoại xâm cùng với những yêu cầu cấp bách của lịch sử đã hun đúc nên một hệ tư
tưởng triết học mang tinh thần nhập thế và đậm đà bản sắc dân tộc. Là một dòng
Thiền thuần Việt, Trúc Lâm Yên Tử không chỉ tiếp thu tinh hoa tư tưởng của Tam
giáo mà còn thể nhập nó trong đời sống thực tiễn, tạo nên bản sắc riêng không thể

22


trộn lẫn. Chủ thuyết “Cư trần lạc đạo” ra đời là một tất yếu lịch sử, đồng thời là một
sáng tạo độc đáo của người Việt, khẳng định sức mạnh của nền văn hóa Việt Nam.
2. Tư tưởng “Cư trần lạc đạo” khởi sinh và phát triển bằng sự kế thừa truyền
thống, qua hoạt động “hoằng pháp độ sinh” của các Thiền sư cuối thời Lý, đầu thời
Trần. Quá trình vận động của tư tưởng bắt đầu từ Thường Chiếu với chủ trương “tùy
tục”, qua “biện tâm” của Trần Thái Tông, đến “hòa quang đồng trần” của Tuệ Trung
Thượng sĩ, trở thành nền tảng tư tưởng và tôn chỉ hoạt động của Thiền phái Trúc Lâm
với tinh thần “tùy duyên lạc đạo” của Trần Nhân Tông. Theo khuynh hướng đưa Thiền
trở về với cuộc sống của đời Trần, Huyền Quang đã hoàn thành quá trình thế tục hóa
Thiền, để tư tưởng “Cư trần lạc đạo” hòa vào thế tục. Đến đây, “Cư trần lạc đạo” với hạt
nhân là tính chất nhập thế tích cực của nó đã chuyển hóa vào trong tư tưởng phụng sự
quốc gia, dân tộc mà Nho giáo đã cố công xây dựng trong hệ thống chuẩn giá trị của
mình. Tư tưởng “Cư trần lạc đạo”, cùng với Thiền Trúc Lâm và Phật giáo nói chung đã
hoàn thành sứ mệnh lịch sử để nhường lại vũ đài chính trị cho Nho giáo, tiếp tục sống
trong dân gian với một sinh thể bất diệt. Trước khi rời vũ đài chính trị, nó cũng kịp để lại
cho văn học Thiền nói riêng, nền văn học Việt Nam trung đại nói chung những bông hoa
ngát hương sắc, kết tinh vẻ đẹp của hệ tư tưởng dân tộc trong một thời đại hào hùng.

3. Văn chương Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử lấp lánh ánh sáng của những triết
lý Phật giáo thâm viễn hòa với những cảm xúc nhân sinh của con người thế tục.
Những vần thơ Thiền thuần lý tính ở đời Lý sang đời Trần đã trở thành những khúc
ca của trí tuệ, của tâm hồn, mang đậm hơi thở cuộc sống trần thế. Có được điều đó,
trước hết phải kể đến tính chất khai phóng của Thiền học thời Trần mà “Cư trần lạc
đạo” chính là hạt nhân tư tưởng tạo nên sự khác biệt lớn. Tinh thần nhập thế của
Thiền tông Đại Việt thời Trần được khơi dậy một cách mạnh mẽ không chỉ trong giới
Phật tử mà toàn thể quốc dân đã tạo nên sức mạnh tổng hợp đập tan cuộc xâm lăng
của Đế quốc Nguyên Mông hùng mạnh nhất thế giới thời đó, đồng thời mở mang bờ
cõi đáp ứng nhu cầu phát triển đất nước. Việc ổn định trật tự xã hội, giữ vững bản sắc
văn hóa dân tộc trước âm mưu đồng hóa của văn hóa Hán là một thành công trong sự
nghiệp giữ nước, chấn hưng văn hóa của Đại Việt. Trên phương diện này, tư tưởng
“Cư trần lạc đạo” giữ vai trò quyết định.
4. Ngày nay, chúng ta đang sống trong thời đại mà khoa học công nghệ phát
triển từng giờ. Con người, chưa bao giờ được thụ hưởng nhiều thành quả do nền văn
23


minh công nghiệp mang lại như hiện tại. Tuy nhiên, những giá trị văn hóa mà thời
gian để lại vẫn trường tồn. Việc ôn lại những trước tác của tiền nhân với tinh thần
“ôn cố tri tân” thực sự trở nên cấp thiết trong thời đại hội nhập ngày càng sâu rộng
trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội hiện nay. Đối với đệ tử nhà Phật,
sống “tốt đời đẹp đạo”, khôi phục những giá trị văn hóa Phật giáo thuở trước, xiển
dương đạo pháp và tích cực chung tay đóng góp cho cộng đồng là những chủ trương
hoàn toàn phù hợp với tinh thần của tư tưởng “Cư trần lạc đạo” mà các vị Phật gia
tiền bối đời Trần đã khai sáng cách đây vài thế kỷ. Đối với mỗi người con nước Việt,
tinh thần “tùy duyên bất biến” không chỉ định hướng, giúp con người đạt được thành
công trong hoạt động thực tiễn mà quan trọng, tạo nên sự cân bằng, thanh thản trong
tâm hồn giữa cuộc sống còn bộn bề những lo toan. Đối với cả dân tộc, tinh thần
khoan dung Phật giáo góp phần duy trì một xã hội ổn định, thanh bình cùng ước mơ

xây dựng một thế giới hòa bình, một tương lai tươi sáng cho toàn nhân loại.
5. Bài học mà tư tưởng “Cư trần lạc đạo” để lại cho những người Việt hậu thế
vẫn còn nguyên giá trị. Điều quan trọng là mỗi người, trong đời sống thực tiễn của
mình phải tích cực tu tập, rèn luyện theo tinh thần “rèn lòng làm Bụt” trên cơ sở thực
sự giác ngộ yếu chỉ “phản quan tự kỷ” của Thiền Trúc Lâm. Bởi nếu “hướng ngoại
cầu huyền”, con người mãi mãi chẳng thể công thành, mà việc làm cũng không khác
gì tìm “lông rùa sừng thỏ”. Ta còn nhớ lời Tuệ Trung Thượng sĩ dặn dò kín đáo Trần
Nhân Tông, rằng tự pháp mà ông trao không thể nói cho kẻ phàm nhân được. Vì sao
vậy? Triết lý của thầy trò họ giản dị, chan chứa nhân tình, nhưng cũng rất cao sâu, đi
mãi không cùng. Kẻ phàm dễ hiểu lầm mà sinh ra xằng bậy. Giữa “Cư trần lạc đạo”
của kẻ đắc pháp với cái tùy tục vô nguyên tắc, đem cái lòng tục hòa với cái tục của
đời, cách biệt nghìn trùng nhưng lại cũng gần trong gang tấc. Hiểu đúng đạo của đấng
Giác Hoàng mà noi theo, thì tịnh tiến không ngừng trong Thiền hải, lại có thể đem
tấm lòng Bồ tát cứu thế mà sửa trị, dẫn dắt nhân tâm trong thời vị lợi cạnh tranh khốc
liệt ngày nay. Nhưng nếu hiểu sai, hoặc cố ý hiểu sai, thì trước hết đắc tội với tiền
nhân, sau lại nặng nề thêm “nghiệp”:
Trần tục mà nên, phúc ấy càng yêu hết tấc,
Sơn lâm chẳng cốc, họa kia thực cả đồ công./.

24



×