Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

QUAN HỆ NGOẠI GIAO GIỮA VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC TRÊN BIỂN ĐÔNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (359.3 KB, 30 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT
Khoa: Lịch Sử


TÊN ĐỀ TÀI: QUAN HỆ NGOẠI GIAO GIỮA VIỆT NAM
VÀ TRUNG QUỐC TRÊN BIỂN ĐÔNG

TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT
Khoa: Lịch Sử
1




TÊN ĐỀ TÀI: QUAN HỆ NGOẠI GIAO GIỮA VIỆT NAM VÀ
TRUNG QUỐC TRÊN BIỂN ĐÔNG

GVHG: LÊ THỊ THU HẰNG
SVTH: NGUYỄN THỊ KIM SA
MSSV: 1311925
PHỤ LỤC VIẾT TẮT
2


1

Từ viết
tắt
ASEAN

2



UNCLOS

3

CNOOC

4

EEZ

5

CLCS

6

PNOC

Stt

Từ
Tiếng Anh
Associasion of Southeast
Asian Nations
United Nations Convention
on the Law of the Sea
China National Offshore Oil
Corporation
Exclusive economic zone


Từ
Tiếng Việt
Hiệp hội các nước Đông Nam
Á
Công ước Liên Hợp quốc về
Luật Biển
Công ty dầu khí ngồi khơi
Trung Quốc
Vùng đặc quyền kinh tế

Commission on the Limits of
the Continental Shelf
Philippine National Oil
Company

Ủy ban Ranh giới Thềm lục

MỞ ĐẦU:
3

Cơng ty dầu khí quốc gia
Philippin


1. Lý do chọn đề tài:
Biển Đông, hiện nay đang là chủ đề nóng được các diễn đàn và hội nghị đề cập ở
nước ta nói riêng và quốc tế nói chung. Việc tranh chấp chủ quyền biển đảo làm cho
các nước bất ổn về chính trị, xã hội… và có thể nguy cơ chiến tranh có thể xảy ra.
Tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông gồm các nước thuộc khu vực Đông Nam Á,

chủ yếu tranh chấp về đảo và vùng biển.vd như : Quần đảo Trường Sa và quần đảo
Hoàng Sa là hai quần đảo trên các rạn san hơ ở Biển Đơng, trong đó quần đảo Hồng
Sa đang là nơi tranh chấp chủ quyền giữa Việt Nam, Trung Quốc và Đài Loan. Và
Quần đảo Trường Sa là nơi tranh chấp chủ quyền của 6 quốc gia và lãnh thổ:Trung
Quốc, Đài Loan, Việt Nam, Philippines, Malaysia và Brunei. Các quốc gia này tuyên
bố chủ quyền toàn bộ hay một phần quần đảo Trường Sa… Ngoài ra, vùng biển trong
khu vực Biển Đông cũng là đối tượng tranh chấp, với lợi ích mà các quốc gia quan
tâm gồm: ngư trường, khai thác tài nguyên đặc biệt là dầu khí và kiểm sốt của một vị
trí chiến lược. Các quốc gia gián tiếp can dự đáng kể đến biển Đông là: Hoa Kỳ, Nhật
Bản, Úc và Ấn Độ.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề:
Hiện nay, tình hình Biển Đơng là chủ đề nóng được viết thành nhiều bài báo hoặc là
đã được viết thành sách: Ví dụ như
Cuốn “Biển Đơng: Địa chính trị, Lợi ích, Chính sách và Hành động của Các
bên liên quan”của Tác giả Đặng Đình Quý (chủ biên), xuất bản năm 2013, NXB thế
giới. Đã cho thấy một thực tế rằng giá trị địa chiến lược của Biển Đông và cuộc đua
giành tài nguyên, ảnh hưởng ở Châu Á-Thái Bình Dương đã làm gia tăng những mâu
thuẫn các quốc gia, đặc biệt là giữa các nước lớn. Những toan tính vị kỷ khiến tranh
chấp Biển Đơng ngày càng trở nên phức tạp hơn và khó giải quyết bởi sự nghi kỵ lẫn
nhau.
Cuốn: “Biển Đông quản lý tranh chấp và định hướng giải pháp Đặng Đình Quý
– Nguyễn Minh Ngọc ( Đồng chủ biên) xuất bản năm2013, NXB Thế giới. Đã cho
thấy lợi ích của việc thường xuyên đánh giá lại tình hình để tìm ra khơng gian hợp tác,
giảm thiểu căng thẳng, đồng thời phân tích các khía cạnh pháp lý của vấn đề Biển
Đơng có thể đưa ra những gợi ý hữu ích cho việc giải quyết tranh chấp trên Biển Đông
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu: quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Trung Quốc

4



Phạm vi nghiên cứu: quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Trung Quốc trên Biển
Đông từ khi xảy ra tranh chấp.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài đã dựa trên chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng cho
nghiên cứu nhằm hiểu rõ hơn trong việc đi sâu tìm hiểu đề tài.Cùng với các chuyên
nghành được sử dụng trong quá trình nghiên cứu: phương pháp lịch sử, phương pháp
logic, phương pháp tổng hợp phân tích, để chọn lọc ra những sự kiện tiêu biểu, những
vấn đề liên quan để làm sáng tỏ vấn đề và làm tăng hiệu quả cho nghiên cứu.
5. Đóng góp của đề tài:
Qua đề tài, góp phần làm rõ hơn về Biển Đông: tiềm năng và nguyên nhân làm cho
tình hình chính trị trên Biển Đơng ngày càng trở nên bất ổn định. Đồng thời, đây còn
là một nguồn tài liệu tham khảo khá bổ ích cho những ai đang tìm hiểu và quan tâm
đến vấn đề này.
6. Bố cục:
Chương 1: Khái qt về Biển Đơng:
1.1 Vị trí điạ lý của Biển Đông:
1.2 Tiềm năng của Biển Đông:
1.3 Vai trị của Biển Đơng đối với thế giới và Việt Nam:
1.3.1 Đối với thế giới:
1.3.2 Đối với Việt Nam:
1.3.2.1 Về an ninh, quốc phòng:
1.3.2.2 Về kinh tế:
1.4 Quan hệ láng giềng với các nước trong khu vực về mặt kinh tế:
1.5 Những hoạt động tranh chấp biển đông:
Chương 2: Quan hệ ngoại giao Việt – Trung trên Biển Đơng:
2.1Tình hình Biển Đông hiện nay:
2.2 Hoạt động trực tiếp của Trung Quốc và Việt Nam:
2.2.1 Hoạt động trực tiếp của Việt Nam:
2.1.1.1 Chủ trương của nhà nước ta:

2.1.1.2 Những hoạt động thiết yếu để bảo vệ chủ quyền và
lợi ích của Việt Nam ở biển Đông:
2.2.2 Hoạt động trực tiếp của Trung Quốc:
2.2.2.1 Chủ trương của Trung Quốc:
2.2.2.2 Những hoạt động thiết yếu của Trung Quốc:
5


2.3 Thái độ của các nước và quốc tế đối với tình hình Biển Đơng:
2.3.1 Mối quan hệ giữa ASEAN và Trung Quốc:
2.3.2 Quan điểm của Mỹ về Biển Đông:
2.3.3 Các công ước về Luật biển 1982:
Chương 3: Cơ hội,thách thức và một số giải pháp cho quan hệ ngoại giao
Việt – Trung trên Biển Đông:
3.1 Cơ hội, thách thức:
3.2 Một số giải pháp:
Kết luận:
Tài liệu tham khảo:

CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ BIỂN ĐÔNG
6


1.1 Vị trí địa lý của Biển Đơng:
Biển Đơng có nhiều tên gọi: Biển Nam Hải, Biển Luzon. Biển Đông là biển lớn
thứ hai trong các biển thuộc biển Thái Bình Dương. Biển Đơng là một biển nửa kín,
có diện tích khoảng 3,5 triệu km2, trải rộng từ 30 vĩ Bắc đến 260 vĩ Bắc và từ 1000 kinh
Đông đến 1210 kinh Đông; là một trong những biển lớn nhất trên thế giới với 90% chu
vi được bao bọc bởi đất liền. Có 9 nước tiếp giáp với Biển Đơng là Việt Nam, Trung
Quốc, Phi-líp-pin, In-đơ-nê-xia, Bru-nây, Ma-lai-xia, Xin-ga-po, Thái Lan, Cam-puchia và một vùng lãnh thổ là Đài Loan. (1)

1.2 Tiềm năng của Biển Đơng:
Biển Đơng cịn là nơi chứa đựng nguồn tài nguyên thiên nhiên biển quan trọng
cho đời sống và sự phát triển kinh tế của các nước trong khu vực, đặc biệt là nguồn tài
nguyên sinh vật (thủy sản), khống sản (dầu khí), du lịch và là khu vực đang chịu sức
ép lớn về bảo vệ môi trường sinh thái biển.
Nguồn lợi thủy hải sản khai thác với trữ lượng lớn, bốn ngư trường trong điểm
của nước ta: Ngư trường Cà Mau - Kiên Giang (ngư trường vịnh Thái Lan);Ngư
trường Ninh Thuận - Bình Thuận - Bà Rịa - Vũng Tàu; Ngư trường Hải Phòng Quảng Ninh (ngư trường vịnh Bắc Bộ) và Ngư trường quần đảo Hồng Sa, quần đảo
Trường Sa.
Biển Đơng được coi là một trong năm bồn trũng chứa dầu khí lớn nhất thế giới.
Theo đánh giá của Bộ Năng lượng Mỹ, lượng dự trữ dầu đã được kiểm chứng ở Biển
Đông là 07 tỉ thùng với khả năng sản xuất 2,5 triệu thùng/ngày. Theo đánh giá của
Trung Quốc, trữ lượng dầu khí ở Biển Đơng khoảng 213 tỷ thùng, trong đó trữ lượng
dầu tại quần đảo Trường Sa có thể lên tới 105 tỷ thùng. Với trữ lượng này, sản lượng
khai thác có thể đạt khoảng 18,5 triệu tấn/năm duy trì liên tục trong vòng 15 - 20 năm
tới.(2)
Tài nguyên du lịch phong phú với nhiều bãi biển, bãi tắm lớn nhỏ dọc theo
đường bờ biển: Phú Quốc, Nha Trang, Vũng Tàu, Đà Nẵng, Trà Cổ, Đồ Sơn, Sầm
Sơn, Cửa Lò, Cam Ranh
Ngồi ra, ven biển Việt Nam cịn chứa đựng tiềm năng to lớn về quặng sa
khoáng như than, zircon, thiếc, vàng, đất hiếm... trong đó cát nặng, cát đen là nguồn
tài nguyên quý giá của đất nước.
1.3 Vai trò của Biển Đông đối với thế giới và Việt Nam:
1.3.1 Đối với thế giới:
(1),(2) Theo (Bao Dien Tu Dang Cong San Viet Nam)
7


Biển Đông nằm trên tuyến đường giao thông biển huyết mạch nối liền Thái
Bình Dương - Ấn Độ Dương, Châu Âu - Châu Á, Trung Đông - Châu Á. Đây được

coi là tuyến đường vận tải quốc tế lớn thứ hai của thế giới. Mỗi ngày có khoảng 150 200 tàu các loại qua lại Biển Đông. Nhiều nước và vùng lãnh thổ ở khu vực Đơng Á
có nền kinh tế phụ thuộc sống còn vào tuyến đường biển này như Nhật Bản, Hàn
Quốc, Đài Loan, Xin-ga-po và cả Trung Quốc. Hơn 90% lượng vận tải thương mại
của thế giới thực hiện bằng đường biển và 45% trong số đó phải đi qua Biển Đơng.
Biển Đơng có những eo biển quan trọng như eo biển Ma-lắc-ca, eo biển Đài Loan là
những eo biển khá nhộn nhịp trên thế giới. Do đó, Biển Đơng có vai trị hết sức quan
trọng đối với tất cả các nước trong khu vực về địa - chiến lược, an ninh quốc phịng,
giao thơng hàng hải và kinh tế.(1)
1.3.2 Đối với Việt Nam:
1.3.2.1 Về an ninh, quốc phịng:
Biển Đơng đóng vai trị quan trọng là tuyến phịng thủ hướng đơng của đất
nước. Các đảo và quần đảo trên Biển Đơng, đặc biệt là quần đảo Hồng Sa và Trường
Sa, khơng chỉ có ý nghĩa trong việc kiểm sốt các tuyến đường biển qua lại Biển Đơng
mà cịn có ý nghĩa phịng thủ chiến lược quan trọng đối với Việt Nam.
Nước ta giáp với Biển Đông ở ba phía Đơng, Nam và Tây Nam. Các vùng biển
và thềm lục địa Việt Nam là một phần Biển Đông trải dọc theo bờ biển dài khoảng
3.260 km, từ Quảng Ninh đến Kiên Giang, với nhiều bãi biển đẹp như Trà Cổ, Đồ
Sơn, Sầm Sơn, Cửa Lò, Cam Ranh, Vũng Tàu... Việt Nam có vùng nội thủy, lãnh hải,
vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa rộng lớn theo Công
ước Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982; có hai quần đảo Hồng Sa và Trường Sa
nằm giữa Biển Đơng và hàng nghìn đảo lớn, nhỏ, gần và xa bờ, hợp thành phòng
tuyến bảo vệ, kiểm soát và làm chủ các vùng biển và thềm lục địa.
Biển Đơng đóng vai trị quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, cả trong lịch sử, hiện tại và tương lai. Không chỉ cung cấp nguồn thức ăn cho cư
dân ven bờ từ hàng nghìn năm nay, Biển Đơng cịn tạo điều kiện để phát triển các
ngành kinh tế và là cửa ngõ để Việt Nam có quan hệ trực tiếp với các vùng miền của
đất nước, giao thương với thị trường khu vực và quốc tế, là nơi trao đổi và hội nhập
của nhiều nền văn hố.(2)
1.3.2.2 Về kinh tế:
Biển Đơng tạo điều kiện để Việt Nam phát triển những ngành kinh tế mũi nhọn


8


(1),(2) PGS. TS Phạm Văn Linh (Chủ biên),2013: 100 CÂU HỎI - ĐÁP VỀ BIỂN,
ĐẢO Dành cho tuổi trẻ Việt Nam,NXB Thơng Tin Và Truyền Thơng
như thủy sản, dầu khí, giao thơng hàng hải, đóng tàu, du lịch... Hai quần đảo HồngSa
và Trường Sa nằm ở trung tâm Biển Đơng, rất thuận lợi cho việc đặt các trạm thông
tin, xây dựng các trạm dừng chân và tiếp nhiên liệu cho tàu thuyền... phục vụ cho
tuyến đường hàng hải trên Biển Đông.
1.4 Quan hệ láng giềng với các nước trong khu vực về mặt kinh tế:
Quan hệ láng giềng tốt giữa các quốc gia có chung biến giới là một trong những
yếu tố căn bản, tối quan trọng cho sụ làm giàu và thịnh vượng giữa các quốc gia cùng
chung nhau một khu vực địa lý. Sự buôn bán giữa các quốc gia làm tăng sự hợp tác
kinh tế giữa các nước láng giềng và có tác động đối với thị trường thế giới và làm lợi
cho nền kinh tế khu vực.
Tuy nhiên, có một số vấn đề kinh tế, xã hội như sau:
• Sự tranh giành quyền lực giữa các dân tộc trong khu vực, tuy nhiên lại làm giàu
cho giới lãnh đạo
• Mâu thuẫn giữa các tơn giáo trong khu vực
• Sự tranh nhau kiểm sốt nguồn tài ngun thiên nhiên: dầu mỏ, thiếc, vàng
• Sự tranh giàng quyền lực giữa các Đảng phái chính trị, gây xung đột giữa các
quốc gia, gây xung đột, khủng hoảng kinh tế, làm cho khu vực bất ổn định về
chính trị-kinh tế.
Quan hệ giữa các nước còn được xem xét bởi lich sử bang giao giữa hai nước
và quan hệ ngoại giao tốt đẹp đang là xu thế của thời đại vạ lợi ich chung của các
nước cùng nằm trong một khu vực địa lý
1.5. Những hoạt động tranh chấp Biển Đông:
Năm 1947, chính quyền Trung Hoa dân quốc xuất bản bản đồ “Nam Hải chư
đảo” và được in lại năm 1950 trên bản đồ “Trung Hoa Nhân dân Cộng hòa quốc phân

tỉnh tinh đồ” thể hiện “đường lưỡi bò” chiếm tới 80% diện tích biển Đơng. Việc vẽ
một đường đứt khúc mơ hồ để đòi chủ quyền biển như vậy là vô căn cứ, trái với luật
pháp và tập quán quốc tế, khơng có cơ sở thực tiễn và lịch sử, không được các quốc
gia khu vực và thế giới thừa nhận.
Trong năm 2012, Trung Quốc tích cực tiến hành các hoạt động củng cố yêu
sách chủ quyền bằng những hành động như:

Cơng bố thành lập thành phố Tam Sa; phê chuẩn một loạt văn bản pháp lý,
như: “quy hoạch chức năng biển toàn quốc” bao gồm “vùng chức năng biển tại
9


Trường Sa và Hồng Sa, chính thức khai trương chuyến du lịch tới Hoàng Sa,
đơn phương ban hành lệnh cấm đánh cá tại biển Đơng.
• Đẩy mạnh hoạt động kiểm sốt thực tế trong phạm vi “đường lưỡi bị”.
• Tập trung gây sức ép ngoại giao ở nhiều cấp, kể cả cấp cao, tập trung vào
Philippin, Việt Nam.
• Các báo chí Trung Quốc, nhất là các trang mạng, tiếp tục có những bài viết có
nội dung xấu, mang tính kích động.
Những hành động này là nguyên nhân chủ yếu và sâu xa làm cho tình hình biển
Đơng trở nên phức tạp; Trung Quốc vi phạm nghiêm trọng các quy định của luật pháp
Quốc tế, đặc biệt là Hiến chương Liên Hợp quốc, Công ước Liên Hợp quốc về Luật
Biển năm 1982, Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở biển Đông giữa các nước
ASEAN và Trung Quốc năm 2002.

CHƯƠNG 2: QUAN HỆ NGOẠI GIAO VIỆT – TRUNG
TRÊN BIỂN ĐƠNG
2.1 Tình hình Biển Đơng hiện nay:
Cho đến nay các tranh chấp trên Biển Đơng khơng có nhiều tiến triển lạc quan,
thay vào đó, trong nhưng năm vừa qua đã diễn ra liên tiếp các hoạt động liên quan tới

Biển Đơng và có hệ lụy quan trọng là ảnh hưởng đến an ninh của khu vực. Nhưng
diễn biến này diễn ra trong quan hệ ngoại giao giữa Trung Quốc và Mỹ đang xấu đi,
hơn nữa các hiện tượng đã cộng hưởng với nhau và càng gia tăng ảnh hưởng đối với
an ninh của khu vực Đông Nam Á. Các sự kiện bao gồm các hiện tượng: hiện tượng
cấm tàu các Trung Quốc vào Vịnh Bắc Bộ, Trung Quốc bắt trái phép các tàu cá của
Việt Nam hoặc tuyên bố Biển Đơng là “lợi ích cốt lõi” của Trung quốc. Sự hiếu chiến
của Tung Quốc thể hiện qua những yêu sách đối với các đảo và vùng Biển Đông với
nỗi lo củ chính họ là tự do hàng hải. Các hành động củ Trung Quốc khơng phải thu
thập thơng tin tình báo mà được xem là những hành vi đe dọa và vũ lực. Hành vi là
hành vi vi phạm Hiến chương Liên Hợp Quốc cũng như Công ước Luật Biển 1982.
Trung Quốc không chỉ tranh chấp với nước ta mà còn tranh chấp với các nước khác:
Nhật Bản, Triều Tiên, Ma-lai-xi-a… từ đó tình hình Biển Đơng ngày càng trở nên
phức tạp và ngày càng bất ổn định.
Cuộc tranh cãi giữa Việt Nam và Trung Quốc liên quan đến chủ quyền các quần
đảo chính ở Biển Đơng. Ví dụ: 12/6/2012 Quốc hội Việt Nam đã thơng qua “luật biển”
trong đó nhắc lại chủ quyền của chính phủ đối với hai quần đảo Trường Sa và Hoàng
Sa, nhưng ngược lại Bộ Ngoại Giao Trung Quốc đã gọi động thái này là “bất hợp
10


pháp và khơng có hiệu lực” và là một sự xâm phạm đến chủ quyền lãnh thổ của Trung
Quốc. Tiếp theo đó chính phủ Trung Quốc đã nâng cấp tình trạng hành chính của Tam
Sa từ cấp huyện lên thành phố.
2. 2 Hoạt động trực tiếp của Trung Quốc và Việt Nam:
2.2.1 Hoạt động trực tiếp của Việt Nam:
2.1.1.1 Chủ trương của nhà nước ta:
Chủ trương của chúng ta là giải quyết các tranh chấp ở biển Đông bằng biện
pháp hịa bình trên cơ sở các ngun tắc cơ bản của Hiến chương Liên Hợp quốc, Công
ước Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982.Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở
biển Đông, giữa các nước ASEAN và Trung Quốc năm 2002, Luật Biển Việt Nam. Yêu

cầu chiến lược của chúng ta là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và lợi ích quốc
gia; đồng thời giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất
nước; giữ quan hệ hữu nghị hợp tác với Trung Quốc, các nước ASEAN và các nước
khác. Chủ trương cụ thể là:
1/ Trong xử lý vấn đề biển Đông, cần giữ vững độc lập, tự chủ, gắn bảo
vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia với giữ vững mơi trường hịa bình ðể phát triển
đất nước. Tranh thủ sự đồng tình ủng hộ rộng rãi của cộng đồng quốc tế.
2/ Tiếp tục khẳng định chủ quyền đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa; kiên định bảo vệ vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa theo luật
pháp quốc tế, tăng cường thực hiện và bảo vệ kinh tế biển, nhất là hoạt động
dầu khí và đánh bắt cá trong phạm vi 200 hải lý; bác bỏ u sách “đường lưỡi
bị” của Trung Quốc.
3/ Duy trì nguyên trạng biển Đông; bảo vệ quyền đánh bắt cá chính đáng
của ngư dân chúng ta trên biển Đơng. Chúng ta chủ động, tích cực cùng các bên
liên quan đàm phán tìm giải pháp cơ bản lâu dài mà các bên có thể chấp nhận
được đối với các khu vực tranh chấp.
4/ Xử lý hài hòa mối quan hệ giữa bảo vệ chủ quyền lãnh thổ với giữ
vững môi trường hịa bình, ổn định để phát triển đất nước, coi trọng quan hệ
hữu nghị hợp tác Việt - Trung và các nước có liên quan, phấn đấu khơng để xảy
ra xung đột quân sự ở biển Đông; tránh các vấn đề tranh chấp làm đổ vỡ quan
hệ giữa nước ta với Trung Quốc.
2.1.1.2 Những hoạt động thiết yếu để bảo vệ chủ quyền và lợi ích của Việt Nam ở
biển Đông:

11


Phương châm là vận dụng tổng hợp các biện pháp chính trị, ngoại giao, dư luận,
pháp lý, quân sự trên tinh thần “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, kiên trì nguyên tắc, đồng
thời xử lý các tình huống, các vấn đề cụ thể một cách bình tĩnh, chủ động.

Lập trường nhất quán của Đảng và Nhà nước ta là khẳng định chủ quyền đối với 2
quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa; quyền chủ quyền và quyền tài phán trong vùng đặc
quyền kinh tế 200 hải lý và thềm lục địa theo quy định của Công ước Liên Hợp quốc
về Luật Biển năm 1982. Chúng ta đã chủ động tích cực triển khai đồng bộ một loạt
công tác nhằm tạo cơ sở vững chắc cho việc bảo vệ chủ quyền và lợi ích của ta trên
biển Đơng, cụ thể:
1. Ban hành chiến lược biển đến năm 2020: Chiến lược Biển Việt Nam
thể hiện rõ quan điểm hợp tác quốc tế về biển, góp phần xây dựng vùng biển
hịa bình, hợp tác, hữu nghị, cùng phát triển trên cơ sở tôn trọng chủ quyền,
toàn vẹn lãnh thổ. Hợp tác quốc tế về biển phải nhằm phát huy tiềm năng, thế
mạnh của Việt Nam, khai thác biển có hiệu quả và phát triển bền vững biển;
trong đó chú ý bảo đảm an ninh chung và giải quyết những tranh chấp trên biển.
2. Về pháp lý: Chúng ta đã xây dựng và trình Liên Hợp quốc báo cáo xác
định ranh giới ngoài thềm lục địa khu vực phía Bắc, đồng thời phối hợp với
Malayxia xây dựng và trình Liên Hợp quốc báo cáo xác định ranh giới ngồi
thềm lục địa phía nam. Năm 2003, ban hành Luật Biên giới quốc gia, năm
2012, ban hành Luật Biển Việt Nam.
3. Về quản lý hành chính: Đã triển khai thành lập huyện đảo Hoàng Sa
thuộc thành phố Đà Nẵng; huyện đảo Trường Sa thuộc tỉnh Khánh Hòa; trong
đó có thị trấn Trường Sa và 2 xã Song Tử Tây, Sinh Tồn; hiện có nhiều hộ gia
đình sống; xây dựng nhà khách, nhà tưởng niệm Bác Hồ, dựng tượng Quốc
công Tiết Chế Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, xây dựng chùa...; triển
khai một số dự án quan trọng như ni trồng hải sản, chương trình năng lượng
sạch và hệ thống chiếu sáng ở các đảo trên huyện đảo Trường Sa; đã phủ sóng
truyền hình, đài phát thanh, điện thoại di động lên tồn bộ biển Đơng. Nhiều
đồn trong cả nước thường xuyên ra thăm hỏi, động viên cán bộ, chiến sĩ và
nhân dân đang sinh sống, làm việc trên quần đảo Trường Sa.
4. Về kinh tế: Các hoạt động về thăm dị, khai thác dầu khí của chúng ta
đã và đang diễn ra bình thường, chúng ta đang tiếp tục duy trì hợp tác với các
tập đồn dầu khí lớn của Nga, Mỹ, Canada, Úc, Ấn độ, Nhật, Hàn Quốc trên

vùng đặc quyền 200 hải lý và thềm lục địa… Các ngành chức năng và các địa
phương cũng đã thực hiện nhiều biện pháp hỗ trợ đối với ngư dân khai thác trên
12


biển. Ngư dân ta tiếp tục đánh bắt hải sản ở khu vực đảo Hoàng Sa, Trường Sa;
sản lượng khai thác của khối tàu cá xa bờ chiếm 40% tổng sản lượng khai thác
hải sản của cả nước.
5. Về quốc phòng, an ninh: Thành lập lực lượng Cảnh sát Biển, Vùng II
Hải quân… Hải quân, không quân thường xuyên được nâng cao năng lực phòng
thủ và tăng cường hoạt động tuần tra trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa
Việt Nam. Các lực lượng tuần tra, kiểm soát của bộ đội biên phòng, cảnh sát
biển thường xuyên triển khai các công việc để quản lý các hoạt động trên biển,
xua đuổi, xử lý hành chính các vụ việc tàu cá nước ngoài vi phạm vùng biển
của chúng ta.
6. Về ngoại giao: Chúng ta kiên trì đấu tranh có lý, có tình ở các cấp khác
nhau, song phương và đa phương, qua cả kênh chính thức và khơng chính thức;
kết hợp đấu tranh ngoại giao với đấu tranh dư luận và vận động quốc tế. Chúng
ta đã chủ động vận động qua nhiều kênh, nhiều cấp khác nhau, kể cả cấp cao,
làm rõ lập trường đúng đắn của chúng ta; phê phán yêu sách “đường lưỡi bò”
phi lý của Trung Quốc, ủng hộ thực hiện Tuyên bố về cách ứng xử của các bên
ở biển Đông giữa các nước ASEAN và Trung Quốc năm 2002, tiến tới xây
dựng Bộ quy tắc ứng xử của các bên ở biển Đông nhằm duy trì hịa bình, ổn
định ở biển Đơng… Tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng Quốc
tế, tạo thêm sức mạnh cho ta trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo.
2.2.2 Hoạt động trực tiếp của Trung Quốc:
2.2.2.1 Chủ trương của Trung Quốc:
Trước những hành động và tinh hiếu chiến của Trung Quốc: đường chín đoạn
đứt khúc lý do về kinh tế như dầu khí, đánh bắt cá, bảo vệ môi trường… Tuy nhiên,
trên tất cả chỉ là những lý do bên ngoài che giấu những ý định và lợi ích sâu xa bên

trong của Trung Quốc. Những ý định và lợi ích này đều liên quan đến bố trận quốc
phòng của Trung Quốc nhằm đối phó với những gì Trung Quốc coi là chính sách
ngăn chặn của Mỹ chống lại Trung Quốc, nếu không muốn gọi là mối đe dọa Mỹ.
Trong những tính tốn này, Biển Đơng khơng khác gì một qn cờ cực kỳ quan trọng,
tuy nhiên, vẫn chỉ là một quân cờ trong kế hoạch phòng thủ tổng thể mà Trung Quốc
đang xây dựng nhằm hạn chế cái được cho là mối đe dọa Mỹ. Kế hoạch phòng thủ
tổng thể này của Trung Quốc gồm ba giai đoạn:
1.Đảm bảo tự do hàng hải hồn tồn trên tồn Biển Đơng cho hải qn
Trung Quốc, đặc biệt là cho các tàu ngầm chiến lược,không bị lực lượng hải
quân của bất cứ nước ngoài nào xen vào. Đây là lý do chính của việc Trung
13


Quốc nhất quyết muốn biến Biển Đông thành một khu thánh đường khơng thể
xâm phạm để thực hiện mục đích chiến lược của mình. Điều này giải thích vì
sao Trung Quốc rất không muốn Hải quân Mỹ tiếp tục qua lại trên vùng biển
này.
2.Trung Quốc có thể tự do tiến ra biển khơi, ít nhất là trong thời bình,
hoặc trong các cuộc khủng hoảng cấp thấp, xa hơn nữa là trong bối cảnh cuộc
chiến tranh lạnh thứ hai có vẻ như đã bắt đầu hình thành. Chiến tranh là một
vấn đề khác bởi trong chiến tranh, tất cả các nguyên tắc của Công ước Liên
Hợp Quốc về Luật Biển liên quan đến việc quản lý các vùng tiếp giáp bờ biển
của các quốc gia đều bị phá vỡ bởi những toan tính và nhu cầu tác chiến được
ưu tiên, khơng có chỗ cho bất kỳ cân nhắc nào khác.
3.Bố trí tàu ngầm chiến lược đến các vị trí nằm trong tầm bắn của tên lửa
có thể tiếp cận đến bờ biển Mỹ, trước hết là Hawai.
Tất cả những hành vi này nhấn mạnh thực tế rằng, để đảm bảo kế hoạch phòng
thủ triệt để, chống lại các thế lực được coi là thù địch, có thể là Mỹ và đồng minh, đặc
biệt là Nhật Bản, Trung Quốc thực sự cần biến Biển Đông thành một “thánh đường”.
Tuy nhiên, trong chiến lược tổng thể toàn diện của Trung Quốc, để bảo đảm quốc

phịng của mình, Biển Đơng chỉ là một qn cờ, chắc chắn là một quân cờ lớn, tuy
nhiên vẫn chỉ một quân cờ trên bàn “cờ vây” mà thôi.
2.2.2.2 Những hoạt động thiết yếu của Trung Quốc:
Năm 2011-2012 đã chứng kiến những bước phát triển mới và cứng rắn hơn
trong yêu sách đường chín đoạn của Trung Quốc ở Biển Đông. Những vụ việc vừa
qua như: đụng độ ở bãi cạn Scarborough với Philippines, kêu gọi đấu thầu 9 lô dầu khí
của CNOOC chồng lấn với Vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, được tạo ra để bắt
đầu hiện thực hóa những ranh giới các vùng biển mà Trung Quốc coi là lãnh thổ có
chủ quyền trên biển của mình. Khơng chỉ vì những lý do kinh tế, cách hành xử này
của Trung Quốc dựa trên những lý do chiến lược sâu sắc khác. Điều đó có nghĩa là
tình hình sẽ tiếp tục tồi tệ hơn trong tương lai gần với những biện pháp mới của Trung
Quốc.
Dường như đã đến lúc ngừng thắc mắc liệu đường chín đoạn có tồn tại thật sự
hay khơng, cũng như đâu là ý nghĩa thực sự của đường vẽ này, bởi thực tế là Trung
Quốc sẽ không bao giờ đưa ra tọa độ chính xác của chín đoạn này. Trung Quốc sẽ
khơng cân nhắc những việc như thế: đường chín đoạn ở đó, nó tồn tại và Trung Quốc
đang cố gắng củng cố nó, một cách kiên quyết.

14


Vấn đề khơng chỉ cịn là Hồng Sa, Trường Sa và Trung Sa (Bãi Macclesfield +
bãi Truro + đá Scarborough), mà là toàn bộ khu vực bên trong đường chín đoạn, một
khu vực bao gồm tất cả các quần đảo trên, một khu vực được gọi là “lưỡi bò” theo
cách gọi của các quốc gia ven Biển Đông khác, một khu vực mà Trung Quốc cho là
một vùng biển lịch sử - một khái niệm không tồn tại trong Công ước của Liên Hợp
Quốc về Luật, Tướng (nghỉ hưu) Daniel Schaeffer 68 Biển,hoặc là lãnh hải - một yêu
sách không phù hợp với các quy định của UNCLOS, hoặc vùng đặc quyền kinh tế.
Trong những năm gần đây chứng minh rằng: để bảo vệ cho những lập luận trên,
Trung Quốc đã lý giải bằng cách trao cho các quần đảo mình yêu sách địa vị giống

như các quốc gia quần đảo, nói cách khác là vẽ các đường cơ sở thẳng xung quanh các
quần đảo. Điều này đã được hiện thực hóa đối với Hoàng Sa theo tinh thần của
“Tuyên bố của Chính phủ nước Cộng hịa Nhân dân Trung Hoa về đường cơ sở của
lãnh hải”, ban hành ngày 15/5/1996. Đối với Trường Sa, đường cơ sở này đang dần
được hình thành trong thời gian tới. Nhưng ý định của Trung Quốc về việc vẽ đường
cơ sở quần đảo xung quanh các quần đảo này có thể dễ dàng suy luận được từ công
hàm gửi lên Liên Hợp Quốc ngày 14/4/2011 bởi có đoạn viết: “Theo những điều
khoản liên quan của UNCLOS 1982, cũng như Luật của Cộng hòa Nhân dân Trung
Hoa về Lãnh hải và Vùng Tiếp giáp (1992) và Luật về Vùng đặc quyền kinh tế và
Thềm lục địa của Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa (1998), Quần đảo Nam Sa của
Trung Quốc có đầy đủ Lãnh hải, EEZ và Thềm lục địa”. Mục đích của Cơng hàm đó
là để đáp lại phản đối chính thức của Philippines ngày 5/4/2011 lên Liên Hợp
Quốc/Ủy ban ranh giới ngoài thềm lục địa đối với yêu sách đường chín đoạn của Bắc
Kinh, nêu trong công hàm gửi Liên Hợp Quốc ngày 7/5/2009. Theo điều 13 của
UNCLOS, chỉ những bãi cạn lúc nởi lúc chìm mới có quyền có một vùng lãnh hải bao
quanh. Đường chín đoạn đã trở thành đường trung tuyến giữa các lãnh thổ mà Trung
Quốc yêu sách với bờ biển của các quốc gia kế cận khác. Từ năm 2006, Trung Quốc
đã kiên quyết bắt đầu tiến trình hiện thực hóa đường chín đoạn, biến nó thành đường
phân định vùng biển mà Bắc Kinh tuyên bố quyền chủ quyền. Bắc Kinh đã thực hiện
điều đó như sau:
1. Bằng việc gây áp lực lên các công ty dầu khí nước ngồi có hợp đồng với các
cơng ty dầu khí quốc gia Việt Nam và Philippines hoạt động trong các vùng
đặc quyền kinh tế của những nước này, vùng mà Trung Quốc coi là chồng lấn
với đường chín đoạn và ngoạm vào vùng biển nước này tuyên bố chủ quyền:
• Đới với Việt Nam: như Ơng Trần Trường Thủy, Học viện Ngoại giao
Việt Nam chứng minh trong bài trình bày của mình năm 2010, trong
15


2.


3.
4.
5.

6.

7.

khoảng thời gian từ 6/11/2006 đến tháng 8/2007, ghi nhận được 17 vụ
quấy nhiễu đối với các công ty dầu khí nước ngồi có hợp đồng với
PetroVietnam
• Đới với Philippines: gây ra các vụ đụng độ xung quanh bãi Cỏ Rong vào
tháng 6/2011. Bãi Cỏ Rong không phải là một bãi cạn nửa nởi nửa chìm
mà Q trình chiếm đoạt Biển Đơng của Trung Quốc thơng qua việc hiện
thực hóa đường chín đoạn 69 là một địa hình ln ln chìm, và theo các
quy định của UNCLOS thì trong trường hợp này, bãi Cỏ Rong không thể
được coi là một phần của quần đảo Trường Sa mà chỉ là một phần thềm
lục địa của Philippines.
Bằng cách biến CNOOC thành một công cụ cho chiến lược của Trung Quốc. Trên
thực tế, ngày 23/6/2012, CNOOC đã mời thầu các công ty nước ngoài để hợp tác
và hoạt động cùng với CNOOC ở 9 lơ, ngay rìa của đường chín đoạn nhưng vẫn
nằm bên trong “đường lưỡi bò”, do đó vắt ngang sang Vùng đặc quyền kinh tế của
Việt Nam.
Bằng cách gây áp lực với các ngư dân các nước ví dụ như:
Đới với Việt Nam: đơn phương ban hành lệnh tạm cấm đánh bắt cá hàng năm ở
phía bắc vĩ tuyến 12;
đới với Philippines: gây ra các vụ việc liên quan tới đánh bắt cá như ở bãi
Scarborough vào ngày 10/4/2012. Sau vài tuần giằng co giữa lực lượng cảnh sát
biển Trung Quốc và tàu chỉ huy của hải quân Philippines, hai bên đã rút các lực

lượng của mình, bán quân sự đối với Trung Quốc và quân sự đối với Philippines.
Bằng cách củng cớ các biện pháp hành chính trong khắp khu vực như thành lập
thành phố cấp tỉnh Tam Sa, có trụ sở ở đảo Phú Lâm, một trong những đảo chính ở
Hồng Sa, với nhiệm vụ quản lý Hồng Sa, Trường Sa và quần đảo Trung Sa. Vào
tháng 11/2007, ba quần đảo này đã được gộp vào một đơn vị hành chính cấp
huyện, đến nay được quản lý từ Hải Khẩu, trên đảo Hải Nam. Do đó việc thành lập
thành phố Tam Sa ở trên quần đảo Hoàng Sa ở cấp tỉnh là sự nâng cấp đơn vị hành
chính được thành lập từ năm 2007.
Bằng việc chính thức tuyên bố chủ quyền đối với “đường lưỡi bò” vào ngày
7/5/2009, khi gửi lên Tổng thư ký Liên Hợp Quốc công hàm thể hiện yêu sách của
Trung Quốc ở Biển Đông, lần đầu tiên kể từ khi đường chín đoạn được vẽ năm
1947. Để làm rõ cho yêu sách này, một bản đồ được vẽ rõ ràng đã được đính kèm
cùng với công hàm. Mặc dù Trung Quốc vẫn dùng những lời đường mật với các
nước láng giềng Đông Nam Á, vẫn đề xuất những chương trình hợp tác và hợi
16


nhập kinh tế rất hấp dẫn đối với khu vực và muốn thể hiện thiện chí, nhưng Bắc
Kinh sẽ tiếp tục củng cố u sách của mình đối với tồn bộ “đường lưỡi bò”.
2.3 Thái độ của quốc tế đối với tình hình Biển Đơng:
2.3.1 Mối quan hệ giữa ASEAN và Trung Quốc:
Mở đầu là sự kiện ASEAN và Trung Quốc ký Tuyên bố chung về cách ứng xử
của các bên ở Biển Đông năm 2002, trong thời gian 5 năm. Đến năm 2007, căng
thẳng giữa các nước ở Biển Đông ngày càng gay gắt trong mọi lĩnh vực, với Trung
Quốc là trung tâm của hầu hết các sự vụ. Kể từ năm 2007,một số lượng lớn các tàu
tuần tra hiện đại của Trung Quốc đã được phái đến Biển Đông. Ngày càng nhiều ngư
dân các nước Đông Nam Á bị bắt trong khu vực đánh cá truyền thống của họ bởi các
nhà chức trách Trung Quốc. Năm 2009, Bắc Kinh chính thức tuyên bố chủ quyền đối
với 80% Biển Đông bằng việc gửi một bức thư lên Tổng thư ký Liên Hợp Quốc, đính
kèm một bản đồ đường đứt khúc chín đoạn. Trong số đó đáng kể nhất là việc Trung

Quốc gọi Biển Đơng là “lợi ích cốt lõi” của mình vào năm 2010 và quấy rối, phá hoại
các tàu khảo sát thăm dị dầu khí của các nước trong khu vực trong vùng đặc quyền
kinh tế của họ vào năm 2011. Các động thái cứng rắn mang tính hệ thống của Trung
Quốc ở Biển Đông đã bị các nước khác phản đối quyết liệt, đặc biệt là Philippin và
Việt Nam.
Trong khi các quốc gia Đơng Nam Á có yêu sách ở Biển Đông muốn ASEAN và các
bên khác có lợi ích ở Biển Đơng đóng vai trị tích cực trong việc đảm bảo an ninh trong khu
vực thì Trung Quốc lại ln cố gắng hạn chế vai trị của các bên khơng có u sách và theo
đuổi lập trường đối thoại song phương với các nước yêu sách khác. Trong khi so với các
nước yêu sách này, Trung Quốc mạnh hơn rất nhiều. Điều này được thể hiện trong diễn văn
của Đại sứ Trung Quốc tại ASEAN, Xue Hanqin, năm 2009 ở Singapore rằng “toàn bộ vấn
đề Biển Đông không phải là vấn đề giữa ASEAN, với vai trò một tổ chức, với Trung Quốc,
mà là giữa các nước liên quan”.Lập trường của Bắc Kinh được Ngoại trưởng Trung Quốc
Dương Khiết Trì nhắc lại lần nữa tại ARF lần thứ 17 tại Hà Nội tháng 7 năm 2010 khi ông
khẳng định rằng tranh chấp ở Biển Đông không phải giữa Trung Quốc và ASEAN, và bất
cứ nỗ lực nào nhằm “quốc tế hóa” vấn đề sẽ “chỉ làm vấn đề tồi tệ hơn và càng khó để đi
đến giải pháp.”
Tại Hội nghị Bộ trưởng ASEAN lần thứ 25 tại Manila tháng 7 năm 1992, khi
Philippin giữ chức chủ tịch, các Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN đã thông qua “Tuyên bố
ASEAN về Biển Đông”. Văn kiện đầu tiên của ASEAN về Biển Đông khẳng định rằng
“mọi diễn biến bất lợi ở Biển Đơng ảnh hưởng trực tiếp đến hịa bình và ổn định trong
khu vực” và nhấn mạnh “sự cần thiết phải giải quyết tất cả các vấn đề tài phán và chủ
17


quyền gắn liền với Biển Đông bằng các biện pháp hịa bình, khơng sử dụng vũ lực.Khi
căng thẳng tiếp tục leo thang, khó khăn của việc khơng có một bộ hướng dẫn thực thi đã
được các Ngoại trưởng ASEAN tái khẳng định mạnh mẽ vào tháng 1 năm 2011. Các
Ngoại trưởng khẳng định rằng: sau năm đàm phán ở cấp độ nhóm chuyên gia… các tiến
bộ quan trọng của Bộ Hướng dẫn vẫn chưa đạt được.Làn sóng “quả quyết hung hăng”

mới của Trung Quốc vào đầu năm 2011, đặc biệt là việc quấy nhiễu các tàu khảo sát dầu
khí của Việt Nam và Philippin trong vùng đặc quyền kinh tế của hai nước này.
2.3.2 Quan điểm của Mỹ về Biển Đơng:
Chính sách Biển Đơng của Mỹ khơng thay đổi trong nhiều năm quan tâm của Mỹ
tại khu vực này không đồng nhất tại các thời điểm khác nhau và Mỹ nhìn nhận Biển
Đơng dưới nhiều dưới nhiều khía cạnh đặc biệt là trong bối cảnh các xu hướng trong
quan hệ Trung – Mỹ. Đặc Biệt Mỹ có những lợi ích về mặt thương mại bao gồm việc
tự do giao thương hàng hải giữa Ấn Độ Dương với Đông Bắc Á và việc các cơng ty
của Mỹ có thể cạnh tranh trên cơ sở bình đẳng trong việc thăm dị và khai thác dầu
khí cũng như các tài ngun khống sản khác trong khu vực Biển Đông.
Ba yếu tố khác nhau trong chính sách của Mỹ có sự khác biệt. Đó là:
a) Mỹ “không thể hiện quan điểm trong các giá trị pháp lý trong việc tranh chấp

chủ quyền lãnh thổ” tại Biển Đơng.
b) Duy trì tự do hàng hải là “lợi ích quốc gia” cơ bản của Mỹ.
c) Các nước không thể hạn chế một cách hợp pháp các hoạt động khảo sát quân

sự trong Vùng đặc quyền kinh tế của họ
Các quan chức Mỹ lúng túng trước lập trường mơ hồ của Trung Quốc về
“đường lưỡi bò” đánh dấu tuyên bố của Trung Quốc tại Biển Đông và việc khẳng định
tính chất của vùng biển này như một “lợi ích cốt lõi” Trong mắt người Mỹ, các hành
động của Trung Quốc dường như không đạt hiệu quả bởi một số lý do sau.
Thứ nhất, các hành động của Trung Quốc đã làm phương hại đến chiến
dịch kéo dài một thập kỷ của nước này trong việc miêu tả mình như một đối tác
ơn hịa với các nước láng giềng phía nam.
Thứ hai, các hành động của Trung Quốc đẩy nhanh việc “quay trở lại châu
Á” dưới thời chính quyền Mỹ hiện nay.
Thứ ba, sau khi các căng thẳng được giảm bớt tại Biển Đông trong hơn gần
một thập kỷ qua đã cho phép Trung Quốc và Mỹ không đặt nặng an ninh như một
phần trong mối liên hệ của họ với Đông Nam Á, Trung Quốc và Mỹ đã nêu bật


18


các tính tốn về an ninh truyền thống trong các mối quan hệ của các thành viên
Đông Nam Á với các cường quốc bên ngồi.





Chính sách Biển Đơng nhất qn của Mỹ Khi Ngoại trưởng Clinton công khai
bày tỏ quan ngại về các báo cáo của Trung Quốc về các hoạt động trên Biển Đông tại
Diễn đàn An ninh khu vực ASEAN năm 2010 tại Hà Nội, bà đã có thể trích dẫn tuyên
bố chính sách của Mỹ năm 1995 về Biển Đông, soạn thảo bởi các quan chức của Mỹ
vào ngày 10-5-1995. Sự chỉ trích gián tiếp đối với tính quyết đốn ngày càng tăng của
Trung Quốc tại Biển Đông đã nhường chỗ cho những phơi bày thẳng thắn hơn trong
quan tâm của Mỹ giữa năm 2009 khi hai quan chức cao cấp của chính phủ đối chất
trước Ủy ban Đối ngoại Thượng viện về các tranh chấp hàng hải ở Đơng Á- Thái Bình
Dương. Ngoại trưởng Clinton đưa ra đề nghị giúp đỡ cho Tuyên bố chung giữa ASEAN
và Trung Quốc năm 2002 về ứng xử của các bên tại Biển Đơng. Mười một quốc gia,
trong đó bao gồm bốn thành viên ASEAN tuyên bố chủ quyền là Bru-nây, Ma-lai-xi-a,
Phi-líp-pin và Việt Nam – cùng với In-đơ-nê-xi-a, Xinh-ga- po, Liên minh châu Âu, Ôxtrây-li-a và Nhật Bản, “đã tiếp theo Ngoại trưởng Mỹ mặc nhiên thách thức Bắc Kinh
với các tuyên bố trên Biển Đông”.
2.3.3 Các công ước về Luật biển 1982:
Nguồn lợi của Biển Đông liên quan đến nhiều quốc gia xung quanh. Chính vì
vậy việc xác định ranh giới quốc gia trên biển rất khó khăn và phải được quy định rõ
ràng. Trên cơ sở đó năm 1982, công ước về Luật biển quốc tế đã xác định phạm vi các
vùng biển của Việt Nam bao gồm:
Vùng nội thủy: Là vùng nước phía trong đường cơ sở. Đường cơ sở là một đường gấp

khúc được tạo thành bởi nhiều đoạn thẳng nối các mũi đất xa nhất với các đảo ven bờ.
Ở nước ta đường cơ sở là một đường khấp khúc bao gồm 11 đoạn thẳng nối với nhau
từ điểm 0 đến A11, từ điểm gốc nằm trên ranh giới phía tây nam của vùng nước giữa
Việt Nam và Campuchia qua Hòn Nhạn, Đá Lẻ, Tài Lớn, Bơng Lang, Bảy Cạnh, Lý
Sơn, Hịn Đơi đến mũi Đại Lãnh sang Hịn Ơng Căn, dảo Lý Sơn cho tới đảo Cồn Cỏ
của Quảng Bình.
Trong vùng nội thủy nước ta các tàu thuyền của nước ngoài ra vào phải được phép và
phải tuân theo luật pháp của nước ta.
Vùng lãnh hải: Vùng biển nằm ngay sát bên ngoài vùng nội thủy là vùng lãnh hải.
Chiều rộng của vùng này theo điều 3 công ước năm 1982 quy định là 12 hải lý tính từ
đường cơ sở. Ranh giới phía ngồi của lãnh hải chính là biên giới quốc gia trên biển
của nước ta.Vùng lãnh hải là điều kiện đảm bảo cho những quyền lợi về tài nguyên

19








sinh vật và đảm bảo cho vấn đề an ninh, quốc phòng của phần lãnh thổ trong đất liền
của nước ven bờ.
Vùng tiếp giáp lãnh hải: Là vùng biển nằm ngay sát ngồi lãnh hải và có quan hệ mật
thiết với lãnh hải. Điều 33, công ước 1982 quy định chiều rộng của vùng tiếp giáp
lãnh hải là 12 hải lý tính từ giới hạn vùng lãnh hải. Vể mặt pháp lý, Nghị định 30CP ra
ngày 29/01/1930 của Chính phủ Việt Nam nói rõ “Tàu thuyền quân sự của nước ngoài
bao gồm cả tàu chiến và tàu đổ bộ muốn vào vùng tiếp giáp lãnh hải phải xin phép
Chính phủ Việt Nam trước 48h khi đi vào vùng tiếp giáp lãnh hải”.

Vùng đặc quyền kinh tế: Vùng đặc quyền kinh tế là vùng biển rộng 200 hải lí tính từ
đường cơ sở. Ở vùng biển này nước ta có quyền hồn tồn riêng biệt về mặt kinh tế
như: có chủ quyền hồn tồn về thăm dị, khai thác, bảo vệ, sử dụng và quản lí tất cả
các tài nguyên thiên nhiên, quyền riêng biệt về tra cứu khoa học, về bảo vệ, chống ô
nhiễm môi trường biển.
Thềm lục địa: Thềm lục địa bao gồm đáy biển và lòng đất dưới đáy biển thuộc phần
kéo dài phía tây nam của Việt Nam, mở rộng ra ngoài lãnh hải Việt Nam cho dến bờ
ngồi của rìa lục địa. Nơi nào bờ ngồi rìa lục địa được mở rộng ra cách đường cơ sở
200 hải lí. Nước ta có chủ quyền hồn tồn về thăm dị, khai thác, bảo vệ và quản lí
các tài nguyên thiên nhiên ở thềm lục địa Việt Nam. Dọc theo bờ biển nước ta suốt từ
Bắc vào Nam có hàng nghìn đảo lớn nhỏ nhưng tập trung nhiều nhất ở vùng biển
thuộc các tỉnh Quảng Ninh, Hải Phòng và các tỉnh Kiên Giang, Cà Mau, đảo Lí Nhiều
huyện đảo dân cư khá đông như huyện đảo Phú Quý, Phú Quốc. Cách bờ tương đối xa
từ 170 – 250 hải lí là huyện Hồng Sa. Việc khẳng định chủ quyền của nước ta đối với
các đảo và quần đảo này còn là cơ sở để khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với
vùng biển và thềm lục địa quanh đảo.

CHƯƠNG 3: CƠ HỘI, THÁCH THỨC VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỐI
VỚI QUAN HỆ NGOẠI GIAO VIỆT – TRUNG TRÊN BIỂN ĐÔNG
3.1 Cơ hội, thách thức:
a. Chủ quyền:
Đây là điều kiện tiên quyết để giải quyết tranh chấp biển đảo. Các bên yêusách
thường tuyên bố sẵn sàng giải quyết các tranh chấp về đảo trên cơ sở luật quốc
tế, đặc biệt là Công ước của Liên hợp quốc về luật biển 1982. Công ước quy định các
cơ chế giải quyết các tranh chấp biển, nhưng khơng có điều khoản nào đề cập đến giải
quyết các tranh chấp chủ quyền đối với các đảo ngoài khơi.(1) Theo nguyên tắc của
Luật biển “Đất thống trị biển” thì việc xác lập chủ quyền là điều kiện để đòi hỏi các
20



vùng biển hợp pháp phù hợp Công ước của Liên hợp quốc về luật biển 1982. Các
vùng biển cũng chỉ được phân định một khi các tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ đối
với các đảo và đá ngầm được giải quyết. Trong tiến trình tranh chấp, các nước đã
(1) Điều 298 (a) UNCLOS

đưa ra hai dạng yêu sách chủ quyền:
1) Từ các phương thức thụ đắc lãnh thổ đã đề cập trong lịch sử luật quốc tế:
chiếm hữu thực sự, quyền phát hiện, kế cận về mặt địa lý tới
2) Phương thức vận dụng luật biển mới để đòi hỏi chủ quyền.
b. Đường 9 đoạn hình chữ U (đường lưỡi bị):
Tuy có những đánh giá khác nhau về nội dung và tính chất của đường chữ U,
các học giả Trung Quốc và Đài Loan đều cho rằng đường này đã được quốc tế công
nhận rộng rãi. Các học giả Đài Loan giải thích đường này thể hiện yêu sách đối với
các đảo, đá, bãi cạn nửa nổi nửa chìm trong phạm vi đường (1) từ năm 1946. Theo họ,
trước những năm 1960 và 1970, Việt Nam, Philippin, Malaysia, Brunei và các nước
Đông Nam Á khác đều không đưa ra sức phản đối đường chũ U này. Điều đó chứng
tỏ họ đã công nhận và mặc nhiên chuẩn y đường chữ U cũng như tính chất lịch sử của
nó. Điều đó cũng chứng tỏ họ đã cơng nhận cả bốn quần đảo (Đông Sa, Tây Sa,
Trung Sa và Nam Sa) thuộc chủ quyền Trung Quốc. Ji Guoxing cho rằng các nước đã
có sự hiểu nhầm khi áp dụng Cơng ước Luật biển của Liên hợp quốc năm 1982.
Khơng có điều khoản nào trong Công ước cho phép các quốc gia ven biển mở rộng
vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của mình lại địi hỏi chủ quyền các đảo nằm
trong các vùng biển đó nhưng thuộc quốc gia khác. Hơn nữa Công ước Luật biển lại
công nhận và bảo vệ danh nghĩa lịch sử. Vì vậy khơng thể dùng Công ước Luật biển
làm cơ sở xâm phạm chủ quyền của Trung Quốc đối với các quần đảo và vùng nước
phụ cận. Ơng lập luận đường chữ U khơng phải là đường vùng nước lịch sử mà là
đường vùng nước lịch sử đặc biệt nghĩa là Trung Quốc có một số quyền lịch sử xác
định trong đường đó như một số ưu tiên về hàng hải, đánh cá và khai thác tài nguyên.
Vùng chồng lấn giữa đường vùng nước lịch sử đặc biệt này của Trung Quốc với vùng
đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của các nước khác sẽ tạo ra các vùng tranh

chấp khác nhau.(2)
Cần thấy rằng các tác giả trên quá tự tin khi khẳng định rằng đường chữ U đã
được cộng đồng quốc tế cơng nhận và các quốc gia liên quan khơng có sự phản đối.
Thứ nhất, thờì điểm cơng bố với thế giới là 1946, 1947 hay chính thức lần đầu tiên là
ngày 7/5/2009. Thứ hai, nguồn gốc đường này chỉ là một dạng xuất bản tư nhân. Thứ
21


ba, một đường lúc thì 11 đoạn, lúc thì 9 đoạn, vẽ tùy tiện, không tọa độ, không rõ
(1)Alfred Hu, “South China Sea, “Troubled waters or sea of opportunity?”, Ocean Development and International Law,
41:203-213,2010.
(2)Ji Guoxing, “Outer Continental Shelf Claims in the South China Sea: A New Challenge to the China’s U shaped
line”, International Workshop on “Non-Traditional Security Cooperation in the South China Sea, Haikou, 20-22 May
2010.

ràng sao có khả năng thể hiện một đường yêu sách biên giới rõ ràng theo đúng các
quy định của luật quốc tế để các quốc gia khác phải bận tâm.
Thứ tư, vào thời điểm đường lưỡi bò đang được Bộ Nội vụ Trung Hoa in trên
bản đồ, năm 1946 Pháp đã đưa tàu và qn ra đóng giữ đảo Hồng Sa, Trường Sa,
tiếp tục duy trì danh nghĩa chủ quyền kế thừa từ Nhà nước phong kiến An Nam và
hoạt động chiếm hữu theo luật quốc tế của Pháp năm 1933. Hoạt động thực tiễn này
là sự phản đối hùng hồn ý định yêu sách hai quần đảo bằng cách vẽ đường chữ U từ
phía nước láng giềng phương Bắc. Thứ năm, Hiệp ước hịa bình San Francisco 1951
khơng đả động chút gì tới đường chữ U. Ngay cả Tuyên bố của Thủ tướng Chu Ân
Lai năm 1951 về Dự thảo Hiệp ước San Francisco cũng khơng nhắc gì đến đường
chữ U. Vì vậy khơng thể nói đã có sự cơng nhận quốc tế. Thứ sáu, thực tế tranh chấp
giữa Việt Nam và Trung Quốc về chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa cũng như đòi hỏi của Philippines, Malaysia đối với hầu như toàn bộ hoặc
một bộ phận của quần đảo Trường Sa cho thấy khơng thể nói đường chữ U trên Biển
Đông mà Trung Quốc vạch ra đã được các nước khác công nhận. Thứ bảy, ngay cả

những nước khơng liên quan gì đến tranh chấp cũng thể hiện quan điểm khơng đồng
tình. Mỹ khơng cơng nhận bất kỳ vùng biển nào không gắn với đất liền và đảo.(1)
Indonexia cho lưu chuyển tại Liên hợp quốc ngày 8/7/2010 Cơng hàm khơng chấp
nhận đường lưỡi bị của Trung Quốc.(2)
Lập luận đường chữ U là đường vùng nước lịch sử đã không thể thuyết phục
được cộng đồng quốc tế. Thứ nhất, trong Tài liệu chuẩn bị cho Hội nghị của Liên hợp
quốc về luật biển năm 1958 trong danh sách các vùng nước lịch sử của thế giới
khơng có tên vùng nước lịch sử hình chữ U ở Biển Đơng. Thứ hai, Công ước luật
biển năm 1982 không đề cập đến vùng nước lịch sử. Điều 15 của Công ước chỉ quy
định trường hợp phân chia lãnh hải rộng 12 hải lý theo đường cách đều hoặc trung
tuyến trừ khi có danh nghĩa lịch sử hoặc hồn cảnh đặc biệt. Khơng có bất kỳ một
quy định nào viện dẫn danh nghĩa lịch sử cho vùng biển rộng hơn 12 hải lý chứ đừng
nói cách bờ vài trăm hải lý như đường chữ U.

22


(1)Ngoại trưởng Mỹ Hilary Clinton tại Hội nghị ARF 17, Hà Nội tháng 7/2010: “Phù hợp với luật tập quán
quốc tế, yêu sách hợp pháp vùng biển trong Biển Đông cần phải được bắt nguồn chỉ từ các yêu sách hợp
pháp với đất liền và đảo”.
(2)Permanent Mission of the Republic of Indonesia to the United Nations, Note N. 480/POL-703/VII/10,
New York 8 July 2010 with reference to the circulate Note CML/17/2009 of 7 May 2009 addressed to the
General Secretary of United Nations by the Permanent Mission of the People’s Republic of China to the
United Nations date of access
13 May 201

Thứ ba, khái niệm vùng nước lịch sử hay vùng nước lịch sử đặc biệt mâu
thuẫn với các tuyên bố và luật chính thức của Trung Quốc về lãnh hải, vùng đặc
quyền kinh tế và thềm lục địa.
Thứ tư, đường chữ U là đường vẽ tùy ý, không xuất phát từ đất liền và đảo nên

không thể mang lại cho quốc gia yêu sách một vùng biển phù hợp với quy định của
Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 cũng như chủ quyền trên các
đảo, đá, bãi cạn trong phạm vi đường đó. Thứ năm, đường chữ U khơng chỉ ảnh
hưởng trực tiếp đến các nước có tranh chấp chủ quyền mà còn ảnh hưởng đến
quyền lợi tự do và an ninh hàng hải, hàng không của các nước ngoài khu vực cũng
như của cộng đồng thế giới.(1)
Có thể hiểu đường chữ U được duy trì nhằm giành cho Trung Quốc một không
gian để triển khai chiến lược trở thành siêu cường thế giới. Tuy nhiên một siêu cường
có nghĩa vụ quan tâm đến lợi ích của các nước nhỏ. Việc duy trì một con đường
khơng khoa học, không khách quan, không phù hợp luật pháp quốc tế ảnh hưởng đến
hình ảnh của một đất nước Trung Quốc trỗi dậy hịa bình, đồng tác giả của năm
ngun tắc cùng tồn tại hịa bình và là trở ngại chính cho mọi giải pháp giải quyết
tranh chấp trong Biển Đơng bằng biện pháp hịa bình.
c. Quy chế đảo:
Các nhà nghiên cứu quốc tế chưa đưa ra con số thống nhất các đảo, đá, bãi cạn
nửa nổi nửa chìm ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trên Biển Đông (từ 200
hoặc hơn). Điều thống nhất là hầu hết chúng đều khơng thích hợp cho con người
đến ở. Qn đồn trú thường xuyên trên các đảo chỉ có từ sau Chiến tranh thế giới
thứ hai. Điều 121 Công ước Luật biển 1982 không đưa ra một định nghĩa rõ ràng về
đá dẫn tới những giải thích khác nhau về quy chế đảo đá. Michael Richardson và
Pan Shiying cho rằng trong quần đảo Trường Sa chỉ có đảo Ba Bình (tiếng Anh: Itu
Aba, tiếng Trung: Taiping Dao) là thỏa mãn điều kiện của điều 121 và có quyền
có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa riêng.
Lập trường của các quốc gia trong khu vực về quy chế đảo được thể hiện rõ
hơn vào thời điểm ngày 13/5/2009. Hồ sơ ranh giới ngoài thềm lục địa của Việt Nam
và Malaysia trình Ủy ban ranh giới thềm lục địa của Liên hợp quốc thể hiện thềm
23


lục địa kéo dài từ lãnh thổ đất liền hai nước mà khơng tính đến các đảo trong quần

đảo Trường Sa. Luật đường cơ sở quần đảo,ngày 10/3/2009 của Philippin đã quyết
(1) Về đường lưỡi bò xin tham khảo Nguyễn Hồng Thao, “Yêu sách đường đứt khúc 8 đoạn của Trung Quốc
dưới góc độ luật pháp quốc tế”, luat-phap-quoc-te

định khơng gộp Kalayaan Islands Group và Scarborough Shoal (Hồng Nham) vào
quần đảo Philippin để có được vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa tính từ đường
cơ sở quần đảo theo Công ước luật biển 1982. Các đảo này được quy định sẽ theo
“quy chế đảo”Philippin để có được vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa tính từ
đường cơ sở quần đảo theo Công ước luật biển 1982. Các đảo này được quy định sẽ
theo “quy chế đảo”. Indonesia với đề xuất bành donut từ những năm 1990s thể hiện
các nước xung quanh Biển Đơng đều có quyền có vùng đặc quyền kinh tế và thềm
lục địa 200 hải lý tính từ đường cơ sở đất liền, các đảo đá khơng có quyền mở rộng
các vùng biển trên. Mặc dù các quy định này còn chưa rõ ràng, có thể thấy xu hướng
các nước muốn hạn chế cho các đảo đá trong Biển Đơng có vùng đặc quyền kinh tế
và thềm lục địa riêng.
Trung Quốc duy trì “tiêu chuẩn kép” về quy chế đảo. Ngày 6/2/2009, Phái
đoàn thường trực của Trung Quốc tại Liên hợp quốc (1) phản đối hồ sơ ranh giới
ngoài thềm lục địa của Nhật Bản gửi CLCS ngày 12/11/2008 lấy đảo Oki-no-Tori
Shima làm điểm cơ sở mở rộng thềm lục địa ở ba khu vực ngồi 200 hải lý tại biển
Hoa Đơng. Tại cuộc họp lần thứ 19 các nước thành viên Công ước luật biển 2226/6/2010 đoàn đại biểu Trung Quốc khẳng định lại lập trường, theo điều 121, Công
ước của Liên hợp quốc về Luật biển 1982, các đã khơng thích hợp cho con người
đến ở hoặc khơng có đời sống kinh tế riêng sẽ khơng có vùng đặc quyền kinh tế và
thềm lục địa. Thế nhưng tại Biển Đông, Trung Quốc lại có lập trường trái ngược (2)
khi yêu sách các vùng biển phụ cận của quần đảo Trường Sa mở rộng vào cả các
vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa tính từ bờ biển đất liền của các quốc gia
khác xung quanh Biển Đông. Luật pháp là một sự vận động không ngừng.
(1)Permanent Mission of the People’s Republic of China to the United Nation, New York, Note CML2/2009,
Feb 2, 2009 With reference to the Japan’s Submission dated of 12 November 2008 to the Commission on
Limits of the Continental Shelf concerning the outer limit of continental shelf beyond 200 nautical miles
date of access 13

May 2009
(2)Permanent Mission of the People’s Republic of China to the United Nation, New York, Note
CML17/2009, May 7, 2009 With reference to the Joint Submission by Malaysia and the Socialist Republic
of Vietnam and dated of 6 May 2009 to the Commission on Limits of the Continental Shelf concerning the
outer limit of continental shelf beyond 200
nautical miles
24


/>pdf date of access 13 May 2009
Permanent Mission of the People’s Republic of China to the United Nation, New York, Note CML18/2009,
May 7, 2009 With reference to the Submission by the Socialist Republic of Vietnam dated of 7 May 2009 to
the Commission on Limits of the Continental Shelf concerning the outer limit of continental shelf beyond
200 nautical miles . date of access 13 May 2009

Điều 121với những khiếm khuyết của nó cần phải được sửa đổi và phải tính
đến đặc thù của khu vực. Vùng biển các đảo được hưởng không nên được mở rộng
quá mức, ảnh hưởng đến quyền lợi của các quốc gia ven biển, ảnh hưởng an ninh
hàng hải, hàng không của cộng đồng quốc tế,
tiếp tục duy trì nguy cơ xung đột ở mức cao. Các nước trong khu vực Biển Đơng
có thể cân nhắc việc thành lập một cơ chế đàm phán hoặc cơ quan khu vực đặc biệt
để thảo luận về quy chế đảo trong Biển Đơng. Từ tình hình và phân tích trên có thể
có một số lựa chọn sau:
- Các đảo có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa riêng và có hiệu lực
pháp lý trong phân định như lãnh thổ đất liền. Khả năng này sẽ không được
phần lớn các nước ủng hộ vì đánh đồng tất cả các đảo đá với lãnh thổ đất liền
gây ra sự không cơng bằng trong phân định. Nó cũng tạo ra sự lo ngại của
cộng đồng quốc tế về an ninh hàng hải, hàng không qua khu vực không được
bảo đảm.
- Xác định giới hạn 200 hải lý từ lãnh thổ đất liền lục địa hay từ các

đảo chính của quốc gia quần đảo và cho các đảo đá chỉ có lãnh hải 12 hải lý.
Khả năng này có thể được phần lớn các nước tranh chấp và cộng đồng quốc tế
hoan nghênh. Tuy nhiên sẽ có những ý kiến khơng đồng thuận về một số đảo đã
từng bước được dân sự hóa trên hai quần đảo.
- Xem xét 5 đảo Phú Lâm, Ba Bình, Trường Sa, Thị Tứ, Hoa Lau có khả
năng có thềm lục địa và đặc quyền kinh tế hạn chế, các đảo đá khác chỉ có lãnh
hải 12 hải lý.
- Khoanh từng cụm đảo đá bãi cạn trong quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa thành từng đơn vị độc lập trên cơ sở chúng được gắn kết về mặt lịch sử, văn
hóa, kinh tế xã hội như một quần đảo đá – Rockpelago và thỏa thuận cho mỗi
đơn vị độc lập này một lãnh hải 12 hải lý, một thềm lục địa và đặc quyền kinh
tế hạn chế mang tính tượng trưng 1-5 hải lý như cơng thức với các đảo trong
vụ eo biển Manche giữa Pháp và Anh năm 1977. Mức độ bao gộp hoặc chia
nhỏ phụ thuộc vào tính gắn kết của chúng. Trên thực tế Malaysia, Philippin đã
25


×