Tải bản đầy đủ (.docx) (4 trang)

Việc kết hôn muộn và không kết hôn ở nhật bản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (223.04 KB, 4 trang )

Vi ệc k ết hôn mu ộn và không k ết hôn ở
Nh ật B ản
Theo suy ngh ĩ c ủa ng ườ
i Nh ật B ản hi ện nay, hôn nhân ch ỉ đơn thu ần là m ột s ựl ựa ch ọn trong
nhi ều s ựl ựa ch ọn. Vì th ế, k ết hôn hay không là v ấn đề t ựdo cá nhân c ủ
a m ỗi ng ườ
i . Trung tâm
nghiên c ứJGSS Đại h ọc Th ươ
n g nghi ệp Osaka đã ti ến hành kh ảo sát quan đi ểm c ủ
a m ọi ng ườ
i v ới
ý ki ến “Nói th ếnào thì h ạnh phúc c ủa nam gi ới c ũng ở trong hôn nhân” n ế
u ng ườ
i được h ỏi là nam
hay “Nói th ếnào thì h ạnh phúc c ủa n ữgi ới c ũ
ng ở trong hôn nhân” trong tr ườ
n g h ợp ng ườ
i được
h ỏi là n ữ. Theo k ết qu ảc ủ
a cu ộc đi ều tra này, ở c ảnam và n ữ, có đến 40% s ống ườ
i tr ảl ời không
đồn g ý v ới quan đi ểm “Ch ỉ có hôn nhân m ới h ạnh phúc”. Nh ưv ậ
y, có th ểth ấy r ằng quan ni ệ
m về
hôn nhân c ủa ng ườ
i Nh ật B ản đa ng d ần thay đổi .

Hôn nhân ở thế hệ Dankai sedai là duy trì sự phân chia vai trò theo gi ới, nghĩ là “Chồng ra ngoài
làm việc, vợ chăm lo việc nhà”. Nam gi ới là trụ cột gia đình, có trách nhiệm nuôi sống v ợ con và
ngượ c lại, tuy không cần phải làm việc kiếm tiền nhưng nữ gi ới có trách nhiệm chăm lo việc nhà,
con cái. Phần lớn nữ giới th ời kì ấy đều nghỉ làm việc sau khi họ kết hôn hay muộn nhất cũng là sau


khi sinh con. Tuy nhiên, từ thập niên 70, cùng v ới s ự nâng cao của trình độ học vấn, phụ n ữ bắt đầu
tiến thân vào trong xã hội[6]. Và như thế, mặc dù kết hôn hôn nh ưng không phụ thuộc vào chồng
mà hoàn toàn độc lập về mặt kinh tế. Ngườ i phụ nữ từ chỗ bị buộc chặt trong việc nhà, con cái v ới
mục đích duy nhất là lựa chọn một ngườ i đàn ông v ới mức thu nhập cao làm đối t ượng kết hôn, đã
chuyển sang giai đoạn tự lập về kinh tế, nâng cao địa vị xã hội, và thoát khỏi tình trạng “Không kết


hôn sẽ không thể tồn tại”. Hơn nữa, do suy thoái kinh tế, nhiều gia đình riêng một mình ng ười chồng
làm việc sẽ không thể gánh vác nổi kinh tế gia đình, vì vậy ng ười v ợ không chỉ ở nhà lo nội tr ợ,
cũng phải ra ngoài xã hội xin việc, đi làm. Vừa phải đi làm, lại vừa phải chăm lo việc nhà, con cái đã
tạo cho ngườ i phụ nữ nhiều áp lực. Và như thế, điểm l ợi của hôn nhân đối v ới phụ nữ đã không còn
như trướ c.

Không chỉ nữ giới, mà quan điểm của nam gi ới đối với hôn nhân cũng đang thay đổi. Nếu như
không kết hôn sẽ thoát khỏi áp lực phải phụ thuộc vào ng ườ i chồng về kinh tế nh ư trước đây, thì đối
với nam giới không kết hôn là sự giải thoát khỏi trách nhiệm đối v ới gia đình. Tr ước kia, để nối dõi
tông đường,duy trì dòng giống, nam gi ới bắt buộc phải sinh con trai, thì nay ý nghĩa của việc sinh
con trai cũng không còn quan trọng đối v ới cả những ng ườ i nam gi ới đã kết hôn. Chính vì vậy, trách
nhiệm duy trì gia đình dòng giống chỉ tồn tại trong quá kh ứ, tính ưu việt duy nhất mà kết hôn mang
lại cho họ là niềm vui. Tuy nhiên, như đã trình bày ở trên, đối v ới quan điểm “Hạnh phúc chỉ có trong
hôn nhân”, số ngườ i đồng ý ở cả nam và nữ đều đang giảm. Điều này có nghĩa, ưu điểm của kết
hôn đang ít hơn so v ới nhượ c điểm, dẫn đến kết hôn sẽ trở nên không quá cần thiết n ữa.


Như vậy, đối với quan điểm trong hôn nhân, suy nghĩ của ngườ i Nhật đã khác tr ước rất nhiều.
Trướ c đây, họ bị trói buộc bởi quan niệm xã hội v ới những suy nghĩ nh ư “Kết hôn m ới tr ưởng thành”
hay “Kết hôn là tất yếu”, “đã là con người thì ai cũng phải kết hôn” đã tr ở thành lạc hậu. Kết hôn hay
không? không còn là vấn đề quan trọng nữa. Trong xã hội phát triển, quyền dân chủ của mỗi cá
nhân dề được coi trọng, thì vấn đề kết hôn hay không kết hôn chỉ là một trong nhiều l ựa chọn khác
nhau. Dù có kết hôn hay không cũng đều được xã hội công nhận. Có nghĩa là, nh ững quy phạm xã

hội trong hôn nhân đã dần mềm dẻo hóa, đi đến xu hươ ng tôn trọng tự do cá nhân h ơn. Trong điểm
này, Việt Nam khác Nhật Bản. Trong xã hội giai hôn của Việt Nam, kết hôn không chỉ là niềm vui mà
còn là trách nhiệm v ới gia đình, dòng họ. Kết hôn và sinh con được xem là “cuộc sống mang tính
con ngườ i”, không kết hôn và sinh con m ới thành ngoại lệ. Có nghĩa là, nh ững quy phạm xã hội
trong hôn nhân tại Việt Nam không thay đổi nhiều so v ới tr ước đây. Sinh con cũng vậy, trong th ời kì
nền kinh tế phát triển cao độ, mỗi gia đình Nhật Bản đều sinh 2 đến 3 con. Nhưng hiện nay sinh
cũng được, không sinh cũng không bị xã hội phê phán, không bị gia đình, họ hàng và nh ững ng ười
xung quanh thúc giục. Trong bối cảnh con ngườ i không còn bị trói buộc trong các quan niệm về hôn
nhân thì những ngườ i nghĩ rằng kết hôn không có nhiều điểm tốt, hay kết hôn thì nhất định phải sinh
con, hoặc sinh con thì nhất định phải kết hôn…. Chính vì thế, số ng ườ i duy trì lối sống độc thân,
không kết hôn ngày càng tăng.
Như đã trình bày ở trên, có rất nhiều ý kiến của các nhà xã hội học Nhật Bản cho rằng ba yếu tố:
Suy thoái kinh tế, thay đổi c ơ cấu lao động, chính sách xã hội của Chính phủ chỉ là nh ững yếu tố
mang tính khách quan, tác động nhất th ời đến khuynh h ướng kết hôn muộn và không kết hôn ở
Nhật Bản hiện nay. Dù kinh tế phục hồi, chính sách gia đình của chính phủ có hoàn thiện h ơn thì có
thể khẳng định xã hội Nhật Bản sẽ trở lại như trướ c, là một xã hội mà hầu hết mọi ngườ i đều kết
hôn hay không? Như vậy cần phải xem xét sự thay đổi trong quan niệm về hôn nhân ở Nhật Bản
hiện nay. Một khi ý nghĩ kết hôn là chuyện cần phải làm mất đi thì dù cho nền kinh tế có phát triển
theo khuynh hướ ng nào đi chăng nữa, số ngườ i kết hôn cũng sẽ không tăng.


Tóm lại: Cho đến tận thế kỷ 16, 17, thì tập quán kết hôn m ới bám rễ vào trong xã hội Nhật Bản và
nó được hình thành một cách chính thức vào gi ữa th ời kì Minh Trị. Tuy nhiên, trong khoảng h ơn 40
năm trở lại đây, tỷ lệ kết hôn tại Nhật giảm rõ rệt, không chỉ dừng lại ở kết hôn muộn mà còn có
nguy cơ không kết hôn. So v ới quá trình hình thành, thì tốc độ sụp đổ của xã hội kết hôn ở Nhật Bản
lại diễn ra nhanh hơn. Có nhiều nguyên nhân dẫn đế khuynh h ướng này ở Nhật Bản, nh ư: Suy thoái
kinh tế, thay đổi cơ cấu lao động, chính sách xã hội của Chính phủ, và s ự thay đổi quan niệm về
hôn nhân. Nếu như, trong xã hội cũ, những ng ườ i nông dân hay tầng l ớp ng ười d ưới không thể kết
hôn vì họ sống phụ thuộc vào ngườ i khác nên không có quyền kết hôn. Trái lại, hiện nay, d ưới nền
tảng của chủ nghĩa dân chủ, kết hôn được coi là một trong những quyền l ợi c ơ bản nhất của con

ngườ i thì ngườ i dân Nhật Bản lại đang tiến tới xã hội không kết hôn. Nếu như kết hôn muộn và
không kết hôn diễn ra trầm trọng h ơn thì trong tươ ng lai, xã hội giai hôn mất đến h ơn 3 thế kỷ m ới
có thể được hình thành sẽ có nguy c ơ bị sụp đổ hoàn toàn. Kết hôn và sinh sản là hai mặt có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau, vì thế nếu tỷ lệ kết hôn giảm mạnh thì trong t ương lai không xa, tỷ lệ
sinh sẽ giảm tới dướ i mức tối thiểu để duy trì cân bằng dân số. Và đây sẽ là một mối nguy l ớn đối
với xã hội Nhật Bản hiện nay.



×