Tải bản đầy đủ (.docx) (104 trang)

Tìm hiểu thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết “Sông”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (520.92 KB, 104 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU

Lý do chọn đề tài
1.1. Thế giới nghệ thuật của nhà văn là “một thế giới sống động, đầy ắp
1

xung đột, buồn vui, hạnh phúc, đau đớn. Thế giới đó là văn bản hình tượng - văn
bản nội tại của văn bản ngôn từ” [46;81]. Đó là một thế giới độc đáo, được cấu
thành từ những yếu tố đặc biệt: “Thế giới nghệ thuật có không gian riêng, thời
gian riêng, có quy luật tâm lý riêng, có quan hệ xã hội riêng, quan niệm đạo đức,
thang bậc giá trị riêng”… [18;303]. Tuy nhiên, nó cùng thống nhất ở chỗ: “thế
giới nghệ thuật là thế giới tư tưởng, thế giới thẩm mĩ, thế giới tinh thần của con
người” [46;82].
Nghiên cứu về cấu trúc của thế giới nghệ thuật sẽ hình thành trong chúng ta
một cái nhìn mới mẻ, nhiều chiều về mối quan hệ giữa tác phẩm nghệ thuật của
nhà văn với thực tại đời sống. Vì vậy, khi nghiên cứu sự nghiệp của một nhà văn
dường như chúng ta khó tránh khỏi việc tìm hiểu, đánh giá thế giới nghệ thuật của
nhà văn đó.
1.2. Nhà văn trẻ Nguyễn Ngọc Tư từ khi xuất hiện trên văn đàn đã sớm trở
thành một “hiện tượng” đặc biệt, là đối tượng trong một số cuộc tranh luận văn
chương, thu hút sự quan tâm của rất nhiều bạn đọc.
Tuy tuổi đời còn trẻ nhưng chị đã gặt hái được nhiều thành công trong sự
nghiệp cầm bút: Giải nhất cuộc vận động sáng tác văn học tuổi hai mươi; Giải B
của Hội nhà văn Việt Nam 2001, 2004. Chị còn là một trong những gương mặt tiêu
biểu năm 2004 do Trung ương Đoàn trao tặng.
Năm 2005, Nguyễn Ngọc Tư làm khuấy động văn đàn với tập truyện “Cánh
đồng bất tận”. Ngay từ khi mới ra đời, tác phẩm đó đã gây nên cơn sốt dư luận. Có
1


rất nhiều lời khen, tiếng chê về tác phẩm này. Nhưng dù đáp số là như thế nào thì


nó cũng là một cú huých mạnh mẽ đẩy văn học từ chỗ yên ắng đến chỗ sôi động.
Tập truyện “Cánh đồng bất tận” đã được Hội nhà văn Việt Nam trao giải “Hiện
tượng văn học trong năm”.
Sau tiếng vang của “Cánh đồng bất tận”, không ít người cho rằng Nguyễn
Ngọc Tư khó vượt qua đỉnh cao ấy. Thế nhưng, bằng nỗ lực tự đổi mới chính
mình, sau một thời gian tạm thu mình vào những tập tản văn, chị đã tiếp tục thực
hiện bước đột phá mới khi cho ra đời tiểu thuyết đầu tay “Sông” (2012).
1.3. Tiểu thuyết “Sông” của Nguyễn Ngọc Tư mới ra đời vào tháng 9 năm
2012, đến thời điểm này cũng vừa tròn một năm. “Sông” gây được sự chú ý và
quan tâm của đông đảo bạn đọc với số lượng đầu sách bán ra rất chạy, nhưng đến
nay, khi khảo sát trên những diễn đàn và những trang nghiên cứu văn học thì
những bài viết về tác phẩm còn rất ít với số lượng chưa vượt quá con số mười.
Với niềm yêu thích những sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư cùng sự khâm
phục tài năng và nghị lực tự đổi mới mình của chị, bằng luận văn này, chúng tôi
muốn tìm hiểu thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết “Sông” với hi vọng có một cái
nhìn tổng thể, toàn diện về sự đổi mới ngòi bút của Nguyễn Ngọc Tư trong thể loại
tiểu thuyết.
2

Lịch sử vấn đề

Cùng với Nguyễn Bình Phương, Nguyễn Đình Tú, Võ Thị Hảo…Nguyễn
Ngọc Tư là một cây bút trẻ tuổi tiêu biểu trong nền văn xuôi đương đại. Xuất hiện
lần đầu với tập truyện “Ngọn đèn không tắt”(2000), bằng văn phong nhẹ nhàng,
trong trẻo, in đậm dấu ấn sông nước miền Nam, Nguyễn Ngọc Tư đã giành được
sự quan tâm đặc biệt của công chúng yêu thích văn học và giới phê bình.
Nhà văn Nguyễn Quang Sáng: “Ngọn đèn không tắt đã tạo nên một không
khí rất tự nhiên về màu sắc, hương vị của mảnh đất cuối cùng của Tổ quốc – mũi

2



Cà Mau, của những con người tứ xứ, về mũi đất của rừng, của sông nước, của
biển cả mà cha ông ta dày công khai phá” [41].
Năm 2005, Nguyễn Ngọc Tư cho ra mắt tập truyện ngắn mang tên “Cánh
đồng bất tận”. Tập truyện đã nhận được sự phản hồi tích cực của dư luận và trở
thành một “hiện tượng” của văn học Việt Nam với 108.000 bản được tiêu thụ tính
đến năm 2010, nhất là sau khi bộ phim dựa trên truyện vừa cùng tên được ra mắt
cùng năm. Cùng trong năm 2005, truyện “Cánh đồng bất tận” được đứng đầu
trong một cuộc bình chọn truyện ngắn đặc sắc trên báo Văn nghệ. Vào năm 2006,
tập truyện đoạt Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam dành cho tác phẩm xuất sắc.
Năm 2007, tác phẩm được dịch và xuất bản tại một số nước trên thế giới.
Nhà văn Hữu Thỉnh đã nhận xét: “Với Cánh đồng bất tận, Nguyễn Ngọc Tư
đã có sự bứt phá rất ngoạn mục, tự vượt lên chính mình và tạo nên những bất ngờ
thú vị cho giới nhà văn” [26;1].
Nhà văn Chu Lai khẳng định: “Cánh đồng bất tận viết về những con người
Nam Bộ với tính cách đặc thù: chân thực, hồn nhiên, chất phác và bản năng. Cốt
truyện mang tính chất cổ điển, không có gì mới nhưng tác giả viết bằng thứ ngôn
ngữ và hơi văn lạ, tạo được sức rung chuyển thẩm mỹ” [26].
Năm 2012, Nguyễn Ngọc Tư “đổi món” với “Sông”. Từ địa hạt truyện ngắn
và tản văn chị đã “lấn sân” sang tiểu thuyết. Tiểu thuyết “Sông” ít nhiều gây tò mò
và háo hức cho bạn đọc bởi lẽ đây là cuốn tiểu thuyết đầu tay của một cây bút Nam
Bộ đã gặt hái được những thành công nhất định trên lĩnh vực truyện ngắn và tản
văn. Người ta tò mò vì muốn biết một Nguyễn Ngọc Tư viết tiểu thuyết ra sao;
người ta háo hức vì với những thành quả Ngọc Tư đạt được trong truyện ngắn và
tản văn sẽ hứa hẹn một thành công khác trong “Sông”.
Trần Ngọc Sinh đã có lời nhận xét ngắn gọn nhưng bao quát về tiểu thuyết
“Sông”: “Đẹp. Đáo để. Trần tục và hư ảo” [3]. Câu nói của Trần Ngọc Sinh như
đã nắm bắt được cái “thần” của tác phẩm.
3



Trần Hữu Dũng qua bài viết: “Nguyễn Ngọc Tư và sông” nhận xét:
“Nguyễn Ngọc Tư đang vạch một hướng đi mới, nhưng nếu nhìn ngoái lại thì
người đọc vẫn thấy con đường ấy bắt đầu từ hành trình đã qua của một Nguyễn
Ngọc Tư mà độc giả từng yêu mến” [8].
Tác giả Mai Anh Tuấn cho rằng: “Sông là sự hợp thức giữa tiểu thuyết và
lối viết du khảo. Cứ mỗi nơi nhân vật đi qua đều để lại tên người, tên đất. Con
người dấn về phía trước còn những địa danh lùi lại phía sau. Sông Di vì thế có thể
coi là một thực thể vùng miền. Nhưng mặt khác, sông Di cũng là con sông trong
tâm tưởng. Nhân vật xuôi theo dòng sông thực thể nhưng lại đi ngược con sông
tâm tưởng. Tiểu thuyết của Nguyễn Ngọc Tư chứa đựng cảm thức của giới trẻ về
sự biến mất, nhưng biến mất là để trục vớt ký ức của mình” [4].
Trong bài viết : “Đọc tiểu thuyết Sông của Nguyễn Ngọc Tư - khảo về sự
biến mất”, tác giả Mai Anh Tuấn cũng viết: “Với Sông, Nguyễn Ngọc Tư càng cho
thấy mình là người tận lực với cơ địa văn hóa vùng miền, bởi, xét rộng hơn, phần
lớn những không gian nổi bật, những hình tượng nghệ thuật vươn tới biểu tượng
trong tác phẩm Nguyễn Ngọc Tư, một cách chủ ý, đều dấp dính sông nước và
những hắt bóng của nó như lời ăn tiếng nói, phong cảnh tập tục, đến nhân tình thế
thái” [59].
Về những sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư, đa số ý kiến đều khẳng định rằng
chị là một nhà văn luôn trăn trở nghĩ suy về cuộc sống và thân phận của con người.
Chị đã từng nói: “Khi viết về thân phận, nỗi đau, sự bối rối thường trực của con
người trước những biến cố của cuộc đời, tôi luôn ao ước những trang viết của
mình có được sự rung cảm như những giọt nước mắt. Khi ấy, trong lòng các bạn,
tôi không còn là cô gái Việt Nam viết về Việt Nam, mà là một nhà văn viết về thân
phận con người, như các bạn” [22]. Trong “Sông” hiện lên thân phận của những
con người cô đơn đang lang thang kiếm tìm bản thể “trên con đường không dấu
chân”.
4



Có nhiều người quan tâm tới thế giới nghệ thuật trong sáng tác của Nguyễn
Ngọc Tư qua ở các phương diện như: nghệ thuật xây dựng nhân vật; quan điểm
nghệ thuật về con người...Đa số các ý kiến đều đánh giá cao tài năng của chị trong
việc lựa chọn các chi tiết, hình ảnh, chất giọng, ngôn ngữ…xây dựng thành công
con người Nam Bộ.
Huỳnh Công Tín trong bài “Nguyễn Ngọc Tư – nhà văn trẻ Nam Bộ” viết:
“Nhân vật trong tác phẩm của chị là những con người Nam Bộ với những cái tên
hết sức bình dị, chân chất kiểu Nam Bộ…Đó là những người sinh sống bằng
những ngành nghề cũng gắn liền với quê hương sông nước Nam Bộ. Đặc biệt vùng
đất và con người Nam Bộ trong sáng tác của chị được dựng lại bằng chính chất
liệu của nó là ngôn ngữ và văn phong nhiều chất Nam Bộ của chị” [57].
Càng ngày Nguyễn Ngọc Tư càng nhận được nhiều yêu mến của độc giả bởi
chất giọng Nam Bộ mộc mạc, thấm đượm yêu thương. Nhà văn Nguyên Ngọc đã
nhận định: “Mấy năm nay chúng ta đều rất thích Nguyễn Ngọc Tư. Cô ấy như một
cái cây tự nhiên mọc lên giữa rừng chàm, rừng đước Nam Bộ vậy, tươi tắn lạ
thường, đem đến cho văn học một luồng gió mát rượi, tinh tế mà chân chất, chân
chất mà tinh tế” [65].
Dạ Ngân trong bài viết “May mà có Nguyễn Ngọc Tư” cũng đánh giá cao
nghệ thuật xây dựng nhân vật của chị, đặc biệt là về ngôn ngữ và giọng văn: Sáng
tác của Nguyễn Ngọc Tư “được diễn tả bằng thứ ngôn ngữ Nam Bộ lấp lánh và
một giọng văn dung dị, đặc biệt ấm áp” [31].
Cùng với các bài viết, tác phẩm bình luận, nghiên cứu, sáng tác của Nguyễn
Ngọc Tư còn là đề tài cho các công trình nghiên cứu của nhiều thế hệ sinh viên,
học viên. Có thể kể đến những công trình sau:
Luận văn thạc sĩ của Phạm Thị Thái Lê: “Quan niệm nghệ thuật về con
người trong truyện Nguyễn Ngọc Tư”, ĐHSP Hà Nội, 2007.
Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Bích: “Thế giới nhân vật trong truyện
ngắn Nguyễn Ngọc Tư”, ĐHSP Hà Nội, 2009.


5


Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Kiều Oanh: “Thế giới nghệ thuật truyện
Nguyễn Ngọc Tư”, ĐHSP Hà Nội, 2006.
Luận văn thạc sĩ của Ngô Thị Thúy Hà: “Cảm thức cô đơn trong truyện
Nguyễn Ngọc Tư”, ĐHSP Hà Nội, 2011.
Luận văn thạc sĩ của Bùi Thị Nga: “Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn
Nguyễn Ngọc Tư”, ĐHSP Hà Nội, 2008.
Nhìn chung, các ý kiến trên báo chí và những công trình nghiên cứu khoa
học đã đề cập đến thế giới nghệ thuật của Nguyễn Ngọc Tư ở một số khía cạnh
sau:
a. Thế giới nhân vật trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư là những con
người Nam Bộ nghèo khổ, lam lũ, bình dị nhưng có tấm lòng cao thượng, vị tha và
luôn luôn tin tưởng vào ngày mai.
b. Không gian trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư là không gian đời tư
và không gian lưu lạc được chuyển hóa cùng thời gian sự kiện, đan xen giữa quá
khư và hiện tại.
c. Ngôn ngữ và giọng điệu trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư thường in
đậm dấu ấn vùng sông nước Nam Bộ.
Nguyễn Ngọc tư là nhà văn thu hút được đông đảo người quan tâm, nghiên
cứu. Tuy nhiên, tính đến thời điểm hiện tại thì chưa thực sự có công trình nào
nghiên cứu một cách hệ thống thế giới nghệ thuật của Nguyễn Ngọc Tư dựa trên
một tác phẩm cụ thể. Kế thừa thành tựu của người đi trước, trong luận văn này tôi
sẽ tập trung khảo sát thế giới nghệ thuật của Nguyễn Ngọc Tư ở một tác phẩm cụ
thể từ nhiều phương diện để làm sáng rõ tư duy nghệ thuật tiểu thuyết cũng như
quan niệm nghệ thuật mới của chị về cuộc đời và con người.
3 Đối tượng – Phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu

- Tiểu thuyết “Sông” của Nguyễn Ngọc Tư (2012), Nhà xuất bản Trẻ, Hà
Nội.
3.2. Phạm vi nghiên cứu

6


Xuất phát từ quan niệm thế giới nghệ thuật là một cấu trúc chỉnh thể được
hình thành dựa trên nhiều bình diện, chúng ta phải xem xét thế giới nghệ thuật tiểu
thuyết “Sông” từ nhiều góc độ, phương diện khác nhau.
4 Nhiệm vụ nghiên cứu
+ Tìm hiểu thế giới nhân vật trong tiểu thuyết “Sông”
+ Phân tích tổ chức không gian – Thời gian trong tiểu thuyết “Sông”
+ Phân tích đặc điểm ngôn ngữ và giọng điệu trong tiểu thuyết “Sông”
5 Phương pháp nghiên cứu
1
Phương pháp phân tích – tổng hợp
Vận dụng phương pháp này, chúng tôi tiến hành khảo sát tác phẩm, tập trung
chú ý các yếu tố chính để làm nổi bật nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật
tiểu thuyết “Sông”. Từ đó, chúng tôi rút ra những nhận xét chung khái quát, tiêu
biểu về thế giới nghệ thuật trong tác phẩm.
2
Phương pháp so sánh
Để khẳng định sự độc đáo trong thể loại tiểu thuyết của Nguyễn Ngọc Tư,
trong phạm vi giới hạn của đề tài, chúng tôi sử dụng phương pháp so sánh, đối
chiếu. Cụ thể: So sánh phong cách viết tiểu thuyết của Nguyễn Ngọc Tư với phong
cách viết truyện ngắn. Ngoài ra, chúng tôi còn so sánh phong cách viết tiểu thuyết
của chị với phong cách viết tiểu thuyết của những cây bút cùng thời.
3
Phương pháp tiếp cận hệ thống

Để hiểu được thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết “Sông” của Nguyễn Ngọc
Tư, luận văn chú trọng vào việc tìm ra những yếu tố tạo nên chỉnh thể và quy luật
cấu trúc của nó. Mọi đối tượng, vấn đề khảo sát đều được chúng tôi đặt trong hệ
thống này.
Phương pháp phân loại, thống kê
Chúng tôi sẽ tiến hành phân loại và thống kê những yếu tố liên quan đến nội
4

dung của đề tài bằng những số liệu cụ thể. Qua đó làm sáng rõ luận điểm được đưa
ra trong phạm vi đề tài.
6 Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và phần thư mục tham khảo, luận văn được
triển khai trong ba chương chính:
Chương 1: Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết “Sông”
7


Chương 2: Không gian – Thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết “Sông”
Chương 3: Ngôn ngữ và giọng điệu tiểu thuyết “Sông”

PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CÁC KIỂU NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT “SÔNG”
1.1. Quan niệm về văn chương và sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư
Văn chương là tiếng vọng của tâm hồn
Nguyễn Ngọc Tư đã từng nói: “Tôi viết như cảm xúc của mình, bởi trước
khi tôi viết cho ai đó thì tôi viết cho mình” [63]. Theo chị, yếu tố làm nên thành
công của một tác phẩm văn học chính là cảm xúc chân thật được khơi dậy từ tâm
hồn của nhà văn. Thực tế luôn chứng minh rằng sự sáng tạo và cảm xúc của nhà
văn không phải bỗng dưng có được nếu không được rèn luyện, nuôi dưỡng và trải
nghiệm từ cuộc sống. Sự sáng tạo nào cũng vậy, nếu không xuất phát từ cảm xúc

chân thật thì khó có thể thăng hoa. Nguyễn Ngọc Tư sinh ra và lớn lên ở vùng đất
Cà Mau, nơi có những con người trọng tình, mến khách. Tình đất, tình người là
suối nguồn cảm xúc vô tận cho những sáng tác của chị. Những số phận ngang trái,
cuộc đời hẩm hiu, hoàn cảnh éo le được chị soi chiếu qua lăng kính tâm hồn và

8


hình thành nguồn cảm xúc phong phú. Từ đó, chị đã tự khẳng định một phong cách
riêng, một lối viết dung dị thấm đượm tình người.
Viết văn là hành trình “Bước ra cánh đồng và đi đến dòng sông”
Nguyễn Ngọc Tư là nhà văn luôn nỗ lực đổi mới ngòi bút. Chị tâm sự:
“mình đã đi xa, phải thay đổi, chỉ có độc giả là vẫn ở đó để nói về những điều đã
cũ” [4]. Chị không bao giờ dừng lại ở “cánh đồng” – nơi có hào quang rực rỡ mà
quyết định bước sang “dòng sông” để trải nghiệm “những trận mưa rào đầu tiên”.
Sự thay đổi của Nguyễn Ngọc Tư từ truyện ngắn sang tiểu thuyết, từ văn phong
nhẹ nhàng, nhiều xót xa sang sắc lạnh, dửng dưng theo chị là một lẽ tất nhiên “cây
đến mùa thì thay lá, quả đến mùa thì chín, rụng”. Đối với nhà văn, cái lớn nhất là
vận động và đi tới, bỏ hào quang lại sau lưng và tìm kiếm những điều mới mẻ cho
mình.
Viết văn là hành trình theo đuổi biểu tượng “giọt nước mắt”
Nguyễn Ngọc Tư đã từng nói: “Nếu vẽ một biểu tượng của nghề viết mà tôi
đang đeo đuổi, tôi sẽ vẽ hình ảnh của giọt nước mắt”. Với chị, mỗi “giọt nước
mắt” là một thân phận, một nỗi đau của kiếp người trước những biến cố trong cuộc
sống. Khi một nhà văn chạm tới biểu tượng “giọt nước mắt”, có nghĩa nhà văn đó
đã thành công trong việc truyền tải cảm xúc đến người đọc. Người đọc sẽ cảm kích
trước những thân phận bất hạnh được nói tới trong tác phẩm.
Ở tiểu thuyết “Sông”, Nguyễn Ngọc Tư đã giúp người đọc chạm tới “giọt
nước mắt”. Dọc theo dòng Di giang là thân phận đau khổ của bao kiếp người. Đó
là hình ảnh của người đàn bà tự vẫn bằng những hạt sắn độc; cô gái bỏ đi biệt xứ

bởi sự đồn thổi của người đời vì thằng con trai cô sinh ra không biết của chồng hay
của bố chồng ; cái chết thảm của những cô gái “ăn sương” và bao người dân khu
chợ Yên Hoa bởi “những ngôi nhà lần lượt đổ vào sông sau những trận mưa
dầm”; hay những người phụ nữ dân tộc Đào vùng cao nguyên Thượng Sơn mưu
sinh bằng cách bán con...Thân phận con người hiện lên vừa đau khổ, vừa mong
9


manh, ở đâu cũng có những cái chết thê thảm, tức tưởi của những thân phận phải
gánh chịu những va đập đau đớn của cuộc đời.
1.2. Quan niệm nghệ thuật về con người của Nguyễn Ngọc Tư
Quan niệm nghệ thuật về con người là một tiêu chí quan trọng để đánh giá giá trị
của một tác phẩm văn học. Nó được xem như một nhân tố cơ bản là điểm xuất phát
cho mọi sự sáng tạo của nhà văn. Những phương tiện, thủ pháp nghệ thuật được sử
dụng trong tác phẩm từ việc xây dựng nhân vật đến tổ chức kết cấu cốt truyện hay
ngôn ngữ, giọng điệu trần thuật đều góp phần thể hiện quan niệm nghệ thuật về
con người của nhà văn. Con ng i trong v n h c th i k i m i
c các nhà
v n quan ni m không còn n gi n, xuôi chi u, thay vào ó , nhà v n nhìn con
ng i cái nhìn a chi u, chân th c và toàn di n h n. Ti u thuy t là th lo i có
kh n ng bao quát hi n th c r ng l n và i sâu khám phá i t , tâm h n con ng i
m t cách toàn di n. Vi c chuy n t th lo i truy n ng n sang ti u thuy t ã kh ng
nh b c ti n m i trong vi c th hi n quan ni m ngh thu t v con ng i c a
Nguy n Ng c T . Trong ti u thuy t “Sông”, Nguy n Ng c t ã c t ngh a các
vn
cu c s ng liên quan n con ng i theo h ng a chi u, g n v i cu c s ng
nhân sinh. S ra i c a ti u thuy t “Sông” v i nh ng quan ni m ngh thu t m i
m v con ng i ã kh ng nh s thay i sáng t o c a Nguy n Ng c T , giúp
nhà v n i sâu khám phá th gi i bên trong y bí n và ph c t p c a con ng i.
Nhà văn nhìn con người từ chiều sâu nội tâm

Nguyễn Ngọc Tư khai thác những vấn đề của cuộc sống không phải ở bề
rộng mà ở bề sâu. Thoát khỏi những lo toan bộn bề của cuộc sống, chị đã tập trung
bút lực vào việc miêu tả nội tâm của nhân vật bằng cách khai thác thế giới tâm hồn
của họ. Qua đó, thế giới nội cảm của mọi tầng lớp xã hội, từ trí thức đến nông dân;
từ nhà báo, phóng viên đến những cô gái điếm, những đứa trẻ mồ côi…hiện lên
sinh động. Nguyễn Ngọc Tư có khả năng đi sâu vào mọi ngóc ngách trong tâm hồn
nhân vật, thấu hiểu tâm trạng của những kiếp người đang sống trong sự kì thị, hoài
nghi của xã hội. Trong tiểu thuyết “Sông”, chị bước vào thế giới đồng tính để hiểu
10


và viết về tình yêu của họ. Những giằng co, day dứt, đau đớn đan xen với nỗi nhớ
nhung, khắc khoải…được miêu tả thật sâu sắc. Bên cạnh đó, với tấm lòng bao
dung và tâm hồn đồng cảm trước những con người gặp hoàn cảnh éo le trong cuộc
sống, chị đã lý giải sâu sắc những hành động “trơ trẽn” của nhân vật. Chẳng hạn
hành động mở to mắt nhìn vào máy quay của một cô gái điếm theo chị đó không
phải ánh mắt trơ trẽn như nhiều người nhận xét, đó là ánh mắt đau đớn, uất hận của
đứa trẻ bị cha mẹ bỏ rơi, nó giương lên như muốn nói: “Tôi ở đây nè, ba mẹ ở
đâu?”
Nguyễn Ngọc Tư là nhà văn có cái nhìn nội tâm, khả năng đồng cảm, thấu
hiểu tâm lý con người. Với ngòi bút sắc sảo, chị đã xây dựng kiểu nhân vật tâm lí
hết sức ấn tượng, để lại nhiều day dứt trong lòng ngừơi đọc.
Con người là hiện thân của bi kịch
Là nhà văn viết về thân phận con người, Nguyễn Ngọc Tư đã nhìn thẳng vào
hiện thực để phản ánh những bi kịch khốc liệt của đời sống nhân sinh. Nhân vật
trong sáng tác của chị là những con người nhỏ bé, khao khát yêu thương nhưng
luôn gặp nghịch cảnh, éo le, ngang trái. Đó là Ân , Xu, Bối, Ánh, San …trong tiểu
thuyết “Sông”; ông Năm Nhỏ trong truyện ngắn “Cải ơi”; ông Tư Nhớ trong
truyện ngắn “Đau gì như thể”; Nương, Sương, Út Vũ trong truyện ngắn “Cánh
đồng bất tận”. Họ chấp nhận sống chung với bi kịch hoặc giải thoát khỏi bi kịch

bằng cách kết thúc cuộc đời mình. San giải thoát bi kịch bằng việc tìm đến một
giấc ngủ không bao giờ tỉnh dậy; Ân, Xu giải thoát bi kịch bằng việc thả “quách”
vào“rốn Túi”... Cái chết “tự nguyện” như một sự giải thoát khỏi nghịch cảnh, một
cơ hội cuối cùng để họ tìm lại bản thể đã mất.
Phần lớn nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư sống trong địa hạt
của nỗi buồn, cô đơn và bi kịch. Điều đó làm day dứt tâm thức người đọc, khiến
người đọc phải suy nghĩ, trăn trở về số phận con người.
Con người được đặt trong cái nhìn dân chủ
11


Từ những năm 80 trở đi, dân chủ hóa là xu hướng chính bao trùm nền văn
học nước ta. Nó thấm sâu và được thể hiện ở nhiều cấp độ, bình diện của đời sống
văn học, trong đó có quan niệm nghệ thuật về con người. Khác với con người
chính trị, con người sử thi trong nền văn học giai đoạn trước, ở giai đoạn văn học
sau này, con người được nhìn nhận trong mối quan hệ nhân sinh. Con người không
chỉ được xét trong mối quan hệ của nó với xã hội mà còn được xem xét cả ở mối
quan hệ với chính nó. Qua đó, những bi kịch khốc liệt của cuộc đời, những tính
cách, số phận mỗi con người được chị viết ra hết sức sinh động và chân thật. Trong
các sáng tác của mình, Nguyễn Ngọc Tư đã xây dựng kiểu nhân vật tự nhận thức.
Đây là kiểu nhân vật tự lý giải, phán xét bản thân và xã hội qua những xung động
nội tâm mạnh mẽ. Hình tượng nhân vật hiện lên đầy bản lĩnh, quyết đoán, dám đối
diện với chính mình, dám phê phán cái xã hội mình đang sống. Đó là nhân vật
Bách trong tiểu thuyết “Sông” với phát ngôn đầy cá tính “tụi này không nhận lấy
cái nước đang nợ nần ngập đầu này đâu, trả bao giờ mới xong” [62;24]. Qua đó
đưa ra một cách nhìn, cách hiểu và cách đánh giá mang đậm tính chủ quan.
Bên cạnh đó, quan niệm dân chủ của nhà văn đối với nhân vật của mình còn
được thể hiện ở việc nhà văn coi nhân vật như những người bạn đồng hành: nhà
văn hiểu thấu nhân vật, nhân vật phát biểu suy nghĩ của nhà văn. Trong tiểu thuyết
“Sông”, nhân vật đã thay lời tác giả nói lên nhiều triết lý sâu sắc về cuộc đời.

Chẳng hạn: “Nhưng khổ nỗi tiền là thứ người ta thấy không bao giờ là đủ” hay
“chẳng ai cho không ai cái gì”. Chính vì vậy, Nguyễn Ngọc Tư đã xây dựng nên
nguyên tắc thể hiện con người rất riêng, tạo nên phong cách đặc thù của chị. Qua
đó, đời sống hiện tại với những mối quan hệ nhân sinh, ứng xử của con người được
soi chiếu ở mọi góc cạnh.
1.3. Những kiểu nhân vật tiêu biểu trong tiểu thuyết “Sông”
Nhân vật là yếu tố hàng đầu của tác phẩm văn học. Nhân vật văn học là sự
thể hiện quan niệm nghệ thuật của nhà văn về con người, vì vậy “số phận con
12


người trở thành mối quan tâm hàng đầu của nhà văn. Nhiều cuốn tiểu thuyết đã
hướng tới miêu tả số phận những con người bình thường với những bi kịch của đời
họ. Bi kịch giữa khát vọng và thực trạng, giữa cái muốn vươn lên và cái kìm hãm,
giữa nhân bản và phi nhân bản” [27;230]. Tiểu thuyết ngoài khả năng tái hiện bức
tranh toàn cảnh của đời sống xã hội còn có khả năng đi sâu khám phá số phận con
người. Từ sau 1975, con người trở về với muôn mặt đời thường của một xã hội
nhiều biến động. Bối cảnh đó đã thúc đẩy ý thức cá nhân thức tỉnh, làm đổi thay
quan niệm về con người, các nhà văn đã nhìn nhận con người như một cá thể bình
thường trong đời sống. Nhân vật trong tiểu thuyết là những con người sống với
nhiều mảnh đời, nhiều bi kịch cá nhân khác nhau “đầy những vết dập xóa trên
thân thể trong tâm hồn”. Đó là bi kịch của nhân vật Kiên trong “Nỗi buồn chiến
tranh” (Bảo Ninh); Tính trong “Thoạt kì thủy” (Nguyễn Bình Phương); Ân, Xu,
Bối, San trong “Sông” (Nguyễn Ngọc Tư). Con người xuất hiện trong tiểu thuyết
là con người trần thế với những mâu thuẫn tất yếu của nó: ánh sáng – bóng tối; cao
cả - thấp hèn; rồng phượng - rắn rết; ý thức – vô thức. Nói như nhà Ngữ văn học
xuất sắc người Nga Mikhail Bakhtin “con người không bao giờ trùng khít với
chính mình”. PGS.TS Nguyễn Bích Thu cũng nhận xét: “Nhà văn đã nhận diện
con người đích thực với nhiều kiểu dáng nhân vật, biểu hiện phong phú và đa dạng
nhu cầu tự ý thức, sự hòa hợp giữa con người tự nhiên, con người tâm linh và con

người xã hội” [52]. Sự tìm tòi, khám phá bề sâu tâm thức con người hình thành
những kiểu nhân vật mới như: nhân vật cô đơn, nhân vật lạc thời, nhân vật kiếm
tìm, nhân vật tâm linh, nhân vật vô thức…
Trong các tiểu thuyết xuất hiện đầu thế kỷ XXI, “Sông” của Nguyễn Ngọc
Tư gây chú ý tới bạn đọc bởi lẽ đây là cuốn tiểu thuyết đầu tay của cây bút nữ Nam
Bộ đã gặt hái được những thành công nhất định trên địa hạt truyện ngắn và tản văn.
Tiếp cận với tiểu thuyết “Sông”, chúng tôi nhận thấy thế giới nhân vật hiện lên rất
đa dạng, phong phú, nhiều kiểu loại. Từ đây, chúng tôi phân chia nhân vật trong
13


tác phẩm thành những kiểu loại sau: Nhân vật kiếm tìm, nhân vật cô đơn, nhân vật
tâm linh và vô thức
1.3.1. Nhân vật kiếm tìm
Nguyễn Ngọc Tư là nhà văn có ý thức trong việc kiếm tìm những điều mới
lạ. Không dừng lại ở “cánh đồng”, chị đã đi tới “dòng sông”, dù hướng đi đó còn
nhiều thử thách với cây bút lần đầu viết tiểu thuyết. Trong bài phỏng vấn của mình,
chị đã nói: “Tôi nghĩ mình vừa mới bước ra khỏi ngôi nhà ấm cúng kia thôi, gặp
vài trận mưa đầu tiên. Nhưng nếu gặp bụi gai tôi sẽ không ngần ngại nhảy, dĩ
nhiên là tôi phải nhìn thấy một cái gì lóe lên trong ấy, và hào hứng nghĩ đây có thể
là thứ mình tìm, mình phải bới nó ra mới được” [54]. Trong tiểu thuyết “Sông”,
chị đã gửi gắm vào nhân vật khát vọng tìm kiếm chân lý để được sống là chính
mình. Đây cũng là kiểu nhân vật xuất hiện phổ biến trong văn học Việt Nam đương
đại, thể hiện toàn vẹn và sâu sắc quan niệm về con người dưới cái nhìn nhân bản.
Hệ thống nhân vật với hành trình kiếm tìm bản ngã trong tiểu thuyết “Sông”
xuất hiện tương đối nhiều. Đó là Ân, Bối, Xu, Ánh, Phụng…mỗi người một cuộc
sống, một khát vọng, một mục đích kiếm tìm khác nhau nhưng họ cùng mang trong
mình tâm trạng hoài nghi, mất niềm tin vào giá trị cuộc sống. Càng cô đơn, lạc
lõng họ càng khao khát kiếm tìm dù thứ mà họ tìm không có hình khối, màu sắc,
nó chập chờn, mơ hồ như ảo ảnh. Thậm chí chính bản thân họ cũng không biết

mình tìm gì. Nói như Nguyễn Ngọc Tư: “Sông đơn giản là câu chuyện của thằng
bé nào đó, một hôm làm mất trái bóng. Nó đi tìm kiếm trái bóng, trải qua hành
trình cực khổ. Rồi cuối cùng, nó phát hiện ra cái thứ nó tìm kiếm không phải là
trái bóng mà là một điều gì đó mông lung chính nó cũng không biết rõ” [4].
Khi đọc những trang đầu của tác phẩm hẳn không ít người nghĩ đây là một
tiểu thuyết du khảo nói về chuyến đi “phượt” của ba chàng trai Ân, Xu, Bối. Tuy
nhiên, bằng giọng văn “nhẩn nha mà xoáy sâu”, Nguyễn Ngọc Tư đã hé mở dần
từng khúc đoạn của truyện. Người đọc vỡ òa khi nhận ra đây không phải một cuốn
14


tiểu thuyết du khảo nói về chuyến thám hiểm sông Di đơn thuần. Đây chính là
cuộc dấn thân, kiếm tìm bản thể của mỗi người nhằm trả lời những câu hỏi mang
tính bản thể luận như: “Ta là ai, sao ta là ta mà không là họ, sao ta ở đây với
những người này mà không cùng người khác” [62;53].
Trong xã hội hiện đại con người luôn đứng trước nguy cơ nhoè mờ căn
cước. Ở tiểu thuyết “Sông”, hình ảnh con người luôn xuất hiện trong trạng thái “đi
tìm căn cước”. Nhân vật chính xuất hiện trong truyện là Ân, một người bị rơi vào
tình trạng “mất căn cước”. Mở đầu câu chuyện là việc Ân sắp xếp đồ đạc để chuẩn
bị cho chuyến du khảo tới thượng nguồn sông Di, hoàn thành cuốn kí sự mà “sếp”
anh giao phó. Ngoài ra, anh còn có mục đích cá nhân, đó là ra đi với “hy vọng học
được cách quên”. Tuy nhiên, trên hành trình ấy ý định ban đầu của Ân đã vô tình
biến mất. Chuyến đi đã giúp anh tìm kiếm được những chân lý thuộc về bản ngã
mà chính anh chưa bao giờ nghĩ tới. Nếu như cuộc sống trước đây của Ân chỉ là
“làm việc, ngồi quán, tụ tập và làm tình” thì giờ đây, mỗi bước chân của anh là
một bước ngoặt thay đổi cuộc đời. Sông Di đã cuốn anh đi, lạc khỏi dòng chảy của
cuộc đời nhàm chán, tầm thường, tẻ nhạt để tìm về dòng chảy mà ở đó anh được là
chính mình.
Hành trình số phận và cuộc kiếm tìm bản ngã của Đình Ân được hình dung
qua việc lắp ghép, chắp nối từ những mảnh vụn của hiện thực. Chuyến du khảo

sông Di của Ân trước hết là một cuộc trốn chạy hiện tại. Sự giằng co giữa ý thức
và vô thức được đẩy lên đỉnh điểm khi Tú – người tình đồng tính, người Ân coi là
cả sinh mạng của mình đột nhiên lấy vợ với lý do “làm vừa lòng người lớn”. Ân
đã quyết định từ bỏ cuộc sống hiện tại, “xách ba lô và đi” để thực hiện hành trình
tìm lại bản thể của mình. Tìm về quá khứ chính là cánh cửa đầu tiên đưa Ân đến
với bản ngã của mình. Ân luôn bị ám ảnh bởi cái tôi quá khứ đang lấn át cái tôi
hiện tại và tương lai. Cuộc sống quanh anh giờ chỉ còn những hoài niệm. Hành
trình đi ngược sông Di chính là cuộc hành trình tìm về ký ức, hồi tưởng lại quá khứ
15


với những những biến cố, sự kiện trong đời ảnh hưởng đến con người hiện tại của
Ân. Hai người quan trọng nhất trong cuộc đời anh là mẹ và Tú. Trước đây, họ là
những người quyết định bản ngã của anh “Họ vui cậu vui họ buồn cậu buồn”. Tuy
nhiên, trên hành trình thám hiểm sông Di, khi chuẩn bị tới rốn Túi, anh đã nhận ra
vị trí của mình trong mối quan hệ với những người anh yêu thương. Nếu trước đây
Ân coi cuộc sống của Tú là của mình, không có Tú anh như một người đi biển
quên mất la bàn. Ân luôn cống hiến hết mình cho tình yêu và tuyệt đối hóa tình yêu
“Tình yêu là thứ khiến người ta thấy cả thiên hạ đã biến mất, chỉ còn mỗi một
người, mỗi một thứ đáng để sống cho nó và vì nó” [62;77]. Giờ đây, Ân nhận ra Tú
không phải là bản ngã của mình, anh cảm thấy tức giận và thất vọng khi Tú
luôn“lửng lơ trong tình yêu”, như một kẻ “nằm dưới gốc sung há miệng chờ sung
rụng”. Anh nhận ra nỗi thất vọng của anh với Tú “không hoàn toàn vì yêu, mà vì
một người bạn chiến đấu đã bỏ cuộc. Tú đã buông xuôi”. Với Ân“bỏ lại một
người bạn dọc đường là bất nhẫn”. Lúc này, Ân có nhiều thứ đáng bận tâm hơn là
cứ mãi nhớ về một người đã “buông xuôi”. Tình yêu không còn giữ vị trí độc tôn
trong anh nữa, nó đã vắt kiệt niềm đam mê, sự kỳ vọng của anh. Lúc này, anh
giống như “một người quyết đến thiên hà Andromède để được nhìn mặt trời bằng
mắt thường, nhưng khi nhìn thẳng vào mặt trời anh ta chỉ thấy một thứ kém lộng
lẫy, tắt hào quang và nó chỉ giống như một vì sao trong hàng vạn vì sao khác”

[62;191]. Và anh “không muốn nhìn mặt trời đã không còn chói lóa”. Trong cuộc
hành trình này, Ân không chỉ nhận ra vị trí của mình trong Tú, Ân còn nhận ra vị
trí của anh với mẹ. Đối với mẹ, anh chỉ là một con nợ “mình sống đây là vay mẹ
một món nợ. Và sống đây là để trả món nợ ấy”. Chính vì vậy, quyết định cuối
cùng của anh là sẽ không quay trở về Sài Gòn, nơi có mẹ và Tú mà anh sẽ tiếp tục
cuộc hành trình đến điểm cuối cùng của dòng Di giang, “không phải vì Xu nói sẽ
thấy nhớ” mà là vì “bỏ lại một người bạn ở dọc đường là bất nhẫn”. Cũng như
Xu, Ân cũng không ưa bị phản bội. Khao khát tìm lại mình ngày càng cháy bỏng
16


khi Ân đi đến rốn Túi – nơi con người tìm đến giải quyết những phân vân. Lúc đó
anh đã nhận ra rằng, số phận con người đâu phải chỉ được quyết định bởi những
điều tưởng như to lớn, vĩ đại mà “số phận con người ta cũng có khi do mấy thứ
bâng quơ ra định đoạt” [62;223]. Điều đó khiến anh có đủ tự tin để thực hiện hành
động “dùng ngón chân rút cái cuộn cao su bịt lỗ dò” để đưa “quách” ra ngoài rốn
Túi mà không thấy “có chút tội lỗi nào vì đã đưa họ ra đây và buộc họ chơi trò
đó”. Quyết định sẽ giúp Ân tìm được câu trả lời xác thực nhất về những gì còn và
mất; những điều nên giữ và những điều nên quên…Nguyễn Ngọc Tư để truyện có
một cái kết mở, mặc dù nhân vật đã không dám đương đầu với hiện thực, lựa chọn
cho mình con đường dễ dàng để kết thúc cuộc hành trình nhưng người đọc vẫn bán
tín bán nghi hi vọng sự lội ngược dòng của số phận. Có thể các nhân vật sẽ sống
sót và bơi vào bờ, trở thành con người hoàn toàn mới, được sống cho riêng mình,
hoặc họ sẽ chìm vào dòng sông, biến mất giữa dòng đời và để lại một dấu hỏi cho
nhiều người.
Trong “Sông”, thấp thoáng những mảnh đời được ghép lại với nhau. Kẻ này
người kia tồn tại giữa dòng chảy nửa hư nửa thực mang tên “sông”, mang tên
“đời” để dấn thân vào những chuyến đi. Hai người bạn đồng hành cùng Ân trong
chuyến đi thám hiểm sông Di là Xu và Bối. Họ là những người tình cờ gặp nhau
qua mạng, chỉ biết nhau vỏn vẹn qua cái tên. Tuy nhiên với Ân đó là một sự may

mắn vì “những kẻ xa lạ không cần biết quá khứ của nhau đôi khi có thể đi cùng
nhau một hành trình dài dễ dàng hơn là những gương mặt quen nhìn thấu những
rạn vỡ của nhau”. Người đồng hành cùng Ân từ đầu đến cuối chặng đường là Xu.
Đằng sau vẻ bụi bặm, dữ dằn của gương mặt có vết sẹo dài là một tâm hồn khao
khát yêu thương. Trong anh luôn ẩn chứa nỗi đau về gốc gác. Suốt cuộc đời anh
mải miết đuổi theo câu hỏi “mình đến từ đâu?”. Có lẽ vì thế mà anh yêu thích loài
hoa dại – thứ hoa không tên, không lai lịch, gốc gác. Xu luôn hận những người đã
sinh ra anh nhưng anh vẫn muốn biết họ là ai? Quê hương anh ở đâu? Khi đến
17


vùng dân tộc Đào, chứng kiến cảnh bán con của những người mẹ trẻ, một suy nghĩ
lóe lên trong đầu Xu: anh có thể cũng là một thằng bé người Đào bị mẹ chúng
mang đi bán? Suy nghĩ đó khiến anh dằn vặt, đau khổ vì “bị bỏ rơi còn ngon lành
hơn bị bán”. Không chỉ tìm kiếm cội nguồn của mình, Xu còn mải miết kiếm tìm
chân lý của tình yêu. Thứ anh căm ghét nhất chính là sự phản bội. Như bao người
khác, Xu đã yêu, được yêu, nhưng anh không may mắn được hưởng hạnh phúc một
cách trọn vẹn khi nhiều lần bị bạn gái phản bội. Anh luôn đau đáu tìm đáp án cho
câu hỏi “sao ta giữ lại được người đàn bà ta thích?”. Đáp án về lai lịch, gốc gác
và tình yêu của Xu có lẽ mãi là một bí ẩn, vì “trên đời này có bao nhiêu câu hỏi
máu thịt bày ra mà có được trả lời cho rốt ráo đâu. Thứ mà người ta gọi là cuối
cùng chưa chắc đã là cuối cùng”. Nếu Xu tìm được câu trả lời chân thực cho mình
liệu anh có vui? Hay sự thù hận và đau thương sẽ ngày một xâm lấn bản thể vốn
mỏng manh và yếu ớt của anh? Có lẽ hành động trút bỏ những phân vân nơi rốn
Túi của Ân và Xu là cảnh cửa duy nhất giúp họ tìm lại chính mình như nỗ lực cuối
cùng để giải thoát bản thể.
Bối là nhân vật biến mất giữa chừng nhưng chuyến đi ngắn ngủi của anh có
thể xem như một hành trình tìm kiếm. Cuộc sống giả tạo, nhàm chán bên những
người “ít nhìn mặt nhau như nhìn mặt sách” đã thôi thúc Bối ra đi tìm sự hứng thú
trong cuộc đời để biết rằng mình vẫn đang tồn tại. Anh tìm bản ngã của mình qua

“một tia sét lóe lên, một bầu trời đen tối đầy thịnh nộ, một cơn lốc xoáy” [62;44].
Kịch tính luôn đưa anh tới tận cùng khoái cảm mà theo Ân đó là “thứ khoái cảm
có chút gì đó bệnh hoạn” [62;44]. Thế nhưng, một tiếng sấm động trời, một tia sét
cháy khét, một ánh chớp chói lòa có đánh thức được tâm hồn chai sạn của Bối?
Hay nó chỉ làm anh khoái cảm trong giây lát? Có lẽ thứ anh mà anh đang mải miết
tìm kiếm chính là tiếng nói sẻ chia, quan tâm, đồng cảm của con người. Qua đó ta
thấy được những tiêu cực, mặt trái của cuộc sống trong nền kinh tế thị trường. Đặc
18


biệt, đó là sự suy thoái về đạo đức, nhân phẩm của con người, mà biểu hiện rõ nhất
đó chính là thái độ thờ ơ, vô cảm đối với mọi sự vật, sự việc diễn ra xung quanh
mình. Cách sống này dường như đang lan tỏa trong xã hội với một tốc độ chóng
mặt, ko chỉ trong giới trẻ mà đã len lỏi vào khắp mọi giới.
Nhân vật trong “Sông” hiện lên như những người sống mà không có điểm
tựa, không có trọng lượng để được hút vào một nơi chốn vững chắc nào đó trong
cuộc đời, họ cứ ra đi kiếm tìm mà không biết đích đến là đâu. Người đi cùng Ân và
Xu trong chuyến đi đến hồ Thiên là ông lính già và Phụng. Ông lính già tìm đến hồ
Thiên để lãng quên ký ức chết chóc và tìm sự thanh thản cho tâm hồn. Tuy nhiên,
kí ức đó hãi hùng sẽ không bao giờ được dòng nước hồ Thiên gột rửa một khi ông
lính già còn chạy trốn quá khứ và sống giả tạo ở hiện thực. Ông chỉ có thể làm
thanh sạch tâm hồn khi dám đối diện với chính mình, dùng dòng nước của Sự Thật
để gột rửa tâm hồn. Ngày giải phóng đất nước thay vì nói về những chiến công hào
hùng, hiển hách ông hãy đối diện với sự thật, nói về cái chết, sự đớn hèn của cả ta
và địch. Dù chương trình có thể không thành công, dù năm sau ông không còn
được lên truyền hình với tư cách là một anh hùng nữa nhưng tâm hồn của ông sẽ
thôi khắc khoải, dày vò. Nhưng cái đích đó đơn giản đến mức chưa bao giờ xuất
hiện trong suy nghĩ của ông già. Có lẽ cả đời ông sẽ không đến được cái đích của
sự thanh thản, bình yên.
Phụng ra đi với mục đích giải thoát cho linh hồn người anh song sinh và học

cách sống cho chính mình, vì “trước giờ cô ta toàn sống nhờ cuộc đời người khác.
Giờ sống cho mình, không biết phải bắt đầu từ đâu” [62;169]. Cô bắt đầu lao vào
cuộc tìm kiếm bản thể một cách vụng về do “trực giác cùn lụt, không nhận biết
được những dấu hiệu” [62;192]. Đã có lúc Phụng nghĩ cảm giác ái ân, khoái cảm
chính là thứ cô đang tìm kiếm, nhưng cái mà Phụng thật sự cần tìm chính là cảm
giác an toàn – thứ cảm giác con người sống trong xã hội hậu hiện đại luôn thiếu.
19


Nhà triết học hiện sinh Pháp Jean – Paul Sartre đã nói đến cái chết như là sự
lãng quên của thân xác và nó không thể làm cho cuộc sống mất hết ý nghĩa. Lạc
vào tiểu thuyết “Sông”, ta bắt gặp những con người tìm đến cái chết như một sự
giải thoát. Họ coi cái chết như một điểm bắt đầu trong hành trình tìm kiếm sự sống.
San là cô gái có cá tính mạnh mẽ, luôn tìm mọi cách để thể hiện khát vọng yêu
thương, dâng hiến và khát vọng tìm về bản ngã. Cả cuộc đời San luôn kiếm tìm
đáp số cho câu hỏi “mình thích gì?”. Đến cuối cuộc đời chị đã tìm thấy câu trả lời
đơn giản đến mức không bao giờ chị nghĩ đến: Chị thích ngủ vì ngủ chính là con
đường dẫn chị tới “hang ổ của quên” [62;179]. Chìm vào giấc dài không dứt chính
là lối thoát để chấm dứt hiện tại đau khổ của chị. Bên cạnh cái chết của San ta còn
bắt gặp nhiều cái chết khác như cái chết gieo mình từ vách núi của Son và người
đàn bà bắt Sùng Trứng không tên, cái chết treo cổ tự tử của chị Ba Út Hết… Đó là
cái chết của những người khao khát kiếm tìm con đường giải thoát đau khổ khi họ
hoàn toàn cảm thấy mất đi chất keo “tình người” gắn kết họ với cuộc sống.
Càng dấn bước trên hành trình tìm kiếm, nhân vật của Nguyễn Ngọc Tư
càng hoang mang, hoài nghi, ngờ vực, không phân biệt được thực hư, thật ảo. Phải
chăng, sự hoang mang, hụt hẫng, mất mát chính là bản chất của kiếm tìm? Con
người càng muốn biết rõ về một điều gì đó, người ta càng thấy mù mờ về bản chất
của nó? Nếu San tìm kiếm giấc ngủ để quên đi nỗi đau hiện tại thì Ánh đã chọn
cách bỏ đi. Là người có cá tính mạnh, Ánh luôn ưa khám phá, mạo hiểm. Chị
“thích trà trộn vào thiên hạ sống nhiều đời sống khác”. Chị luôn tìm kiếm câu trả

lời cho những vấn đề “nóng” của xã hội “Chị làm công nhân giày da để trả lời
cho câu hỏi tại sao những đứa trẻ sơ sinh bị kiến ăn ở bãi rác gần khu công
nghiệp ngày càng nhiều, chị xin rửa chén trong nhà hàng chuyên thịt động vật có
tên trong sách đỏ, để chứng minh bọn ăn chúng phần lớn là quan chức” [62;64].
Tuy nhiên, hiện thực cuộc sống chỉ khiến chị thêm hoang mang, bế tắc. Khi bất lực
trước những vấn đề không lời giải đáp chị đã quyết định dứt bỏ cả người tình và sự
20


nghiệp đang trên đà rực rỡ để ra đi. Có lẽ Ánh muốn ra khỏi cuộc sống xô bồ, hỗn
tạp của xã hội đương đại để chìm vào dòng sông, tìm kiếm sự thanh thản cho riêng
mình.
Cuộc sống của con người luôn tỉ lệ nghịch với khát vọng kiếm tìm. Cuộc
sống ngắn ngủi bao nhiêu thì khát vọng kiếm tìm lớn bấy nhiêu. Càng cô đơn, lạc
lõng họ càng khao khát kiếm tìm. Có người nói cuộc sống của con người là một
vòng tuần hoàn khép kín, điểm tận cùng chính là cái chết. Thế nhưng, cuộc sống
không hoàn toàn vô nghĩa như ta vẫn tưởng. Nằm trong cuộc sống tuần hoàn đó là
những nỗ lực, khát vọng của con người luôn muốn vượt lên chính mình, tìm lại
phần bản thể bị che khuất. Có thể nói, tiểu thuyết “Sông” của Nguyễn Ngọc Tư chỉ
khoác “tấm áo” của một tiểu thuyết du khảo. Cái đích nhà văn muốn hướng tới
chính là khát vọng kiếm tìm của mỗi cá nhân. Họ ra đi để kiếm tìm lẽ sống, để
khẳng định sự tồn tại của mình, tìm cách vượt lên sự vô nghĩa, trống rỗng, tầm
thường và tẻ nhạt của cuộc đời.
1.3.2. Nhân vật cô đơn
Sau 1975, với sự đổi mới trong tư duy nghệ thuật của nhà văn và nhu cầu tự
ý thức trước sự đổi thay của đời sống xã hội, con người cô đơn đã trở thành một
kiểu nhân vật xuất hiện phổ biến trong văn học. Không ít nhà văn đương đại đi vào
khám phá những dạng thức cô đơn của con người. Trong sáng tác của Phạm Thị
Hoài ta thấy hiện lên một thế giới vô hồn, trống rỗng với những kiếp người phù du,
cô độc (Thiên sứ, Chín bỏ làm mười); bao trùm lên tiểu thuyết của Nguyễn Bình

Phương là một thế giới khủng hoảng niềm tin vào con người, sự đổ vỡ của những
thang bậc giá trị đạo đức trong xã hội (Thoạt kì thủy, Ngồi)… Nguyễn Ngọc Tư
quan niệm cái Tôi nhà văn là cái Tôi cô đơn: “Tôi cũng như những con người
trong Cánh đồng bất tận, sống giữa nhiều người, sống giữa cộng đồng, sống giữa
biển người nhưng có cảm giác như bị bỏ rơi”. Bằng cái tôi cô đơn của người nghệ
sĩ và khả năng nắm bắt tâm lý cũng như những biến động của đời sống xã hội, chị
21


đã khai thác trạng thái cô đơn một cách tinh tế và sâu sắc. Đi sâu vào tiểu thuyết
“Sông”, ta thấy kiểu nhân vật cô đơn được nhà văn miêu tả đậm nét. Cô đơn như
một nỗi ám ảnh thường xuyên truy bức, dồn nén cuộc sống của con người. Nói như
PGS.TS Nguyễn Thị Bích Thu: “Cô đơn là vấn đề của mỗi bản thể, cá nhân
nhưng nó không hẳn là vấn đề riêng tư nhỏ bé. Có thể nói từng cuộc đời riêng của
mỗi cá nhân gộp lại thành vấn đề của cộng đồng, xã hội. Con người cô đơn khi
thiếu sự đồng cảm, thiếu tiếng nói chung. Trạng thái cô đơn thường được thể hiện
ở sự trống trải trong tâm hồn” [53].
Trong tiểu thuyết “Sông”, ta bắt gặp cái tôi cô đơn của những cá nhân trước
cộng đồng. Họ là những người thiếu vắng sự quan tâm của gia đình và đánh mất
niềm tin vào tình yêu, hạnh phúc. Ân xuất hiện với một lý lịch mà nhiều người mơ
ước. Anh có đủ tiêu chuẩn của một công dân có địa vị, học thức trong xã hội.
Ngoài ra, anh còn là người sở hữu gương mặt thư sinh, dễ gây thiện cảm. Nhưng
đó chỉ là cái vỏ bề ngoài hoàn hảo nhằm che đậy những trăn trở bên trong. Ân là
người có ý thức sâu sắc về bản thể, anh như một con cá lội ngược dòng, sống giữa
biển người mà luôn thấy mình lạc lõng. Ngay từ khi còn trong bụng mẹ Ân đã
không được chào đón. Anh luôn nghĩ “mình sinh ra là nỗi thất vọng của người
khác” [62;26]. Bà ngoại tàn nhẫn đến mức dùng đòn gánh đánh vào bụng mẹ Ân
cho trụy thai mới thôi. Lần đầu tiên gặp bà ngoại, cái mà anh nhận được là “cú xô
làm đầu cậu va vào góc ván, phù bánh cam”. Khoảng cách ruột thịt giữa anh và bà
ngoại được định hình, từ đó không bao giờ anh đến gần bà ngoại nữa. Ân cũng có

cha nhưng cha Ân chưa bao giờ sống đúng nghĩa một người cha chân chính. Khi
Ân sinh ra ông mới chỉ là một cậu “sinh viên thực tập quê xứ xa mù”, chưa đầy hai
mươi tuổi. Ân cũng không phải niềm ao ước, tự hào của cha. Khi biết mình có con,
ông đã không ngần ngại mà nói: “Tưởng bỏ rồi. Kêu bỏ rồi mà. Giữ làm gì cho
khổ thân”. Chưa bao giờ ông xưng hô cha – con với Ân, đôi khi “ông gọi cậu bằng
tên, nếu không thì xưng hô trống không, vì gọi cha con thì cứng lưỡi”. Từ nhỏ đến
22


lớn Ân không hề mơ ước có một người cha, chưa bao giờ anh hỏi mẹ tại sao mình
không có cha. Ngày Ân gặp cha, câu đầu tiên anh nói với cha không phải tiếng gọi
thân thương như bao đứa trẻ khác dành cho cha mình mà đó lại là một câu chửi
thề: “Ụ móa mày”. Tình cảm huyết thống không hề được nhen nhóm trong hai cha
con “cha con cậu mãi mãi chẳng có cảm giác máu thịt với nhau”. Trong phạm vi
quan hệ gia đình, người Ân quan tâm nhất là mẹ. Thế nhưng mẹ Ân là một phụ nữ
hướng ngoại, mối quan tâm lớn nhất của bà là nhan sắc và đàn ông. Chính vì thế,
chưa bao giờ bà quan tâm Ân muốn gì ngoài việc bắt Ân phải quan tâm tới những
điều bà muốn “mẹ không có thói quen lắng nghe cậu nói. Việc lắng nghe, là của
cậu. Việc nhận kỳ vọng và yêu thương, là của cậu”.
Ngay chính con người anh cũng đi ngược với tự nhiên. Từ nhỏ Ân đã không
bình thường như những cậu bé khác, Ân thuộc giới tính thứ ba. Anh mang trong
mình mặc cảm lạc loài khi biết mình là kiểu đàn ông chỉ xúc cảm với người đồng
giới. Sự khác biệt này đẩy anh vào trạng thái hoàn toàn cô độc khi không tìm thấy
sự đồng cảm, sẻ chia. Trong vô thức, anh đã tự tách biệt mình ra một thế giới khác.
Người duy nhất khiến Ân lấy lại được sự cân bằng trong cuộc sống chính là Tú. Tú
là người anh đặt vào đó tất cả niềm tin, hy vọng nhưng cuối cùng cũng trở thành
nỗi bất hạnh lớn nhất của anh. Tình yêu đổ vỡ, Ân thấy hụt hẫng và đánh mất niềm
tin vào giá trị của tình yêu “Tú để cậu một mình, cho cậu thấy cậu đang lặp lại
cuộc đời của mẹ. Xúng xính khoác lên người những thứ gọi là tình yêu, những
người gọi là người yêu, để lúc bất trắc không có ai ở bên mình. Lúc cần không có,

lúc có lại chẳng cần” [62;167]. Tú rẽ dòng để chấp nhận một cuộc hôn nhân
“muốn ói”. Còn Ân chấp nhận đơn độc ra đi để lãng quên “thứ đã từng là sinh
mạng” của mình.
Ở một số nhân vật khác trong “Sông”, nỗi cô đơn hiện hữu như một định
mệnh. Nó là sự mất mát, đổ vỡ tình yêu, hạnh phúc do sự thờ ơ, lạnh lùng, tàn
nhẫn của con người tạo thành. Xu là nhân vật bị rơi vào trạng thái “mất căn cước”
23


hoàn toàn. Không gia đình, không quê hương anh sống mà không cần biết ngày
mai ra sao khi không tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống và sự tồn tại. Trong Xu là quá
khứ đau thương của một thằng bé mồ côi được tìm thấy trong “đống thùng xốp
đựng trái cây”. Anh là một trong bảy đứa trẻ “tái nhợt, rúm ró” mà cảnh sát tìm
thấy. Ngay lúc đó, Xu được đôi vợ chồng ở Thới Lai nhận nuôi. Sau hai mươi ngày
Xu được trả lại khi không bố mẹ nuôi của anh không lấy được những đồng tiền
thương hại của những người có lòng trắc ẩn nữa. Đứa trẻ đó tiếp tục được chuyển
đến tay một bà góa. Sau khi bà chết vì “dòi đã rúc đến xương” Xu được đưa về
trại mồ côi. Ngay từ lúc còn là đứa trẻ sơ sinh, trong vô thức Xu đã mang cảm thức
cô đơn. Nỗi cô đơn khiến trái tim đứa trẻ sơ sinh chai cứng đến nỗi nó không hề
cất lên bất kì một tiếng khóc nào. Trái tim đó ngày càng băng giá hơn khi anh bắt
đầu nhận thức được cuộc sống “từ điển đời tôi không hề có chữ khóc”. Nó đúng
như lời Xu nói “Người tỉnh càng mất nhiều, càng chai lì, càng thản nhiên”
[62;111]. Những tưởng tình yêu có thể sưởi ấm được trái tim giá băng, nhưng tình
yêu chỉ khiến Xu thêm lạnh. Anh chưa bao giờ được hưởng niềm hạnh phúc một
cách trọn vẹn. Anh đã từng yêu nhưng tình yêu luôn quay lưng với anh. Mối tình
đầu anh trao cho cô gái mười bảy tuổi nhưng đau đớn thay, cô gái đó đã phản bội
anh đi theo người khác. Đã nhiều lần Xu chứng kiến “những cô gái của mình bỏ đi
với người khác”, điều đó khiến anh mất niềm tin vào cuộc sống, nhào nặn anh
thành một người lạnh lùng, vô cảm.
Nỗi cô đơn còn được biểu hiện ở sự lẻ loi, cô độc, một mình với những suy

nghĩ và cảm nhận nhân sinh khác biệt với người khác. Đối lập với Xu, Bối sinh ra
trong một gia đình có địa vị hoàn hảo. Cuộc sống của Bối là cuộc sống mà nhiều
người ao ước. Từ nhỏ tới lớn Bối sống trong nhung lụa “muốn gì cũng có, đòi gì
cũng được” [62;80]. Cha mẹ Bối đều là giáo sư, còn em gái Bối là tiến sĩ. Họ là
những người được cả xã hội trọng vọng nhưng với Bối đó là bi kịch“cuộc sống êm
đềm, đầy đủ cũng là một thứ bất hạnh không thể cứu vãn” [62;80]. Thái độ không
24


hài lòng về hoàn cảnh xuất thân của mình, cộng với sự coi thường vinh hoa phú
quý, địa vị khiến Bối trở nên lạc lõng giữa gia đình và xã hội. Mọi người trong gia
đình hẳn hy vọng Bối sẽ là người mang lại niềm tự hào cho họ. Thế nhưng, họ kì
vọng bao nhiêu thì thất vọng bấy nhiêu. Việc mải miết chạy theo danh – lợi đã
khiến họ không thể hiểu được nỗi lòng của Bối. Sống trong sự lạnh lùng của những
người trong gia đình, nỗi cô đơn bủa vây Bối từng ngày. Anh đã viết những bài hát
chứa chan cảm xúc của kiếp người cô độc: “Chỉ còn mỗi mưa xiên/Những tìn nhắn
không soi vào mắt nữa/Những lời gọi mời tắt ở bên kia cây cầu…/Không ai hỏi mi
đã ăn chưa, đã đến đâu/xe mê miết đi qua biên giới của đất nước mang tên bóng
tối…/Nhưng sau lưng mình còn có một cơn mưa/Chỉ còn mỗi mưa thôi/Và
mưa/cũng tạnh rồi” [62;52]. Bối thường tìm cách để thoát khỏi nỗi cô đơn, tìm
kiếm một tiếng nói đồng điệu. Ngay từ khi còn nhỏ, Bối đã tự cắt tay cho chảy máu
rồi sung sướng khi nhìn mọi người trong nhà rộn lên lo lắng. Khi lớn anh cũng
luôn có những hành động kì quái như lặn dưới nước thật lâu xem ai là người đầu
tiên cứu mình; chọc tổ ong cho ong đốt xem cảm giác ra sao; biến mất để được
tìm…Anh luôn muốn thử mọi cảm giác mạnh để biết mình còn tồn tại hay không,
càng cô độc anh càng thu mình vào vỏ bọc. Nội tâm anh chứa đầy mâu thuẫn, anh
vừa muốn trốn chạy, vừa muốn được quan tâm. Có thể hành động biến mất một
cách bất ngờ của Bối ở chặng đầu hành trình du khảo sông Di cũng nằm trong kế
hoạch tìm kiếm sự quan tâm của người khác “biến mất để coi ai là người tìm mình
đầu tiên”. Cách Bối biến mất là cách chống lại sự quên, chống lại tính dè xẻn yêu

thương mà đồng loại đang mắc phải.
Trong tiểu thuyết “Sông”, Nguyễn Ngọc Tư xây dựng những nhân vật sống
giữa biển người đông đúc, xô bồ nhốn nháo. Nhưng chính trong sự đông đúc ấy,
mỗi người co mình lại thành một ốc đảo khép kín. Cái cô đơn luôn ngự trị ở bản
thể của mỗi nhân vật. Họ là những người đã yêu, đang yêu nhưng họ chỉ cho đi mà
không bao giờ được nhận lại. Mẹ Ân không muốn chấp nhận cuộc sống cô đơn nên
25


×