Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

PhÂn tích các nguyên tắc của luật biển hiện đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.23 KB, 19 trang )

MỞ ĐẦU
Biển chiếm gần 71% bề mặt trái đất và ngày càng có một vai trò quan trọng trong
đời sống của các quốc gia, các dân tộc. Biển là một mạng lưới giao thông thuận
tiện, một nguồn tài nguyên vô cùng phong phú và quý giá đối với đời sống của con
người. Nhận thức được tầm quan trọng của biển cũng như là tính cấp thiết của việc
giải quyết các vấn đề về biển trong thực tiễn quốc tế mà luật biển đã ra đời từ rất
sớm. Luật biển phải điều chỉnh một loạt hoạt động của các thành viên cộng đồng
quốc tế trong việc sử dụng và khai thác biển cũng như tài nguyên của biển. Luật
biển ra đời đã góp phần đáng kể vào việc quy định các quốc gia có thể khai thác, sử
dụng, qua lại trên biển dễ dàng cũng như tránh xung đột, mâu thuẫn nảy sinh giữa
các nước trên thế giới về vấn đề biển cả.
Luật biển quốc tế là một nghành luật của Luật quốc tế, Luật biển hình thành và phát
triển dựa trên các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế: bình đẳng về chủ quyền giữa
các quốc gia; cấm sử dụng vũ lực và đe dọa dùng vũ lực; giải quyết các tranh chấp
quốc tế bằng biện pháp hòa bình; không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau;
các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác; dân tộc tự quyết và nguyên tắc pacta sunt
servanda. Tuy nhiên, biển có những đặc thù rất riêng vì thế Luật biển cũng có
những nguyên tắc riêng của nó: nguyên tắc tự do biển cả; nguyên tắc đất thống trị
biển; nguyên tắc công bằng; nguyên tắc di sản chung của loài người. Việc thiết lập
các nguyên tắc này đã mở ra một thời đại mới trong mối quan hệ quốc tế: ngoài
việc giúp cho sự thông thương giữa các quốc gia, việc khai thác, nghiên cứu, sử
dụng những nguồn lợi tài nguyên vô giá của biển được thực hiện một cách dễ dàng
thuận tiện, hai nguyên tắc này còn góp phần gắn chặt mối quan hệ giữa các nước,
đem lại những sức mạnh to lớn về nhiều mặt cho các quốc gia. Chính những điều
đó đã góp phần không nhỏ trong sự phát triển loài người. Nhưng mỗi nguyên tắc có
một vai trò quan trọng nhất định. Vậy nên trong đề tài: “Phân tích các nguyên tắc
của luật biển quốc tế hiện đại”, em sẽ phân tích nội dung và vai trò của từng
nguyên tắc.
1



NỘI DUNG
I.
1.

Giới thiệu về luật biển quốc tế
Khái niệm
Luật biển là một trong những ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật

quốc tế xuất hiện từ thời xa xưa và có vai trò quan trọng trong đời sống quan hệ
quốc tế. Lúc đầu mới hình thành, luật biển tồn tại dưới dạng những tập quán quốc
tế chỉ được một số ít quốc gia thừa nhận và vận dụng. Quá trình pháp điển hóa Luật
biển phát triển mạnh sau Đại chiến thế giới thứ hai, thông qua ba hội nghị lớn của
Liên hợp quốc vào các năm 1958, 1960 và 1973-1982 và đến ngày 10 tháng 12
năm 1982 đã thông qua Công ước 1982 của Liên hợp quốc về Luật biển tại
Moonteegobay (Jamaia) với 320 điều khoản, 17 phần và 9 phụ lục. Công ước thực
sự là bản hiến pháp về biển của cộng đồng quốc tế, đề cập toàn diện tất cả các vấn
đề thuộc pháp lý, kinh tế, khoa học kỹ thuật, hợp tác, giải quyết, tranh chấp…
Như vậy, Luật biển ra đời đã điều chỉnh việc sử dụng và quản lý không gian biển.
Ở khía cạnh này luật biển quy định quyền hạn và nghĩa vụ của các quốc gia (có
biển hoặc không có biển), điều chỉnh các quan hệ phát sinh giữa các quốc gia và
các chủ thể khác ở những vùng biển với các chế độ pháp lý khác nhau. Mặt khác,
luật biển là một ngành luật mang tính chức năng. Các chức năng này không chỉ gắn
liền với việc thực thi chủ quyền trên một vùng biển hẹp như chiến tranh và xung
đột vũ trang, đăng kí quốc tịch cho tàu thuyền,… mà còn được bổ sung thêm những
chức năng mang tính cộng đồng sau khi chức năng gắn liền với chủ quyền thực
hiện trong một thời gian dài: bảo vệ môi trường biển, nghiên cứu khoa học biển,…
Một cách khái quát có thể định nghĩa Luật biển quốc tế là một ngành luật độc
lập trong hệ thống pháp luật quốc tế bao gồm những nguyên tắc, quy phạm Luật
quốc tế, được các quốc gia và các chủ thể khác của Luật quốc tế thỏa thuận xây
dựng dựa trên cơ sở phát sinh tự nguyện, bình đẳng nhằm điều chỉnh những quan

hệ phát sinh giữa các chủ thể đó trong hoạt động quản lý, sử dụng , khai thác và

2


bảo vệ môi trường biển và trong trường hợp cần thiết được đảm bảo bằng các biện
pháp cưỡng chế do chính các chủ thể của Luật quốc tế thi hành.
2.

Các nguyên tắc của luật biển quốc tế

-

Nguyên tắc tự do biển cả.

-

Nguyên tắc đất thống trị biển.

-

Nguyên tắc di sản chung của loài người.

-

Nguyên tắc công bằng.

II.
1.


Nguyên tắc tự do biển ca
Lịch sử hình thành
Từ thế kỷ XV, nhận rõ thấy lợi ích to lớn của biển cả thì các quốc gia đẩy

mạnh việc đua tranh chiếm lĩnh thị phần khai thác, sử dụng biển; việc đưa tranh
này ngày càng trở nên quyết liệt, lúc đó, người ta đã nhận ra rằng “biển cả không
phải là nguồn tài nguyên vô tận mà biển cả là của chung, các quốc gia bình đẳng
trong việc khai thác, sử dụng biển”. Từ đó đã hình thành hai quan điểm, hai học
thuyết trái ngược nhau đó là: tự do biển cả và chủ quyền quốc gia.
Trong thời kì phong kiến, nhiều quốc gia và thành phố cảng biển đã đưa ra
những chính sách đẩy mạnh việc khai thác lợi ích từ biển cả, đặc biệt Tây Ba Nha
và Bồ Đào Nha là hai quốc gia có hạm đội thương thuyền mạnh nhất thế giới đã tự
ý thỏa thuận phân chia toàn bộ Đại Tây Dương; Thái bình Dương với nhau. Hà Lan
là quốc gia nhất quán ủng hộ nguyên tắc tự do biển cả. Học thuyết tự do biển cả lần
đầu tiên được đưa ra bởi Hugo Grotius trong cuốn “Mare Liberum” (tựa tiếng
Anh : The Freedom of Sea) trong đó ông bảo vệ kiên quyết nguyên tắc tự do biển
cả, chống lại các yêu cầu, đòi hỏi vô lối của Tây Ba Nha và Bồ Đào Nha. Cuốn
sách lần đầu tiên được xuất hiện tại Leiden bởi nhà xuất bản Elzevier vào mùa xuân
năm 1609.

3


Cho đến thế kỉ XVIII, nguyên tắc tự do biển cả đã chiến thắng. Từ đây, tất cả
các hạn chế thương mại của giai cấp phong kiến bị thủ tiêu, các yêu cầu đòi hỏi của
các quốc gia đối với biển cả bị loại bỏ.
Luận cứ của học thuyết này bắt nguồn từ bản chất tự nhiên của biển cả, đó là
tính động, tính lỏng, tính thống nhất, tính không cạn kiệt của tài nguyên (theo quan
niệm của thời kỳ đó) và Luật tự nhiên. Cách tiếp cận của thuyết Biển tự do là để đi
đến khẳng định, các quốc gia có quyền tự do thương mại quốc tế thông qua đường

biển. Theo lập luận của thuyết biển tự do thì biển cả được để mở, không hạn chế về
hàng hải.
Sau thế chiến thứ hai, quá trình pháp điển hóa luật quốc tế diễn ra mạnh mẽ,
quan điểm tự do biển cả cũng từ đó mà được các học giả, các tuyên bố đơn phương
của các quốc gia và thực tiễn khẳng định và phát triển:
- Tại phiên họp thứ 22 của Đại hội đồng Liên hợp quốc vào 17/08/1962,
Arvid Pardo Đại sứ Malte đã đưa ra tư tưởng coi vùng đáy đại dương nằm ngoài
vùng tài phán quốc gia là di sản chung của nhân loại.
- Nghị quyết 2479 (XXV) ngày 17/12/1970 có nội dung tuyên bố về các
nguyên tắc quản lý đáy biển và đại dương cũng như các lòng đất của chúng nằm
ngoài ranh giới quyền tài phán quốc gia.
- Phán quyết của Tòa án pháp lý quốc tế: Nguyên tắc tự do thông thương
hàng hải và nghĩa vụ của mọi quốc gia không được sử dụng lãnh thổ của mình
nhằm mục đích chống lại quyền của các quốc gia khác (Vụ eo biển Corfou ngày
09/04/1949 giữa Anh – Albani)
- Hội nghị pháp điển hóa lần thứ nhất của Liên hợp quốc về luật biển năm
1958 tại Geneve đã cho ra đời hai công ước:
4


+ Công ước về biển cả (hiệu lực từ ngày 30/09/1962) với 52 quốc gia phê
chuẩn.
+ Công ước về đánh cá và bảo tồn các tài nguyên sinh vật biển (hiệu lực từ
ngày 02/03/1966) với 36 quốc gia phê chuẩn.
-

Hội nghị lần thứ ba của Liên hợp quốc về luật biển được triệu tập tại New York với
nhiều vòng đàm phán, từ năm 1973 đến năm 1982. Ngày 10/12/1982, tại Montego
Bay, thủ phủ của Jamaica, đại diện có thẩm quyền của 117 quốc gia, Hội đồng của
Liên hợp quốc về Nammibia và các đảo Cuc đã ký chính thức công bố Công ước

luật biển 1982. Công ước bắt đầu có hiệu lực từ ngày 16/11/1994. Tính đến thời
điểm hiện nay thì đã có 154 quốc gia và Cộng đồng châu Âu phê chuẩn công ước.
Và trong công ước 1982 thì nguyên tắc tự do biển cả đã được thừa nhận như
một nguyên tắc cơ bản nhất của luật biển quốc tế. Do đó mà chế độ pháp lý của
biển cả được tập trung chủ yếu trong nguyên tắc tự do ở biển cả. Theo nguyên tắc
này, biển cả được để ngỏ cho tất cả các quốc gia có biển hay không có biển đều
bình đẳng và tự do trong việc sử dụng biển.
2.

Nội dung
Bản chất pháp lý này của biển cả được thể hiện và đảm bảo bằng nội dung

của nguyên tắc tự do biển cả: Biển cả được để ngỏ cho tất cả các quốc gia, dù là
quốc gia có biển hay không có biển. Không cho phép bất cứ quốc gia nào có thể áp
đặt một cách hợp pháp một bộ phận nào đó của biển cả thuộc chủ quyền của mình.
Tất cả các quốc gia đều được hưởng các quyền tự do. Tuy nhiên, khi sử dụng quyền
này, các quốc gia phải thừa nhận và tính đến lợi ích của các quốc gia khác. Các
quyền này mang tính tập quán.

5


Do đặc trưng không thuộc sở hữu của bất kỳ quốc gia nào, quy chế pháp lý
của biển cả là quy chế tự do, hiểu theo hai khía cạnh pháp lý cơ bản:
- Thừa nhận sự ngang nhau về quyền và lợi ích của mọi quốc gia trên biển
cả.
- Không có sự phân biệt đối xử dựa trên vị trí và hoàn cảnh địa lý của mọi
quốc gia khi tham gia sử dụng và khai thác biển cả.
Theo quy định tại Điều 87- Công ước luật biển 1982, những quyền tự do trên
biển xuất phát từ nguyên tắc tự do biển cả bao gồm:

- Tự do hàng hải: Nội dung chủ yếu của quyền này liên quan đến tự do đi lại
trên biển cả và thẩm quyền tài phán đối với tàu thuyền khi hoạt động trên biển cả.
Tàu thuyền một nước nhất định không phải chịu sự tài phán của một quốc gia khác,
trừ quốc gia mà tàu mang quốc tịch, khi hoạt động trong vùng biển cả.
- Tự do hàng không: Đây là quyền tự do được bổ sung tiếp theo trong quá
trình phát triển Luật biển quốc tế, đồng thời được thừa nhận là nguyên tắc chuyên
biệt của luật hàng không quốc tế. Theo nguyên tắc này, trong vùng trời quốc tế, các
phương tiện bay của tất cả các quốc gia đều có quyền tự do hàng không. Đồng thời,
khi hoạt động ở vùng trời quốc tế, phương tiện bay chỉ chịu thẩm quyền tài phán
của quốc gia đăng tịch phương tiện bay, phát sinh từ cơ sở pháp lý của nguyên tắc
thẩm quyền phương tiện bay. Đây là thẩm quyền riêng biệt. Tuy vậy, quyền tự do
hàng không cũng có những giới hạn nhất định, đó là trong thời gian bay trong
không phận quốc tế, các phương tiện bay phải chấp hành và tuân thủ nghiêm chỉnh
các quy định, các yêu cầu về an ninh hàng không được ghi nhận trong điều ước
quốc tế về hàng không cũng như các văn bản do tổ chức hàng không quốc tế ban
hành. Tất cả các quốc gia phải áp dụng các biện pháp an ninh an toàn hàng không
6


cho các phương tiện bay của mình, tuân thủ nghiêm túc các quy định của luật hàng
không quốc tế.
- Tự do đặt các dây cáp và ống dẫn ngầm: Quyền này được vận dụng chủ
yếu từ sau thế chiến thứ hai và được hiểu rộng hơn, là bao gồm cả việc bảo vệ và
nghiêm cấm phá hoại dây cáp và ống dẫn ngầm được đặt dưới biển. Quốc gia đặt
dây cáp và ống dẫn ngầm có nghĩa vụ phải đặc biệt quan tâm đến tình trạng của
chúng đã được xây dựng ở dưới đáy biển, không được gây cản trở cho quá trình sửa
chữa các dây cáp và ống dẫn ngầm hiện có.
- Tự do đánh bắt hải sản: Các quốc gia có quyền tự do đánh bắt tài nguyên
sinh vật biển. Tàu thuyền và công dân của mỗi quốc gia có thể sử dụng mọi nguồn
tài nguyên thiên nhiên của biển. Trên khu vực biển cả có thể đánh bắt hải sản tùy

theo khả năng của con người, vào bất cứ thời điểm nào mà họ muốn và với bất kỳ
phương tiện đánh bắt nào. Tuy nhiên, trong công ước cũng quy định về một vùng
đặc quyền kinh tế của quốc gia ven bờ với chiều rộng 200 hải lý tính từ đường cơ
sở, trong vùng này các quốc gia được tự do đánh bắt hải sản. Vùng đặc quyền kinh
tế chiếm khoảng 40% diện tích biển, đây là những vùng giàu hải sản nhất, chiếm
90% tổng sản lượng đánh bắt trên thế giới. Như vậy, quyền tự do đánh bắt hải sản
không được áp dụng trên một vùng biển rất rộng lớn, nguyên tắc này hiện nay ít có
ý nghĩa thực tiễn.
- Tự do nghiên cứu khoa học.
- Tự do xây dựng các đảo nhân tạo và các thiết bị khác được pháp luật quốc
tế cho phép.
Trong các quyền tự do nói trên, quyền tự do hàng hải và tự do hàng không bị
hạn chế như đối với các quyền tự do khác thì bị hạn chế phần nào. Về quyền tự do
đánh bắt cá ở biển cả không phải không có giới hạn mà ngược lại, quốc gia đánh
7


bắt cá ở biển cả có nghĩa vụ tôn trọng các quyền và nghĩa vụ cũng như lợi ích của
các quốc gia ven biển; áp dụng các biện pháp để bảo tồn và quản lý tài nguyên sinh
vật ( Điều 116, 117, 118, 119 của công ước 1982)
Hai quyền sau cùng này xuất phát từ nhu cầu phát triển của khoa học kỹ
thuật hiện đại. bao gồm tự do nghiên cứu khoa học phải tuân thủ các phần VI, VIII
trong công ước Luật biển 1982 và tự do xây dựng các đảo nhân tạo, các thiết bị
khác được pháp luật quốc tế, với điều kiện tuân thủ phần VI trong Công ước 1982.
Các quốc gia dù có biển hay không có biển đều có quyền tự do sử dụng các
tàu thuyền của mình trên biển cả để thực hiện các quyền tự do nêu trên.
Phạm vi áp dụng nguyên tắc này là biển cả, vùng (được coi là đáy đại dương
và nằm ngoài thềm lục địa), vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa, một số vùng
biển đặc thù.
3. Vai trò cùa nguyên tắc tự do biển cả


Nguyên tắc tự do biển cả là nguyên tắc pháp lý của Luật biển quốc tế, có
giá trị chi phối nhiều quy phạm của luật này. Nguyên tắc này là cơ sở pháp lý để
thiết lập chế độ pháp lý các vùng của các vùng biển và duy trì trên đó họat động
của các đối tượng tham gia sử dụng biển. Điều này có nghĩa rằng, tự do biển cả với
những nội dung nêu trên không chỉ tồn tại duy nhất ở vùng biển cả, mà nó còn có
vai trò ảnh hưởng đối với những vùng biển thuộc chủ quyền và các vùng thuộc
quyền chủ quyền quốc gia. Tự do biển cả không có nghĩa là tự do một cách tuyệt
đối, mà tự do phải phù hợp với định chế của Công ước Liên hợp quốc về Luật
biển năm 1982 (sau đây gọi là Công ước năm 1982) và các quy phạm khác của
Luật quốc tế.

8


Tự do hợp tác trong khai thác và sử dụng biển cả một cách hợp lý, vì mỗi
quốc gia là một thành viên của cộng đồng quốc tế nên quyền tự do biển cả cần
tính đến sự hài hoà về lợi ích giữa các quốc gia. Nguyên tắc tự do biển cả (Điều
87) là quy phạm có tính chất mệnh lệnh của Luật biển quốc tế nên các quốc
gia không thể tự thoả thuận với nhau để thay đổi nó. Đây là nguyên tắc vô
cùng quan trọng, trực tiếp giải quyết một vấn đề có tính toàn cầu đó là
nhân loại cùng nghiên cứu và sử dụng đại dương phục vụ lợi ích cộng đồng.
Vấn đề này xuất phát từ lý luận truyền thống: Biển là không gian mở đối với các
quốc gia, theo đó, việc thiết lập các vùng biển có quy chế pháp lý khác nhau không
có nghĩa là tạo ra sự chia cắt hoàn toàn độc lập giữa những khoảng không gian này
với nhau, dự a theo các nhóm lợi ích đối lập. Vì vậy, vận dụng nguyên tắc tự do
biển cả để thiết lập trật tự pháp lý trên biển phải đảm bảo đựơc hai vấn đề:
- Đảm bảo duy trì quyền tự do cơ bản và truyền thống của cộng đồng quốc tế
trong sử dụng biển.
- Đảm bảo sự bình đẳng giữa các quốc gia trong hưởng lợi ích và sử dụng

biển vì mục đích hòa bình.
Nguyên tắc tự do biển cả một mặt hạn chế xu thế mở rộng thái quá chủ
quyền của các nước ven biển lấn át biển công, mặt khác, duy trì quyền lợi vốn có
của các quốc gia, không chỉ biển cả mà còn trên cả các vùng biển mà về pháp lý
thuộc chủ quyền và quyền tài phán của mỗi quốc gia.
Nguyên tắc tự do biển cả luôn được coi là nền tảng mang tính xuất phát điểm
cho sự hình thành và phát triển các quy phạm của Luật biển quốc tế.
III.
1.

Nguyên tắc đất thống trị biển
Lịch sử hình thành
9


Trước đây, không hề có quan niệm nào về vấn đề “ đất thống trị biển “, mãi
cho đến năm 1969, khi 6 quốc gia vùng Bắc Cực tranh chấp vùng Biển Bắc. Lần
đầu tiên người ta bắt đầu quan tâm đến chủ quyền và quyền chủ quyền của quốc gia
ven biển. Trong phán quyết lịch sử của Tòa án Công lý Quốc tế vền phân định
Thềm lục địa Biển Bắc ngày 20/20/1969, Tòa khẳng định: Thềm lục đại của bất kỳ
quốc gia nào cũng phải là sự kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền của nó và
không được cản trở sự kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền của nước khác.
Công ước Liên hợp quốc về luật biển 1982 đã chính thức ghi nhận vấn đề
này và nó trở thành một trong những nguyên tắc quan trọng xác định chủ quyền và
quyền chủ quyền của quốc gia ven biển – nguyên tắc đất thống trị biển. Nhờ có
nguyên tắc này, mà người ta có thể xây dựng chế độ pháp lý quốc tế của các vùng
biển mà quốc gia có chủ quyền và quyền chủ quyền.
2.

Nội dung

Đất thống trị biển là sự thể hiện của học thuyết Res nullius, cho phép các

quốc gia mở rộng chủ quyền ra hướng biển. Đây là nguyên tắc của Luật tập quán,
hình thành từ thực tiễn xét xử của Tòa án Công lý Quốc tế.
Theo nguyên tắc này, các quốc gia ven biển được hưởng chủ quyền và quyền
chủ quyền ở các vùng biển lân cận. Điều 2 Công ước quốc tế về luật biển 1982 quy
định: “Lãnh thổ là điều kiện tiên quyết để mở rộng lãnh thổ quốc gia ra vùng lãnh
hải và các vùng khác như vùng nước quần đảo”. Hay như điều 49 Công ước 1982
quy định: chính chủ quyền của quốc gia quần đảo trên các đảo của mình là cơ sở
cho cộng đồng quốc tế chấp nhận học thuyết quốc gia quần đảo và mở rộng chủ
quyền đó ra vùng nước quần đảo, bất kể chiều sâu và khoảng cách xa bờ của chúng
thế nào.
Nguyên tắc thống trị biển còn được thể hiện trong phân định biển bằng yêu
cầu không được sửa chữa lại tự nhiên. Như vậy mỗi quốc gia chỉ được hưởng phần
kéo dài tự nhiên của lãnh thổ của mình ra biển, ngay cả khi một vùng đáy biển của
một quốc gia hơn là lãnh thổ của nhiều quốc gia khác thì cũng không thể coi rằng
10


nó thuộc phần quốc gia này nếu nó không phải là phần mở rộng tự nhiên của lành
thổ đất liền của quốc gia đó ra biển.
Tuy nhiên, các quốc gia không thể lạm dụng mãi nguyên tắc đất thống trị
biển nhằm mở rộng thẩm quyền của mình ra phia biển mà phải phù hợp với pháp
luật quốc tế.
Vậy nên Công ước 1982 đã quy định như sau:
-

Vùng biển mà quốc gia có chủ quyền: vùng nội thủy, vùng lãnh hải.

 Vùng nội thủy: Theo khoản 1 Điều 8 Công ước luật biển năm 1982 định

nghĩa: “ Nội thủy là vùng nước ở phía bên trong đường cơ sở dùng để tính chiều
rộng lãnh hải”. Đường cơ sở này do quốc gia ven biển quy định vạch ra (Điều 7
Công ước luật biển 1982). Từ đó trở vào gọi là nội thủy, từ đó trở ra gọi là lãnh hải.

 Vùng lãnh hải: Điều 3 Công ước nêu rõ: “Mỗi quốc gia có quyền định
chiều rộng của lãnh hải đến một giới hạn không quá 12 hải lý từ đường cơ sở được
xác định phù hợp với công ước này”. Như vậy, lãnh hải là vùng ngoài nội thủy, có
chiều rộng tối đa không quá 12 hải lý tính từ đường cơ sở.
-

Vùng biển mà quốc gia có quyền chủ quyền và quyền tài phán: vùng tiếp
giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa.

 Vùng tiếp giáp lãnh hải: Điều 33 Công ước về Luật biển năm 1982 quy
định: “Vùng tiếp giáp không thể mở rộng quá 24 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để
tính chiều rộng của lãnh hải”.

 Vùng đặc quyền kinh tế: vùng đặc quyền kinh tế là vùng biển nằm ở ngoài
lãnh hải và tiếp liền với lãnh hải, có phạm vi rộng không vượt quá 200 hải lý tính từ
đường cơ sở. Như vậy phạm vi lãnh hải rộng 12 hải lý bên trong vùng đặc quyền
kinh tế nên chiều rộng riêng của vùng đặc quyền kinh tế là 188 hải lý. Vùng đặc
quyền kinh tế bao gộp trong nó cả vùng tiếp giáp lãnh hải. Vùng đặc quyền kinh tế
là một vùng đặc thù trong đó quốc gia ven biển thực hiện thẩm quyền riêng biệt của
mình nhằm mục đích kinh tế được Công ước về Luật biển 1982 quy định.
11


 Thềm lục địa: Về mặt pháp lý quốc tế, Công ước về Luật biển năm 1982
định nghĩa: “Thềm lục địa của một quốc gia ven biển bao gồm đáy biển và lòng đất
dưới đáy biển bên ngoài lãnh hải của quốc gia đó, trên toàn bộ phận kéo dài tự

nhiên của lãnh thổ đất liền của quốc gia đó cho đến bờ ngoài của rìa lục địa, hoặc
đến cách đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải 200 hải lý khi bờ ngoài của
rìa lục địa của quốc gia đó ở khoảng cách gần hơn” (khoản 1 Điều 76).
Phạm vi áp dụng nguyên tắc đất thống trị biển là các vùng biển mà quốc gia
ven biển có chủ quyền: vùng nội thủy và vùng lãnh hải; vùng mà quốc gia ven biển
có quyền chủ quyền và quyền tài phán: vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền
kinh tế và thềm lục địa.
3.

Đánh giá vai trò của nguyên tắc đất thống trị biển
Nguyên tắc đất thống trị biển là nguyên tắc quan trọng của Luật biển quốc tế.

Nguyên tắc này là cơ sở pháp lý để thiết lập chế độ pháp lý các vùng biển, chủ
quyền và quyền chủ quyền của quốc gia ven biển. Sự kết hợp hài hòa giữa nguyên
tắc đất thống trị biển và nguyên tắc tự do biển tạo cơ sở để các quốc gia ven biển
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của quốc gia mình khi có bất kỳ sự xâm phạm
nào từ bên ngoài.
IV.

Nguyên tắc công bằng
1. Lịch sử hình thành
Nguyên tắc công bằng được sử dụng như là một trong những nguyên tắc

cơ bản và nền tảng của pháp luật quốc tế hiện đại nói chung và luật biển quốc tế
nói riêng. Trong lĩnh vực luật biển, nguyên tắc này được hình thành và phát triển
cùng với thực tiễn phân định thềm lục địa và các vùng biển giữa các quốc gia
láng giềng cũng như tiến trình phát triển của luật biển quốc tế với những dấu mốc
quan trọng về các hội nghị quốc tế về luật biển, cùng với sự ra đời của các Công
ước Geneva năm 1958, Công ước Luật biển năm 1982 (UNCLOS).
Đã trải qua hơn 50 năm, kể từ khi các đề xuất cụ thể về một số

12


nguyên tắc cơ bản áp dụng cho việc tạo lập và phân định đường biên giới (ranh
giới) biển được đưa ra bởi các cơ quan khác nhau, tiêu biểu là Ủy ban Luật quốc
tế (ILC), Hội nghị lần thứ nhất của Liên hợp quốc về luật biển, Tòa án Công lý
quốc tế (ICJ), Hội nghị lần thứ ba của Liên hợp quốc về Luật biển và các thiết
chế trọng tài.
Dự thảo các điều khoản cuối cùng của Ủy ban Luật quốc tế đã hướng
tới ba yếu tố về phân định biển: sự thỏa thuận, cách đều, và các hoàn cảnh đặc
biệt (agreement, equidistance and "special circumstances"). Ủy ban này khẳng
định rằng đã đưa ra các nguyên tắc tương tự nhau cho phân định vùng lãnh hải
và thềm lục địa.
Hội nghị Geneva năm 1958 đã tạo ra sự thúc đẩy cho các đề xuất này
trên cơ sở đề xuất của Na Uy. Các quy định đối với phân định lãnh hải trong Điều
12 Công ước về lãnh hải và vùng tiếp giáp lãnh hải được Ủy ban soạn thảo đã
quy định rằng các quốc gia không được quy định đường ranh giới phân định
lãnh hải vượt quá đường trung tuyến trong trường hợp không có sự thỏa thuận.
Tuy nhiên, không có bất kỳ sự hạn chế tương tự nào trong nguyên tắc phân định
thềm lục địa xuất hiện trong Công ước Geneva về thềm lục địa (Công ước
1958) mà Điều 6 của Công ước này quy định rằng nguyên tắc cơ bản cho việc
phân định thềm lục địa sẽ là nguyên tắc thỏa thuận và nếu như không có thỏa
thuận thì nguyên tắc đường trung tuyến hoặc đường cách đều sẽ được áp dụng,
trừ khi có “hoàn cảnh đặc biệt”. Có thể nhận thấy, thuật ngữ “các hoàn cảnh
đặc biệt” vẫn được duy trì một cách mơ hồ trong cả hai Công ước và như vậy
cơ sở hợp lý cho việc tiếp cận và tuân theo nguyên tắc công bằng trong phân định
biển theo các yếu tố thỏa thuận và các hoàn cảnh đặc biệt vẫn chưa rõ ràng.
Trong vụ Thềm lục địa Biển Bắc 1969, ICJ đã nhấn mạnh rằng Điều 6
Công ước 1958 gần như nhắc lại nguyên khuôn mẫu dự luật của ILC, và quan
trọng là Ủy ban này đưa ra những quy tắc trên với nhiều lưỡng lự, trên danh nghĩa

thử nghiệm, hơn là thực sự đưa ra một quy tắc rõ ràng. Ngoài ra, đây là một
13


điều khoản mà theo đó tất cả các quốc gia có thể đưa ra các bảo lưu. Điều này
mâu thuẫn với một ý tưởng về luật tập quán chung - dường như các quốc gia
ký kết đã không coi Điều 6 như một tuyên bố về nguyên tắc phân định thềm lục
địa đã tồn tại từ trước hoặc đang trong quá trình hình thành. Mặc dù trong vụ
này Hà Lan và Đan Mạch cho rằng, ngay cả khi các quy tắc phân định không
xuất hiện trong quá trình soạn thảo Công ước 1958, nó cũng đã xuất hiện một
phần do sự ảnh hưởng của chính Công ước này, một phần do thực tiễn sau này
của các quốc gia. Tuy nhiên, Tòa đã lập luận rằng để đem lại một hiệu lực tập
quán như vậy cho quy định của Điều 6 thì cần phải coi điều khoản này có một
tính chất quy phạm tiềm ẩn. Tuy nhiên, các quốc gia với trách nhiệm chủ yếu
thực hiện hoạch định ranh giới bằng con đường thỏa thuận, với vai trò tự diễn
giải các “hoàn cảnh đặc biệt” cũng như khả năng đưa ra các bảo lưu đối với
điều này đã tước bỏ tính quy phạm của nó. Tòa đã nhận mạnh rằng Điều 6
Công ước 1958 không phải là một phần của luật tập quán, và theo Tòa, luật tập
quán trong áp dụng phân định biển bị tác động bởi nguyên tắc công bằng [2].
Như vậy, có thể thấy rằng, trong trường hợp hoạch định thềm lục địa có tính
đến yếu tố công bằng thì giá trị hiệu lực thực sự của nguyên tắc này được ghi
nhận trong Công ước 1958 chưa mang tính rõ ràng và thực chất.
Tại Hội nghị lần thứ ba về Luật biển, có hai nhóm đối lập “nhóm đường
trung tuyến” ("median line group") tiếp cận theo Điều 6 Công ước 1958 và
“nhóm các nguyên tắc công bằng” ("equitable principles group") tiếp cận theo các
kết luận của ICJ trong vụ thềm lục địa biển Bắc. Kết quả của cuộc tranh luận giữa
các bên đã dẫn tới việc hủy bỏ Điều 6 Công ước 1958 và thay thế bằng Điều
83 về phân định thềm lục địa giữa các quốc gia có bờ biển tiếp liền hoặc đối
diện trong UNCLOS.
Trong UNCLOS, nguyên tắc công bằng được quy định tại các Điều 74

và Điều 83 về phân định đặc quyền kinh tế và thềm lục địa giữa các quốc gia có bờ
biển tiếp liền hoặc đối diện.
14


Điều 74 và Điều 83 UNCLOS quy định:
1.

Việc hoạch định ranh giới vùng đặc quyền kinh tế/thềm lục địa giữa các

quốc gia có bờ biển tiếp liền hay đối diện nhau được thực hiện bằng con đường
thỏa thuận theo đúng với pháp luật quốc tế như đã nêu ở Điều 38 Quy chế Tòa
án quốc tế để đi đến một giải pháp công bằng.
2.

Nếu không đi tới được một thỏa thuận trong thời gian hợp lý thì các quốc

gia hữu quan sử dụng các thủ tục nêu ở phần XV Công ước.
3.

Trong khi chờ ký kết thỏa thuận nói ở khoản 1, các quốc gia hữu quan,

trên tinh thần hiểu biết và hợp tác, làm hết sức mình để đi đến các dàn xếp tạm
thời có tính chất thực tiễn và sẽ không gây phương hại hay cản trở việc ký kết
các thoả thuận cuối cùng trong giai đoạn quá độ này. Các dàn xếp tạm thời
không phương hại đến việc phân định cuối cùng.
4.

Khi một điều ước đang có hiệu lực giữa các quốc gia hữu quan, các vấn


đề liên quan đến việc hoạch định ranh giới vùng đặc quyền kinh tế/thềm lục địa
được giải quyết theo đúng điều ước đó.
Trong vụ thềm lục địa biển Bắc, ICJ đã đưa ra phán quyết chứa đựng nhiều
điểm quan trọng trong đó bao gồm định nghĩa quan trọng về khái niệm công bằng
và những yếu tổ ảnh hưởng đến việc đảm bảo thực hiện nguyên tắc này trong
phân định như tỷ lệ giữa các khu vực thềm lục địa được phân định với chiều dài
bờ biển, các vấn đề về các đặc điểm của bờ biển tác động tới đường trung tuyến,
về bản chất của thềm lục địa là sự kéo dài tự nhiên của lãnh thổ lục địa... Tòa cũng
đã cho rằng phương pháp đường trung tuyến tuyệt đối (chia đều) không phải
là bắt buộc đối với các bên.
2.

Nội dung

Từ những quy tắc được quy định trong Công ước 1982 và thực tiễn
phân định, công bằng với vai trò là một nguyên tắc nền tảng được áp dụng
trong phân định thềm lục địa nói riêng và phân định biển nói chung giữa các
quốc gia có bờ biển tiếp liền hoặc đối diện, bao hàm các nội dung cơ bản sau đây:
15


- Thừa

nhận những quyền của các quốc gia không có biển hoặc bất lợi về

mặt địa lý được sử dụng biển cả như các quốc gia có biển ở phạm vi mà
Luật biển cho phép và nghĩa vụ không làm gì phương hại đến quyền sử
dụng biển cả của các quốc gia khác.
- Không
- Vùng


đặt biển cả riêng biệt dưới chủ quyền của bất cứ quốc gia nào.

đáy biển (vùng) có chế dộ pháp lý là di sản chung của loài người.

Vùng để ngỏ cho tất cả quốc gia, dù quốc gia có biển hay không có biển,
để sử dụng vào mục đích hòa bình, không phân biệt đối xử. Mọt hoạt
động diễn ra trong vùng vì mục đích là lợi ích của loài người, dù là quốc
gia có biển hay không có biển.
- Trong

phân định biển, áp dụng công bằng không có nghĩa là sửa chữa lại

tự nhiên mà là bảo đảm cho mỗi quốc gia ven biển được hưởng một
vùng biển đúng và công bằng, có tính đến các hoàn cảnh hữu quan.
3.

Vai trò của nguyên tắc công bằng

Nguyên tắc công bằng đã tạo ra môi trường công bằng cho các quốc gia có biển và
quốc gia không có biển. Từ đó tạo sự phát triển thuận lợi cho tất cả các quốc gia
trong việc khai thác và sử dụng biển.
V.
1. Lịch

Nguyên tắc di san chung của loài người
sử hình thành

Khái niệm di sản chung của loài người được chính thức hình thành qua Nghị quyết
2749 ngày 27/12/1970 của Đại hội đồng Liên hợp quốc. Khái niệm đã xác định khối

tài sản không thể phân chia, thuộc quyền sở hữu của cộng đồng quốc tế, thay mặt cho
tất cả các quốc gia. Khái niệm này sau đó được thể hiện và cụ thể hóa trong các quy
định của Công ước Luật Biển 1982.
Biển có hai chức năng là phương tiện giao thông hàng hải và là nguồn tài nguyên
thiên nhiên quý giá. Chính vì vây, biển cả được xác định là di dản chung của loài
người, không phải là của riêng bất kỳ quốc gia nào.
16


Phần XI Công ước 1982 về chế độ phán lý của vùng và phương thức quản lý vùng
và thỏa thuận ngày 29 tháng 7 năm 1994 đã quy định rõ các nguyên tắc xác định
chế độ pháp lý của vùng-di sản chung của loài người. Theo nguyên tắc chung, vùng
biển này là của chung, không thuộc về quyền sở hữu của bất kỳ một quốc gia hay
tổ chức quốc tế nào. Trong thực tế thì việc khai thác và sử dụng vùng biển di sản
này vẫn còn nhiều hạn chế do nhiều lý do. Vấn đề quan trọng nhất đó là với khả
năng công nghệ hiện tại của con người, họ chưa thể tìm hiểu và đi xuống những độ
sâu của vùng biển di sản. Chính vì lẽ đó, hiện tại chúng ta vẫn chưa biết được chính
xác ở vùng biển di sản tồn tại những loại tài nguyên gì, trữ lượng ra sao...
2. Nội

dung
Việc quy định nguyên tắc giữ gìn di sản chung của loài người có ý nghĩa quan
trọng trong việc hình thành và thực hiện chế độ pháp lý về khai thác tài nguyên
thiên hiên ở đáy biển và vùng lòng đất dưới đáy biển. Nguyên tắc này bao gồm
những nội dung sau:
- Không một quốc gia nào có thể đòi thực hiện chủ quyền hay các quyền
thuộc chủ quyền khác ở một phần nào đó của vùng đáy biển và vùng lòng
-

đất dưới đáy biển

Không một quốc gia, pháp nhân hay cá nhân nào có thể chiếm đoạt bất cứ

-

phần nào đó của vùng biển di sản.
Toàn thể loài người mà cơ quan Quyền lực quốc tế là đại diện có thẩm
quyền tổ chức khai thác, quản lý và kiểm soát việc thực hiện các quyền

-

đối với tài nguyên của vùng đáy biển và lòng đất dưới đáy biển.
Hoạt động ở vùng đáy biển và lòng đất dưới đáy biển được tiến hành vì

-

lợi ích chung của nhân loại.
Vùng đáy biển và lòng đất dưới đáy biển chỉ có thể được sử dụng vào

mục đích hoà bình.
3. Đánh giá vai trò nguyên tắc
Nguyên tắc di sản chung của loài người đã loại bỏ sự độc quyền chiếm đoạt đối
với bất kỳ nguồn tài nguyên nào trên Vùng. Nguyên tắc này và nguyên tắc tự do
biển cả là cơ sở pháp lý quan trọng để xây dựng và đảm bảo thực thi chế độ pháp
17


lý với việc khai thác tài nguyên thiên nhiên của Vùng. Trong cách xử sự chúng
liên quan đến Vùng, các quốc gia tuân theo quy định của Công ước Luật Biển
1982, các nguyên tắc được nêu trong Liên hợp quốc và các quy tắc của pháp luật
quốc tế với sự quan tâm giữ gìn hòa bình, an ninh đẩy mạnh hợp tác quốc tế và

hiểu biết lẫn nhau ( Điều 138 Công ước Luật Biển 1982).
Không những vậy, nó còn có lợi cho các quốc gia đang phát triển, tạo điều kiện
thuận lợi cho các quốc gia này tham gia vào việc quản lý, sử dụng các nguồn tài
nguyên của vùng đáy biển, nằm ngoài quyền tài phán của quốc gia mà trước đó
chỉ có các quốc gia công nghiệp tự do thăm dò khai thác.

18


KẾT LUẬN
Việc ghi nhận các nguyên tắc trong Công ước quốc tế về Luật biển năm 1982
đã góp phần quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề mang tính cấp thiết kể
trên. Đặc biệt sự đấu tranh và điều hòa giữa các nguyên tắc này đã tạo ra những
điều kiện thuận lợi cũng như là những khó khăn trong việc xác định chủ quyền và
quyền chủ quyền trên biển của các quốc gia. Khó đánh giá hết được tầm quan trọng
của hai nguyên tắc này và vai trò của nó đối với đời sống con người. Bởi thế giới
ngày càng đa cực nhưng không vì thế mà hòa bình và an ninh quốc tế được trường
tồn,do đó các vấn đề về biển cả, tự do biển cả, chủ quyền quốc gia đối với biển cả
luôn được cộng đồng đặc biệt quan tâm. Việc xác lập hai nguyên tắc này có ý nghĩa
rất quan trọng cả về mặt pháp lý lẫn thưc tiễn góp phần không nhỏ vào sự phát triền
của loài người và hòa bình thế giới.

19


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Công pháp quốc tế- Trường Đại học kiểm sát Hà Nội- 2015
2. Giáo trình Luật quốc tế- Trường Đại học luật Hà Nội-NXB.Công an nhân dân-2015
3. Tạp chí khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, Luật học 28 (2012) 228-239
4. Trang web

- />
thong-tri-bien-9663/
/>
20



×