Tải bản đầy đủ (.pdf) (37 trang)

TỔNG QUAN CÁC TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU NGÀNH LÚA GẠO VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (632.09 KB, 37 trang )

TỔNG QUAN CÁC TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
NGÀNH LÚA GẠO VIỆT NAM
PHẦN I. TỔNG QUAN NGÀNH HÀNG LÚA GẠO VIỆT NAM 1
Sản xuất lúa gạo đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế nông nghiệp và
nông thôn Việt Nam. Khoảng 80% trong tổng số 11 triệu hộ nông dân tham gia sản xuất
lúa gạo, chủ yếu dựa vào phương thức canh tác thủ công truyền thống. Do sản xuất lúa
gạo là nguồn thu nhập và cung cấp lương thực chính của các hộ nông dân, nên chính sách
phát triển kinh tế nông nghiệp và nông thôn gắn liền với phát triển ngành hàng lúa gạo.
Trong gần ba thập kỷ qua nhờ có đổi mới cơ chế quản lý, Việt Nam đã đạt được những
thành tựu lớn trong sản xuất lúa gạo, không những đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng trong
nước mà hàng năm còn xuất khẩu được 3-4 triệu tấn gạo. Tuy nhiên ngành lúa gạo Việt
Nam vẫn còn có nhiều khó khăn và thách thức, đặc biệt là dưới sức ép cạnh tranh ngày
một tăng của quá trình hội nhập quốc tế. Hiện nay năng suất lúa bình quân chung của cả
nước đạt khoảng 4,5 tấn/ha, song giữa các vùng sinh thái khác nhau lại có sự chênh lệch
đáng kể về năng suất lúa. Ở các vùng đồng bằng một số hộ nông dân trồng lúa đã đạt
được năng suất rất cao, 10-12 tấn/ha, trong khi đó năng suất lúa ở các vùng trung du miền
núi và các vùng đất cát duyên hải thường lại rất thấp, chỉ đạt bình quân khoảng trên 2
tấn/ha. Lượng gạo tham gia vào lưu thông chủ yếu từ hai nguồn cung cấp chính là Đồng
Bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) và Đồng bằng sông Hồng (ĐBSH). Trên thực tế, các
vùng sản xuất nông nghiệp nằm ngoài các châu thổ lớn đều không có gạo dư thừa, ngoại
trừ một vài năm gần đây ở một số địa phương vùng cao, nông dân được mùa do thời tiết
thuận lợi, nên lượng gạo sản xuất đã vượt mức tiêu dùng địa phương. Sản xuất lúa gạo ở
các vùng duyên hải và trung du miền núi chủ yếu nhằm đáp ứng nhu cầu lương thực tại
chỗ, mang tính tự cung tự cấp, và vẫn còn tình trạng một số hộ nông dân không đủ lương
thực cho gia đình từ một đến hai tháng trong năm. Thiếu việc làm để đảm bảo thu nhập
ổn định và thiếu vốn để mua vật tư thiết bị phục vụ sản xuất nông nghiệp đang là những
trở ngại lớn trong quá trình phát triển kinh tế nông nghiệp và nông thôn Việt Nam.
Các hoạt động chế biến và lưu thông lúa gạo tuy đã phát triển đáng kể song vẫn còn
nhiều khó khăn cần vượt qua. Ngành chế biến xay xát lúa gạo hiện đang trong quá trình
chuyển dịch từ một hệ thống chủ yếu dựa vào chế biến quy mô nhỏ phục vụ tiêu dùng nội
địa (chỉ có số ít các nhà máy xay qui mô lớn phục vụ xuất khẩu) tiến tới một mô hình chế


biến công nghiệp hiện đại hơn với nhiều nhà máy chế biến quy mô lớn. Trình độ công
nghệ áp dụng trong chế biến lúa gạo của Việt Nam hiện vẫn còn lạc hậu, chất lượng gạo
chế biến còn thấp, tỉ lệ hao hụt lớn và tỉ lệ gạo vỡ còn cao. Một trong những nguyên nhân
1

Nguyễn Ngọc Quế & Trần Đình Thao, Tổng quan ngành lúa gạo Việt Nam, 2003


chính làm chậm quá trình hiện đại hoá công nghệ ngành chế biến lúa gạo là thiếu vốn đầu
tư. Hệ thống cung cấp tín dụng chính thức ưu tiên phục vụ cho các doanh nghiệp quốc
doanh nên chưa phát huy được khả năng cạnh tranh có hiệu quả của khu vực kinh tế tư
nhân. Hơn nữa, phần lớn các hợp đồng chính phủ được giao cho các công ty quốc doanh
thực hiện, nên khả năng mở rộng hoạt động xuất khẩu của khu vực kinh tế tư nhân kgông
tương đồng.
Những vướng mắc về thể chế và sự yếu kém về cơ sở hạ tầng sản xuất kinh doanh lúa
gạo đang kìm hãm sự phát triển của ngành. Chi phí cao trong hệ thống cung cấp tín dụng
chính thức không khuyến người nông dân và các nhà chế biến lúa gạo tăng mức đầu tư,
buộc họ phải tìm đến hệ thống tín dụng phi chính thức và trì hoãn hoặc cắt giảm đầu tư.
Cần phải tiếp tục cải thiện môi trường sản xuất kinh doanh để đảm bảo an ninh lương
thực và xoá đói giảm nghèo, cũng như gia tăng kim ngạch xuất khẩu lúa gạo. Một môi
trường kinh doanh thuận lợi cho ngành lúa gạo phát triển cần có hai lĩnh vực quan trọng.
Một là, nâng cao hiệu suất và khả năng cạnh tranh của ngành hàng lúa gạo; và hai là, Việt
Nam phải tạo được khả năng xuất khẩu gạo đặc sản và gạo chất lượng cao. Để thực hiện
được hai mục tiêu trên Việt Nam phải xây dựng được môi trường thuận lợi cho mọi thành
phần kinh tế cùng phát triển.
Để tăng năng suất lúa vượt mức bình quân hiện nay là 4,5 tấn/ha, phải tăng năng suất lúa
trung bình và giảm chênh lệch về năng suất giữa các vùng, xử lý một loạt các vấn đề liên
quan đến khâu giống, cải thiện khả năng tiếp cận tín dụng và vật tư nông nghiệp, dịch vụ
khuyến nông. Mặc dù khả năng tăng thêm năng suất lúa ở các vùng đồng bằng châu thổ
(vốn đã có được mức năng suất trung bình khá cao) là không nhiều, song cơ hội để cải

thiện năng suất lúa ở các vùng xâu, vùng xa và các vùng đất cao vẫn còn.
Nhiều nhà kinh tế cho rằng vai trò của khu vực kinh tế công trong việc đầu tư trực tiếp
nhằm tăng năng suất nên tập trung vào hệ thống thuỷ lợi để đem lại hiệu quả kinh tế cao.
Vai trò của kinh tế công đối với các yếu tố tăng năng suất khác cũng chỉ nên giới hạn ở
việc tạo môi trường thuận lợi thông qua việc cải thiện hệ thống pháp lý và cung cấp các
dịch vụ hỗ trợ, như tăng cường cơ sở hạ tầng và hoàn thiện chính sách nhằm giảm bớt chi
phí giao dịch trong dịch vụ tín dụng, hơn là tham gia vào các dịch vụ cung cấp vật tư đầu
vào
Khu vực kinh tế tư nhân phải được khuyến khích tham gia phát triển thị trường gạo đặc
sản có giá trị cao, đem lại lợi ích cho các hộ nông dân có khả năng cung cấp giống lúa
chất lượng cao. Đồng thời khuyến khích tăng sản lượng và năng suất của các loại lúa đại
trà khác.
Tăng đầu tư và tăng năng suất lúa gạo chưa phải là biện pháp chính nhằm xoá đói giảm
nghèo trong nông thôn Việt Nam. Đối với đa số các hộ nông dân nằm ngoài ĐBSCL và
ĐBSH, sản xuất lúa gạo còn phân tán, manh mún mang tính tự cung tự cấp. Ngay cả khi


năng suất đã được cải thiện thì thu nhập từ lúa của các hộ này cũng chỉ đạt từ 100 đến
200 USD trên 1 ha. Nhìn chung phát triển sản xuất lúa gạo phải kết hợp với các biện pháp
đa dạng hoá sản xuất để đảm bảo tăng thu nhập một cách ổn định cho các hộ gia đình
nông thôn.
1. Sản xuất lúa
Sản xuất lúa gạo giữ một vị trí quan trọng trong sản xuất nông nghiệp, chiếm gần 50%
GDP nông nghiệp (không bao gồm lâm và ngư nghiệp) năm 2003. Trong giai đoạn 19902002 sản lượng lúa tăng bình quân khoảng 4,9% năm. Đó là kết quả của việc tăng năng
suất lúa (3.0% năm) và do tăng diện tích gieo trồng (1,8% năm). Mức tăng trưởng của sản
xuất lúa giữa các vùng có sự khác biệt đáng kể. Tốc độ tăng sản lượng cao nhất là ở vùng
Đông Bắc, Tây Bắc, Bắc Trung Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long. Năng suất lúa tăng
mạnh nhất là ở vùng Đông Bắc, Tây Bắc, Bắc Trung Bộ và Đồng bằng sông Hồng. Diện
tích gieo trồng lúa ở Tây Bắc và Duyên hải Nam Trung Bộ trong giai đoạn 1990-2002
giảm, trong khi đó ở các vùng khác trong cùng thời kỳ lại tăng.

Biểu Error! No text of specified style in document.-1 Diện tích, năng suất và sản lượng
lúa phân theo vùng, giai đoạn 1990-2002
1990-2002

1. Sản lượng lúa, 1000 tấn
Cả nước
Đồng bằng sông Hồng
Đông Bắc
Tây Bắc
Bắc Trung Bộ
Duyên hải Nam Trung Bộ
Tây Nguyên
Đông Nam Bộ
Đồng bằng sông Cửu Long
2. Diện tích GT, 1000 ha
Cả nước
Đồng bằng sông Hồng
Đông Bắc
Tây Bắc
Bắc Trung Bộ
Duyên hải Nam Trung Bộ
Tây Nguyên
Đông Nam Bộ
Đồng bằng sông Cửu Long
3. Năng suất lúa, tấn/ha
Cả nước

1990

2002


2002

19225.1
3890.8
1180.4
248.8
1642.3
1347.3
386.1
1049.1
9480.3

32529.5
6586.6
2065.0
403.6
2824.0
1681.6
586.8
1679.2
16702.7

34063.5
6685.3
2328.9
451.5
3138.9
1705.4
609.5

1666.1
17477.9

4.88
4.61
5.83
5.09
5.55
1.98
3.88
3.93
5.23

100.0
100.0
100.0
100.0
100.0
100.0
100.0
100.0
100.0

6042.8
1158.0
519.2
144.3
677.0
414.6
165.3

384.3
2580.1

7666.3
1212.6
550.3
136.8
695.0
422.5
176.8
526.5
3945.8

7485.4
1196.7
562.5
140.8
700.4
399.5
186.1
485.6
3813.8

1.80
0.27
0.67
-0.20
0.28
-0.31
0.99

1.97
3.31

37.3
6.0
11.6
-4.0
5.1
-15.5
25.8
50.6
64.0

3.2

4.2

4.6

3.03

62.7

% tăng hàng % đóng góp
năm
tăng SL


Đồng bằng sông Hồng
Đông Bắc

Tây Bắc
Bắc Trung Bộ
Duyên hải Nam Trung Bộ
Tây Nguyên
Đông Nam Bộ
Đồng bằng sông Cửu Long

3.4
2.3
1.7
2.4
3.2
2.3
2.7
3.7

5.4
3.8
3.0
4.1
4.0
3.3
3.2
4.2

5.6
4.1
3.2
4.5
4.3

3.3
3.4
4.6

4.33
5.12
5.31
5.25
2.30
2.86
1.92
1.86

94.0
88.4
104.0
94.9
115.5
74.2
49.4
36.0

Nguồn: Tính toán của tác giả dựa theo số liệu TCTK
Trong giai đoạn 1990-2002, mức tăng diện tích gieo trồng lúa khoảng 24% . Diện tích
gieo trồng lúa tăng liên tục trong xuốt giai đoạn từ năm 1990 đến năm 2000 (tăng
2,4%/năm), nhưng lại có xu thế giảm nhẹ trong năm 2000-2002 (giảm 1,2%/năm). Trong
3 năm này, trong khi diện tích giảm thì sản lượng lúa vẫn tiếp tục tăng và chủ yếu nhờ
tăng năng suất lúa.
Diện tích gieo trồng lúa tăng hầu như không phải do tăng diện tích đất canh tác sử dụng
cho sản xuất lúa. Trong khi diện tích gieo trồng lúa tăng thêm 24% sau 12 năm (19902002), thì diện tích đất lúa lại gần như không thay đổi, chỉ tăng không quá 1%. Như vậy

tăng diện tích gieo trồng lúa chủ yếu là do tăng vụ (95,6% tăng diện tích gieo trồng là do
tăng hệ số quay vòng sử dụng đất).
Sự thay đổi về diện tích và năng suất lúa là hai nhân tố tác động chính tới tốc độ tăng sản
lượng, song vai trò của chúng giữa các vùng cũng khác nhau và thay đổi theo thời gian.
Trong giai đoạn 1990-2002 sản lượng lúa ở cả hai vựa thóc chính của đất nước đều tăng
mạnh, nhưng ở ĐBSH do qui mô đất canh tác bình quân của một hộ rất thấp và hệ số
quay vòng sử dụng đất đã khá cao nên sản lượng lúa tăng được chủ yếu là nhờ thâm canh
tăng năng suất (94% tăng sản lượng là do nămg suất). Trong khi đó ở ĐBSCL sản lượng
lúa tăng chủ yếu lại là do tăng diện tích gieo trồng (64% sản lượng tăng là do tăng diện
tích gieo trồng: trong đó 51,6% là do tăng hệ số quay vòng đất và chỉ có 12,5% là do tăng
diện tích đất lúa).
Diện tích gieo trồng lúa của Việt Nam năm 2002 đạt xấp xỉ 7,5 triệu ha, trong đó ĐBSCL
chiếm tỉ lệ cao nhất (51,3%) sau đó là ĐBSH (19,6%). Hiện nay, năng suất lúa trung bình
cả nước đạt 4,6 tấn/ha và sản lượng thóc đạt 34,064 triệu tấn.
Các tỉnh phía Bắc chủ yếu làm hai vụ chính: Đông-Xuân và Mùa. Các tỉnh phía Nam phổ
biến trồng thêm Hè-Thu. Năng suất lúa Đông-Xuân thường cao hơn năng suất lúa Mùa và
Hè-Thu. Năng suất các loại lúa tính trung bình theo vùng được thể hiện ở bảng sau:
Biểu Error! No text of specified style in document.-2 Diện tích và năng suất lúa phân
theo vụ và vùng sinh thái (tấn/ha)
Đông Xuân
Diện
Năng

Hè Thu
Diện

Năng

Mùa
Diện


Năng


Năm 1990
Cả nước
Đồng bằng sông Hồng
Đông Bắc
Tây Bắc
Duyên hải Bắc Trung Bộ
Duyên hải Nam Trung Bộ
Tây Nguyên
Đông Nam Bộ
Đồng bằng sông Cửu Long
Năm 2002
Cả nước
Đồng bằng sông Hồng
Đông Bắc
Tây Bắc
Duyên hải Bắc Trung Bộ
Duyên hải Nam Trung Bộ
Tây Nguyên
Đông Nam Bộ
Đồng bằng sông Cửu Long

Tích

Suất

Tích


Suất

Tích

Suất

2074
568
172
27
312
162
26
55
752

3.79
3.54
2.42
2.60
2.86
3.47
3.72
3.44
4.83

1216

3.36


121
111

2.11
3.72

77
908

2.84
3.53

2778
598
352
115
256
137
135
256
930

2.62
3.15
2.17
1.55
1.93
2.73
2.16

2.52
2.84

3033
594
214
33
336
173
55
114
1514

5.51
5.99
4.65
4.94
5.32
5.08
4.28
4.16
5.70

2276

3.93

156
98
5

133
1883

4.15
4.32
2.44
3.38
3.94

2176
602
348
108
208
128
126
239
417

3.85
5.19
3.83
2.68
3.38
3.14
2.87
3.12
3.42

Nguồn: TCTK

Cùng với việc gia tăng tổng diện tích gieo trồng lúa thì hệ thống canh tác lúa cũng thay
đổi đáng kể trong 12 năm qua. Hệ thống canh tác lúa trong giai đoạn từ 1990 đến 2002 đã
chuyển từ trồng lúa Mùa sang lúa Hè-Thu và lúa Đông-Xuân. Trong giai đoạn này diện
tích trồng lúa Đông-Xuân tăng 46,3%, diện tích lúa Hè-Thu tăng 87,2% và diện tích lúa
Mùa giảm 21%. Sau năm 1995, diện tích lúa Đông-Xuân đã vượt trội diện tích lúa Mùa
và tiếp tục giữ vị trí ưu thế cho tới thời điểm hiện tại.
Sản xuất lúa gạo tăng một phần là do tăng năng suất lúa, đặc biệt là lúa vụ Đông-Xuân và
vụ Mùa, nhưng một phần là nhờ tăng diện tích lúa vụ Đông-Xuân và vụ Hè-Thu. Do lúa
vụ Hè-Thu chỉ tăng về diện tích, còn năng suất hầu như không tăng, cho nên có thể khẳng
định là năng suất lúa cả năm tăng chủ yếu là nhờ lúa Đông-Xuân và lúa Mùa.
Đối với lúa, việc tăng năng suất cây trồng không thể chỉ nhờ có giống tốt, mà còn do phát
triển thuỷ lợi, cải thiện dinh dưỡng cây trồng, và cải tiến công tác quản lý. Tốc độ tăng
năng suất lúa (tuỳ theo điều kiện tự nhiên, chủ yếu là dinh dưỡng, bức xạ và khả năng
tưới tiêu) khác biệt đáng kể giữa các vùng sinh thái, đặc biệt là giữa ĐBSCL và các vùng
còn lại trong cả nước. Trong khi tốc độ tăng năng suất lúa ở ĐBSCL giảm từ 2,1% xuống
còn 0,4%, thì các vùng khác lại tăng trung bình từ 4 lên 5%. ĐBSCL chiếm trên 50%
tổng sản lượng lúa cả nước và là nguồn cung cấp gạo xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam,
trong khi các vùng khác chỉ sản xuất vừa đủ hoặc thiếu. Năng suất lúa của ĐBSCL trong
vòng 5 năm gần đây (1998-2002) ổn định trong khoảng 4,1 - 4,6 tấn/ha, trong khi đó tại


ĐBSH năng suất lúa đã tăng từ 4,5 lên đến 5,6 tấn/ha. Sản lượng lúa của ĐBSCL trong
thập kỷ 90 tăng mạnh nhưng chủ yếu là nhờ tăng diện tích hơn là do tăng năng suất. Các
vùng khác (ngoại trừ Đông Nam Bộ) thì ngược lại.
Những thành tựu trong sản xuất lúa gạo trong thời kỳ đổi mới đã giúp Việt Nam không
chỉ đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong nước mà còn trở thành nước xuất khẩu gạo
quan trọng trên thế giới. Kể từ năm 1996 đến nay khi cơ chế hạn ngạch xuất khẩu đã
được nới lỏng và xoá bỏ, số lượng gạo có thể sử dụng cho xuất khẩu đã tăng gấp đôi.
2. Tiêu dùng lúa gạo
Cân đối tiêu dùng lương thực có thể ước tính dựa trên một số giả định về các hệ số tiêu

dùng lúa gạo cho các nhu cầu tiêu dùng khác nhau, bao gồm cả tỉ lệ để giống, tỉ lệ hao
hụt sau thu hoạch và cho chăn nuôi gia súc. Ngoài ra còn phải xác định tỉ lệ xay xát (từ
thóc sang gạo trắng).


Lượng thóc để giống tại các hộ nông dân ước tính vào khoảng 4-5% sản lượng. Con
số ước tính này dựa theo kết quả của Dự án nghiên ngành giống 1999 do Chính phủ
Thuỵ Điển tài trợ (DANIDA-MARD). Lượng thóc để giống giao động giữa Bắc Bộ
(trồng lúa bằng cấy mạ 125kg/ha) và Nam Bộ (gieo vãi bằng hạt trực tiếp 170kg/ha).



Tổn thất sau thu hoạch dựa theo ước tính của Viện Công nghệ sau thu hoạch là
khoảng 10%. Con số này tương đối cao vì phải tính đến việc các hộ nông dân qui mô
nhỏ làm khô thóc bằng phương pháp phơi nắng truyền thống, cũng như xay xát gạo
chủ yếu tại các cơ sở xay xát địa phương quy mô nhỏ.



Tỉ lệ thóc để lại làm thức ăn chăn nuôi ước khoảng 4% sản lượng. Đây cũng chỉ là
một con số ước đoán vì thực tế không có số liệu. Viện Công nghệ sau thu hoạch ước
tính tỉ lệ thóc sử dụng làm thức ăn gia súc khoảng 5,4% ở ĐBSCL, tuy nhiên ở các
vùng khác có thể thấp hơn.



Theo ước tính của Viện Công nghệ sau thu hoạch, tỉ lệ xay xát từ lúa ra gạo là khoảng
66%. Con số này đã tính đến thực tế là việc xay xát thóc gạo chủ yếu dựa vào các cơ
sở chế biến xay xát quy mô nhỏ ở các địa phương.




Mức tiêu dùng lương thực gạo có thể được tính theo 2 cách. Cách thứ nhất, nhu cầu
gạo lương thực có thể được ước tính dựa vào số liệu điều tra mức sống 1997-98 của
TCTK: mức tiêu dùng ở nông thôn là 13,24 kg/người/tháng và ở thành thị là 10,04
kg/người/tháng. Tổng mức tiêu dùng được tính bằng cách nhân mức tiêu dùng hàng
tháng bình quân trên 1 đầu người với 12 tháng trong năm để được mức tiêu dùng
trong một năm của 1 nhân khẩu bình quân, sau đó nhân với mức dân số. Như vậy
bình quân chung nhu cầu tiêu dùng lương thực cả năm của một người là 149,37 kg.
Con số này có thể là một ước tính thấp vì chưa kể đến lượng gạo tiêu dùng ở ngoài hộ
gia đình. Hoặc dựa theo kết quả điều tra kinh tế - xã hội năm 2001 do Bộ NN&PTNT


thực hiện trong khuôn khổ của Dự án Thông tin An ninh Lương thực do FAO tài trợ,
mức tiêu dùng gạo cả năm tại hộ và ngoài hộ là 178kg/người. Cách thứ hai, mức tiêu
dùng có thể ước tính như là phần dư của sản lượng thóc sau khi đã trừ đi các khoản để
giống, hao hụt, TAGS và xuất khẩu.
Biểu Error! No text of specified style in document.-3 Tiêu dùng lúa gạo ở Việt Nam
1975
10.3
0.721
1.493
-0.300
48.0
9.0
94.3
119
144

Sản lượng lúa, triệu tấn

Thóc giống, triệu tấn
Thóc hao hụt & TAGS, tr. tấn
Xuất khẩu gạo, triệu tấn
Dân số. triệu người
Thóc lương thực & TAGS, tr. tấn
% tiêu dùng so với sản lượng
Mức tiêu dùng gạo, kg/ng.
SL gạo trên 1 người, kg/ng.
Tiềm năng XK gạo ở mức tiêu dùng
147kg/ng, triệu tấn
-1.6

1980
11.6
0.846
1.689
-0.200
53.6
9.9
92.6
118
146

1990
19.2
0.915
2.788
1.624
66.0
14.0

77.4
133
195

2000
32.5
1.187
4.717
3.477
77.6
22.9
74.0
185
281

2001
32.1
1.156
4.656
3.721
78.7
22.2
72.7
177
273

2002
34.1
1.155
4.939

3.241
79.7
24.7
75.8
194
286

-1.7

0.8

6.5

6.2

7.1

Nguồn: Tính toán của tác giả dựa theo số liệu TCTK;
Ghi chú: Mức tiêu dùng gạo 147kg/người căn cứ theo mức năng lượng cần đảm bảo duy
trì là 2350 calo/người/ngày; TAGS - Thức ăn gia súc
Hình Error! No text of specified style in document.-1 Tiêu dùng lúa gạo Việt Nam,
1975-2002
Tấn
45

40

35

Xuất khẩu gạo

Tiêu dùng gạo trong nước

30

Sản lượng gạo

25

20

15

10

5

0
1975

1980

1985

1990

Nguồn: Tính toán của tác giả dựa theo số liệu TCTK

1995

2000



Các giả định về tỉ lệ hao hụt, tỉ lệ xay xát và đặc biệt là mức tiêu dùng gạo bình quân đầu
người là những yếu tố rất quan trọng quyết định mức cân bằng lương thực thừa hay thiếu
đối với từng vùng.
Hiện chưa có bằng chứng đầy đủ để chứng tỏ tỉ lệ hao hụt và tỉ lệ xay xát gạo đã được cải
thiện nhiều trong mấy năm qua (Mặc dù việc đầu tư phát triển các nhà máy xay xát hiện
đại qui mô lớn vẫn đang tiếp diễn, song đại đa số các cơ sở chế biến xay xát gạo vẫn chỉ
là quy mô vừa và nhỏ). Cho nên mọi sự thay đổi trong cân đối lương thực chủ yếu được
giả định là do có sự thay đổi về mức tiêu dùng bình quân trên khẩu.
Nếu lấy mức tiêu dùng theo ước tính của FAO (năm 2001) áp dụng cho các năm khác thì
sẽ không phù hợp vì như vậy sẽ có nhiều năm thiếu hụt gạo mặc dù trên thực tế vẫn xuất
khẩu gạo với khối lượng lớn. Nếu sử dụng mức tiêu dùng 149,37 kg/người của ĐTMS để
cân đối gạo cho các năm thì mức dư thừa lại cao hơn mức xuất khẩu rất nhiều. Như vậy
chứng tỏ là mức tiêu dùng gạo bình quân đầu người có thể tăng theo thời gian. Bảng trên
cho thấy mức tiêu dùng gạo trong nước bình quân cho 1 người được xác định bằng lượng
sản xuất dư thừa sau khi đã trừ đi xuất khẩu (chưa tính đến phần lưu trữ). Kết quả tính
toán cho thấy mức tiêu dùng tiềm năng tính trên đầu người tăng từ 133kg/người/năm
trong năm 1990 lên tới 185kg/người/năm trong năm 2000. Sản lượng lúa cả nước tăng
liên tục trong thập kỷ 90, và có giảm chút ít trong giai đoạn 2000-2001 nhưng sang năm
2002 lại tiếp tục tăng. Tổng mức tiêu dùng của cả nước và mức tiêu dùng bình quân
người cũng có xu hướng biến động giống như của tăng trưởng sản xuất gạo (194kg/người
năm 2002).
Những tính toán cân đối ở trên cho thấy chính sách tháo gỡ hạn ngạch và tăng xuất khẩu
gạo trong thời gian vừa qua không hề tác động tiêu cực đến tiêu dùng trong nước hay đến
an ninh lương thực, ngược lại cùng với sự gia tăng sản xuất gạo phục vụ xuất khẩu thì
mức tiêu dùng gạo trong nước cũng có xu thế tăng.
4. Giá cả
Giá cả không ổn định hiện vẫn là mối lo ngại lớn nhất đối với các tác nhân tham gia kênh
thị trường lúa gạo. Trong những năm gần đây, mức giá tương đối của lúa gạo nội địa có

xu thế giảm. Giá thóc (tính theo mặt bằng giá 1994) bình quân giai đoạn 1996-1999 giảm
từ 1600 đ/kg xuống còn 1300 đ/kg trong giai đoạn 2000-2002. Nói một cách khác, giá
"thực" (Real Price) của lúa gạo (tức giá cánh kéo, hay giá tương đối của lúa gạo so với
các sản phẩm khác) trong thời kỳ này đã giảm đáng kể giúp người tiêu dùng được lợi,
nhưng người sản xuất thì bị thiệt thòi.


Hình Error! No text of specified style in document.-4 Diễn biến giá thóc 1990-2002 (giá
đã giảm phát theo CPI 1994=1), đồng/kg
Giá, đ/kg
2000
Giá XK qui thóc

Giá thóc ĐBSH

Giá thóc ĐBSCL

1800

1600

1400

1200

1000
1990

1991


1992

1993

1994

1995

1996

1997

1998

1999

2000

2001

2002

Nguồn: TCTK và tính toán của tác giả
Ghi chú: ĐBSH - Đồng bằng sông Hồng; ĐBSCL - Đồng bằng sông Cửu Long.
Chênh lệch giá giữa các vùng
Sự khác biệt về giá cả giữa các vùng có thể được mô tả một cách rõ nét thông qua hệ
thống chỉ số giá vùng tính theo mức giá trung bình cả nước bằng 100 đơn vị. Biểu dưới
đây cho thấy những năm gần đây khi mức giá chung có xu thế giảm, thì khoảng cách
chênh lệch giữa vùng có chỉ số giá cao nhất với vùng thấp nhất lại có chiều hướng gia
tăng: từ mức chênh lệch 17,5 đơn vị trong giai đoạn 1996-1999 đã tăng lên 26,8 đơn vị

trong thời kỳ 2000-02. Ngoài ra, khoảng chênh lệch giá giữa hai vùng sản xuất lúa gạo
tập trung đó là ĐBSH và ĐBSCL đã tăng gần gấp đôi, từ 10,3 đơn vị lên 20,2 đơn vị. Xu
thế này chúng tỏ sự cách biệt gia tăng giữa các thị trường trong nước, đặc biệt là giữa
miền Nam và miền Bắc. Gạo xuất khẩu chủ yếu là từ các tỉnh phía Nam, đặc biệt là đồng
bằng sông Cửu Long. Như vậy chính sách tăng cường xuất khẩu chỉ thực sự đem lại hiệu
quả kinh tế cao cho nông dân ĐBSCL khi mà giá cả thị trường quốc tế thuận lợi. Nếu giá
thế giới giảm như giai đoạn 2000-2001 thì nông dân ĐBSCL sẽ ở tình thế "càng được
mùa thì càng thất thu". Chi phí lưu thông Bắc Nam cao sẽ là trở ngại cho sự điều hoà giá
cả thị trường giữa 2 miền. Có lẽ biện pháp ổn định thị trường nên hướng vào điều tiết và
khống chế mức cung khi giá thế giới giảm.
.


Biểu Error! No text of specified style in document.-5 Chênh lệch giá thóc theo vùng ở
Việt Nam
1990
1995
2000
2002
90-94
95-99
Giá bán thóc (đã giảm phát theo chỉ số giá tiêu dùng CPI 1994 = 1), Đồng/Kg
ĐBSH
1285
1687
1391
1457
1431
1604
ĐB

1353
1771
1352
1414
1521
1718
TB
1353
1771
1432
1508
1521
1711
BTB
1356
1762
1242
1320
1535
1597
DHNTB
1368
1777
1275
1320
1571
1541
TN
1380
1895

1237
1258
1623
1563
ĐNB
1403
1983
1225
1242
1745
1615
ĐBSCL
1263
1674
1113
1218
1385
1439
T/b cả nước
1345
1790
1283
1342
1541
1598
Chỉ số giá thóc (mức t/b cả nước = 100)
ĐBSH
95.5
94.2
108.4

108.5
92.8
100.3
ĐB
100.6
98.9
105.3
105.4
98.7
107.5
TB
100.6
98.9
111.6
112.4
98.7
107.0
BTB
100.8
98.4
96.8
98.4
99.6
99.9
DHNTB
101.7
99.3
99.4
98.3
101.9

96.4
TN
102.6
105.9
96.4
93.7
105.3
97.8
ĐNB
104.3
110.8
95.4
92.5
113.2
101.0
ĐBSCL
93.9
93.5
86.7
90.7
89.9
90.0
T/b cả nước
100.0
100.0
100.0
100.0
100.0
100.0
Chênh lệch chỉ số giá giữa:

Max & Min
10.4
17.3
24.9
21.7
23.4
17.5
ĐBSH & ĐBSCL 1.6
0.7
21.7
17.8
2.9
10.3

00-02
1397
1372
1483
1254
1273
1244
1230
1135
1299
107.6
105.7
114.2
96.5
98.0
95.8

94.7
87.4
100.0
26.8
20.2

Nguồn: TCTK và UBVGCP
Ghi chú: ĐBSH - Đồng bằng sông Hồng; ĐB - Đông Bắc; TB - Tây Bắc; BTB - Bắc
Trung Bộ; DHNTB - Duyên Hải Nam Trung Bộ; TN - Tây Nguyên; ĐNB - Đông Nam Bộ;
ĐBSCL - Đồng bằng sông Cửu Long.
Giá thành và lợi nhuận trong sản suất lúa
Mặc dù chi phí sản xuất và lợi nhuận của các hộ sản xuất lúa giữa các vùng và giữa các
nguồn số liệu có sự khác biệt đáng kể, song có thể nhận thấy một điển khái quát chung đó
là sản xuất lúa có lãi với mức doanh lợi (% lãi trong doanh thu) khoảng từ 20-30%.
Khoản chi phí lớn nhất trong sản xuất lúa gạo là lao động, chiếm khoảng 50% tổng chi
phí sản xuất trực tiếp, sau đó là phân bón và thuốc sâu, chiếm khoảng 25-30%.


Biểu Error! No text of specified style in document.-6 Giá thành và lợi nhuận sản xuất
lúa ở một số vùng, giai đoạn 1996-2001
ĐV
tính

1

ĐBSCL
ĐX 1999

ĐNB2
Lúa

2000

Nam Bộ3
ĐX
HT 2001
2001

Thanh
Hoá4
ĐX
2001
2281
398
1508
375
3250
5531
3.750
1.900
7125
1.475
1595
22.4

Chi phí vật chất:
1000đ/ha 4015
2054
2885
2460
Thóc giống

1000đ/ha 441
440
365
Phân bón
1000đ/ha 960
825
790
Thuốc sâu
1000đ/ha 418
350
275
Lao động gia đình
1000đ/ha 1660
3250
2456
2018
Tổng cộng chi phí SX 1000đ/ha 5675
5304
5341
4478
Năng suất lúa
Tấn/ha
5.529
4.330
5.550
4.200
Giá lúa
1000đ/kg 1.500
1.440
1.275

1.325
Doanh thu
1000đ/ha 8294
6235
7076
5565
Giá thành sản phẩm
1000đ/kg 1.026
1.225
0.962
1.066
Lãi gộp
1000đ/ha 2619
931
1736
1087
Tỉ lệ lãi trong d.thu
%
31.6
14.9
24.5
19.5
Ghi chú:
1
Bình quân 5 tỉnh: Long An, Tiền Giang, Đồng Tháp, Cần Thơ và An Giang; Nguồn:
Viện Công nghệ sau thu hoạch TP. Hồ Chí Minh, 1999
2
Lúa bình quân của Đông Nam Bộ; Nguồn: Sở Nông nghiệp & PTNT, TP. Hồ Chí Minh,
2000
3

Nguồn: Số liệu do Nhóm nghiên cứu của Ngân hàng TG thu thập thông qua phỏng vấn,
25-07-2002
4
Điều tra của Công ty tư vấn Nông phẩm quốc tế, 2001

Bảng trên cho thấy một bức tranh khái quát về giá thành và lợi nhuận của nông dân sản
xuất lúa gạo trong mấy năm gần đây ở ĐBSCL, Đông Nam Bộ và Duyên hải Bắc Trung
Bộ. Giá thành sản xuất lúa ở ĐBSCL thường thấp hơn các vùng khác và giao động trong
khoảng 1000 đồng/kg. Mức lãi gộp (tức doanh thu trừ chi phí trực tiếp) trong sản xuất lúa
đạt khoảng 110-115 USD/ha đối với vụ Đông-Xuân và từ 60-70 USD/ha đối với vụ HèThu. Nếu không tính lao động gia đình thì mức lại gộp thu được trên 1 ha lúa còn cao hơn.
Vụ lúa Đông-Xuân thường đem lại mức lãi suất cho nông dân cao hơn là vụ lúa Hè-Thu.
Giữa các vùng có sự chênh lệch đáng kể về mức thu nhập và lãi gộp tính trên 1 ha lúa,
thường thì ĐBSCL có mức lãi cao hơn so với các vùng phía Bắc.


Theo ước tính của Viện Chính sách lương thực quốc tế IFPRI, lãi suất tính theo doanh
thu của ĐBSCL vào khoảng 31% còn ở ĐBSH là khoảng 18% (năm 1996). Trong ngắn
hạn, mức lãi suất có lẽ không thay đổi nhiều lắm.

3. Chính sách
Trong thập kỷ 70 và đầu thập kỷ 80, cơ chế kế hoạch hoá sản xuất tập trung đã khiến
ngành lúa gạo lâm vào cảnh trì trệ, năng suất lúa giảm và các nguồn tiềm năng tự nhiên
phục vụ sản xuất không được khai thác hết. Từ năm 1986, Việt Nam bắt đầu đổi mới kinh
tế. Hộ gia đình được coi là một đơn vị sản xuất chính trong nông thôn và được trao quyền
tự chủ quyết định sản xuất và tiêu thụ nông sản. Cơ chế khoán hộ cùng với những cải
cách về chế độ sử dụng ruộng đất và thuế đã tạo ra một bước nhảy vọt trong nông nghiệp.
Sản xuất lúa gạo tăng mạnh bắt đầu từ cuối thập kỷ 80, Việt Nam chuyển từ một nước
nhập khẩu lương thực thành một nước xuất khẩu gạo quan trọng trên thế giới vào cuối
những năm 90.
Bên cạnh chính sách đổi mới nhằm khuyến khích phát triển sản xuất trong nước, hoạt

động thương mại quốc tế của ngành lúa gạo cũng được đẩy mạnh. Một trong những thay
đổi quan trọng nhất trong chính sách thương mại là việc xoá bỏ hạn ngạch và khuyến
khích các thành phần kinh tế tham gia hoạt động xuất khẩu gạo, nhờ đó tăng nhanh luợng
gạo xuất khẩu của Việt Nam.
Ngày nay, phần lớn dân cư Việt nam đang sống ở nông thôn có nguồn sinh kế chủ yếu là
sản xuất nông nghiệp, trong đó sản xuất lúa gạo là nguồn lương thực và thu nhập chính
của đa số các hộ nông dân. Chỉ riêng ĐBSH và ĐBSCL đã có tới 27 triệu dân nông thôn
có hoạt động sản xuất chính đem lại nguồn sinh sống cho họ là trồng lúa.
Chính sách thúc đẩy sản xuất và xuất khẩu gạo sẽ đem lại nguồn lợi cho những người
tham gia sản xuất và là công cụ hữu ích cho việc xoá đói giảm nghèo ở nông thôn Việt
Nam.


PHẦN II.
TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY VỀ NGÀNH HÀNG LÚA GẠO
Do tầm quan trọng của ngành hàng lúa gạo đối với Việt Nam như đã phân tích ở trên, đã
có rất nhiều nghiên cứu kinh tế xã hội về ngành lúa gạo Việt Nam. Trong khuôn khổ báo
cáo này, tác giả chỉ liệt kê những nghiên cứu của các học giả nước ngoài kết hợp với nhà
nghiên cứu Việt Nam đã xuất bản từ năm 2000 đến nay.
1. Chantal Pohl Nielsen, Trường Đại học Copenhagen và Viện Nghiên cứu Kinh tế
Lương thực Đan Mạch, “Chính sách lúa gạo Việt Nam: cải cách và có hội cho tương
lai”, Tạp chí Kinh tế Châu Á, Số 17, năm 2003
Sau khi tổng kết về tình hình sản xuất lúa gạo Việt Nam và đặc biệt là vai trò của Việt
Nam trên thị trường lúa gạo thế giới, tác giả đã liệt kê một số chính sách thương mại có
tác động trực tiếp đến ngành lúa gạo Việt Nam sau công cuộc đổi mới. Cụ thể là 3 chính
sách: (i) xoá bỏ hạn ngạch xuất khẩu gạo và hạn ngạch nhập khẩu phân bón; (ii) những
chính sách cải cách đất và phân bổ lại đất; (iii) Các hiệp định thương mại ưu đãi với EU:
đối tác thương mại tiềm năng của Việt Nam.
Tác giả đã sử dụng mô hình cân bằng tổng thể để đưa ra một số kịch bản thay đổi 3 nhóm
chính sách trên. Sau khi chạy mô hình cho một số kịch bản, có thể kết luận được rằng:

(i) Chính sách thương mại
- Hạn ngạch xuất khẩu gạo là một công cụ chính sách hữu hiệu cho mục tiêu đảm bảo an
ninh lương thực quốc gia và duy trì giá gạo ổn định ở Việt Nam;
- Tuy nhiên chính sách này cũng có thể khiến cho ngành sản xuất và xuất khẩu gạo Việt
Nam không đạt được mức tiềm năng;
- Nghiên cứu cũng khẳng định việc xoá bỏ cùng một lúc hạn ngạch xuất khẩu gạo và hạn
ngạch nhập khẩu phân bón là rất hợp lý bởi vì phân bón là đầu bào nông sản quan trong
của Việt Nam nên việc gỡ bỏ hàng rào đối với loại hàng hoá này sẽ giúp tăng hiệu quả
phân bổ nguồn lực của nền kinh tế.
(ii) Chính sách đất
- Mặc dù các chính sách đất của Việt Nam đã coi kinh tế hộ cá thể là đơn vị cơ bản trong
sản xuất nông nghiệp nhưng những biện pháp hạn chế dịch chuyển mục đích sử dụng đất
nông nghiệp giữa các thành phần khác nhau là một cản trở lớn cho sản xuất và xuất khẩu.
- Tuy nhiên, việc kiểm soát hoạt động đa dạng hoá nông nghiệp bằng cách điều trỉnh lại
việc phân bổ đất sẽ khiến cho cơ cấu sản xuất nông nghiệp không phản ánh được lợi thế
so sánh và sẽ làm giảm lợi ích kinh tế xã hội của các đối tác khác nhau.


(iii) Các hiệp định thương mại gạo với liên minh Châu Âu EU:
- Việc tạo một sân chơi cào bằng cho tất cả các nước buôn bán gạo vào EU sẽ không có
lợi cho sản xuất và xuất khẩu gạo của Việt Nam
- Nếu nhận được ưu tiên thương mại vào EU, Việt Nam có thể đa dạng hoá bạn hàng,
nhưng có thể các nhà xuất khẩu VN sẽ không được lợi nhiều do Việt Nam vẫn chỉ là một
đối tác nhỏ ở thị trường này so với Thái Lan, Mỹ và Ấn Độ.
Tuy nhiên, hạn chế của nghiên cứu này là rất khó thu thập được số liệu chính xác về hệ
thống chính sách đất và tác động của nó. Ngoài ra, phạm vi của nghiên cứu này cũng rất
hẹp, vì thế có rất nhiều chính sách khác có thể lượng hoá ra và cũng đóng vai trò quan
trọng trong ngành lúa gạo Việt Nam đã không được đưa vào phân tích.
2. Trương Văn Tuyển và cộng sự, UNDP và Trường Đại học Huế Việt Nam, “Đánh giá
tổng hợp tự do hoá thương mại trong ngành lúa gạo Việt Nam”, 12/2003

Báo cáo này thể hiện những kết quả tóm lược về đánh giá tổng hợp của những tác động
tự do hóa thương mại trong ngành lúa gạo của Việt Nam,xem xét những tác động tốt và
không tốt đến sự tăng trưởng trong sản xuất và thương mại lúa.
(i) Tác động môi trường
Tăng trưởng trong sản xuất lúa và xuất khẩu có đóng góp lớn về kinh tế nhưng lại có các
tác động xấu đến môi trường, tác động tốt đến rừng
(ii) Các tác động về kinh tế
Tự do hóa thương mại cùng với chính sách gia nhập quốc tế đã có tác động tốt đến kinh
tế quốc gia nói chung và ngành nông nghiệp nói riêng, tạo ra cạnh tranh về sản xuất trong
nước. Tự do hóa thương mại khi vào AFTA mang lại nhiều lợi ích kinh tế. Thuế giảm từ
20 xuống 5% sẽ dẫn đđến tăng giá xuất khẩu lúa khoảng 4%.
(iii) Các tác động về xã hội
Giảm được nghèo đđói cùng với thúc đẩy đđược tăng trưởng kinh tế từ 7 - 8%. Tổng thu
nhập thực của hộ tăng từ 27,6% năm 1993 và 1998, trong khi thu nhập từ nông nghiệp
tăng 60,6%.
Nếu loại bỏ giới hạn thương mại lúa nội bộ, sẽ tăng thu nhập hộ thành thị và hộ giàu.
Loại bỏ hạn ngạch xuất khẩu lúa đđã có ảnh hưởng lớn đđến thu nhập nông hộ và nghèo
đói.
3. Nicholas Minot, Viện Nghiên cứu Lương thực Quốc tế (IFPRI), “Khả năng cạnh
tranh của ngành chế biến lương thực Việt Nam: nghiên cứu về gạo, cà phê, hải sản và
rau quả”
(i) Kết luận


- Tăng trưởng sản xuất gạo Việt Nam chủ yếu nhờ tăng năng suất và hệ số quay vòng đất
do diện tích đã không tăng từ giữa thập kỷ 80.
- Tuy nhiên, tăng năng suất đang có xu thế hạn chế, vì vậy tăng sản xuất chỉ có thể giựa
vào tăng năng suất. Kết luận này đã giúp nhóm tác giả đưa ra một số khuyến nghị sau.
(ii) Kiến nghị
- Cần tăng đầu tư cho nghiên cứu ngành gạo, có thể thông qua hình thức tăng lương, đầu

tư thêm chi phí vận hành và mua thiết bị cho các cơ sở nghiên cứu.
- Cần cải thiện trang thiết bị tại Cảng Sài Gòn, giảm thời gian bốc xếp và vận chuyển để
tăng thêm giá FOB. Phát triển cảng Cần Thơ để giảm chi phí vận chuyển gạo tới cảng,
tăng mức giá trả cho người nông dân.
- Chính phủ cần tránh những chính sách khiến cho người xuất khẩu VN bãi bỏ hợp đồng
xuất khẩu gạo hiện nay. Cái giá phải trả không thể nhìn thấy trước mắt nhưng sẽ đe doạ
danh tiến người xuất khẩu gạo của Việt Nam.
- Chính phủ cần triển khai hệ thống báo cáo thường xuyên về các hợp đồng xuất khẩu gạo
đề các nhà hoạch định chính sách có thể kiểm soát lượng gạo xuất khẩu, nhằm đạo bảo an
ninh lương thực và tránh tình trạng bãi bỏ hợp đồng.
- Cần cho phép các nhà xay xát gạo tư nhân tham gia xuất khẩu gạo, mang lại nhiều lợi
ích hơn cho người nông dân mà không làm giảm giá xuất khẩu. Hơn nữa, các đối tác tư
nhân có khả năng tìm kiếm và khai thác các thị trường đặc biệt cho gạo đặc sản.
4. Lê Khương Ninh, Niels Hermes và Ger Lanjouw, “Đầu tư, Bất ổn và Những điều
không thể tránh khỏi: Nghiên cứu thực tiễn về các cơ sở xay xát gạo ở Đồng Bằng
Sông Cửu Long Việt Nam” , (Investment, Uncertainty and Irreversibility: An Empirical
Study of Rice Mills in the Mekong River Delta, Vietnam), 2002.
Báo cáo đã nghiên cứu tính không thể đảo ngược của đầu tư và tác động của nó đến bản
chất mối quan hệ giữa đầu tư và tính bất ổn. Trên thực tế, có rất nhiều lý thuyết về mối
quan hệ giữa quyết định đầu tư chắc chắn và tính bất ổn, kết luận răng, tính bất ổn có thể
làm tăng hoặc giảm đầu tư phụ thuộc vào phương thức đầu tư và các điều kiện liên quan
đế khả năng chấp nhận rủi ro của người đầu tư, mức độ cạnh tranh trên thị trường sản
phẩm đầu ra và đặc tính của công nghệ được sử dụng trong sản xuất.
Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu thực tiễn đều chỉ ra rằng bất ổn làm giảm đầu tư.
Nghiên cứu này dựa trên điều tra các cơ sở xay xát gạo ở Đồng Bằng Sông Cửu Long. Và
kết luận rằng tính bất ổn đã làm giảm đầu tư của các cơ sở xay xát.
Nghiên cứu này đã có hai đóng góp lớn. Thứ nhất, nghiên cứu được tiến hành đối với nền
kinh tế đang chuyển đổi nơi có rất ít nghiên cứu. Nghiên cứu này cho thấy các cơ sở xay
xát gạo Việt Nam ở trong tình trạng bất ổn hơn là các đối tác ở đất nước đang phát triên



rnhư Italy. Thứ hai, nghiên cứu này sử dụng thông tin điều tra, cho phép tính toán được
mức độ bất ổn.
Nghiên cứu này có thể mở ra hướng nghiên cứu mới về sự biến động của đầu tư và khả
năng dự đoán của các nhà quản lý xay xát.
5.Chantal Pohl Nielsen, København, “Việt Nam trong thị trường gạo quốc tế - Tổng kết
và đánh giá chính sách gạo trong nước và quốc tế” (Vietnam in the International Rice
Market - A Review and Evaluation of Domestic and Foreign), 2002
Nghiên cứu đã tổng kết về tình hình sản xuất, cơ cấu và xu hướng thương mại thị trường
gạo quốc tế. Bên cạnh đó nghiên cứu cũng tổng hợp các chính sách gạo của Việt nam
cũng như các chính sách chính của các bạn hàng và đối thủ cạnh tranh. Phần chính của
báo cáo tập trung đánh giá các chính sách gạo hiện nay, đặc biệt sự thay đổi chính sách
trong bối cảnh đàm phán thương mại quốc têd đa phương.
Nghiên cứu kết luận rằng Việt Nam cần tiếp tục cải cách cơ chế chính sách gạo và những
cải cách này cần được đặt trong bối cảnh thay đổi kinh tế toàn cầu. Việt Nam không chỉ
cần tăng cường tiếp cận thị trường mà cần thận trọng đối với các biện pháp trợ cấp xuất
khẩu và hỗ trợ trong nước của các quốc gia khác.Việc sử dụng các biện pháp này sẽ gây
ra bất ổn thị trường gạo quốc tế.
Nghiên cứu chỉ ra rằng bản chất của các doanh nghiệp kinh doanh nhà nước đang thay
đổi nhờ quá trình cải cách và cơ cấu lại. Tuy nhiên, điều này không cho thấy rõ có giúp
tăng cường khả năng tiếp cận với các thị trường gạo quốc gia hay không. Mặt khác, thị
trường gạo của EU cũng sẽ không hoàn toàn mở cửa đến tận năm 2009, vì vậy việc xâm
nhập vào thị trường này cũng sẽ hoàn toàn không dễ dàng. Trung Quốc, Ấn Độ và
Myanmar rất quan tâm đến việc ký hợp đồng gạo với Thái Lan và Việt Nam, điều này sẽ
gây ảnh hưởng không nhỏ đến tương lai. Cuối cùng, việc sử dụng giống gạo biến đổi gien
sẽ có tác động đến cơ cấu thương mại và giá.
6. Agrifood Consulting International-ACI, Nghiên cứu Chuỗi giá trị gạo Việt Nam (Rice
Value Chain Study:Viet Nam), 2002
Đây là nghiên cứu đầu tiên toàn diện về chuỗi giá trị gạo của Việt Nam do nhóm nghiên
cứu của ACI triển khai, đưa ra nhiều kết luận đáng quan tâm.

- Việt Nam thiếu môi trường cơ sở hạ tầng và cơ chế chính sách. Cần phải cải thiện môi
trường này để tăng cường an ninh lương thực, giảm nghèo nông thôn và tăng thu nhập từ
xuất khẩu. Có hai phương thức tạo giá trị thăng dư cho ngành lúa gạo: (i) tăng cường
năng suất, đặc biệt là các khu vực vùng núi, vùng sâu vùng xa (thông qua khâu chọn và
sản xuất giống, tiếp cận đầu vào và dịch vụ khuyến nông); và (ii) tăng cường sản xuất và
xuất khẩu gạo đặc sản,chất lượng cao. Việc cải thiện môi trường nói trên sẽ giúp tạo điều
kiện thực hiện hai phương thức này.


- Vai trò của khu vực nhà nước trong đầu tư trực tiếp tăng năng suất chỉ nên giới hạn ở
việc cung cấp thuỷ lợi, tăng cường cơ sở hạ tầng và cơ chế chính sách. Nhà nước chỉ nên
khuyến khích chứ không nên trợ cấp đầu vào.
- Khu vực tư nhân nên phát triển các thị trường đặc sản, giá trị cao
- Ngoài ra, đầu tư vào ngành lúa gạo nên đi đôi với với chính sách đa dạng hoá cây trồng
để giải quyết vấn đề nghèo đói nông thôn.
7. Jonathan Haughton và cộng sự, “Tác động của Chính sách gạo đến khả năng tự
cung tự cấp lương thực và phân bố thu nhập ở Việt Nam”, (The Effects of Rice Policy
on Food Self-Sufficiency and on Income Distribution in Vietnam), 12/2004
Nghiên cứu cho thấy xuất khẩu gạo Việt Nam vẫn sẽ tiếp tục tăng trong tương lai. Tuy
nhiên, tiêu thụ đầu người trong nước đã đạt gần mức đỉnh cao và nếu thu nhập tiếp tục
tăng nhanh, tiêu thụ gạo sẽ bắt đầu giảm, mặt dù tăng dân số vẫn sẽ làm tăng tổng cầu
gạo lên chút ít.
Cung gạo vẫn có thể còn tăng nhiều hơn dự đoán nhưng tốc độ tăng sẽ bị hạn chế do
lương tăng (khiến người làm việc trong ngành sản xuất gạo chuyển sang các ngành khác).
Trong tương lai, Việt Nam có thể sẽ cân nhắc trợ cấp cho nông dân. Nghiên cứu cho thấy,
tác động của chính sách này đối với đối nghèo không rõ ràng và phụ thuộc vào định
nghĩa về đói nghèo (tính bằng chi tiêu hay thu nhập đầu người). Trong trường hợp tính
bằng chi tiêu thị trợ cấp xuất khẩu gạo sẽ có hại cho nhóm người rất nghèo. Trong trường
hợp tính bằng thu nhập, nhóm nghèo sẽ được trợ giúp.
8. Trương Văn Tuyến, Trường Đại học Nông lâm Huế, “Đổi mới chính sách và thay đổi

sản xuất và thương mại gạo Việt nam thập kỷ 80-90”
- Cải cách thị trường: đạt được tiến bộ trong việc mở cửa nền kinh tế nông thôn cho
thương mại tư nhân, tạo điều kiện buôn bán đầu vào nông sản và tạo cơ hội cho nông dân
tự bán sản phẩm gạo.
- Bên cạnh tăng cường cơ sở hạ tần nông thôn, cần điều chỉnh lại tình trạng độc quyền
nhóm giữa các đối tác buôn bán.
- Chính sách giá đối với gạo: Trong nhiều năm, Việt Nam thực hiện chính sách giá xuất
khẩu gạo thế giới trong khi đầu tư và chi phí sản xuất và marketing thấp hơn và chuẩn bị
một cơ chế ổn định giá cả trong nước.
Cần thực hiện đầu tư đa dạng hoá cây trồng và tạo điều kiện để nền kinh tế nông thôn
hoạt động linh hoạt nhằm đối phó với những điều kiện thị trường thay đổi.
9. Nicholas Minot & Francesco Goletti, Viện Nghiên cứu Chính sách Lương thực Quốc
tế (IFPRI), “Tự do hoá thị trường gạo và đói nghèo ở Việt Nam”, (Rice market
Liberalization and Poverty in Viet Nam), 2000


(i) Kết luận
- Không giống như dự đoán của một số nhà phân tích rằng xuất khẩu gạo Việt nam sẽ
không bền vững, nhưng thực tế xuất khẩu gạo Việt Nam tăng liên tục. Sản xuất nông
nghiệp, đặc biệt là gạo và tiêu thụ gạo đầu người tăng liên tục từ giữa thập kỷ 80
- Tác động đền đói nghèo:
+ 95% số làng đã cải thiện được mức sống trong 5 năm qua, 94% số họ xác định chính
sách nông nghiệp là động lực chính
+ Số lượng TV và xe máy tăng mạnh trong những năm qua ở khu vực nông thôn mặc dù
tỉ lệ nghèo vẫn cao và lợi ích của tự do hoá không được phân phối đồng đều cho các khu
vực và giữa thành thị - nông thôn.
(ii) Gợi ý chính sách
- Nghiên cứu sử dụng mô hình cân bằng không gian đa thị trường để đánh giá tác động
của các chính sách thương mại gạo, đặc biện là chính sách tự do hoá thương mại.
- Kết quả cho thấy tự do hoá xuất khẩu sẽ giúp tăng giá và gây hại cho người nghèo thành

thị và các hộ gia đình thiếu gạo. Song bên cạnh đó, nông dân ở các khu vực trồng lúa sẽ
nhận được lợi ích lớn hơn nhiều, nhờ đó làm giảm tổng tỉ lệ nghèo đói và tăng thu nhập
hộ và quốc dân.
- Việc chuyển hạn ngạch xuất khẩu thành thuế xuất khẩu sẽ giúp tránh được việc phân bổ
hạn ngạch, tăng tính công khai và tạo thu nhập cho chính phủ để đầu tư vào các chương
trình XĐGN
- Lợi ích từ việc tự do hoá xuất khẩu gạo phụ thuộc nhiều vào độ co dãn cầu của xuất
khẩu gạo Việt Nam trên thị trường thế giới. Vì vậy, Chính phủ cần xác định chính xác
hơn độ co giãn cầu gạo và rằng Việt Nam cần phải lobby cho tự do hoá thương mại các
thị trường gạo trên thế giới, đặc biệt là các nước nhập khẩu.
- Tác động tổng hợp đến thu nhập và nghèo đói của việc xoá bỏ hạn chế thương mại
trong nước cũng tương tực như đối với thương mại ngoài nước.
- Rõ ràng là tốc độ tăng trưởng trong tương lai của ngành lúa gạo phụ thuộc vào xuất
khẩu. Và mở rộng xuất khẩu phụ thuộc vào sự phát triển của hệ thống marketing hiệu quả
có khả năng đáp ứng các nhu cầu của thị trường trong và ngoài nước. Việc phát triển hệ
thống này phụ thuộc nhiều vào sự tham gia của khu vực tư nhân. Khu vực tư nhân phát
triển nhờ cải cách nhưng vẫn bị hạn chế bởi tình trạng độc quyền của doanh nghiệp nhà
nước và có ít cơ hội tiếp cận với vốn và thông tin.
- Thị trường trong nước không gắn kết chặt chẽ do hệ thống cơ sở hạ tầng chưa phát triển,
chính sách hạn chế giao dịch liên khu vực, thiếu sự công khai và niềm tin vào các chính
sách được ban hành.


10. Chu Thái Hoành, Đặng Kim Sơn & cộng sự trường Đại học Wagenningen, Các kịch
bản cung cầu gạo của Việt Nam
Nghiên cứu này mô tả việc ứng dụng hệ thống thông tin địa lý (GIS) và mô hình hoá
trong phân tích cân bằng cung cầu lúa gạo cho các vùng của Việt Nam. Một nội dung
quan trọng của nghiên cứu này là tăng cường cơ sở sinh học cho việc ước tính sản lượng
lúa gạo, có tính đến sự khác biệt giữa các vùng về lợi thế so sánh và về năng suất tiềm
năng. Vì thế, việc cung cấp lúa gạo ở Việt Nam có thể được phân tích trên 7 vùng sinh

thái (Hình 1) với các điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng và tài nguyên nước khác nhau (Phong,
1995). Phân vùng địa lý cũng được dùng trong ước tính nhu cầu vì mỗi vùng sinh thái
bao gồm một số tỉnh, là đơn vị hành chính cơ bản có các thông tin để ước tính nhu cầu.
Sau đó các vùng thừa hoặc thiếu lúa gạo được xác định khi tổng hợp cung cầu lên cấp
vùng và tính toán cân bằng.
Phân tích cung cầu lúa gạo này cho thấy Việt Nam sẽ tiếp tục là nước xuất khẩu gạo. Vai
trò chủ chốt của đồng bằng sông Cửu Long sẽ càng tăng thâm. Mặc dù gạo là mặt hàng
quan trọng nhất ở Việt Nam nhưng thu nhập từ sản xuất gạo vẫn thấp hơn các mặt hàng
khác. Do đó, dù vẫn tập trung tăng cường xuất khẩu gạo nhưng Việt Nam cũng đang xem
xét chuyển một phần diện tích trồng lúa sang các cây trồng khác. Nghiên cứu của chúng
tôi về các kịch bản cung cầu khác nhau cho thấy sản xuất lúa gạo đạt ở mức khoảng 3036 triệu tấn, tùy thuộc vào mức độ can thiệp của Chính phủ. Giao động giá gạo sẽ tạo nên
mức giao động sản lượng lúa khoảng 2 triệu tấn. Tăng cường hiệu quả quản lý nước/cây
trồng sẽ giúp tăng sản lượng lúa gạo đề đáp ứng nhu cầu đang tăng. Thêm vào đó, giảm
tổn thất sau thu hoạch cũng giúp bù đắp phần giảm bớt do chuyển từ đất lúa sang các mục
đích khác. Nhu cầu gạo cho hộ gia đình trong năm 2010 với tỉ lệ đô thị hoá 33% sẽ vào
khoảng 13,8 triệu tấn. Giao động giá gạo sẽ làm tăng hoặc giảm tiêu dùng gạo khoảng 1
triệu tấn.
Bằng cách duy trì diện tích đất lúa ở mức 4 triệu ha, Việt Nam vẫn có thể duy trì được
mức xuất khẩu khoảng 2-4 triệu tấn khi giá gạo giao động ở mức 20% so với hiện nay,
với điều kiện Chính phủ thực hiện đồng thời hai biện pháp là tăng cường hiệu quả quản lý
nước/cây trồng và giảm tổn thất sau thu hoạch. Bên canh xuất khẩu gạo, cần trú trọng
đến việc phân phối gạo trong nước để đảm bảo an ninh lương thực ở những vùng núi,
vùng sâu và vùng xa.
11. Trung tâm nghiên cứu nông nghiệp quốc tế Úc (ACIAR) & Trường Đại học Cần Thơ,
Kỷ yếu hội thảo tổng kết dự án nghiên cứu liên ngành về tính bền vững“ , 12/2000
- Sự kết hợp nuôi tôm vào mùa khô trong ruộng lúa đã tăng thu nhập cho nhiều nông dân
trong vùng qua nhiều vụ liên tiếp. Trở ngại chủ yếu là khai thác tôm tự nhiên (tôm đất,
tôm bạc, …) theo cách truyền thống là không bền vững vì đất canh tác bị mất đi do bồi
lắng phù sa từ việc thay nước (lấy nước ra vào ruộng) nhiều lần để khai thác tôm. Biện
pháp mới phát triển gần đây, thả nuôi tôm (sú) giống mua từ các trại ương giống kết hợp



với việc ít thay nước, tỏ ra có triển vọng nhưng bị hạn chế do thiếu nguồn tôm giống
khoẻ mạnh và sự bùng phát của dịch bệnh tôm. Tình trạng thiếu đầu tư về công nghệ tiên
tiến để kiểm tra sức khoẻ (chất lượng) tôm giống và về kỹ thuật sản xuất tôm giống như
hiện nay là những hạn chế mang tính quyết định đến tính bền vững của tất cả mô hình sản
xuất tôm, bao gồm hệ thống canh tác lúa-tôm ở đồng bằng sông Cửu Long.
- Nghiên cứu này cho thấy, ngay với tỉ lệ sống của tôm sú thấp như hiện nay, nhiều nông
dân canh tác lúa-tôm đã và đang ứng phó với rủi ro tài chính tốt bằng cách đa dạng hoá
nguồn thu nhập cho gia đình. Điều đó có nghĩa là những nông hộ này có các nguồn thu
nhập khác thay thế khi xảy ra tình trạng tôm chết hàng loạt. Hơn nữa, hệ thống canh tác
này cho phép sản xuất lúa và những nông sản chủ lực khác cho tiêu dùng trong gia đình,
nhờ thế giảm bớt rủi ro từ nuôi tôm. Những kết quả nghiên cứu trong dự án này chỉ ra
rằng năng suất lúa không bị ảnh hưởng bất lợi bởi việc sử dụng ruộng lúa cho nuôi tôm.
Những cơn mưa lớn đầu mùa giúp rửa mặn trong ruộng lúa-tôm một cách hiệu quả. Chưa
có bằng chứng về sự tích tụ muối hoặc mặn hoá đất đai từ việc nuôi tôm ảnh hưởng bất
lợi đến năng suất lúa ở vụ tiếp theo. Tuy nhiên, nghiên cứu này đã đưa đến các khuyến
cáo về những giống lúa và thời điểm gieo cấy lúa thích hợp nhất trong hệ thống lúa-tôm.
12. TS. Đỗ Kim Chung, TS. Kim Thị Dung, “Đánh giá kinh tế - xã hội của quản lý dịch
hại trong sản xuất lúa ở Việt Nam (Pest Management in Rice Pro duction in Vietnam
A Socio–Economic Assessment)”, NXBNN Hà Nội 2002.
Nghiên cứu này nhằm tìm hiểu cac ứng xử ra quyết định của người nông dân và
các kiến thức bản địa của họ về quản lý dịch hại trong sản xuất nông lúa. Đồng thời đánh
giá những lợi kinh tế xã hội mà chương trình quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) đã mang
lại đối với ngành sản xuất lúa ở Việt Nam. Trên cơ sở phân tích các số liệu và thông tin
thu được từ việc điều tra phỏng vấn 252 hộ nông dan đã thm dự và chưa tham dự tập
huấn về IPM ở các vung sinh thái nông nghiệp khac nhau tại ĐBSH và ĐBSCL. Kết quả
nghiên cứu cho thấy các hộ nông dân đã áp dụng các biện pháp canh tác khác nhau thuỳ
thuộc vào sự hiểu biết của họ và các điều kiện kinh tế - xã hội, sinh thái nông nghiệp của
từng vùng. Nhìn chung , các hộ nông dân có nhận thức và ứng xử khác nhau đối với dịch

hại trên đồng ruộng. Việc lựa chọn giống lua, lựa chọn sử dụng cac biện pháp bảo vệ thực
vật được thực hiện trên hiểu biết của nông dân về dịch hại vàquản lý dịch hại. các hộ
nông dân được huấn luyện IPM về gio cấy và chăm sóc lúa theo cách bền vững hơn so
với cac hộ nông dân canh tac tho kỹ thuật cũ. Điều này dãn đến sự khác biệt đáng kể về
cac chi phí đầu vào và năng suất, thu nhập của sản xuất lúa. Thông qua áp dụng IPM,
người nông dân đã thay đổi nhận thức của họ về dịch hại và biết ra quyết định hợp lý nhất
trên ruộng lúa của mình. Chương trình IPM đã mang lại lợi ích về mặt kinh tế và xã hội
cho cả người đã đưcộhc IPM và người chưa được học về IPM.
Lợi ích của của chương trình IPM là việc giảm chi phí thuốc BVTV cũn như các
chi phí đầu vào khác, cải thiện môi trường và hệ sinh thí đồng ruộng, tăng năng suất, tăng
thu nhập từ sản xuất lúa , hạn chế rủi ro.


Cuối cùng nghiên cứu này đề xuất một số định hướng chinh sách nhằm đảy mạnh
chương trình IPM, áp dụng kiến thức bản địa về quản lý dịch hại và tăng cường vai trò
của phụ nữ trong quá trình triển khai áp dụng IPM.
13. Trần Tiến Khai, “ Phương pháp phân tích thay đổi cơ cấu chi phí sản xuất lúa ở
ĐBSCL (Việt Nam) (Methodology for analysis of rice production costs Evolution:
Application to Mekong Region (Vietnam)”, Viện Khoa học nông nghiệp miền Nam,
2003
Sản xuất lúa gạo là ngành sản xuất nông nghiệp quan trọng nhất ở Việt Nam, nó
không chỉ đảm bảo cho an ninh lương thực quốc gia mà còn đem lại một nguồn ngoại tệ
mạnh nhờ có xuất khâủ, kể từ công cuộc đổi mới trong thập kỷ 80 đến nay. Gạo của Việt
Nam được coi là SP có tính cạnh tranh cao trên thị trường hiện nay.
Mục tiêu chung của Tài liệu là tìm ra một phương pháp có tính tương đối để đánh
giá những thây đổi động đến tính cạnh tranh của gạo Việt Nam thông qua sự thây đổi về
chi phí sản xuất. Tài liệu được tiến hành ở quy mô nông hộ, trang trại và tập trung vào
nguyên nhân chủ lực thích ứng của những hộ sản xuất gạo nhằm đảm bảo tính cạnh trânh.
Để đáp ứng mục tiêu đặt ra, sự thay đổi của chi phí sản xuất trong mối quan hệ tác động
qua lại giữa các điều kiện kinh tế và kỹ thuật canh tác được phân tích dưới góc độ đọng

và phương pháp tiếp cận hệ thống. Nguồn số liệu chính được thu thập thông qua điều tra
bán thường xuyên khoảng 150 hộ nông dân trong các hệ sinh thái khác nhau tại đồng
bằng sông Mêkông vào giai đoạn 1994- 1999.
Tài liệu chỉ ra rằng chi phí sản xuất/đơn vị sản xuất lúa là không thay đổi nhưng
cơ cấu chi phí thì thay đổi. Tính cạnh tranh được bảo toàn nhờ vào sự thâm canh trong
sản xuất lúa khi sử dụng các đầu vào và các biện pháp kỹ thuật. Trong đó sản xuất không
thay đổi, chất lượng được cải thiện và sự ứng dụng các kỹ thuật đầu vào an toàn kết hợp
với tổng chi phí sản xuất giảm là giải pháp quan trọng. Tuy nhiên, sự khác nhau của quan
hệ sản xuất giữa các hộ xảy ra vì sự khác nhau ở trình độ kỹ thuật và các yếu tố sản xuất.
Các chính sách nông nghiệp của Việt Nam trong những năm 80 cũng có những ảnh
hưởng quan trọng đế sự phát triển trong sản xuất lúa ở Việt Nam.
Các kết quả thu được cho phép kết luận rằng sự phối hợp các phương pháp phân
tích cuộc cách mạng trong sản xuất lúa gạo ở trạng thái động và cách tiếp cận hệ thống đã
thoả mãn được mục tiêu nghiên cứu. Sự khác nhau giữa các yếu tố về diều kiện kinh tế xã
hội, chính sách kỹ thuật và công tác quản lý của các nông hộ đều được ghi nhận. Hơn thế
nữa, sự phân tích đó dựa trên chuỗi thời gian và phân tích theo các vùng sinh thái - nông
nghiệp khác nhau. Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra rằng sự lựa chọn các vùng sinh thái
nông nghiệp phù hợp sự ứng dụng của các kỹ thuật được giao, sự hoàn thiện của các dịch
vụ khuyến nông cũng như chuyển giao công nghệ kỹ thuật đến với người nông dân là
những giái pháp chủ yếu để giữ vững tính cạnh tranh cho xuất khẩu lúa gạo Việt Nam.
3. Huỳnh Trấn Quốc & Lê Văn Gia Nhỏ, “Đánh giá hiệu quả sản xuất lúa ở
mức nông hộ và một số vấn đề ảnh hưởng đến sản xuất lúa xuất khâủ vùng Đồng
bằng sông Cửu Long”, Đại học Cần Thơ
Sản xuất lúa gạo truyền thống ở ĐBSCL hiện tại chủ yếu là trong nông hộ. Qui
mô sản xuất bình quân của nông hộ ở đây trên dưới 3 ha (30 công). Qui mô sản xuất có


ảnh hưởng rõ rệt đến hiệu quả kinh tế (lợi nhuận/ha) thu được. Qui mô quá nhỏ không
tận dụng có hiệu quả cả về nông cụ (máy làm đất, gieo hạt, bơm nước, kho chứa…) và
lao động chuyên nên giá thành cao. Qui mô trang trại lớn sử dụng máy móc trong canh

tác năng suất lao động coa hơn, chi phí giảm nên giá thành thjấp, hiệu quả hơn. Qui mô
hiệu quả cũng khác nhau tuỳ vùng, tuỳ điều kiện cơ sở hạ tầng chung.
4. TS, Trần Tiến Khai, “Sản xuất và cung ứng lúa gạo ở mức nông hộ tại Đồng
bằng sông Cửu Long, Việt Nam giai đoạn 1995-1998”, Viện KHKTNN miền Nam,
Kỷ yếu nghiên cứu khoa học, 2000
Các nghiên cứa cho thấy nông hộ sản xuất lúa ở ĐBSCL chủ yếu theo phương
thức sản xuất hàng hoá. Có 60 số hộ bán toàn bộ lúa ngay sau thu hoạch. Việc tiêu dùng
gạo lại dựa vào thị trường (chợ, tiệm chuyên doanh gạo). Phư\ơng thức này có cả những
ưu điểm và nhược điểm. Việc tập trung lúa hàng hoá tươi để sấy và xay sát đảm bảo
chất lượng tốt nhưng cần nhiều cơ sở kho tàng, máy sấy. Nông hộ ăn gạo mua nên ít
quan tâm chất lượng gao mình sản xuất. Lợi nhuận thu được cũng ít hơn. Các nông hộ có
qui mô diện tích lớn sẽ tiếp tục phương thức này.
5. Viện KHKTNN MN, “Một số kết quả chọn tạo giống lúa cho vùng canh tác
khó khăn ở Đồng bằng sông Cửu Long và Đông Nam Bộ,” Kỷ yếu nghiên cứu khoa học
năm 2000
Các thành tựu nghiên cứu chọn tạo giống lúa dã cung cấp cho nông dân trong
vùng ĐBSCLcác giống lúa có đạc tính cứng cây, phù hợp với cơ giới trong thu cắt. Vấn
đề chất lượng và năng suất lúa cũng là các chỉ tiêu quan trọng. Tuy nhiên, do lúa thâm
canh nên sử dụng nhiưêù thuộc hoá học BVTV ảnh hưởng đến chất lượng và tiêu chuẩn
gao “sạch” cả với tiêu dùng trong nước và với xuất khẩu.
6. Ths Thanh Bé, Ks Trần Thế Như Hiệp, “Kết quả so sánh hoạt động sản
xuất hệ thống canh tác lúa - tôm tại Giá Rai và Mĩ Xuyên trong hai năm 1997-1998”,
Ký yếu Hội nghị khoa học - Trường ĐH Cần Thơ - 1999”
Các kết quả khảo sát mô hình canh tác lúa tôm ở Giá Rai và Mỹ Xuyên cho thấy
hiệu quả thu được của vụ tôm khá cao, bổ sung cho tổng thu và phần giảm thu của vụ lúa
do năng suất thấp và ít dùng thuốc BVTV. Tuy nhiên, để nuôi tôm đòi hỏi các chi phí
đàu tư cải tạo hệ thống thuỷ lợi cấp thoát nước và chống ô nhiếm môi trường. Hệ thống
canh tác này thể hiện tính ưu thế như\ng cũng có nhiều hạn chế , đặc biệt là xử lý ô
nhiếm môi trường và cũng còn nhiều rủi ro trong tiêu thụ tôm,.
7. Nguyễn Đình Chính và CS , “Giá cánh kéo giữa vật tư phân bón với thóc

trong sản xuất lúa ở miền Bắc”, Viện Kinh tế Nông nghiệp, 2003
Các kết quả nghiên cứu cho thấy phân bón, cđặc biệt phân bón vô cơ (Ủê, lân,
Kali) chiến 24- 27 % CPSX với các qui trình canh tác lúa giống mới ở miền Bắc. Biểu đồ


tăng chi phí phân bón vô cơ với tăng năng suất lúa có tỉ lệ đồng thuận trong mức độ
nhất định. Các klhảo sát cho thấy mức giá phân Urê tăng lên nhiều hơnm mức tăng giá
lúa khiến nông dân thu thiệt và giảm mức đầu tư phân bón trong tham canh.
8. PTS Nguyễn Đức Hưng và CTV , “Kết hợp nuôi vịt với trồng lúa tại Thừa
Thiên - Huế”
Nuôi vịt kết hợp với trồng lua là có hiệu quả cao bới các tác động tương hỗ trong
lúa + Vịt: Vịt xục bùn, diệt bọ rầy không hại lúa. Trong môi trường ruộng lúa có nhiều
loại thức ăn cung cấp cho vịt để giảm chi phí thức ăn nhân tạo. Tuy nhiên, phải có qui
trình thích hợp mới có thể đạt hiệu quả tốt. Mức tăng thu nhập và lợi nhuận của mô hình
lên 30 - 50 %
9. Kim Quốc Chính, “Dự báo khả năng xuất khẩu gạo (lúa) của Việt Nam thời
kì 2001-2010”, Nghiên cứu kinh tế -số 1, 2002
Tác giá có các phân tích tình hình xuất nhập khẩu gạo của thị trường thế giới
những năm quan trên dưới 35 - 38 triệu tấn. Dự báo Việt nam sẽ tiếp tục là quốc gia xuất
khẩu gạo trong 10 - 15 năm nữa ở mức giảm dần từ 4 xuống 2 triệu tấn/ năm khi dân số
tăng lên và quá trình chuyển đổi cơ cấu sản xuất
10. PTS Nguyễn Thế Bình, “Tiếp thị và tiêu thụ lúa gạo xuất khẩu ở vùng
Đồng bằng sông Cửu Long”, T/c KHKTNN
Theo tác giả thì hiện nay ĐBSCL đang là một nguồn xuất khẩu gạo chính của VN,
nhưng chưa có chiến lược tiếp thị và đảm bảo xuất xứ của sản phẩm. Do vậy chất lượng
bị đánh giá thấp và gia luôn thấp hơn so gạo cùng loại của quốc gia khác như Thái Lan
11. PGS.TS. Đỗ Kim Chung, “Từ marketing nông nghiệp sang marketing
thực phẩm nông sản: kinh nghiệm từ các nước châu Á”, T/c Nghiên cứu kinh tế số
291 – 8/2002
Tác giả có nhiều dẫn liệu và phân tích về thị trường cung ứng vật tư, tiêu thụ

lương thực thực phẩm của nhiều quốc gia châu Á như Thái Lan, Nhật bản, Philippin v,.v.
Đâyb là một tài liệu tham khảo tốt cho các đề tài tthị trường nông sản
12. Nguyễn Khắc Thanh, “Đẩy mạnh xuất khẩu gạo của Việt Nam trong thời
gian trước mắt”, T/c Nghiên cứu kinh tế số 310 – 3/2004
Các biện pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu gạo của Vn như trong dự báo sẽ vẫn ở
mức 3,5 - 4,0 triệu Tấn/năm là bao gồm cả từ qui hoạch tổ chức sản xuất đến vấn đề đầu
tư nghiên cứu khoa học, phát triển thị trường, xây dựng thương hiệu và tiếp thị sản phẩm


13. PGS.TS. Đỗ Kim Chung, “Hiệu quả kinh tế của chương trình phòng trừ
dịch hại trong trồng lúa bằng biện pháp tổng hợp ở hai vùng ĐBSH và ĐBSCL”, T/c
Khoa học kỹ thuật nông nghiệp - 2003
Tài liệu công bos kết quả khảo sát tính toán hiệu quả của các chương trình phòng
trừ dịch hại tổng hợp ở cả 2 vựa lúa ĐBSông Hồng và ĐBSCL. Các phân tích cho thấy
những ngưỡng hiệu quả của chương trình IPM hoàn toàn có thể áp dụng rộng rãi ở VN.
14. “10 nước sản xuất lúa gạo lớn nhất trên thế giới”, T/c Nghiên cứu kinh tế số 284 – 1/2002
Trong tài liệu có số liệu thống kê diện tích, năng suất và sản lượng lúa của 10
quốc gia sản xuấtd lúa nhiều nhất trên thế giới, tập trung toàn bộ ở khu vực Châu Á.
Trong đó Việt Nam đứng thừ 4 sau Trung quốc, Ấn Độ, Inđônnêxia.
15. Hoàng Sơn, “Sản xuất mặt hàng lúa - Lợi thế cạnh tranh số một trong các
mặt hàng nông sản của Việt Nam”, T/c Nông nghiệp và PTNT số 12/2004
Bài viết của tác giả phân tích các lợi thế so sánh giúp nâng cao khả năng canh
tranh của sản xuất lúa VN là khí hậu nhiệt đới, kinh nghiệm sản xuất và lao động nông
nghiệp rdồi dao. Tuy nhiên chúng ta còn có nhiều hạn chế về tập quán, khả năng khoa
học kỹ thuậ công nghệ và cả kinh nghiệm kinh tế thị trường.
16. PGS.TS. Nguyễn Đình Long, Phạm Minh Trí và CS, “Đa dạng hoá nông
nghiệp và vai trò của canh tác lúa vùng đồng bằng sông Hồng”
Một báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu của nhóm đề tài ở các địa phương
vùng ĐBSH cho thấy đan dang hoá là hướng nâng cao hiệu quả kinh t, giảm rủi ro trong
SXNN nói chung cũng như cụ thể với sản xuất lúa. Tuy nhiên chức năng của sản xuất

lúa không chỉ là cung cấp lương thực cho người mà còn là vấn đề môi trường, nhân văn,
xã hội v.v. Chính sách đầu tư vào sản xuất nông nghiệp phải là chiến lược dài hạn.
Canh tác lúa là một nghề truyền thống trong sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam.
Sản xuất lúa không chỉ là vấn đề đảm bảo an ninh lương thực quốc gia mà còn là góp
phần xuất khẩu khoảng trên dưới 4 triệu tấn gạo/năm, tạo nguồn thu ngoại tệ cân đối thu
chi ngoại hối. Mặt khác, trong cơ chế thị trường hoạt động kinh tế đặt ra mục tiêu phải
thu được hiệu quả kinh tế cao nhất. Trong nông nghiệp, ngoài cây lúa còn có nhiều cây
trồng con nuôi cũng được biết đến và cân nhắc trong bố trí cơ cấu sản xuất. Trong thực tế
ở Việt Nam, hiệu quả kinh tế của sản xuất lúa đang giảm đi một cách tương đối so với
một số cây trồng con nuôi khác. Với chủ trương cho phép chuyển đổi cơ cấu sản xuất
trong nông nghiệp, nhiều hộ nông dân đã mạnh dạn chuyển từ sản xuất lúa sang trồng cây
khác, hoặc làm mô hình trang trại VAC thu được giá trị kinh tế cao hơn.
Vấn đề đặt ra, nếu mới chỉ nhìn nhận 1 mặt về hiệu quả kinh tế mà không đánh
giá đúng vai trò và giá trị đa chức năng trong đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, cung


cấp nhu yếu phẩm cho đời sống con người cũng như các chức năng hữu ích khác của sản
xuất lúa như vấn đề thu nhập kinh tế để ổn định đời sống, an ninh xã hội, môi sinh môi
trường, nếp sống văn hoá lúa nước truyền thống .v.v. Sẽ là thiếu sót và dẫn đến một nguy
cơ của sự bất ổn định, sai lầm trong các quyết định đầu tư phát triển. Đa chức năng trong
canh tác lúa vùng Đồng bằng sông Hồng đã được tién hành nghiên cứu từ năm 2001 đến
2003 khẳng định vai trò to lớn của canh tác lúa ở vùng ĐBSH trong đảm bảo an ninh
lương thực quốc gia, cung cấp nhu yếu phẩm cho đời sống con người cũng như các chức
năng hữu ích khác như vấn đề thu nhập kinh tế để ổn định đời sống, an ninh xã hội, môi
sinh môi trường, nếp sống văn hoá lúa nước truyền thống .v.v., ngoài ra còn chức năng
tham gia hội nhập quốc tế (gạo xuất khẩu).
17. TS. Ngô Văn Hải và cộng sự, “Thị hiếu tiêu dùng gạo, thịt lợn và gỗ ván
dăm”
Kết quả nghiên cứu đề tài cho thấy nhu cầu và thị hiếu tiêu dùng gạo, thịt lợn và
cả gỗ ván dăm ở nước ta trong những năm gần đây thay đổi rõ rệt. Nhu cầu lượng gạo

tiêu thụ bình quân trên nhân khẩu giảm chỉ còn 120 - 140 kr/năm với nông thôn và 80 95 kg/năm với thành thị nhưng yêu cầu chất lượngcao hơn. Tương tự nhu cầu tiêu dùng
thịt lợn giảm và được thay thế bằng các thực phẩm chất lượng cao hơn. Nhu cầu gỗ ván
dăm nhân tạo tăng cả chất lương (nhập ngoạidễ tiêu thụ hơn) và số lượng. Các dự báo
cho thấy nếu duy trì sản suất lúa như hiện tại thì Vn còn nhiều tiềm năng xuất khẩu gạo,
thịt lơn và nhập các thực phẩm khác ( thịt bò, sữa …)
18. KS.Nguyễn Đình Chính và CS, “Các nhân tố ảnh hưởng đến giá thành sản
xuất lúa”, 2004 – 2005 (Đề tài cấp Bộ)
Các nhân tố ảnh hưởng đến giá thành sản xuất lúa của VN là giá cả vật tư đầu
vào (phân bón, giống, điện nước, xăng dầu,…), giá công lao động tăng lên do mức tăng
năng suất lao động và thu nhập bình quân của xã hội tăng lên.
19. GS. Vũ Tuyên Hoàng, “Một số ý kiến xây dựng các diện tích lúa gạo xuất
khẩu tại ĐBSH”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học về quy hoạch phát triển vùng lúa hàng hoá
chất lượng cao – tại Nam Định 1999
Giáo sư Vũ Tuyên Hoàng phân tích và đưa ra một số biện pháp xây dựng vùng
lúa xuất khẩu ở ĐBSH trên cơ sở có qui hoạch và tập trung đầu tư cơ sở hạ tầng tốt (chủ
động tươid tiêu, canh tác cơ giới, .v.v.) và chủ yếu nên sản xuấtd các giống chất lượng
gạo thơm ngon nhờ khí hậu đặc thù của miền Bắc.


×