Tải bản đầy đủ (.pdf) (121 trang)

Đặc điểm ngôn ngữ dân ca HMông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.3 MB, 121 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

DƯƠNG THU HÀ

ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ DÂN CA HMÔNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Thái Nguyên - 2015


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

DƯƠNG THU HÀ

ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ DÂN CA HMÔNG
Chuyên ngành: Ngôn ngữ Việt Nam
Mã ngành: 60 22 01 02

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. TẠ VĂN THÔNG

Thái Nguyên - 2015


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
nêu trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa
từng được ai công bố trong bất kì công trình nào khác.

Người thực hiện

Dương Thu Hà

i


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới Thầy Tạ Văn Thông, người đã hướng dẫn tôi
viết luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn các Thầy Cô đã giảng dạy, khoa Sau đại học, Trung
tâm Học liệu Đại học Thái Nguyên đã tạo điều kiện tốt nhất cho tôi trong quá trình
học tập và nghiên cứu.
Xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới bác Hùng Đình Qúy và đồng bào Hmông
xã Sà Phìn (Đồng Văn – Hà Giang) đã cung cấp những tư liệu quý có liên quan
đến luận văn.
Sau cùng, tôi xin cảm ơn gia đình, người thân, đồng nghiệp và các học viên
Cao học Ngôn ngữ K21 đã động viên, giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và làm
luận văn.
Thái Nguyên, ngày 20 tháng 5 năm 2015
Tác giả luận văn

Dương Thu Hà

ii



MỤC LỤC
Trang
Lời cam đoan........................................................................................................... i
Lời cảm ơn ............................................................................................................. ii
Mục lục.................................................................................................................. iii
Danh mục các bảng ............................................................................................... iv
Quy ước trình bày................................................................................................... v
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................. 1
2. Lịch sử vấn đề................................................................................................. 2
2.1. Những nghiên cứu về dân tộc Hmông và văn nghệ dân gian Hmông......... 2
2.1.1. Những nghiên cứu về dân tộc Hmông...................................................... 2
2.1.2. Những nghiên cứu về văn nghệ dân gian Hmông .................................... 3
2.2. Những nghiên cứu về tiếng Hmông và ngôn ngữ trong dân ca Hmông ........... 4
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................. 5
3.1. Mục đích ...................................................................................................... 5
3.2. Nhiệm vụ ..................................................................................................... 5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .................................................................. 6
4.1. Đối tượng nghiên cứu .................................................................................. 6
4.2. Phạm vi nghiên cứu ..................................................................................... 7
5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................ 8
6. Đóng góp mới của luận văn............................................................................ 8
6.1. Về lí luận...................................................................................................... 8
6.2. Về thực tiễn.................................................................................................. 9
7. Bố cục của luận văn........................................................................................ 9
Chương 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ THỰC TIỄN ....................................... 10
1.1. Cơ sở ngôn ngữ học................................................................................... 10
1.1.1. Ngôn ngữ, ngôn ngữ văn học, ngôn từ nghệ thuật ................................. 10
1.1.2. Kết cấu, nhịp điệu, vần, thể .................................................................... 13


iii


1.1.3. Trường nghĩa .......................................................................................... 16
1.1.4. Các biện pháp tu từ ................................................................................. 17
1.2. Cơ sở ngôn ngữ - văn hóa học ................................................................... 18
1.2.1. Ngôn ngữ và văn hóa.............................................................................. 18
1.2.2. Dân ca ..................................................................................................... 20
1.2.3. Biểu tượng .............................................................................................. 22
1.3. Vài nét về người Hmông, tiếng Hmông và dân ca Hmông ....................... 22
1.3.2. Một số đặc điểm nổi bật trong văn hóa Hmông ..................................... 23
1.3.3. Vài nét về tiếng Hmông.......................................................................... 25
1.3.4. Khái quát về dân ca Hmông ................................................................... 31
1.4. Tiểu kết ...................................................................................................... 34
Chương 2: ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ TRONG DÂN CA HMÔNG XÉT
VỀ MẶT HÌNH THỨC ..................................................................................... 35
2.1. Kết cấu của một văn bản dân ca Hmông ................................................... 35
2.1.1. Đặc điểm về tính liên kết và mạch lạc trong văn bản dân ca Hmông .......... 35
2.1.2. Các dạng kết cấu..................................................................................... 44
2.2. Thể, vần, nhịp điệu trong dân ca hmông ................................................... 56
2.2.1. Thể trong dân ca ..................................................................................... 56
2.2.2. Vần.......................................................................................................... 58
2.2.3. Nhịp ........................................................................................................ 60
2.3 Tiểu kết ....................................................................................................... 61
Chương 3: ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ TRONG DÂN CA HMÔNG XÉT
VỀ MẶT NGỮ NGHĨA ..................................................................................... 63
3.1. Các từ ngữ biểu thị những sự vật, hiện tượng tự nhiên ............................. 63
3.1.1. Các từ ngữ chỉ “con vật” ........................................................................ 63
3.1.2. Các từ ngữ chỉ “thực vật” ....................................................................... 69

3.1.3. Các từ ngữ chỉ “sự vật, hiện tượng thiên nhiên” ................................... 75
3.2. Các từ ngữ chỉ đồ vật................................................................................. 79
3.3. Các từ ngữ chỉ “lực lượng siêu nhiên” ...................................................... 84

iv


3.4. Các từ ngữ chỉ “không gian – thời gian” ................................................... 87
3.4.1. Các từ ngữ chỉ “không gian” .................................................................. 87
3.4.2. Các từ ngữ chỉ “thời gian”...................................................................... 88
3.5. Các từ ngữ chỉ “trạng thái tâm sinh lí” ..................................................... 92
3.6. Các từ ngữ chỉ “người”.............................................................................. 95
3.7. Tiểu kết ...................................................................................................... 96
KẾT LUẬN ...................................................................................................... 100
THƯ MỤC THAM KHẢO.............................................................................. 101
PHỤ LỤC .......................................................................................................... 106

v


DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 2.1: Phân loại các bài dân ca theo kết cấu ..................................................44
Bảng 3.1: Các từ ngữ chỉ “con vật” .....................................................................63
Bảng 3.2: Các từ ngữ chỉ “thực vật” ...................................................................70
Bảng 3.3: Các từ ngữ chỉ “sự vật, hiện tượng thiên nhiên” .................................75
Bảng 3.4: Các từ ngữ chỉ “đồ vật” .......................................................................79
Bảng 3.5: Các từ ngữ chỉ “lực lượng siêu nhiên” ................................................85
Bảng 3.6: Các từ ngữ chỉ “không gian” ...............................................................87
Bảng 3.7: Các từ ngữ chỉ “thời gian”...................................................................88

Bảng 3.8: Các từ ngữ chỉ “trạng thái tâm sinh lí”................................................92
Bảng 3.9: Các từ ngữ chỉ "người" ........................................................................95

iv


QUY ƯỚC TRÌNH BÀY
1. Các ví dụ tiếng Hmông trong luận văn được ghi bằng chữ Hmông, theo
nguyên bản trong tác phẩm Tuyển tập song ngữ những bài Khèn ca tang lễ
và dân ca Mông Hà Giang của tác giả Hùng Đình Quý.
2. Phần đối dịch các ví dụ Hmông được ghi bằng tiếng Việt, theo cách dịch của
tác giả Hùng Đình Quý (trong Tuyển tập song ngữ những bài Khèn ca tang
lễ và dân ca Mông Hà Giang).

v


MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.1. Việc tìm hiểu các tác phẩm văn nghệ trong đó có các tác phẩm văn nghệ
dân gian đã có được một vị trí xứng đáng trong nghiên cứu khoa học, được
các nhà nghiên cứu văn học, văn hóa, âm nhạc, ngôn ngữ học… đặc biệt chú
ý. Về phương diện ngôn ngữ học, đó là sự nghiên cứu những quy tắc trong tổ
chức ngôn từ của các tác phẩm theo những cách riêng, tùy thuộc vào thể loại,
chủ đề hoặc các tác giả khác nhau, nhằm đạt hiệu quả cao nhất đối với việc
diễn tả hình tượng nghệ thuật trong tác phẩm.
Cho đến nay trong ngôn ngữ học Việt Nam, những thành tựu nghiên cứu
ngôn từ nghệ thuật trong các tác phẩm văn nghệ dân gian các dân tộc thiểu số
không nhiều lắm. Chính vì vậy, cái hay cái đẹp, giá trị nghệ thuật của nhiều tác
phẩm (trong đó có các tác phẩm văn học dân gian của người Hmông) chưa

được chỉ ra một cách đầy đủ và sâu sắc.
1.2. Theo tổng điều tra dân số và nhà ở (năm 2009) người Hmông ở Việt Nam có
dân số 1.068.189 người, đứng hàng thứ 8 trong danh sách các dân tộc ở Việt Nam,
cư trú tại 62 trên 63 tỉnh, thành phố. Có thể nói văn hóa của người Hmông đã góp
phần đáng kể tạo nên sự đa dạng, phong phú trong vườn hoa nhiều hương sắc của
cộng đồng các dân tộc ở Việt Nam. Trong vốn văn hóa có bản sắc rất riêng này,
không thể không kể đến ngôn ngữ, một yếu tố cấu thành văn hóa, đồng thời là
phương tiện quan trọng để lưu giữ và truyền bá các hình thái văn hóa tinh thần
quan trọng nhất của dân tộc Hmông. Đặc biệt, tiếng Hmông đã được dùng để lưu
giữ và truyền lại những tác phẩm văn học dân gian như cổ tích, thần thoại…,
trong đó có một tài sản vô giá của dân tộc này: dân ca. Thông qua ngôn từ trong
dân ca, người Hmông đã tích hợp những giá trị văn hóa truyền thống do ông cha
truyền lại, đồng thời thể hiện ước mơ về cuộc sống bình yên, ấm no, hạnh phúc.
Nghiên cứu ngôn từ trong dân ca Hmông trước hết là để hiểu rõ hơn về những
giá trị trong dân ca nói riêng và văn hóa Hmông nói chung, qua đó hiểu biết

1


thêm về vẻ đẹp của tiếng Hmông, góp phần tôn vinh vốn văn hóa vô giá trong đó
có ngôn ngữ của dân tộc này.
1.3. Bản thân tác giả luận văn là người con của dân tộc Hmông, sinh ra lớn lên
ở thị trấn Đồng Văn (huyện Đồng Văn - tỉnh Hà Giang), được sớm tiếp xúc với
văn hóa Hmông. Đặc biệt, từ khi nhỏ, cứ mỗi dịp tết đến thường được theo đi
xem các trò chơi dân gian, và đặc biệt là lắng nghe những bài dân ca, tác giả
luận văn đã vô cùng thích thú và ấn tượng với hình thức văn nghệ dân dã này.
Đồng thời, tác giả cũng là một giáo viên trực tiếp giảng dạy các em học sinh
dân tộc thiểu số, trong đó phần lớn học sinh là người dân tộc Hmông. Trong
quá trình giảng dạy, tác giả rất băn khoăn trước tình trạng nhiều giá trị văn hóa
cổ truyền của các dân tộc thiểu số đang bị mai một, pha tạp, không được coi

trọng đúng mức – trong đó có ngôn ngữ và vốn dân ca Hmông. Với mong
muốn thể hiện tình yêu với dân tộc và tiếng mẹ đẻ và nguyện vọng tha thiết góp
một phần sức lực trong việc tìm hiểu nhằm bảo tồn và phát triển vốn văn hóa
của dân tộc Hmông, mà trước hết là vốn văn nghệ truyền thống trong đó có dân
ca Hmông, tác giả luận văn có ý nguyện tìm hiểu đặc điểm ngôn ngữ trong dân
ca Hmông. Hi vọng rằng những kết quả nghiên cứu bước đầu về ngôn ngữ
trong dân ca Hmông này sẽ là cơ sở cho chính tác giả và những ai có ý định tìm
hiểu sâu sắc hơn về tài sản văn hóa vô giá – dân ca của người Hmông.
Đó chính là những lí do khiến đề tài: “Đặc điểm ngôn ngữ dân ca Hmông”
được chọn làm hướng nghiên cứu trong luận văn này.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
2.1. Những nghiên cứu về dân tộc Hmông và văn nghệ dân gian Hmông
2.1.1. Những nghiên cứu về dân tộc Hmông
Từ rất sớm dân tộc Hmông đã trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều nhà
nghiên cứu trong và ngoài nước, thuộc nhiều chuyên ngành như: Lịch sử, Dân
tộc học, Văn học, Ngôn ngữ học… Ở nước ta, việc nghiên cứu về dân tộc
Hmông manh nha từ những năm đầu, nhưng thực sự tương đối có hệ thông từ
những năm 60 của thế kỉ XX. Cho đến nay các công trình nghiên cứu về các khía

2


cạnh thuộc dân tộc Hmông được công bố khá nhiều. Có thể kể đến một số công
trình đã được hoàn thành có liên quan đến dân tộc Hmông như sau:
- Bế Viết Đẳng (1978), Dân tộc Mèo – Các dân tộc ít người ở Việt Nam
(các tính phía Bắc), Nxb Khoa học xã hội, H.
- Viện Dân tộc học (1978), Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía
Bắc). Nxb Khoa học xã hội, H.
- Phạm Đức Dương (1988), Về vị trí mối quan hệ giữa nhóm Hmông –
Dao và các nhóm ngôn ngữ Đông Nam Á, Nxb Khoa học xã hội, H.

- Trần Nam, Trần Hữu Sơn (1989), Vấn đề phát triển văn hóa và thực
hiện định canh định cư ở vùng người Hmông Hoàng Liên Sơn, Nghiên cứu Dân
tộc học, H, Số 2 + 3.
- Trần Hữu Sơn (1996), Văn hóa Hmông, Nxb Văn hóa dân tộc, H
- Nguyễn Chí Huyên, (2000), Nguồn gốc lịch sử tộc người vùng biên giới
phía Bắc Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc. H.
...
Các công trình trên cho thấy, các nhà nghiên cứu đã rất quan tâm đến vốn
văn hóa cổ truyền và lịch sử phát triển của người Hmông.
2.1.2. Những nghiên cứu về văn nghệ dân gian Hmông
Văn nghệ dân gian Hmông là những sản phẩm văn học dân gian đã có từ rất
lâu đời trong lịch sử hình thành tộc người Hmông. Có thể nói văn nghệ dân gian
Hmông phong phú về đề tài, đặc sắc về nghệ thuật.
Việc nghiên cứu về văn nghệ dân gian Hmông đã thu hút được sự quan tâm
của nhiều nhà dân tộc học. Có thể kể đến một số công trình đã được hoàn thành
có liên quan đến dân tộc Hmông như sau:
- Hùng Đình Qúy (2000), Dân ca Mông Hà Giang (Hux Zangx Hmông),
tập 1, Sở Văn hóa Thông tin Hà Giang, HG.
- Hùng Đình Qúy (2001), Dân ca Mông Hà Giang, tập 2, Sở Văn hóa
Thông tin Hà Giang, HG.

3


- Hùng Đình Qúy (2003), Dân ca Mông Hà Giang, tập 3, Sở Văn hóa
Thông tin Hà Giang, HG.
- Hùng Đình Qúy (2005), Tuyển tập song ngữ những bài Khèn ca tang lễ và
dân ca Mông Hà Giang, Nxb Văn hóa thông tin. H.
- Doãn Thanh sưu tầm, biên dịch (1974), Dân ca Mèo, Hội Văn học Nghệ
thuật Lào Cai xuất bản.

- Nguyễn Hữu Thu (1985), Dân ca Hmông, Nghiên cứu nghệ thuật, H, số 5.
- Lê Trung Vũ (1987), Tục ngữ và câu đố Hmông, Nxb Văn hóa dân tộc.
- Ban văn học Việt Nam tuyển chọn ( 2004), Tiếng hát tình yêu; dân ca
Hmông, Tạp chí Văn hóa các dân tộc, H, số 9.
...
Các công trình trên cho thấy các nhà nghiên cứu đã rất quan tâm không ít
đến vốn văn hóa tinh thần phong phú của của dân tộc Hmông, thể hiện qua các
tác phẩm của họ. Trong đó, vốn dân ca đã có được một vị trí xứng đáng. Các tác
phẩm như vậy đã góp phần quan trọng trong việc lưu giữ, bảo tồn những giá trị
văn hóa văn nghệ quý ở một tộc người, để cho người đời nay và mai sau được
biết và trân trọng.
2.2. Những nghiên cứu về tiếng Hmông và ngôn ngữ trong dân ca Hmông
Cho đến nay, việc nghiên cứu về tiếng Hmông đã và đang được các
nhà nghiên cứu dân tộc học quan tâm. Có thể kể đến một số công trình
nghiên cứu như sau:
- Nguyễn Văn Chỉnh (1971), Từ điển Mèo – Việt, Nxb Khoa học xã hội, H.
- Nguyễn Văn Lợi (1973), Thêm một số tư liệu về quan hệ giữa các ngôn
ngữ Mèo - Dao và Môn- Khơ me, Tạp chí Ngôn ngữ, số 1, 1973: 5- 15.
- Nguyễn Văn Lợi (1975), Láy từ và từ láy trong tiếng Mèo, Tạp chí Ngôn
ngữ, số 1, 1975: 21 – 25
- Nguyễn Văn Lợi (1983), Nghiên cứu ngữ âm – âm vị học các phương
ngữ tiếng Hmông ở Việt Nam ( Luận án phó tiến sĩ Ngữ Văn), Viện Đông
Phương học, Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô, Moskova, 1983 (Tiếng Nga).

4


- Nguyễn Văn Lợi (1984), Vai trò của cư liệu lịch sử trong miêu tả âm vị
học (về các tiêu chí âm vị học của phụ âm tiền mũi tiếng Hmông), Tạp chí Ngôn
ngữ, số 4, 1984: 46 -51.

- Nguyễn Văn Lợi (1988), Hiện tượng giao thoa ngữ âm – âm vị học
trong điều kiện song ngữ Hmông – Việt, Tiếng Việt và các ngôn ngữ Đông Nam
Á. Nxb Khoa học Xã hội, H…
- Nguyễn Văn Hiệu (1999), Về một số kiểu cấu trúc nghi vấn cơ bản trong
tiếng Hmông, Ngữ học trẻ 99, Hội ngôn ngữ học Việt Nam.
- Nguyễn Văn Hiệu (2001), Khảo sát thành tố phụ chỉ mức độ trong vị từ
tiếng Hmông, Ngữ học trẻ 2001, Hội ngôn ngữ học Việt Nam.
- Nguyễn Văn Hiệu (2002), Bước đầu phân xuất và nhận diện ngữ vị từ
trong câu tiếng Hmông, Ngữ học trẻ 2002, Hội ngôn ngữ học Việt Nam.
- Nguyễn Văn Hiệu (2004), Xem xét thành phần trạng tố chỉ mục đích
trong ngữ vị hành động tiếng Mông Lềnh, Tạp chí Ngôn ngữ, số 11.

Nhìn chung, những công trình trên đã đề cập đến nhiều phương diện
cụ thể của tiếng Hmông: ngữ âm – phương ngữ, phương diện ngữ pháp, so
sánh lịch sử… còn mặt ngôn từ nghệ thuật trong các tác phẩm dân ca Hmông
còn bỏ trống.
3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
3.1. Mục đích
Miêu tả các quy tắc tổ chức ngôn ngữ (các đặc điểm về cấu trúc và ngữ
nghĩa của ngôn từ nghệ thuật), từ đó chỉ ra nét đặc sắc trong dân ca Hmông.
3.2. Nhiệm vụ
- Tìm hiểu cơ sở lí luận về ngôn ngữ học, văn hóa, văn nghệ có liên quan
đến đề tài.
- Thu thập những tài liệu đã xuất bản về dân ca Hmông.
- Đi điền dã, bổ sung và làm rõ thêm về đặc điểm ngôn từ trong các văn bản dân
ca Hmông đã có.

5



- Miêu tả, chỉ ra một số đặc điểm chính của ngôn ngữ trong dân ca Hmông.
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính của luận văn là đặc điểm ngôn từ trong các
tác phẩm Tuyển tập song ngữ những bài Khèn ca tang lễ và Dân ca Mông Hà
Giang của tác giả Hùng Đình Quý, Nxb Văn hóa thông tin Hà Nội, năm 2005.
Cuốn sách này là của một tác giả là người Hmông, có thể xem là kết quả nhiều
năm sưu tầm, lựa chọn những bài dân ca Hmông đặc sắc nhất. Công trình dày
518 trang, gồm 230 bài, đã nói lên được quá trình lao động không mệt mỏi của
một nhà thơ người Hmông đã dành trọn niềm đam mê cho văn hóa Hmông nói
chung và dân ca Hmông nói riêng. Sau đây, xin được giới thiệu vài nét về về tác
giả và những công trình, những tác phẩm tiêu biểu của ông:
Shôngx Ntiêx Tuôv là tên tiếng Hmông của ông. Cái tên Hùng Đình Qúy
là tên đã được phiên âm sang tiếng Kinh khi ông đi làm cán bộ. Ông sinh ra và
lớn lên nơi mảnh đất biên cương xung quanh chỉ có núi đá bao phủ. Trong một
gia đình người Hmông thuần nông.
Sinh năm 1937 tại xã Tùng Vài, huyện Quản Bạ, tỉnh Hà Giang. Lớn lên
ông được đi học rồi về địa phương làm cán bộ trong ngành giáo dục. Sau khi tốt
nghiệp Đại học Sư phạm Thái Nguyên, ông được phân công giữ cương vị
Trưởng phòng Giáo dục, rồi Phó chủ tịch UBND huyện Đồng Văn. Chiến tranh
biên giới nổ ra, ông được cấp trên phân về công tác tại Ban tổ chức tỉnh Hà
Tuyên, rồi chuyển qua làm Phó giám đốc, rồi Giám đốc Sở Văn hóa – Thông tin
tỉnh Hà Tuyên. Năm 1992 tỉnh Hà Tuyên tách thành tỉnh Tuyên Quang và tỉnh
Hà Giang ông được phân về công tác tại tỉnh Hà Giang với cương vị Giám đốc
Sở Văn hóa – Thể thao tỉnh Hà Giang. Năm 1999, ông giữ cương vị Chủ tịch hội
Văn học nghệ thuật Hà Giang. Ông là hội viên duy nhất của Hội Nhà văn Việt
Nam đang sinh sống tại Hà Giang.
Ông từng tâm sự: “Từ trong lịch sử đau thương đầy nước mắt và máu của
dân tộc sinh ra; từ trong bóng tối của núi sâu, rừng sâu hoang dã bước ra làm


6


người. Cuộc đời mở mắt và có được những ngày tháng sống đúng với nghĩa của
con người. Tôi hiểu đó là nhờ Đảng, nhờ Cách mạng đem lại...”. Hùng Đình Qúy
đến với thơ không chỉ bằng sự đam mê mà bằng cả ý thức của một con người
dân tộc Hmông sớm đi theo cách mạng. Ý thức được sứ mạng thiêng liêng của
người cầm bút với khát vọng là được phụng sự đồng bào mình, dân tộc mình.
Từ đầu những năm 60 của thế kỉ XX, trong các buổi phát thanh tiếng dân
tộc của đài phát thanh Khu tự trị Việt Bắc, giọng ca tiếng Hmông của Hùng Đình
Quý đã từng làm xúc động, xao xuyến bao trái tim của những chàng trai, cô gái
Hmông và cả những người già, trẻ thơ trong các phiên chợ tưng bừng, nhộn nhịp
ở vùng cao nguyên Đồng Văn, Mèo Vạc.
Ông làm thơ bắt đầu từ tiếng Hmông, sau đó tác giả tự dịch sang tiếng phổ
thông. Trong hoạt động sáng tạo nghệ thuật của mình ông đã gặt hái được nhiều
thành tựu: ông có các bài thơ Người Hmông có chữ (1968), Ơn Đảng (1969),
Nhớ Bác Hồ (1969), ánh đuốc trên đỉnh Vần Chải (1972), Việt Bắc ngày nay
(1972)... nói lên lòng biết ơn sâu nặng của dân tộc Hmông với Đảng, với Chính
phủ và với Bác Hồ.
Đến nay, Hùng Đình Qúy đã xuất bản 3 tập thơ gồm: Người Hmông nhớ
Bác Hồ, Nếu sai tôi chết không nhắm mắt, Chỉ vì quá yêu. Ông còn tích cực sưu
tầm các bài dân ca tiếng Hmông. Ông cũng là người sưu tầm và dịch nhiều nhất
những bài dân ca tiếng Hmông ra tiếng phổ thông. Ông đã có 3 tập sách sưu tầm
các bài dân ca của đồng bào Hmông ở Hà Giang và một tập sách sưu tầm những
bài khèn của người Hmông Hà Giang.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu về dân ca Hmông có thể từ nhiều góc nhìn khác nhau (văn
hóa, văn học, âm nhạc, triết học, tôn giáo, dân tộc học…). Trong luận văn
này, chúng tôi sẽ chỉ xem xét dân ca Hmông dưới góc độ ngôn ngữ học, tức
là chỉ về hình thức của tác phẩm, là ngôn từ của dân ca (và không xem xét

các mặt khác)

7


Xét về mặt ngôn ngữ học, có thể xem xét dân ca ở nhiều khía cạnh khác
nhau ( ngữ âm, từ vựng- ngữ nghĩa, ngữ pháp...). Ở đây sẽ chỉ được xem xét là:
hình thức của các bài dân ca và trong nội bộ các bài dân ca, các lớp từ ngữ, xét
theo trường từ vựng – ngữ nghĩa trong các văn bản dân ca và một số nét văn hóa
cộng đồng được thông qua văn bản.
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Ngôn ngữ học điền dã:
Trong việc thu thập tư liệu và tìm hiểu (hình thức, nội dung) những bài
dân ca Hmông của tác phẩm, tác giả phải nghe, hỏi, ghi trực tiếp ở vùng đồng
bào Hmông.
- Thống kê phân loại:
Căn cứ vào ngữ liệu những bài dân ca Hmông thu thập được trong các văn
bản cụ thể, luận văn sẽ tiến hành thống kê những đối tượng cụ thể, kết hợp
với phân loại chúng phục vụ cho mục đích nghiên cứu trong luận văn.
- Miêu tả:
Trên cơ sở thống kê phân loại, luận văn tiến hành phân tích, tổng hợp, chỉ
ra các đặc điểm ngôn từ trong dân ca Hmông.
Ngoài ra, tác giả luận văn sẽ tham khảo các đặc điểm văn hóa, đặc biệt là
phong tục tập quán, quan niệm về thế giới quan và nhân sinh quan của người
Hmông, khi giải thích các nét văn hóa của người Hmông được phản ánh qua dân ca.
- Phân tích diễn ngôn:
Tìm hiểu các đặc điểm hình thức và ngữ nghĩa trong các văn bản dân ca
Hmông.
6. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN VĂN
6.1. Về lí luận

Luận văn là sự áp dụng cách nhìn nhận từ góc nhìn Ngôn ngữ học, chủ
yếu ở bình diện hình thức và ngữ nghĩa, đối với những văn bản nghệ thuật. Đặc
biệt, luận văn có thể cung cấp những tư liệu cho việc khái quát hóa những đặc
trưng của ngôn ngữ nghệ thuật trong vốn văn nghệ dân gian xét từ phương diện

8


ngôn ngữ học: kết cấu, thể, cách gieo vần, cách sử dụng từ ngữ thuộc các trường
từ vựng – ngữ nghĩa khác nhau...
6.2. Về thực tiễn
Luận văn góp phần thúc đẩy việc sưu tầm và tìm hiểu dân ca của của các
dân tộc nói chung và người Hmông nói riêng trong kho tàng văn hóa dân gian của
các dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Bên cạnh đó luận văn còn là tư liệu tham khảo
cho những người có nhu cầu tìm hiểu, giảng dạy và học tập về dân ca và văn hóa
Hmông cũng như về tiếng Hmông.
7. BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục, luận văn gồm 3 chương. Cụ thể là:
Chương 1: Cơ sở lý thuyết và thực tiễn
Chương 2: Đặc điểm hình thức dân ca Hmông
Chương 3: Đặc điểm ngữ nghĩa dân ca Hmông

9


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ THỰC TIỄN

1.1. CƠ SỞ NGÔN NGỮ HỌC
1.1.1. Ngôn ngữ, ngôn ngữ văn học, ngôn từ nghệ thuật

1.1.1.1. Ngôn ngữ
Có rất nhiều các định nghĩa khác nhau dựa vào các mặt khác nhau về ngôn
ngữ. Theo cách hiểu chung nhất, thì ngôn ngữ là “hệ thống những âm, những từ
và những quy tắc kết hợp chúng, làm phương tiện để giao tiếp chung trong một
cộng đồng” [44].
Ngôn ngữ là một thực thể cực kì phức tạp, có thể được định nghĩa theo
các quan điểm khác nhau tùy thuộc vào chỗ người ta lấy mặt nào hoặc những
mặt nào của nó để xem xét. Sau đây xin được lựa chọn một định nghĩa về ngôn
ngữ sau đây, và lấy đó làm căn cứ cho luận văn này: “Ngôn ngữ là hệ thống
những âm thanh, những từ và những quy tắc kết hợp chúng mà người trong
cùng một cộng đồng dùng làm phương tiện để giao tiếp với nhau” [44].
Ngôn ngữ có hai hình thức chính: dạng nói ra thành lời và dạng viết.
Trong sự tồn tại và phát triển của mỗi dân tộc, ngôn ngữ có vai trò hết sức
quan trọng để thúc đẩy nền văn hóa dân tộc phát triển, giữ gìn các yếu tố văn hóa
nội sinh. Đồng thời, nó có vai trò phản ánh và là phương tiện tiếp thu những yếu
tố mới trong quá trình tiếp xúc, giao lưu với các dân tộc anh em và các quốc gia
trên thế giới.
Trải qua quá trình lịch sử lâu dài, loài người nói chung và mỗi dân tộc
trong đại gia đình các dân tộc ở Việt Nam nói riêng đều phải dùng ngôn ngữ để
trao đổi với nhau. Nên khi nói về ngôn ngữ và tình hình sử dụng nó ở một cộng
đồng dân tộc thiểu số như người Hmông, không thể không nhắc tới tiếng nói mà
họ sử dụng để giao tiếp hàng ngày với nhau. Ở người Hmông, phương tiện dùng
để giao tiếp với các dân tộc anh em là tiếng Việt, còn trong nội bộ dân tộc, họ
dùng tiếng mẹ đẻ. Đây là ngôn ngữ mà con người học được trong những năm

10


đầu đời, thường là công cụ giao tiếp và tư duy quan trọng nhất của mỗi người
(đối với người Hmông đó chính là tiếng Hmông).

Ngôn ngữ là một trong ba tiêu chí chính để xác định thành phần các dân
tộc. Nhờ có tiếng Hmông mà rất nhiều nét bản sắc của văn hóa Hmông được bảo
tồn tương đối nguyên vẹn cho đến ngày nay.
1.1.1.2. Ngôn ngữ văn học
Nếu như giai điệu, tiết tấu là ngôn ngữ của âm nhạc; màu sắc, đường nét là
ngôn ngữ của hội họa; mảng khối là ngôn ngữ của kiến trúc, thì ngôn ngữ là chất
liệu của những tác phẩm văn học, đúng như Macxim Gorki đã nói: “Ngôn ngữ là
yếu tố thứ nhất của văn học”. Tuy nhiên, tùy vào đặc trưng thể loại, ngôn ngữ
trong những tác phẩm văn học có những đặc điểm riêng.
Trong tác phẩm, ngôn ngữ là một trong những yếu tố quan trọng thể hiện cá
tính sáng tạo, tài năng của các nhà văn. Tính chính xác, tính hàm súc, tính đa
nghĩa, tính tạo hình và biểu cảm là những thuộc tính của ngôn ngữ văn học. Vì
vậy, tính hình tượng, tính thẩm mĩ là thuộc tính bản chất, xuyên thấm vào mọi
thuộc tính riêng khác, quy định những thuộc tính ấy. Những thuộc tính chung
này biểu hiện qua các thể loại văn học với những sắc thái khác nhau: Ngôn ngữ
của những tác phẩm trữ tình được tổ chức hết sức cô đọng, hàm súc và gợi cảm;
Ngôn ngữ tác phẩm kịch chủ yếu là lời của các nhân vật được cấu trúc qua hệ
thống đối thoại và gần gũi với lời ăn tiếng nói hàng ngày; Ngôn ngữ của tác
phẩm tự sự cũng giống ngôn ngữ các tác phẩm kịch, là ngôn ngữ đa dạng, ngôn
ngữ của nhiều tính cách nhân vật.
Trong nghiên cứu văn học, những cách hiểu về ngôn ngữ văn học không
hoàn toàn đồng nhất, nhưng đa số các nhà nghiên cứu cho rằng đó là chính ngôn
ngữ trong đời sống sinh hoạt cộng đồng. Ngôn ngữ ấy, khi được dùng để sáng
tạo văn học thì thường khẳng định được những ưu điểm (chẳng hạn như “tính
chuẩn mực” về ngữ âm, chính tả, từ vựng, ngữ pháp) và có khả năng sử dụng
rộng rãi trong đời sống một cộng đồng.

11



Tuy nhiên trong thực tế, một ngôn ngữ được sử dụng trong sáng tác văn học
chưa hẳn đã có những ưu điểm và được sử dụng trong mọi mặt của đời sống xã
hội, ví dụ trong cộng đồng người Hmông ở Việt Nam. Ở người Hmông, tiếng
Hmông được sử dụng trong đời sống sinh hoạt và phần nào đã được sử dụng
trong văn nghệ dân gian (ca dao, tục ngữ, truyện cổ,…). Tuy nhiên, hình thức
“ngôn ngữ văn học” này chưa được coi là “chuẩn mực” và cũng chưa phát huy
được hết những “sở trường” của nó. Văn nghệ dân gian Hmông được ghi bằng
chữ Hmông Hoa (Hmông Lềnh) - đây là hệ thống chữ Hmông ở Lào Cai - phản
ánh được đặc điểm ngữ âm của một khu vực nhưng không ghi được hết các đặc
điểm ngữ âm các địa phương, cho nên không phải người ở các địa phương đều
đọc được và chấp nhận nó. Như vậy, trong điều kiện hiện nay, ngôn ngữ văn học
của người Hmông cần hiểu là hình thức ngôn ngữ được sử dụng trong sáng tác
văn học của người Hmông nói chung.
Theo cách hiểu thông thường, ngôn ngữ văn học là “ngôn ngữ mang tính
nghệ thuật được dùng trong văn học” [16]. Nó cũng được hiểu là: “hình thức
ngôn ngữ toàn dân tộc, có hệ thống chuẩn thống nhất, được sử dụng trong mọi
lĩnh vực đời sống văn hóa, chính trị, xã hội” [44]. Hai cách hiểu về “ngôn ngữ
văn học” này, dù không hoàn toàn trùng lặp nhưng không mâu thuẫn.
1.1.1.3. Ngôn từ nghệ thuật
Trong sáng tác văn nghệ nói chung, dân ca nói riêng, ngôn từ là chất liệu để
xây dựng hình tượng. Chắc hẳn cùng với việc sáng tạo theo các khuôn mẫu của
hình thức diễn xướng dân gian nói chung, các tác giả của văn nghệ dân gian Hmông
đã có những sáng tạo riêng trong sử dụng ngôn từ để xây dựng hình tượng nghệ
thuật, làm cho dân ca của dân tộc có sức sống bền lâu và hấp dẫn từ ngàn xưa đến
ngàn sau
Theo các nhà nghiên cứu, ngôn từ nghệ thuật đó là “khái niệm chỉ loại hình
ngôn ngữ dùng để biểu đạt nội dung hình tượng của tác phẩm ngôn từ”(sáng tác
lời truyền miệng và văn học viết). Xét về mặt chất liệu, ngôn từ nghệ thuật bao
gồm tất cả các yếu tố ngôn ngữ được sử dụng để đạt tới mức nghệ thuật, đó là các


12


hình thức ngôn ngữ bóng bảy thường được các tác giả đưa vào trong sáng tác văn
học nghệ thuật, đó là ví von, so sánh, ẩn dụ, ngoa dụ, nhân hóa,… Và đồng thời
ngôn từ nghệ thuật còn bao gồm cả yếu tố như phương thức tổ chức, cách gieo
vần, ngắt nhịp, sử dụng thể thơ, tạo dựng kết cấu văn bản.
Như vậy, ngôn từ nghệ thuật là sự thể hiện của ngôn ngữ chung một cách
khéo léo và năng động, nhằm phản ánh đầy đủ, sinh động và gợi cảm mọi
hình tượng, đồng thời truyền đạt được tư tưởng, tình cảm của người viết và
người nói.
1.1.2. Kết cấu, nhịp điệu, vần, thể
1.1.2.1. Kết cấu
Trong cuốn Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê (chủ biên) thì “kết cấu” là sự
phân chia và bố trí các phần, các chương mục theo một hệ thống nhất định để thể
hiện nội dung của tác phẩm” [44].
Cũng có thể hiểu đó là sự liên kết bên trong, là nghệ thuật kiến trúc nội dung
tác phẩm hay toàn bộ tổ chức phức tạp và sinh động của một tác phẩm.
Có thể ví các tác phẩm văn học cũng giống như một ngôi nhà. Các ngôi nhà
có thể không chỉ khác nhau về vật liệu xây dựng mà còn khác nhau về cách thức
kiến trúc (kết cấu). Cũng như thế, các sáng tác văn học không chỉ khác nhau về
chất liệu và hiện thực mà còn khác nhau về cách bố trí, sắp xếp, tổ chức sự xuất
hiện của các chất liệu hiện thực trong tác phẩm.
Tóm lại, kết cấu là sự tạo thành và liên kết các bộ phận trong bố cục của
tác phẩm, là sự tổ chức, sắp xếp các yếu tố, các chất liệu tạo nên nội dung của tác
phẩm nhằm phản ánh hiện thực và theo một chiều hướng tư tưởng nhất định. Kết
cấu thuộc hình thức, vì thế vai trò của nó được khẳng định trong việc giúp thể
hiện nội dung tác phẩm như chủ đề, tư tưởng…
1.1.2.2. Vần
Theo cách hiểu chung nhất, vần là “một phương tiện tổ chức văn bản dựa

trên cơ sở lặp lại không hoàn toàn các tiếng ở những vị trí nhất định của dòng

13


thơ nhằm tạo nên tính hài hòa và liên kết của dòng thơ và giữa các dòng thơ”
[17], là “hiện tượng có vần được lặp lại hoặc gần giống nhau giữa những âm tiết
có vị trí nhất định trong câu để tạo nhịp điệu và tăng sức gợi cảm” [44].
Theo các nhà nghiên cứu về thể loại “văn vần” thì vần được phân biệt theo:
- Vị trí gieo vần: vần chân và vần lưng
- Theo mức độ hòa âm: vần chính và vần thông
Vần chân (cước vận): “là vần được gieo vào cuối dòng thơ, có tác dụng
đánh dấu sự kết thúc dòng thơ và tạo nên mối liên hệ giữa các dòng thơ” [16].
Vần chân rất đa dạng, khi liên tiếp khi giãn cách, khi ôm nhau, khi hỗn hợp. Vần
chân là hình thức gieo vần phổ biến nhất trong văn vần.
Vần lưng (yêu vận): vần gieo vào giữa dòng.
Vần chính: là “sự hòa phối âm thanh ở mức cao giữa các tiếng được gieo
vần trong đó bộ phận vần cái (kể từ nguyên âm chính đến cuối âm tiết) không lặp
lại hoàn toàn mà có thể khác biệt nhau chút ít” [16].
1.1.2.3. Nhịp điệu
Trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học do Lê Bá Hán, Trần Đình Sử,
Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) nhịp được hiểu như sau “Nhịp điệu là sự lặp
đi lặp lại các quãng đều đặn và có thay đổi các hiện tượng ngôn ngữ, hình ảnh,
mô típ...nhằm thể hiện sự cảm nhận thẩm mĩ về thế giới, tạo ra cảm giác vận
động của sự sống, chống lại sự đơn điệu, đơn nhất của văn bản nghệ thuật nó còn
được gội là tiết tấu hay tiết điệu” [16].
Hay: “Quan niệm một cách đơn giản thì nhịp chính là kết quả của sự chuyển
động nhịp nhàng, sự lặp đi lặp lại đều đặn những âm thanh nào đó trong thơ” [2].
Nhịp điệu không chỉ là sự biểu hiện mà còn là mối quan hệ được thể hiện
trong một hình thức dễ cảm thụ và dễ tái hiện. Và đó là ý nghĩa của nhịp điệu

trong những biểu hiện của ngôn từ nói chung. Trong ngôn từ, mặt ngữ âm có
quan hệ với nhịp điệu nhiều nhất.
Nói đến nhịp điệu ngôn ngữ phải nói đến sự chia cắt dòng âm thanh mà khi
đọc hoặc nghe, người đọc, người nghe cảm thụ một cách trực tiếp. Về mặt văn

14


bản, dòng âm thanh được chia làm đoạn, câu, cụm từ, từ...Khi phát âm, sự phân
chia này có thể được biểu hiện ở chỗ ngắt giọng và ngữ điệu...
Người ta cũng xem nhịp điệu là sự khác biệt chủ yếu giữa câu văn vần với câu
văn xuôi. Văn vần khác với văn xuôi chủ yếu ở phương diện nhịp điệu (tất nhiên,
văn xuôi cũng có nhịp điệu theo cách của nó). Theo quan niệm đó, nhịp điệu không
những không trùng với âm luật, không là những khuôn mẫu buồn tẻ, mà bao giờ và
trước hết là nhằm biểu đạt ý đồ của người viết.
Nhịp điệu có quan hệ mật thiết với mặt biểu đạt của tác phẩm. Thứ nhất,
chúng ta thấy ngắt nhịp, ngoài việc tạo tính nhạc còn có giá trị biểu đạt. Thứ hai,
nếu ngắt nhịp khác đi thì cách hiểu tác phẩm sẽ có thể khác đi hoặc thậm chí khó
hiểu, nghe không trôi chảy.
Trong các tác phẩm nghệ thuật dân gian bằng văn vần nói chung, dân ca nói
riêng đều có những chỗ ngắt giọng, có những yếu tố ngôn ngữ được lặp lại, luân
phiên tạo thành nhịp điệu. Chức năng của nhịp điệu không chỉ làm nên cấu trúc
của văn bản, mà còn được sử dụng với mục đích gợi cảm.
1.1.2.4. Thể
Theo Từ điển tiếng Việt, thể là “hình thức sáng tác văn, thơ theo những
quy cách nhất định” [44].
Trong sáng tác văn vần nói chung, thường gặp những thể cơ bản sau (điều
này đúng với các sáng tác bằng tiếng Việt):
- Thể hai chữ: là một thể rất hiếm, ít người làm.
- Thể ba chữ: thể này có trong các sáng tác dân gian, chủ yếu là đồng dao

và tục ngữ. Đây là thể dễ nhớ, dễ đọc, thích hợp với quần chúng. Ngoài ra thể ba
chữ còn rất thích hợp với tâm lí vui tươi, rộn ràng của trẻ thơ.
- Thể bốn chữ: là thể khá phổ biến trong tục ngữ, ca dao, dân ca, vè và thơ.
- Thể năm chữ: Đây là thể quen thuộc trong thơ cổ phong (ngũ ngôn Cổ
phong) và thơ Đường (ngũ ngôn Đường luật).
- Thể sáu chữ: ít dùng, có thể do nhịp ít biến hóa, phù hợp với cảm xúc tâm
tình, suy tư nhiều hơn.

15


- Thể bảy chữ: là thể được ưa thích.
- Thể lục bát: là thể tổ hợp giữa câu sáu và câu tám. Số câu không cố định, tối
thiểu là hai câu thành một cặp.
- Thể tự do: hiện nay được ưa dùng.
1.1.3. Trường nghĩa
1.1.3.1. Khái niệm trường từ vựng – ngữ nghĩa
Trường từ vựng – ngữ nghĩa (gọi vắn tắt là “trường nghĩa”) được hiểu là
một tập hợp các từ ngữ có quan hệ với nhau về nghĩa. Việc tập hợp các từ có
chung với nhau một nét nghĩa nào đó gọi là trường từ vựng – ngữ nghĩa. Nói
cách khác, “trường ngữ nghĩa là một tiểu hệ thống ngữ nghĩa được tạo ra do một
loại từ có một ngữ nghĩa chung” [11].
Khi nghiên cứu về trường nghĩa, các nhà nghiên cứu đã chia trường nghĩa
ra thành các loại: trường biểu vật, trường biểu niệm, trường tuyến tính, trường
liên tưởng.
1.1.3.2. Các loại trường nghĩa
- Trường nghĩa biểu vật: là tập hợp những từ ngữ đồng nghĩa về ý nghĩa
biểu vật. Để có những căn cứ dựa vào đó mà đưa các nghĩa biểu vật của các từ
ngữ về trường biểu vật thích hợp, người ta thường chọn các danh từ làm gốc.
Các danh từ này phải có tính khái quát cao, gần như là tên gọi của các phạm trù

biểu vật, như người, động vật, thực vật, vật thể, chất liệu...
- Trường nghĩa biểu niệm: là tập hợp của các từ ngữ có chung một cấu trúc
biểu niệm. Cơ sở để xác lập trường nghĩa biểu niệm là sự đồng nhất về ý nghĩa
biểu niệm của các từ ngữ.
- Trường nghĩa tuyến tính (trường nghĩa ngang): được hình thành nhờ sự
tập hợp tất cả các từ cùng với từ ngữ trung tâm theo quan hệ ngang trong cụm từ,
trong câu.
- Trường nghĩa liên tưởng: là quan hệ giữa các từ ngữ mà khi xuất hiện từ
ngữ này làm cho ta nghĩ đến một từ ngữ khác thuộc cùng một phạm trù, một

16


×