Tải bản đầy đủ (.pdf) (41 trang)

Lịch sử hình thành và phát triển của kiểm toán thế giới BIG4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (861.9 KB, 41 trang )

HỌC VIỆN NGÂN HÀNG

Đề tài thảo luận

LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA
KIỂM TOÁN THẾ GIỚI – BIG4

1.
2.
3.
4.
5.

Nhóm 1
Trần Thị Dung NHE-K11
Vũ Thị Kiều NHA –K11
Lê Thanh Phương NHE – K11
Thạch Thị Thủy NHA – K11
Lưu Anh Thư NHA – K11

6.

Nguyễn Văn Tuấn TTQTA – K11


MỤC LỤC
A. QUÁ TRÌNH RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA KIỂM TOÁN ..........4
I. Kiểm toán thế giới ra đời ………………………………………………..4
II. Sự hình thành của nhóm 8 công ty kiểm toán lớn mạnh nhất ………...5
III. Quá trình sáp nhập của 8 đại gia kiểm toán ……………………………6
1. Big 6 (1989 – 1998) …………………………………………………….7


1.1. Ernst & Whinney sáp nhập với Arthur Young………………..............7
1.2. Deloitte Haskins & Sells sát nhập với Touche Ross …...……………..8
2. Big 5 (1998 - 2001) …………………………………………………..10

B. HOẠT ĐỘNG CỦA BIG5 ……………………………………………11
I. KPMG ………………………………………………………………….11
II. ERNST & Young ………………………………………………………13
III. Price Water Coopers (PWC) ………………………………………..…16
IV. Deloitte ………………………………………………………………..….17
V. Arthur Anderson ……………………………………………………..….19
1. Khái quát …………………………………………………………….…19
2. Danh tiếng …………………………………………………………...…20
3. Anderson Consulting and Accenture ………………………………..…20

C. ENRON SCANDAL – ARTHUR ANDERSON BIẾN MẤT ………21
I. Vài nét về Enron ……………………………………………………...…21
II. Dấu hiệu và diễn biến của vụ bê bối ……………………………………22
III. Hậu quả …………………………………………………………….……24
1. Enron ………………………………………………………………...…24
2. Arthur Anderson …………………………………………………….…25
IV. Nguyên nhân ………………………………………………………….…26
1. Sự lạm dụng các SPE và các giao dịch nội bộ……………………………26
1.1 Che dấu nợ trên bảng cân đối kế toán……………………………………26
1.2 Thổi phồng doanh thu và lợi nhuận……………………………………….26
2. Phản ứng dây chuyền……………………………………………………….27
3. Vấn đề kế toán………………………………………………………………28
4. Liên minh kế toán kiểm toán Enron – Athur Andersen…………………..28
V. Vai trò Arthur Anderson trong câu chuyện Enron ………………...…28
VI. Bài học ………………………………………………………………..…30


D. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA BIG4 HIỆN NAY- KIỂM TOÁN VN
I. Big 4 hiện nay ………………………………………………………….…31
II. Kiểm toán Việt Nam……………………………………………………...35

-2-


PHÂN CÔNG CÔNG VIỆC
Họ và tên
Vũ Thị Kiều

Công việc được phân công
A. QUÁ TRÌNH RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA KIỂM
TOÁN

Nguyễn Văn Tuấn

B. HOẠT ĐỘNG CỦA BIG5
I. KPMG
II.
ERNST & Young
III. Price Water Coopers (PWC)

Trần Thị Dung

B. HOẠT ĐỘNG CỦA BIG5
IV. Deloitte
V. Arthur Anderson
1. Khái quát
2. Danh tiếng

3. Anderson Consulting and Accenture

Lưu Anh Thư

C. ENRON SCANDAL – ARTHUR ANDERSON BIẾN

Thạch Thị Thủy

MẤT
Phụ trách bản Word + Slide + Thuyết trình

Lê Thanh Phương

D. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA BIG4 HIỆN NAY- KIỂM
TOÁN VN
Thuyết trình.

-3-


A. Quá trình ra đời và phát triển của kiểm toán
I. Kiểm toán thế giới ra đời
Kiểm toán ra đời vào khoảng thế kỷ thứ ba trước Công nguyên gắn liền với
nền văn minh Ai Cập và La Mã cổ đại. Ở thời kỳ đầu, kiểm toán chỉ mới ở mức độ
sơ khai, biểu hiện là những người làm công tác kiểm toán đọc to những số liệu, tài
liệu cho một bên độc lập nghe và sau đó chứng thực. Khi xã hội phát triển xuất
hiện của cải dư thừa, hoạt động kế toán ngày càng được mở rộng và ngày một
phức tạp thì việc kiểm tra, kiểm soát về kế toán và tài chính càng được quan tâm
hơn.
Đến thời kỳ cách mạng công nghiệp bùng nổ ở châu Âu, xuất hiện nhiều

thành phần kinh tế kéo theo sự ra đời nhiều loại hình doanh nghiệp khác nhau.
Cùng với sự phát triển của thị trường, sự tích tụ và tập trung tư bản đã làm cho sự
phát triển của các doanh nghiệp và các tập đoàn ngày càng mở rộng. Sự tách rời
giữa quyền sở hữu của ông chủ và người quản lý, người làm công ngày càng xa,
đã đặt ra cho các ông chủ một cách thức kiểm soát mới. Phải dựa vào sự kiểm tra
của những người chuyên nghiệp hay những kiểm toán viên bên ngoài. Việc kiểm
tra đi dần từ việc kiểm tra ghi chép kế toán đến tuân thủ quy định của pháp luật và
mãi đến những thập niên 80, kiểm toán hoạt động bắt đầu được hình thành và phát
triển, nhưng hiện nay đã trở thành lĩnh vực trung tâm của kiểm toán nói chung, đặc
biệt là kiểm toán Nhà nước và kiểm toán nội bộ.
Vào những năm 30 của thế kỷ XX, từ việc phá sản của hàng loạt tổ chức tài
chính và sự khủng hoảng kinh tế trên thế giới đã bộc lộ rõ những hạn chế của kiểm
tra kế toán, sự kiểm tra trên cùng một hệ thống. Chính từ đây, việc kiểm tra kế
toán buộc phải được chuyển sang một giai đoạn mới, yêu cầu kiểm tra kế toán một
cách độc lập đã được đặt ra.
Ở Hoa Kỳ sau khủng hoảng về tài chính vào những năm 1929, đến năm 1934
Ủy ban bảo vệ và trao đổi tiền tệ (SEC) đã xây dựng và ban hành quy chế về kiểm
toán viên bên ngoài. Đồng thời, trường đào tạo kế toán viên công chứng của Hoa
Kỳ (AICPA) đã in ra mẫu chuẩn đầu tiên về báo cáo kiểm toán tài khoản của các
công ty. Cũng trong giai đoạn này, ở các tổ chức kinh doanh, các doanh nghiệp đã
bắt đầu xuất hiện và phát triển chức năng kiểm tra một cách độc lập trong nội bộ
với tên gọi kiểm toán nội bộ. Năm 1942 Viện kiểm toán nội bộ Hoa Kỳ (IIA) được
-4-


thành lập và đã đi vào hoạt động đào tạo các kiểm toán viên nội bộ. Đồng thời,
Viện đã xây dựng và ban hành Hệ thống chuẩn mực kiểm toán nội bộ Hoa Kỳ vào
năm 1978.
Tại Pháp, việc kiểm tra một cách độc lập của những người chuyên nghiệp
bên ngoài đã được xác lập và thông qua bởi Đạo luật về các công ty thương mại

ngày 24/07/1966. Đồng thời, kiểm toán nội bộ ở Pháp cũng đã được hình thành
chính thức vào những năm 60 thế kỷ XX ở những công ty con thuộc tập đoàn
ngoại quốc. Đến 1965 Hội kiểm toán viên nội bộ của Pháp được thành lập và sau
này phát triển trở thành Viện kiểm toán viên nội bộ của Pháp vào năm 1973.
Ở giai đoạn đầu, khi mới hình thành, kiểm toán độc lập được biểu hiện thông
qua việc cung cấp dịch vụ kiểm toán của một hoặc một nhóm kiểm toán viên hoặc
của một văn phòng kiểm toán độc lập riêng biệt. Mô hình này đến nay vẫn đang
được duy trì và vẫn phát huy hiệu quả ở một số nước trên thế giới. Tuy nhiên,
trong xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, mô hình này bộc lộ nhiều hạn
chế về khả năng cạnh tranh, nên nó đang dần dần chuyển sang sát nhập để hình
thành các tổ chức, tập đoàn lớn, có đủ tiềm lực về tài chính và sức mạnh để cạnh
tranh trong tương lai và sẵn sàng đáp ứng mọi nhu cầu của nền kinh tế thị trường.

II. Sự hình thành của nhóm 8 công ty kiểm toán lớn mạnh nhất
Nổi bật ở đầu thế kỉ XX, phải nhắc đến nhóm công ty kiểm toán - Big 8
Nhóm này bao gồm 8 công ty sau:
Trụ sở tại

Nước

Đánhgiá

Mỹ

ngoài

(Fortune 500)

171


33

21

47

Ernst & Ernst

132

107

37

63

Haskins & Sells

176

58

42

61

Lybrand, Ross Bros.
& Montgomery

126


43

27

52

Peat Marwick

190

87

55

61

Hãng

Đối tác 1960

Arthur Andersen

-5-


Price Waterhouse

101


46

55

110

Touche Ross

71

31

34

26

Arthur Young

104

40

51

44

Hầu hết những công ty Big 8 đều bắt nguồn từ các liên minh được thành lập
giữa các công ty kế toán Anh và Mỹ vào thế kỉ XIX và đầu thế kỉ XX. Ban đầu sự
mở rộng quốc tế của các công ty này được thúc đẩy bởi nhu cầu của các công ty đa
quốc gia ở Anh và Mỹ đối với dịch vụ toàn cầu. Họ mở rộng bằng cách hình thành

quan hệ đối tác địa phương hoặc bằng cách hình thành liên minh với các công ty
địa phương.
Price Waterhouse là 1 công ty Anh và đã mở chi nhánh tại Mỹ vào năm
1890, sau đó đã thiết lập một công ty Hoa Kỳ riêng biệt. Đối với công ty Peat
Marwich Mithchell thì tại Mỹ và Anh đã cùng thông qua tên chung vào năm 1925.
Những công ty khác sử dụng tên riêng cho doanh nghiệp trong nước và không
thống nhất tên gọi thông thường cho đến sau này: Touche Ross năm 1960, Arthur
Young năm 1968 (ban đầu là Arthur Young, McLelland Mooes), Coopers &
Lybrand năm 1973, Deloitte Haskins & Sells năm 1978 và Ernst & Whinney năm
1979.
Arthur Andersen lại có một lịch sử khác. Công ty có nguồn gốc từ Hoa Kỳ,
và mở rộng quốc tế bằng cách thiết lập văn phòng riêng của mình tại các thị
trường khác, bao gồm Vương Quốc Anh.

III. Quá trình sáp nhập của 8 đại gia kiểm toán
Trong những năm 1980, trong nhóm Big 8, mỗi công ty với những chiến
lược xây dựng thương hiệu toàn cầu, thông qua tiếp thị hiện đại đã phát triển
nhanh chóng. Tuy nhiên, trong xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế để tăng khả
năng cạnh tranh, các công ty đang dần dần chuyển sang sáp nhập để hình thành
các tổ chức, tập đoàn lớn, có đủ tiềm lực về tài chính và sức mạnh để cạnh tranh
trong tương lai và sẵn sàng đáp ứng mọi nhu cầu của nền kinh tế thị trường. Họ đã
kết hợp với nhiều công ty nhỏ hơn.

-6-


Một trong những vụ sáp nhập lớn nhất là vào năm 1987, khi Peat Marwick
Mitchell đã sát nhập với tập đoàn KMP để trở thành KPMG Marwick, sau này
được gọi đơn giản là KPMG.
1. Big 6 (1989-1998)

Sự cạnh tranh giữa các công ty kế toán công cộng ngày càng tăng cường, và
Big 8 đã trở thành Big 6 khi năm 1989 Ernst & Whinney sát nhập với Arthur
Young thành Ernst & Young vào tháng 6, và Deloitte Haskins & Sells sát nhập với
Touche Ross thành Deloitte & Touche vào tháng 8 cùng năm.
1.1 Ernst & Whinney sát nhập với Arthur Young thành Ernst & Young
tháng 6 năm 1989
Arthur Young sinh tại Scotland năm 1863; ông đã tốt nghiệp đại học
Glasgow. Ông được hưởng nhiều đặc ân, đặc quyền và là người điềm đạm, nhỏ
nhẹ. Chính sự quan tâm, hứng thú của ông đối với lĩnh vực đầu tư và ngân hàng đã
dẫn ông đến với nghề kế toán. Ông di cư sang Mỹ và định cư ở thành phố
Chicago. Vào năm 1906, ông thành lập công ty Arthur Young. Ngược lại, A.C.
Ernst sinh năm 1881 ở Mỹ, bang Cleveland; ông là người tự mình làm nên sự
nghiệp. Sau khi tốt nghiệp trường trung học, ông làm nhân viên kế toán. Bốn năm
sau, vào năm 1903, ông cùng người em trai của mình là Theodore thành lập công
ty Ernst.
AC. Ernst là người mở đầu cho ý tưởng rằng thông tin kế toán có thể được sử
dụng để ra các quyết định kinh doanh - đây là sự khởi đầu cho hoạt động tư vấn
quản lý. Ông cũng là người đầu tiên quảng bá cho dịch vụ chuyên nghiệp này.
A. Young quan tâm sâu sắc đến sự phát triển của nghề nghiệp non trẻ này.
Trong những năm 20, ông đã thành lập một trường đào tạo nghiệp vụ; và đến thập
kỷ 30, công ty của ông là nơi đầu tiên tuyển dụng nhân viên từ các trường đại học.
Cả hai công ty nhanh chóng thâm nhập được vào thị trường toàn cầu. Khoảng đầu
năm 1924, họ liên kết với những công ty danh tiếng của Anh; trong đó Young liên
kết với Broads Paterson và Ernst liên kết với Whinney Smith & Whinney. Năm
1879, bản hiệp định đầu tiên của Ernst đã dẫn tới sự thành lập tập đoàn Ernst &
Whinney. Đây là những tập đoàn liên kết đầu tiên trong số rất nhiều tập đoàn khác

-7-



trên thế giới và chúng là khởi nguồn của những tập đoàn thống trị toàn cầu hiện
nay
Năm 1989, hai công ty do họ sáng lập đã kết hợp làm một, thành tập đoàn
Ernst & Young. Tập đoàn mới này đã xác định một cách nhanh chóng vị trí của nó
là người dẫn đầu xu hướng toàn cầu hoá của các công ty kiểm toán, của các kỹ
thuật kinh doanh tiên tiến và của sự thay đổi kinh doanh không ngừng. C A. Ernst
và A. Young chỉ sống hơn nửa thế kỷ, nhưng những di sản họ để lại – sự sáng tạo
và nỗ lực, sự nhạy cảm và quan tâm, lòng nhiệt tình và niềm tin - đã làm nên nét
đặc trưng riêng của tập đoàn Ernst & Young ngày hôm nay.
1.2 Deloitte Haskins & Sells sát nhập với Touche Ross thành Deloitte &
Touche vào tháng 8 năm 1989
Năm 1845, William Welch Deloitte đã mở một văn phòng tại Basinghall
Street ở London. Deloitte là người đầu tiên được bổ nhiệm làm kiểm toán viên độc
lập của một công ty đại chúng, sau đó ông đã tiếp tục mở một văn phòng tại New
York năm 1880.
Năm 1895 Charles Waldo Haskins và Elijah Watt Sells đã thành lập
Haskins & Sells ở New York.
Năm 1898, George Touche thành lập một văn phòng tại London và sau đó
vào năm 1900 ông cùng John Ballantine Niven thành lập công ty Touche Niven ở
tòa nhà Johnston tại 30 phố Broad ở New York.
Vào lúc đó, có khoảng dưới 500 kiểm toán viên hành nghề ở Hoa Kỳ, nhưng
kỷ nguyên mới của thuế thu nhập đã sớm tạo ra nhu cầu rất lớn cho các chuyên gia
kế toán.
Ngày 01 tháng 4 năm 1933, Đại tá Arthur Hazelton Carter - Chủ tịch Hội kế
toán Công chứng của bang New York - quản lý đối tác của Haskins & Sells, điều
trần trước Ủy ban Thượng viện Mỹ về ngân hàng và tiền tệ. Carter đã thuyết phục
Quốc hội rằng kiểm toán độc lập nên được bắt buộc đối với công ty đại chúng.
Năm 1947, Detroit - kế toán của George Bailey, sau đó là chủ tịch của Viện
Kế toán Hoa Kỳ, đã giới thiệu tổ chức riêng của mình. Các công ty mới này đã có
-8-



sự khởi đầu thuận lợi, trong vòng chưa đầy 1 năm. Các thành viên sáp nhập với
Touche Niven và AR Smart để hình thành Touche, Niven, Bailey & Smart. Đứng
đầu là Bailey - tổ chức phát triển nhanh chóng, một phần là do chức năng tư vấn
quản lý chuyên môn hóa. Nó cũng có quan hệ gần gũi với các tổ chức được đồng
thành lập bởi Touche Niven, George Touche. Năm 1960, công ty được đổi tên
thành Touche, Ross, Bailey & Smart, và trở thành Touche Ross vào năm 1969.
Năm 1952, Deloitte sáp nhập với Haskins & Sells để hình thành Deloitte,
Haskins & Sells. Năm 1968, Nobuzo Tohmatsu thành lập Tohmatsu Awoki & Co,
một công ty có trụ sở tại Nhật Bản đã trở thành một phần của mạng lưới Touche
Ross vào năm 1975. Năm 1972, Robert Trueblood - Chủ tịch Touche Ross, đề
xuất việc thành lập ban Tiêu chuẩn Kế toán tài chính. Ông đã lãnh đạo việc mở
rộng Touche Ross trong thời đại đó.
Năm 1982, David Moxley và Gregory W. Grant trở thành nhà lãnh đạo tại
Touche Ross. Năm 1985, Edward A. Kangas - một nhà tư vấn quản lý, được bổ
nhiệm quản lý đối tác của Touche Ross. Năm 1984, J. Michael Cook đã trở thành
đối tác quản lý của Deloitte, Haskins & Sells.
Năm 1989 Deloitte Haskins & Sells tại Mỹ sáp nhập với Touche Ross ở Mỹ
để hình thành Deloitte & Touche. Các công ty hợp nhất được lãnh đạo bởi J.
Michael cùng Cook và Edward A. Kangas. Được dẫn dắt bởi các quan hệ đối tác
Anh, một số lượng nhỏ hơn của các công ty thành viên Deloitte Haskins & Sells từ
chối sáp nhập với Touche Ross và ngay sau đó sáp nhập với Coopers & Lybrand
thành Coopers & Lybrand Deloitte (sau này sáp nhập với Price Waterhouse để trở
thành PwC). Một số công ty thành viên của Touche Ross cũng bác bỏ việc sáp
nhập với Deloitte Haskins & Sells và sáp nhập với các công ty khác.
Tại thời điểm sáp nhập do Mỹ dẫn đầu để hình thành Deloitte & Touche, tên
của các công ty quốc tế là một vấn đề, vì không có quyền sử dụng độc quyền trên
thế giới với những tên "Deloitte" hoặc "Touche Ross" - công ty thành viên chủ
chốt như Deloitte Anh và Touche Ross tại Úc đã không tham gia vào việc sáp

nhập. Năm 1993 công ty quốc tế đã được đổi tên thành Deloitte Touche Tohmatsu
-9-


để phản ánh sự đóng góp từ các công ty Nhật Bản cũng như các thỏa thuận sử
dụng cả tên Deloitte Touche .
Năm 1995, các đối tác của Deloitte & Touche quyết định tạo ra Deloitte &
Touche Consulting Group (nay là Deloitte Consulting).
2. Big5 (1998-2001)
Big 6 đã trở thành Big 5 vào tháng 7 năm 1998 khi Price Waterhouse (PW)
sáp nhập với Coopers &Lybrand để hình thành Công ty PricewaterhouseCoopers
Hai công ty Price Waterhouse và Coopers & Lybrand đều có lịch sử từ thế
kỷ 19.
Price Waterhouse Samuel Lowell, bắt đầu hành nghề kế toán của mình ở
London vào năm 1849.
Năm 1865, Price đã hợp tác với William Hopkins Holyland và Edwin
Waterhouse. Holyland rời đi sau đó để làm công việc kế toán riêng mình, bởi vậy
công ty đã được biết đến từ năm 1874 với tên Price, Waterhouse & Co. Các thỏa
thuận hợp tác ban đầu, có chữ ký của Price, Holyland và Waterhouse có thể được
tìm thấy trong Southwark Towers, một trong những văn phòng quan trọng của
PwC (nay phá hủy và là địa điểm mới cho Shard London Bridge) ở London.
Đến thế kỷ XIX, Price Waterhouse đã được công nhận là một công ty kế
toán. Do thành quả trao đổi thương mại giữa Vương quốc Anh và Hoa Kỳ, Price
Waterhouse mở văn phòng tại New York vào năm 1890, và công ty Mỹ tự sớm
mở rộng nhanh chóng. Các công ty ban đầu của Anh đã mở một văn phòng ở
Liverpool vào năm 1904 và sau đó ở những nơi khác tại Vương quốc Anh và các
quốc gia ở nước ngoài, mỗi lần thiết lập một quan hệ đối tác riêng biệt ở mỗi nước
Trong một nỗ lực hơn nữa để tận dụng lợi thế nền kinh tế theo quy mô, PW
và Arthur Andersen đã thảo luận sáp nhập vào năm 1989 nhưng các cuộc đàm
phán thất bại chủ yếu là do xung đột lợi ích như là giữa các liên kết thương mại

mạnh của Andersen với IBM và kiểm toán IBM của PW.
Trong tháng 3 năm 2002, Arthur Anderson, LLP chi nhánh tại Hồng Kông và
Trung Quốc hoàn tất đàm phán để gia nhập PriceWaterhouseCoopers, Trung Quốc

- 10 -


Coopers & Lybrand. Năm 1854 William Cooper thành lập công ty của mình tại
London, và đã trở thành Cooper Brothers bảy năm sau khi ba anh em tham gia.
Tại Mỹ vào năm 1898, Robert H. Montgomery, William M. Lybrand, Adam A.
Ross Jr và anh trai Edward của ông T. Ross hình thành Lybrand, Ross Brothers và
Montgomery. Coopers & Lybrand là kết quả của sự hợp nhất trong năm 1957 giữa
Cooper Brothers & Co; Lybrand, Ross Bros & Montgomery và một công ty
Canada McDonald, Currie và Co.
Năm 1990 tại một số quốc gia, Coopers & Lybrand Anh sáp nhập với
Deloitte Haskins & Sells để trở thành Coopers & Lybrand Deloitte, và vào năm
1992 đổi tên thành Coopers & Lybrand.
Năm 1998, Price Waterhouse sáp nhập với Coopers Lybrand để hình thành
Công ty PricewaterhouseCoopers trong một nỗ lực để đạt được một quy mô lớn
mà có thể đưa công ty phát triển mạnh mẽ hơn nữa trong một liên minh mới.

B. Hoạt động của Big5
I.

KPMG
KPMG

Loại

Hợp tác xã Thụy Sĩ


Công nghiệp

Dịch vụ chuyên nghiệp

Được thành lập

1987; sáp nhập từ Peat
Marwick và Klynveld
Goerdeler

Trụ sở chính

Amstelveen , Hà
Lan (toàn cầu)

Diện tích phục vụ

Trên toàn thế giới

- 11 -


Chủ chốt

Timothy P. Flynn ( Chủ
tịch )

Dịch vụ


Kiểm toán
Thuế
Tư vấn

Doanh thu

US
$ 20600000000 (2010)

Nhân viên

138.000

Website

KPMG.com

Công ty này được thành lập vào năm 1870 khi William Barclay Peat thành
lập công ty kiểm toán tại Luân Đôn.
Trong khi đó vào năm 1917, Piet Klijnveld mở công ty kế toán của ông ở
Amsterdam. Sau đó, ông sáp nhập với Kraayenhof để hình thànhCông ty TNHH
Klynveld Kraayenhof
Năm 1979 Klynveld Kraayenhof & Co ( Hà Lan ), Thomson McLintock
( Hoa Kỳ ) và Deutsche Treuhandgesellschaft ( Đức ) sáp nhập, thành lập KMG
(Klynveld Main Goerdeler)
Sau đó vào năm 1987 và Peat Marwick KMG mở đầu cuộc sáp nhập của
các công ty kế toán lớn và thành lập KPMG tại Hoa Kỳ.
Trong năm 2001 công ty tư vấn KPMG Divested Mỹ thông qua một IPO
của KPMG Consulting Inc, mà bây giờ gọi là BearingPoint, Inc .Đầu năm 2009,
BearingPoint đệ đơn bảo hộ phá sản và tiếp tục bán phần còn lại của công ty cho

Deloitte, PricewaterhouseCoopers và 1 số công ty khác.trụ sở tại Vương quốc Anh
và cánh tay tư vấn của Hà Lan đã được bán cho Atos Origin vào năm 2002. Năm
2003 KPMG từ bỏ cánh tay pháp lý của nó. Công ty thành viên của KPMG tại
Anh, Đức, Thụy Sĩ và Liechtenstein sáp nhập để tạo thành KPMG LLP tại châu
Âu vào tháng 10/2007.
KPMG cung cấp các dịch vụ sau:


Kiểm toán:
1.
Báo cáo tài chính kiểm toán
2.
Kiểm toán quản lý

- 12 -


Thuế: Kinh doanh và cá nhân các dịch vụ thuế

Tư vấn: các dịch vụ tư vấn của KPMG được tổ chức vào ba chủ đề (tăng
trưởng, quản trị và hiệu suất) và chín đường dây dịch vụ:
1.
Dịch vụ tư vấn kế toán
2.
Hiệu suất kinh doanh dịch vụ
3.
Tài chính doanh nghiệp
4.
Dịch vụ quản lý rủi ro tài chính
5.

Pháp lý
6.
Kiểm toán nội bộ, rủi ro và tuân thủ dịch vụ (IARCS)
7.
Tư vấn công nghệ thông tin
8.
Tái cơ cấu
9.
Dịch vụ giao dịch ( M & A )
Tên và xây dựng thương hiệu
Nguồn gốc của tên KPMG xuất phát từ tên của bốn đối tác sáp nhập các công ty
của họ hạch toán độc lập của riêng:







K là viết tắt của Klynveld , sau khi Piet Klynveld , người sáng lập công ty
kế toán Klynveld Kraayenhof & Co tại Amsterdam vào năm 1917.
P là viết tắt của Peat , sau khi William Barclay Peat , người sáng lập công
ty kế toán William Barclay Peat & Co tại London vào năm 1870.
M là viết tắt của Marwick , sau khi James Marwick , đồng sáng lập của
công ty kế toán Marwick, Mitchell & Co tại New York City vào năm 1897.
G là viết tắt của Goerdeler , sau khi Reinhard Goerdeler , chủ tịch của
công ty kế toán Đức Deutsche Treuhand-Gesellschaft (DTG) và sau đó, chủ
tịch của KPMG.

II. Ernst & Young


Ernst & Young (EY)

Loại

Thành viên công ty có cấu
trúc pháp lý khác nhau

- 13 -


Mỹ và Anh: Trách nhiệm
hữu hạn đối tác
Công nghiệp

Dịch vụ chuyên nghiệp

Được thành lập

Năm 1989
Các thành phần từ 1849

Trụ sở chính

London , Vương quốc Anh

Diện tích phục vụ Trên toàn thế giới
Chủ chốt

Jim Turley ( Chủ

tịch & CEO )

Dịch vụ

Kiểm toán
Thuế
Tư vấn tài chính
Tư vấn khác

Doanh thu

US
$ 21300000000 (2010 )

Nhân viên

144000 (toàn cầu)

Website

www.EY.com

Buổi đầu lịch sử
Ernst & Young là kết quả của một loạt các vụ sáp nhập của các tổ chức kế
toán lớn mạnh.
Năm 1903, công ty của Ernst & Ernst được thành lập tại Cleveland bởi Alwin
C. Ernst và anh trai của ông Theodore và vào năm 1906.
Sau đó Ernst & Ernst kết hợp với Whinney Smith & Whinney năm 1979, tạo
ra Ernst & Whinney, lập tức trở thành công ty kiểm toán kế toán lớn thứ tư thế
giới lúc bấy giờ.

Năm 1989, công ty Ernst & Whinney sáp nhập Arthur Young toàn cầu để tạo
ra Ernst & Young.
Việc sáp nhập Ernst & Young đã tạo ra một công ty với 6.100 đối tác và 2
giám đốc điều hành, Ray Groves từ Ernst & Whinney và William Gladstone từ

- 14 -


Arthur Young. Các công ty mới được thành lập đã thu $ 4270000000 trong năm
1989.
Thực tế việc sáp nhập vào năm 1989 đã cơ bản được xem như là một động thái
cạnh tranh thông minh, mặc dù một số nhà quan sát cho rằng việc sáp nhập có thể
là khó khăn do sự khác biệt nhận thức trong các phong cách quản lý, với Ernst &
Whinney và Arthur Young hệ thống quản lý phân cấp nhiều hơn. Để loại bỏ chồng
chéo lên nhau tạo ra bởi việc sáp nhập và giảm chi phí biên chế của nó, công ty cắt
giảm nhân viên của mình vào năm 1991 và loại bỏ nhiều đối tác. Mặc dù doanh
thu đã giảm nhẹ trong cuối những năm 1980, những năm 1990 doanh thu sớm đã
được giảm nhưng đều đặn tăng lên. Thu từ quản lý rủi ro của Ernst & Young và
nhóm dịch vụ thống kê bảo hiểm đã tăng 7,4 % năm 1990-1991, từ $ 9.500.000
đến 10.200.000 $. Tổng doanh thu tăng từ 5 tỷ USD năm 1990 đến $ 5.4tỷ năm
1991 và 5,7 tỷ USD trong năm 1992.
Ernst & Young có tăng trưởng đáng kể trong năm 1997, mặc dù bị ảnh hưởng
bởi một vụ kiện 4tỷ USD cáo buộc công ty không đúng đắn đối việc tái cơ cấu
của Merry-Go-Round vào năm 1993. Tổng doanh thu tăng từ $ 7.8 năm 1996 lên
9,1 tỉ đô vào năm 1997. Sự tăng trưởng này được thúc đẩy bởi tăng 30 % doanh
thu tư vấn thuế và tăng 18 % doanh thu thuế trên toàn thế giới, một lĩnh vực mà
Ernst & Young dẫn đầu Big Six. Công ty cũng đẩy mạnh hiệu quả của nó vào năm
1997, nâng cao thu nhập tính trên mỗi nhân viên là 10%/năm, đến 238.360 $.
Doanh thu tiếp tục tăng ngoạn mục trong năm 1998, đạt 10900000000 $, tăng gần
20 %

Dịch vụ
EY có bốn dòng dịch vụ chính và chia sẻ doanh thu trong năm 2010:
 Bảo hiểm (47%): bao gồm tài chính kiểm toán (lõi bảo đảm), và
gian lận tra & Dịch vụ tranh chấp.
 Dịch vụ tư vấn (17%): bao gồm bốn dòng: thống kê bảo hiểm, rủi ro
CNTT và đảm bảo, rủi ro, và hiệu suất cải thiện.
 Thuế dịch vụ (27%): bao gồm kinh doanh Tuân thủ thuế, vốn con
người, gián tiếp thuế, quốc tế dịch vụ thuế Thuế, Kế toán & Dịch vụ tư vấn rủi
ro, giao dịch thuế.
 Dịch vụ tư vấn giao dịch (TAS) (9%): bao gồm thương mại, bất
động sản, tài chính và thuế thẩm định , sáp nhập và mua lại , mô hình định giá,
kinh doanh, tái cơ cấu doanh nghiệp và dịch vụ tích hợp.

- 15 -


III. Price Water coopers(PWC)
PricewaterhouseCoopers

Loại

Thành viên công ty có cấu trúc pháp
lý khác nhau
Cả hai công ty Mỹ và Anh: hợp tác
trách nhiệm hữu hạn

Công nghiệp

Dịch vụ chuyên nghiệp


Được thành lập

1849 (London)

Trụ sở chính

London , Vương quốc Anh
(Toàn cầu)
New York City , New York
(Hoa Kỳ)

Diện tích phục vụ

Trên toàn thế giới

Chủ chốt

Dennis Nally ( Senior Partner )

Sản phẩm

Đảm bảo
Tư vấn thuế
Tư vấn
Tư vấn tài chính
Thống Kê Bảo Hiểm
Pháp lý

Doanh thu


US $ 26600000000 (2010)

Nhân viên

161.000

Website

pwc.com

- 16 -


Buổi đầu lịch sử
Năm 1998, Price Waterhouse Coopers sáp nhập với Lybrand để hình thành
Công ty PricewaterhouseCoopers ( PwC) nỗ lực để đạt được một quy mô mà có
thể đưa công ty đến một vị thế mới .

Kể từ khi PwC chịu trách nhiệm kiểm toán cho phần lớn của các công ty
lớn nhất thế giới, PwC đã chịu áp lực ngày càng tăng. Để tránh xung đột về lợi
ích, PwC không cung cấp dịch vụ tư vấn cho khách hàng kiểm toán của mình.
Điều này đã bắt đầu giới hạn thị trường tiềm năng của nó.
Dịch vụ
PricewaterhouseCoopers cung cấp ba dòng dịch vụ chính:

Dịch vụ bảo hiểm

Tư vấn thuế (thuế quốc tế lập kế hoạch và tuân thủ pháp luật thuế địa
phương, tư vấn nguồn nhân lực, và giá chuyển nhượng )


Tư vấn - chủ yếu là hoạt động tư vấn bao gồm chiến lược, hiệu suất cải tiến,
giao dịch dịch vụ, kinh doanh phục vụ, Tài chính doanh nghiệp, doanh nghiệp
thẩm định giá, và quản lý khủng hoảng trong nhiều lĩnh vực chuyên môn như
kế toán, thống kê bảo hiểm tư vấn.
IV. Deloitte
Deloitte

Loại

công ty tư nhân

Công nghiệp

Dịch vụ chuyên nghiệp

Được thành lập

London, Anh , Vương quốc Anh
(1845)

Người sáng lập (s)

William Welch Deloitte

Trụ sở chính

New York City, New York ,Hoa Kỳ

Diện tích phục vụ


Trên toàn thế giới

Chủ chốt

John P. Connolly ( Chủ tịch )

- 17 -


James Quigley ( CEO )
Dịch vụ

Doanh thu

Kiểm toán
Tư vấn
Tư vấn tài chính
Thuế
Rủi ro doanh nghiệp
US $ 26600000000 (2010)

Nhân viên

170.000 (tháng tám 2010)

Website

Deloitte.com / toàn cầu

Buổi đầu lịch sử

Năm 1952 Deloitte sáp nhập với Haskins & Sell để hình thành Deloitte
Haskins & Sell.
Năm 1989 Deloitte Haskins & Sell tại Mỹ sáp nhập với Touche Ross ở Mỹ
để hình thành Deloitte & Touche.
Dịch vụ








Kiểm toán : Cung cấp cho các tổ chức các dịch vụ kế toán truyền thống và
dịch vụ kiểm toán, cũng như các dịch vụ trong quản lý rủi ro doanh nghiệp , an
ninh thông tin và bảo mật , chất lượng dữ liệu và tính toàn vẹn, rủi ro dự án,
quản lý liên tục kinh doanh, kiểm toán nội bộ và CNTT kiểm soát đảm bảo.
Tư vấn : Giúp khách hàng bằng cách cung cấp dịch vụ trong các lĩnh
vực ứng dụng doanh nghiệp, tích hợp công nghệ, chiến lược và hoạt động, vốn
con người, và thời gian ngắn-gia công phần mềm .
Tư vấn tài chính: Cung cấp dịch vụ tư vấn tài chính doanh nghiệp bao gồm
cả tranh chấp, cá nhân và thương mại phá sản , pháp lý, xem tài liệu, và định
giá.
Thuế : Giúp khách hàng tăng giá trị tài sản ròng của mình thực hiện việc
định giá chuyển nhượng và các hoạt động về thuế quốc tế của các công ty đa
quốc gia, giảm thiểu nghĩa vụ thuế của họ, thực hiện hệ thống máy tính thuế,
và cung cấp tư vấn của những tác động về thuế của quyết định kinh doanh khác
nhau.

- 18 -





Các dịch vụ khác: cung cấp các dịch vụ chuyên ngành cho các khách hàng
trong các lĩnh vực quốc tế chuẩn mực báo cáo tài chính ( IFRS ), khách hàng
đến Trung Quốc, Nhật Bản , và các quốc gia khác.
V. Arthur Andersen
1. Khái quát

Loại

Trách nhiệm hữu hạn đối tác

Công
nghiệp

Kế toán
Dịch vụ chuyên nghiệp
Thuế
Tư vấn
Giấy phép của Kế toán Công
chứng hàng đầu vào năm 2002

Được
thành lập

1913

Trụ sở

chính

Chicago , Illinois , Mỹ

Sản phẩm Dịch vụ chuyên nghiệp
Doanh
thu

US $ 9300000000 (năm 2002)

Nhân viên

200 vào năm 2007
85.000 (năm 2002)

Website

www.andersen.com

Năm 1913, Arthur Andersen và Clarence Delaney, cả hai đều từ Price
Waterhouse, mua lại Công ty kiểm toán Illinois và thành lập Andersen, Delaney &
Co sau đó đổi tên thành Arthur Andersen & Co.
- 19 -


Doanh thu mỗi năm(triệu USD)
nguồn: thông cáo báo chí của công ty

2.Danh tiếng
Andersen, từng lãnh đạo công ty cho tới năm 1947 khi ông chết, là một người

theo đuổi các chuẩn mực đặc biệt cao trong ngành kiểm toán kế toán. Là một biểu
trưng về tính trung thực, ông cho rằng trách nhiệm của kiểm toán viên là vì lợi ích
của nhà đầu tư chứ không phải là ban giám đốc của khách hàng. Đã có nhiều
trường hợp Andersen chịu mất khách hàng lớn chứ không ký xác nhận cho các báo
cáo không chính xác. Người kế nhiệm Leonard Spacek tiếp tục nhấn mạnh vào sự
trung thực này. Trong nhiều năm, khẩu hiệu của Andersen là "Think straight, talk
straight."
Tới thập kỷ 80, các chuẩn mực trong ngành bị giảm do các công ty kiểm toán
cố gắng cân bằng giữa cam kết độc lập và phát triển dịch vụ tư vấn. Andersen
cũng không là ngoại lệ. Bộ phận tư vấn của Andersen phát triển nhanh tới mức trở
thành doanh thu chính và các giám đốc kiểm toán được khuyến khích tìm kiếm cơ
hội cho tư vấn từ các khách hàng kiểm toán hiện hữu. Tới cuối thập kỷ 90,
Andersen đã tăng gấp ba doanh thu trên cổ phiếu.
3.Andersen Consulting và Accenture
Bộ phận tư vấn nhanh chóng trở nên quan trọng vào thập kỷ 70 và 80 với tốc
độ tăng trưởng nhanh hơn rất nhiều so với các bộ phận đã chín muồi như kế toán,
kiểm toán và thuế. Tỉ lệ tăng trưởng chênh lệch dẫn tới các giám đốc tư vấn cho là
họ không nhận được phần xứng đáng trong lợi nhuận của công ty và vì thế bắt đầu
xảy ra rạn vỡ ngày càng lớn.

- 20 -


Năm 1989, Arthur Andersen và Andersen Consulting trở thành hai công ty
độc lập của Andersen Worldwide. Andersen tăng cường sử dụng dịch vụ kế toán
kiểm toán để tìm kiếm khách hàng cho Andersen Consulting có lợi nhuận hấp dẫn
hơn.
Hai công ty vẫn có xung đột trong suốt thập kỷ 90. Andersen Consulting thu
được lợi nhuận khổng lồ trong thập kỷ này. Tuy vậy, các nhà tư vấn vẫn chuyển
tiền ngược lại cho Arthur Andersen. Năm 2000, Kết luận của Phòng thương mại

quốc tế cho phép Andersen Consulting tách thành công ty độc lập hoàn toàn và
phải trả 1.2 tỉ đô la Mỹ cho Arthur Andersen và Andersen Consulting cũng không
được sử dụng tên Andersen nữa. Vì vậy, Andersen Consulting đổi tên
thành Accenture vào ngày 01 tháng 01 năm 2001.

C. Enron scandal – Arthur Andersen biến mất
I. Vài nét về Enron:
Tiền thân của Enron là công ty Khí tự nhiên miền Bắc, thành lập năm 1932
tại Omaha, Nebraska. Năm 1979, công ty đã tổ chức cơ cấu lại trở thành Internorth
of Omaha. Năm 1985, trên cơ sở sáp nhập hai công ty Houston Natural Gas và
Internorth of Omaha, đổi tên công ty thành Enteron (ruột), với ý tưởng là bộ phận
không thể thiếu trong quá trình tiêu hóa. Nhưng cái tên này nhanh chóng được rút
gon lại chỉ còn Enron khoảng năm 1990.
Nhờ những quy định mới về tự do hóa thị trường năng lượng Mỹ trong thập
niên 90, họ đã lột xác từ một hãng làm ăn mờ nhạt thành tập đoàn có thể thay đổi
sự cân bằng trong lĩnh vực kinh doanh năng lượng. Luật chính sách năng lượng
năm 1992 buộc các công ty nhỏ phải mở cửa đường truyền tải điện cho hệ thống
phân phối của Enron. Ngoài ra, Enron kiếm rất nhiều tiền từ việc mua bán trên thị
trường năng lượng. Trên thực tế, họ chỉ là những nhà buôn sắp xếp hợp đồng giữa
người mua và bán rồi lấy tiền hoa hồng. Trong tay Enron, thị trường năng lượng
ngang hàng với một sự đầu cơ tài chính. Hãng này đã xây dựng những nhà máy trị
giá hàng triệu USD khắp thế giới nhưng chỉ sở hữu chúng khi giá năng lượng lên
ngôi, khi gặp khó khăn thì bán ngay lập tức. Nhờ hoạt động tài chính thuận lợi,
Enron đã vươn sang các mặt hàng như giấy, nước, nhựa, kim loại và phương tiện
viễn thông.

- 21 -


Năm 2000, Enron là một trong 7 công ty Mỹ có doanh số hơn 100 tỷ USD,

lợi nhuận lên tới 10 tỷ USD. Hệ thống thông tin đại chúng, điển hình là tạp chí
Fortune luôn đánh bóng Enron là công ty có nhiều tiềm năng nhất với số vốn kinh
doanh 63 tỷ USD. Tại thời điểm xảy ra vụ bê bối năm 2001, Enron nắm trong tay
cơ sở vật chất kỹ thuật cực kỳ giá trị, hoạt động tại trên 30 quốc gia trên thế giới
(trong đó có Việt Nam), giao dich với hơn 30 sản phẩm khác nhau, sở hữu 38 nhà
máy điện, gần 60 vạn km đường ống dẫn dầu và khí đốt, hàng loạt các công ty con
về các ngành kinh doanh khác như giấy, thép, hóa dầu, nhựa…

Sự phát triển của Enron
1985

2000

15076

18000

Các nước có hoạt động

4

Trên 30

Tài sản (tỷ đôla)

12

33

Không có


18

Số lượng nhân viên

Đánh giá (Forturn 500)

II. Dấu hiệu và diễn biến của vụ bê bối
Năm 2000
- Tháng 3: CEO Enron, Kenneth Lay bị cáo buộc gian lận báo cáo hàng năm

-

năm 1999. Jeffrey Skilling, giám đốc điều hành (COO) của Enron bị cáo
buộc có dấu hiệu gian lận cho Arthur Andersen LLP về dữ liệu tài chính
năm 1999.
Tháng 8, giá cổ phiếu Enron leo cao mức kỷ lục: 90$/cổ phiếu
Tháng 8 và tháng 11, K. Lay tiếp tục bị cáo buộc gian lận báo cáo tài chính
hàng quý cho quý II và III năm 2000.

Năm 2001
- Từ ngày 22 – 25 tháng 1, COO Enron, J. Skilling liên tục đưa ra các yêu
cầu gian lận các báo cáo tài chính nhằm dối gạt các nhà đầu tư.

- 22 -


-

6 – 2, Enron được tạp chí Fortune bình chọn là một trong những công ty

sáng tạo nhất tại Mỹ lần thứ 6 liên tiếp.
5 – 5, giá cổ phiếu Enron đóng cửa là 59,78$

-

23 – 7, giá cổ phiếu Enron tiếp tục sụt giảm còn 47$, gây mất lòng tin
nghiêm trọng cho các nhà đầu tư.

-

14 – 8, vì lý do cá nhân, Skilling từ chức. K. Lay tuyên bố “ Tuyệt đối
không có vấn đề kế toán, không có vấn đề kinh doanh, không có vấn đề dự

-

trữ, không có vấn đề che dấu sự thật”
15 – 8, Sherron Watkins, một phó chủ tịch phát triển của Enron, đã phát

-

hiện ra các sai phạm kế toán của công ty và gửi thư đến cho K. Lay.
16 – 10: Enron công bố lỗ quý thứ ba là $ 618,000,000.

-

31 – 10, Ủy ban chứng khoán và hối đoái Mỹ (SEC) bắt đầu mở cuộc điều
tra chính thức về kế toán của Enron và các đối tác.
Arthur Andersen, công ty kiểm toán của Enron, đã tiếp tay cho nó bằng

-


cách tiêu hủy các tài liệu liên quan đến sai phạm.
Giá cổ phiếu Enron tụt dốc không phanh, chỉ còn khoảng 0,6$/ cổ phiếu.

-

-

8 – 11, Enron công bố nó phóng đại lợi nhuận bằng cách $ 586,000,000
trong năm năm.
SEC yêu cầu các nhân viên Arthur Andersen có liên quan đến Enron hầu
tòa.
2 – 12, Enron thông báo phá sản.

Năm 2002
- 9 – 1, Bộ Tư pháp Mỹ xác nhận bắt đầu một cuộc điều tra hình sự vụ phá
sản Enron.
-

10 – 1, Arthur Andersen thừa nhận đã hủy tài liệu của Enron, từ tháng 9
đến tháng 11.
3 – 5, Enron đề xuất thành lập một công ty mới tạm gọi là Công ty Năng
lượng OpCo . Nếu được chấp thuận, OpCo sẽ có tài sản cốt lõi của Enron,
bao gồm 15.000 dặm đường ống tài sản, 75.000 dặm tài sản phân phối,
6.700 mega watt, và 12.000 nhân viên.

Năm 2003
- 11 – 7, Enron đề xuất kế hoạch cơ cấu lại công ty.
Năm 2004


- 23 -


-

6 – 1, Tòa án New York phê duyệt đề xuất cơ cấu lại của Enron. Theo kế
hoạch này, chủ nợ sẽ nhận được $ 11000000000 bằng tiền mặt và chứng
khoán.

-

11 – 2, J. Skilling bị bắt với 35 tội danh gian lận, giao dịch nội gián,…
7 – 7, cựu CEO Kenneth Lay bị truy tố bởi Tòa án Hoa Kỳ.
Năm 2005
Các Tòa án tối cao phán quyết về mặt lý thuyết Andersen miễn tội để tiếp tục

hoạt động. Tuy nhiên thiệt hại mà vụ Enron mang đến đã khiến cho nó không còn
có thể hoạt động được nữa kể cả với quy mô hạn chế.

III. Hậu quả
1. Enron
Những người chịu thiệt hại nặng nề nhất chính là các cổ đông và nhân viên
của công ty.
- Giá cổ phiếu của Enron lên đến đỉnh cao 90 đô la vào tháng 8/2000. Một
năm sau đó, vào tháng 10/2001 công ty thông báo lỗ 638 t riệu U SD trong
quý 3/2001 và giá trị vốn cổ đông giảm 1,2 tỉ USD. Dự kiến các chủ nợ sẽ thu
hồi được 1/5 số tiền 74 tỉ USD của họ.
- 17.000 nhân viên của Enron sẽ mất tiền hưu trí của họ. Tuy Enron tuyên
bố dành riêng 200 triệuU SD để chuyển trách nhiệm lương hưu sang các công
ty bảo hiểm, chính phủ cho biết số tiền này chắc chắn không đủ.

- Các cổ đông sẽ mất toàn bộ giá trị cổ phiếu.
- Tài sản của Enron được đem bán đấu giá để trả nợ, thu được khoảng 11 tỉ.

- 24 -


Giá trị cổ phiếu Enron từ 23-8-2000 đến 11-1-2002
2. Arthur Andersen
Ngay sau khi bị kết tội, Andersen lập tức phải đối mặt với hàng loạt vụ kiện
khác, với tổng số thiệt hại của khách hàng lên tới 300 tỉ USD.
Andersen phá sản, hàng loạt các cuộc thương lượng mua bán diễn ra. KPMG
đồng ý thu nạp 23 chi nhánh "ở ngoài nước Mỹ" của Andersen với cái giá rẻ mạt
là 284 triệu USD năm 2002. Andersen Việt Nam được KPMG mua lại với hợp
đồng trong đó có điều khoản đảm bảo việc làm cho toàn bộ nhân viên hiện có của
Andersen Việt Nam.
Một trong ngũ đại gia là Ernst & Young đã chiếm được phần lớn những
khách hàng và chuyên gia của Andersen ở Mỹ.
Các công ty nhỏ hơn cũng kiếm được phần chia. Công ty tư vấn Hitachi
Consulting của Nhật thuê lại 400 chuyên gia của Andersen, một trong số đó đến
nay đã trở thành Tổng Giám đốc của Hitachi Consulting.
Đó là kết cục của Arthur Andersen, một công ty kiểm toán hàng đầu thế giới,
với 85.000 chuyên gia và 89 năm lịch sử, đến nay chỉ còn không đầy 200 người,
chủ yếu để hầu kiện trong các vụ kiện của cổ đông trong các công ty khách hàng
trước đây.

- 25 -


×