Tải bản đầy đủ (.doc) (49 trang)

thao luan nhom ve quan ly bao chi QUAN điểm, NGUYÊN tắc QUẢN lý báo CHÍ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (297.66 KB, 49 trang )

QUAN ĐIỂM, NGUYÊN TẮC QUẢN LÝ BÁO CHÍ
Trong xu hướng toàn cầu hóa như hiện nay, tăng cường sự lãnh đạo và quản lý về
công tác báo chí truyền thông là một trong những nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu, trong
đó tập trung vào những vấn đề sau
-

Xây dựng, hoàn thiện luậth và điều lệ để hình thành lên nguyên tắc cơ bản của

công tác quản lý và lãnh đạo báo chí truyền thông
-

Tiếp tục thể chế hóa hướng dẫn của Đảng

-

Xây dựng và kiện toàn các văn bản hợp pháp

-

Xử phạt mạnh mẽ để tạo điều kiện cho sự phát triển của báo chí theo đúng

hướng...
2- Quản lý báo chí ở một số nước
2.1Áo
Thị trường báo chí truyền thông nói chung và truyền hình nói riêng ở Áo được chia
làm 2 dạng quản lý. Đó là hãng truyền thông hoàn toàn do tư nhân kiểm soát và
truyền thông do Nhà nước quản lý. Truyền thông tư nhân có thể chia làm các dạng
như truyền thông quốc gia và truyền thông địa phương/khu vực. Một sự khác biệt nữa
là hình thức lên sóng và phát sóng: vệ tinh, mặt đất, cáp, internet...)
Ở Áo chỉ có 1 hãng truyền hình duy nhất do Nhà nước quản lý (ORF), một số hãng
truyền thông thương mại tư nhân (ATV, Puls 4, Red Bull Tivi) và các hãng truyền


thông phi thương mại (Okto). Tuy nhiên, có rất nhiều nhà phân phối truyền thông,
một số hãng truyền thông của Đức có trụ sở ở Áo và cung cấp các chương trình nói
tiếng Áo xen kẽ với tiếng Đức (có thể nhận được sóng tại Áo).
Có rất nhiều sự khác biệt trong hệ thống truyền thông của Áo dựa trên những yếu
tố sau:
-

Sự sở hữu (Nhà nước, tập đoàn, kinh doanh tư nhân)

-

Tài chính (quảng cáo và phí, truyền hình trả tiền)

-

Chương trình và khán giả (tiếp cận khu vực/quốc gia hay quốc tế), tập trung

vào các nhóm mục tiêu
-

Chức năng (thông tin mang tính toàn cầu, định hướng trong môi trường

hẹp/rộng, sự sáng tạo của các giá trị khác nhau)

1


-

Quyền và nhiệm vụ (trả tiền, giá trị cộng đồng hoặc không có sự bắt buộc hợp


pháp)
2.2 Anh Quốc
Chia ra làm 2 dạng: Hãng truyền thông quốc gia và tư nhân.
Về báo chí, chỉ có chừng 10 tờ báo lớn ra ở London, Manchester và Glasgow.
Về truyền hình, cả Liên hiệp Vương Quốc Anh cũng chỉ có bốn đài chính chuyên
về tin tức quốc tế và quốc nội là BBC, Channel4 (công lập), ITV và Sky News (tư
nhân).
Nhiều hãng truyền thông, báo chí Anh áp dụng thu nhập từ từ phí bạn đọc trả trực
tiếp qua chế độ 'pay-wall', với riêng New York Times tính đến tháng 8/2013 có thu
nhập 150 triệu USD từ lệ phí bạn đọc qua bạn đọc trên mạng, một thành công đáng
kể.
2.3 Mỹ
Báo chí không được coi là thế chế thứ 4. Nghĩa là: có thể chế về hành pháp, lập
pháp và tư pháp. Còn báo chí là để xem xét những người nhà nước, kinh doanh có
làm việc đúng không hoặc để xem được những ông văn hóa làm được những gì, nhà
khoa học nói những gì, làm gì có đúng không. Báo chí đóng vai trò rất tốt để người ta
mở mang được những con đường cho người ta suy nghĩ chứ nó không tuyên truyền
phải nghe theo lời này, nghe theo lời kia. Báo chí truyền thông cho con người tự chọn
lựa, tự quyết định. Trong một nền dân chủ đây luôn luôn là điều rất quan trọng, con
người có quyền tự quyết, chỉ cần có thông tin để cho họ tự chọn. Hiện nay, các báo
Mỹ đã dũng cảm buông 'bầu sữa quảng cáo' từng chiếm 80% doanh thu của họ (theo
The Economist 16/8), và áp dụng chế độ đọc trả tiền cho nội dung có chất lượng.
3- Những điểm mạnh và hạn chế trong quản lý báo chí ở Việt Nam
3.1 Điểm mạnh:
3.1.1 Tính thống nhất, hệ thống trong công tác quản lý báo chí – truyền thông:
Hoạt động báo chí nước ta đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước
và hoạt động trong khuôn khổ pháp luật. Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý báo chí là
điều kiện để báo chí hoạt động đúng mục đích và có hiệu quả. Nhà nước quản lý báo
chí bằng hệ thống các văn bản pháp luật. Sẽ là sai lầm và phiến diện khi cho rằng sự


2


lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước sẽ là “bó hẹp”, “thắt chặt”... như một số
thế lực rêu rao. Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý báo chí chính là nhằm phát huy tính
sáng tạo của đội ngũ nhà báo, giúp họ nhận thức rõ trách nhiệm, nghĩa vụ của mình,
đồng thời phát hiện và sửa chữa những khuyết điểm, lệch lạc, yếu kém của bản thân.
Quản lý cũng là sự thảo luận, hướng dẫn, rút kinh nghiệm và giúp đỡ người làm báo
trong nhiệm vụ giữ vững định hướng chính trị, giữ gìn bản sắc văn hoá, đạo đức của
dân tộc, nâng cao dân trí, củng cố lòng tin, hoàn thiện con người.
Quản lý Nhà nước đối với báo chí còn thể hiện trong công tác quy hoạch hệ thống
báo chí. Việc quy hoạch hợp lý hệ thống báo chí trong cả nước nhằm tạo ra sự thống
nhất, tính hợp lý để báo chí có thể phát huy tốt nhất hiệu quả thông tin, tuyên truyền
phục vụ nhân dân trong công cuộc đổi mới hiện nay.
Có thể thấy, Đảng và Nhà nước ta luôn chú trọng đến việc xây dựng khung pháp lý
cho hoạt động báo chí nói chung và hoạt động quản lý báo chí nói riêng. Ngoài đạo
luật cơ bản là Hiến pháp và trên cơ sở Hiến pháp, Nhà nước đã ban hành nhiều văn
bản pháp lý quan trọng liên quan đến báo chí như Sắc lệnh 41 ngày 29-3-1946 về chế
độ kiểm duyệt báo chí; Luật số 100/SL-L-002 ngày 20-5-1957 quy định chế độ báo
chí (Luật Báo chí 1957); Nghị định 197/Ttg ngày 9-7-1957 quy định chế độ và quyền
lợi của người làm báo chuyên nghiệp và Nghị định số 298/Ttg ngày 9-7-1957 quy
định chi tiết thi hành Luật Báo chí 1957; Nghị định 133/HĐBT ngày 20-4-1992 của
HĐBT quy định chi tiết thi hành Luật Báo chí; Chỉ thị 63/CT-TW về tăng cường
công tác quản lý báo chí - xuất bản; Thông tư 131/TT-VP ngày 20-11-1990 của Bộ
Văn hoá - thông tin hướng dẫn thi hành Nghị định 384/HĐBT và có điều chỉnh một
số tiêu chuẩn nghiệp vụ của chức danh viên chức báo chí… Các văn bản này thể hiện
quan điểm của Đảng và Nhà nước trong từng giai đoạn lịch sử khác nhau đối với hoạt
động báo chí và bước đầu đặt nền móng cho việc xây dựng cơ sở pháp lý cho quản lý
hoạt động báo chí của cơ quan có thẩm quyền. Ngày 28-12-1989, Quốc hội thông qua

Luật Báo chí, ngày 2-1-1990, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước ký lệnh công bố Luật Báo
chí nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thay thế Luật Báo chí năm 1957, và
ngày 12-6-1999, Quốc hội khoá X đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật Báo chí và có hiệu lực cho đến nay. Ngày 26-4-2002, Chính phủ ban hành

3


Nghị định 51/2002/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Luật Báo chí, Luật sửa đổi bổ
sung một số điều của Luật Báo chí. Với việc ban hành Luật Báo chí năm 1989 và
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo chí năm 1999 đã khắc phục được
những hạn chế của các văn bản quản lý trước đó, tạo ra khung pháp lý cơ bản cho
hoạt động quản lý nhà nước về báo chí.
Nhờ vậy, công tác quản lý Nhà nước về báo chí được tăng cường hơn trước. Hiệu
lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước được nâng cao. Hoạt động báo chí ngày càng
đi vào nền nếp và phát triển không ngừng cả về số lượng lẫn chất lượng. Tính đến
thời điểm hiện nay, cả nước có hơn 730 cơ quan báo in, một hãng thông tấn quốc gia;
67 đài phát thanh, đài truyền hình và đài phát thanh - truyền hình. Trong số các đài
phát thanh, truyền hình, có hai đài quốc gia (Ðài Truyền hình Việt Nam, Ðài Tiếng
nói Việt Nam), một đài của ngành (Ðài Truyền hình kỹ thuật số VTC, do Bộ Thông
tin và Truyền thông quản lý).
Vài năm trở lại đây, hạ tầng kỹ thuật phát và truyền tín hiệu thông tin (mặt đất,
cáp, vệ tinh) phát triển mạnh, cho phép truyền tải nhiều kênh, nhiều chương trình
phát thanh, truyền hình. Cùng với hệ thống nêu trên là 64 đài phát thanh - truyền
hình, đài truyền hình và đài phát thanh (TP Hồ Chí Minh có 2 đài phát thanh và
truyền hình riêng biệt), cấp huyện, thị xã có hơn 500 đài, trạm truyền thanh, truyền
hình, hàng nghìn trạm truyền thanh, truyền hình cơ sở; cả nước có hơn 1.600 máy
phát sóng truyền hình, 3.500 máy phát sóng phát thanh, hàng nghìn trạm thu sóng qua
vệ tinh. Tuy 30 năm sau khi ra đời internet mới có mặt ở Việt Nam, nhưng chỉ sau ít
năm, số người sử dụng internet ở Việt Nam gần bằng 35% số dân. Cả nước hiện có

hơn 60 báo điện tử, trong đó có 16 báo, tạp chí độc lập, gần 300 trang tin của cơ quan
báo chí và hơn 280 trang thông tin điện tử tổng hợp; 63 trong số 63 tỉnh, thành phố,
22 trong số 22 bộ, ngành đã có cổng thông tin điện tử hoặc trang thông tin điện tử;
hơn 230 mạng xã hội đăng ký hoạt động. Sự ra đời và phát triển vượt bậc của báo
mạng điện tử cùng khả năng tích hợp nhiều loại hình báo chí trên một thiết bị truyền
thông hiện đại tạo ra khả năng to lớn cho việc truyền tải, thu nhận thông tin của các
cơ quan báo chí và công chúng của báo chí.

4


Về đội ngũ, hiện cả nước có hơn 17.500 người làm báo chuyên nghiệp được cấp
thẻ nhà báo; hàng nghìn cán bộ, kỹ sư, nghệ sĩ, nhân viên làm việc trong các cơ quan
báo chí và hàng chục nghìn người khác là cộng tác viên, nhân viên, lao động tham gia
các công đoạn in ấn, tiếp thị, quảng cáo, phát hành, sống chủ yếu bằng dịch vụ nghề
báo. So với năm 1986 - năm đất nước ta bắt đầu tiến hành công cuộc đổi mới thì số
lượng các cơ quan báo chí, số lượng báo, đài, tạp chí và đội ngũ những người làm báo
hiện nay tăng từ ba đến bốn lần; nếu so với năm 2001, các chỉ số này tăng 1,3 đến 1,5
lần. Riêng lĩnh vực phát thanh, truyền hình, báo điện tử, trang thông tin điện tử, mức
tăng ở một số lĩnh vực lên đến hàng chục lần.
Thực tế khẳng định, những năm qua, các cơ quan báo chí từ TW đến địa phương
đã tích cực tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bám sát định
hướng chính trị và thực tiễn đời sống kinh tế-xã hội, thông tin kịp thời và đầy đủ
những sự kiện thời sự chính trị, kinh tế- xã hội của đất nước và quốc tế, phê phán các
hiện tượng tiêu cực, tham nhũng, thực hiện tốt quyền được thông tin của nhân dân,
góp phần phát hiện, đề xuất, xây dựng và hoàn thiện chính sách, pháp luật, vừa là
công cụ chỉ đạo, điều hành của các tổ chức Đảng, chính quyền vừa là diễn đàn của
nhân dân. Cùng với việc kịp thời phát hiện, biểu dương những gương người tốt việc
tốt, những điển hình tiên tiến, báo chí đã thể hiện rõ vai trò là lực lượng xung kích
trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và các hiện tượng tiêu cực khác, là

hạt nhân trong cuộc đấu tranh tư tưởng, chống diễn biến hoà bình và các luận điệu
xuyên tạc, phản động của các thế lực thù địch, bảo vệ Đảng và Nhà nước. Báo chí đã
thông tin đầy đủ, trung thực, kịp thời và góp phần hướng dẫn toàn xã hội trong việc
đội mũ bảo hiểm, kiềm chế tai nạn và ùn tắc giao thông, phòng ngừa và khắc phục
hậu quả thiên tai, dịch bệnh, phản ảnh sự chỉ đạo sát sao của Chính phủ và chính
quyền các cấp nhằm giảm thiểu đến mức thấp nhất những thiệt hại về người và tài sản
do tai nạn, bão, lũ vàdịch bệnh gây ra. Báo chí cả nước đã phát huy đến mức cao nhất
lợi thế của mình trong các thời điểm quan trọng khi Việt Nam tổ chức Kỳ họp thứ XI
Quốc hội khoá XI; Bầu cử đại biểu Quốc hội khoá 12; Kỳ họp thứ 1, 2 Quốc hội khoá
XII; Kỷ niệm 117 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh và triển khai cuộc vận động
lớn “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức HCM”; đặc biệt sự kiện Việt Nam được

5


bầu làm Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an LHQ, chuyển tải ra thế giới
những thông tin sinh động, đa chiều, phản ảnh một cách toàn cảnh và nổi bật hình
ảnh đất nước, con người Việt Nam hoà bình, năng động và giàu tiềm năng phát triển.
Công tác thông tin đối ngoại cũng tiếp tục có bước phát triển mới. Duy trì việc xây
dựng và phát trên truyền hình (VTV4) các phim chuyên đề phục vụ nhiệm vụ thông
tin đối ngoại; sản xuất các sản phẩm như băng hình, tài liệu giới thiệu về đất nước
con người; công cuộc đổi mới của Việt Nam ra thế giới. Tiến hành khảo sát các hoạt
động thông tin đối ngoại ở địa phương; chỉ đạo hoạt động thông tin báo chí thực hiện
đúng quan điểm của Đảng và Chính phủ về nhiệm vụ thông tin đối ngoại trong thời
điểm hiện nay.
Các cơ quan thông tin báo chí thuộc Bộ như: Trung tâm thông tin, Báo Bưu điện,
Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC, Tạp chí Bưu chính Viễn thông đã đóng góp tích
cực, thiết thực thông qua việc tổ chức công tác tuyên truyền, phổ biến các chủ trương,
chính sách lớn về bưu chính viễn thông, CNTT và báo chí, xuất bản.
3.1.2 Tính thích ứng cao:

Có thể dễ dàng nhận thấy xu hướng báo chí trên thế giới cũng như ở Việt Nam
những năm gần đây đã có sự chuyển hướng rất cơ bản. Đó là báo in đang ở trong tình
trạng rất khó khăn và từ đó hình thành các tổ hợp, các tòa soạn đa phương tiện với xu
hướng báo mạng điện tử phát triển rất mạnh mẽ. Có thể nói đó là bước tiến của công
nghệ và xu hướng của thời đại mà nền báo chí Việt Nam phải chấp nhận và hòa nhập.
Tuy nhiên, quá trình thay đổi đó lại diễn ra đột ngột và mạnh mẽ liên tục trong những
năm qua khiến hoạt động của các cơ quan báo chí, nhất là báo in gặp rất nhiều khó
khăn. Trước tình hình đó, công tác quản lý báo chí ở nước ta hiện nay đã kịp thời
thay đổi để thích ứng với thực tế đang diễn ra. Không chỉ quản lý về mặt Nhà nước,
mà ngay cả quản lý ở mỗi tòa soạn báo chí cũng thay đổi với những nhận thức mới để
đáp ứng yêu cầu. Các tòa soạn tích hợp ra đời với đầy đủ các loại hình, đội ngũ nhà
báo, phóng viên cũng được đào tạo bài bản để chuyên nghiệp hóa hơn trong quá trình
thu thập, xử lý và xuất bản thông tin. Nếu như trước đây báo in chỉ đơn thuần phát
hành báo hàng ngày, hàng tuần hay háng tháng; phóng viên, nhà báo chỉ có nhiệm vụ
là thu thập và xử lý thông tin. Thì nay, các phiên bản báo trực tuyến, báo mạng điện

6


tử của các tờ báo tin đã có mặt trên internet, bắt kịp xu thế phát triển của báo chí hiện
đại. Đội ngũ người làm báo trở nên chuyên nghiệp hơn và tích lũy cho mình đa kỹ
năng hơn trong hoạt động nghề nghiệp. Điều đó không chỉ cho thấy công tác quản lý
báo chí tốt mà còn cho thấy một diện mạo hoàn toàn mới của báo chí nước nhà.
3.1.3 Tính nhanh nhạy, kịp thời:
Trước hết, phải thấy rằng, bất cứ sự kiện gì diễn ra cũng cần phải thông tin. Nếu
báo chí không thông tin nhanh nhạy, kịp thời với những thông tin chính thống, chắc
chắn sẽ có nguồn thông tin trên các phương tiện khác. Khi mà báo chí truyền thống
thông tin chậm thì những nguồn thông tin khác đã phần nào định hình đối với độc
giả, lúc đó rất khó thay đổi được nhận thức về thông tin đó, dù đó là thông tin sai,
không chính thống. Là cơ quan quản lý Nhà nước về báo chí, Bộ TT-TT đã phối hợp

với tất cả các bộ ngành, theo chỉ đạo của lãnh đạo Đảng, Nhà nước để chủ động cung
cấp thông tin chính thống trước các sự kiện, vấn đề lớn của đất nước, cũng như
những vụ việc được xã hội quan tâm. Đi kèm đó, là sử chỉ đạo liên tục và kịp thời của
các cơ quan báo chí đối với đội ngũ phóng viên, nhà báo trong việc thu thập và xử lý
thông tin. Điều đó cho thấy công tác quản lý báo chí, kiểm soát thông tin của mỗi tòa
soạn rất nhanh nhạy, chặt chẽ nhất là đối với những vấn đề nóng, vấn đề lớn của đất
nước.
3.2 Hạn chế:
3.2.1 Đến nay, hệ thống các văn bản pháp luật, chính sách, chế độ đối với báo chí
ở nước ta đã tương đối hoàn chỉnh. Tuy nhiên, công tác quản lý báo chí theo quy định
của Luật Báo chí và các văn bản hướng dẫn thi hành luật vẫn còn nhiều bất cập và
đang tiếp tục được sửa đổi, bổ sung.
3.2.2

Phương thức, năng lực lãnh đạo, quản lý của Ðảng và Nhà nước đối với

báo chí chậm đổi mới, có mặt còn lúng túng, bất cập; chưa có các quyết sách cơ bản,
lâu dài; có biểu hiện vừa buông lỏng, hữu khuynh, vừa áp đặt, khiên cưỡng. Việc
cung cấp thông tin cho báo chí, thực hiện cơ chế người phát ngôn của các ngành, địa
phương, cơ quan, đơn vị còn nhiều sơ hở. Luật Báo chí (năm 1989) được bổ sung,
sửa đổi năm 1999, đến nay đã bộc lộ nhiều bất cập, hạn chế, nhất là ở loại hình báo
chí điện tử, phát thanh, truyền hình.

7


3.2.3

3.2.3 Một số cơ quan báo chí thiếu nhạy bén chính trị, chưa làm tốt chức


năng tư tưởng, văn hoá, có biểu hiện xa rời sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lí của Nhà
nước, xa rời tôn chỉ, mục đích, thông tin không trung thực, thiếu chính xác, phản ánh
nhiều về tiêu cực và tệ nạn xã hội, ít tuyên truyền các điển hình tiên tiến, gương
người tốt, việc tốt, cổ vũ phong trào thi đua yêu nước; khuynh hướng tư nhân hoá,
thương mại hoá báo chí, tư nhân núp bóng để ra báo, kinh doanh báo chí ngày càng
tăng…
Từ hoạt động thực tiễn, có thể thấy rằng, vẫn còn tồn tại không ít những khuyết
điểm của báo chí vẫn diễn ra. Biểu hiện rõ nhất đó là việc không ít cơ quan báo chí
“ngại” phản ánh những nhân tố điển hình, gương người tốt, việc tốt, thay vào đó là
những thông tin giật gân, câu khách. Đơn cử khi phản ánh về lĩnh vực giáo dục và
đào tạo, nhiều phóng viên báo chí chỉ “nhăm nhăm” tìm những mặt trái để thông tin
và chủ yếu tập trung ở các đô thị lớn, trong khi rất nhiều những tấm gương hy sinh
“chở tri thức” lên vùng cao, vùng đặc biệt khó khăn thì ít khi được xuất hiện trên các
ấn phẩm báo chí. Hoặc, trong lĩnh vực an ninh - trật tự, nhất là khi có những vụ án
giết người đặc biệt nghiêm trọng, đã có cơ quan báo chí dành cả hai hoặc ba trang để
miêu tả hành vi giết người man rợ để rồi lấn át hết các sự kiện lớn khác diễn ra cùng
thời điểm...
3.2.4 Thông tin không đúng với tôn chỉ, mục đích, không đúng đối tượng phục vụ
đã được quy định trong giấy phép. Đây là khuyết điểm lớn nhất, kéo dài nhất,
trong đó trách nhiệm trước hết là cơ quan báo chí, cơ quan chủ quản báo chí và
cũng phải nói đến sự thiếu kiên quyết của cơ quan QLNN về báo chí. Tình trạng
báo của ngành này, địa phương này nhưng lại đưa thông tin nhiều về ngành khác, địa
phương khác, mà lại chủ yếu là các vấn đề tiêu cực, thông tin một chiều, thiếu kiểm
chứng, làm cho báo chí thiếu bản sắc, trùng lặp thông tin, thiếu tính định hướng của
tờ báo đã gây nên sự bức xúc trong nhiều năm.
3.2.5 Thông tin thiếu nhạy cảm về chính trị, không phù hợp với lợi ích của đất
nước, của nhân dân, không phù hợp định hướng thông tin. Đây là dạng sai phạm có
tác động xấu đến dư luận xã hội, là kẽ hở để báo chí nước ngoài, các trang tin điện tử
của các thế lực chống đối lợi dụng để xuyên tạc. Khuyết điểm này trước hết thuộc về


8


người đứng đầu, ban biên tập và người biên tập. Qua xem xét các vi phạm trong thời
gian qua của một số tờ báo, trang tin điện tử có thể nhận thấy những vi phạm trong
quy trình biên tập, duyệt bài là rất nghiêm trọng dẫn đến những sai phạm có tác động
xấu đến dư luận xã hội.
3.2.6 Vai trò, trách nhiệm của cơ quan chủ quản có lúc, có nơi còn mờ nhạt. Cơ
quan QLNN về báo chí ở địa phương là Sở Thông tin và Truyền thông, cán bộ,
chuyên viên làm công tác này còn thiếu và yếu, nhiều nơi các đồng chí làm nhiệm vụ
này chưa được đào tạo qua các lớp nghiệp vụ về báo chí, xuất bản nên chất lượng
công tác chưa cao, thậm chí còn non yếu. Khả năng phát hiện, nắm bắt các nghiệp vụ
báo chí còn chưa theo kịp yêu cầu công tác QLNN về báo chí trong thời kỳ mới, thời
kỳ hội nhập và phát triển.
3.2.7 Công tác quản lý, kiểm soát các hoạt động của cơ quan báo chí thuộc quyền
còn bị buông lỏng, có nơi còn “khoán trắng” cho cơ quan báo chí toàn quyền quyết
định mọi nội dung. Xử lý không nghiêm, thậm chí bao biện cho sai phạm của cơ quan
báo chí thuộc quyền.
Trách nhiệm của các cấp ủy Đảng và của cơ quan chủ quản trong những năm qua
đã được nâng lên một bước, nhưng có những người được phân công phụ trách theo
dõi hoạt động báo chí vẫn chưa am hiểu nhiều công việc lãnh đạo, QLNN về lĩnh vực
này, nhất là ở các tỉnh, thành.
4- Quan điểm, nguyên tắc lãnh đạo quản lý báo chí ở nước ta hiện nay
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng cộng sản Việt Nam luôn coi trọng
công tác tuyên truyền báo chí, coi báo chí là “công cụ sắc bén trong công tác tư
tưởng của Đảng”, là “lực lượng xung kích trên mặt trận tư tưởng văn hóa”.
4.1 Quan điểm Đảng lãnh đạo báo chí
Trong thời kỳ đất nước đang có chiến tranh, nền kinh tế lạc hậu do cơ chế quan
liêu bao cấp nên việc quản lý xã hội nói chung chủ yếu dựa trên các Nghị quyết, Chỉ
thị của Đảng chứ chưa xây dựng một Nhà nước pháp quyền quản lý xã hội bằng pháp

luật. Công cuộc đổi mới do Đảng ta lãnh đạo đã trải qua một chặng đường đầy thử
thách, cam go nhưng cũng đầy sáng tạo, mang lại những chuyển biến toàn diện về
kinh tế và xã hội. Đảng ta đã xác định: báo chí vừa là tiếng nói của Đảng, của Nhà

9


nước, của các đoàn thể, vừa là diễn đàn của nhân dân – qua đó nối kết Nhà nước với
quần chúng, là cầu nối giữa Đảng với nhân dân.
Chúng ta đã biết lãnh đạo là đề ra chủ trương, đường lối và tổ chức động viên thực
hiện, còn quản lý là tổ chức và điều khiển các hoạt động theo những yêu cầu nhất
định. Theo đó lãnh đạo báo chí là sự định hướng về thông tin, vạch ra đường lối,
chiến lược thông tin; quản lý báo chí là việc sắp xếp, quy hoạch hệ thống báo chí và
tổ chức kiểm tra giám sát các hoạt động báo chí bằng pháp luật.
Có thể lấy ví dụ: ngay từ đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, Đảng ta đã sớm nhìn thấy
những biểu hiện lệch lạc của báo chí trong thời kỳ đầu của công cuộc đổi mới. Phân
tích, đánh giá tình hình này, Chỉ thị 63/CT-TW (ngày 25/7/1990) của Ban Bí thư
Trung ương Đảng đã phê phán: “Một số cơ quan báo, tạp chí, nhà xuất bản không
thực hiện đúng tôn chỉ mục đích, chức năng của mình… Khuynh hướng “giật gân”,
câu khách, kiếm tiền trong một số cơ quan báo chí, nhà xuất bản cho ra thị trường
những ấn phẩm gây hại lớn đến việc xây dựng con người mới, nền văn hoá mới, làm
cho dư luận bất bình; có báo, tạp chí đăng quảng cáo quá nhiều, quảng cáo cả cho
kẻ lừa và làm hàng xấu”[1].
Sau hai năm, trước diễn biến theo chiều hướng tiêu cực của nhiều sản phẩm báo
chí, Chỉ thị 08/CT-TW (ngày 31/3/1992) của Ban Bí thư tiếp tục phê phán nghiêm
khắc hơn và chính thức dùng cụm từ “thương mại hoá” để chỉ khuynh hướng chạy
theo lợi nhuận đơn thuần báo chí: “Khuynh hướng thương mại hoá, chạy theo lợi
nhuận đơn thuần, khá nặng nề dẫn tới đua nhau đăng và phát những tin, bài, hình
ảnh giật gân, câu khách. Cũng có một số bài báo, quyển sách có khuynh hướng chính
trị lệch lạc, phủ định quá khứ tốt đẹp, miêu tả đen tối thực trạng, tuyên truyền cho lối

sống chủ nghĩa thực dụng”[2].
Trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 5 (khoá VIII) về Xây dựng nền văn
hoá Việt Nam tiến tiến đậm đà bản sắc dân tộc, khuynh hướng thương mại hoá trong
báo chí tiếp tục được Đảng ta phê phán: “Khuynh hướng “thương mại hoá”, lạm
dụng quảng cáo để thu lợi còn khá phổ biến. Một số ít nhà báo đã vi phạm đạo đức
nghề nghiệp, thông tin thiếu trung thực, gây tác động xấu đến dư luận xã hội”[3].

10


Tuy đã được phát hiện và uốn nắn sớm, nhưng khuynh hướng thương mại hoá trên
báo chí nước ta sau đó không những không bị đẩy lùi, hạn chế mà còn phát triển trầm
trọng hơn. Chỉ thị 22/CT-TW (ngày 17/10/1997) của Bộ Chính trị (khoá VIII) về
Tiếp tục đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo, quản lý công tác báo chí, xuất bản đã
nhận định: “Một bộ phận báo chí, xuất bản bị khuynh hướng thương mại và cơ chế
thị trường chi phối, chạy theo thị hiếu tầm thường, đăng tải những chuyện giật gân,
tình dục, bạo lực, mê tín dị đoan hoặc những chuyện vụn vặt. Một số sách, báo, tạp
chí, nhất là các số phụ, số chuyên đề xa rời tôn chỉ mục đích và đối tượng phục vụ,
nhất là đối với công nhân, nông dân”[4].
Tại Hội nghị báo chí, xuất bản toàn quốc (tháng 10/2001), Trong Báo cáo của Ban
Tư tưởng – Văn hoá Trung ương, phần đánh giá tình hình báo chí qua 4 năm thực
hiện Chỉ thị 22 của Bộ Chính trị tiếp tục nêu nhận xét gay gắt: “Xu hướng thương
mại hoá ở không ít cơ quan báo chí và xuất bản chậm được ngăn chặn, đẩy lùi, nhiều
mặt còn nghiêm trọng hơn, thể hiện rõ nét ở cách làm báo, làm sách giật gân, câu
khách, kích thích thị hiếu thấp hèn, tò mò, chuộng lạ của một bộ phận độc giả thị dân
và những đối tượng trình độ văn hoá thấp. Biểu hiện của xu hướng thương mại hoá
ngày càng tinh vi, phức tạp”[5].
Vai trò chỉ đạo và tập trung của Đảng đối với báo chí không phải là bắt tay chỉ việc
mà là định hướng. Sự định hướng đó thể hiện trong các đường lối, quan điểm, nội
dung thông tin tuyên truyền. Đó là việc đi trước nắm bắt tình hình để dự báo các động

thái trong nước và thế giới, giúp cơ quan báo chí có điều kiện giữ đúng định hướng
thông tin như Nghị quyết Đại hội IX của Đảng đã nêu rõ: “Hướng báo chí xuất bản
làm tốt chức năng tuyên truyền, thực hiện đường lối, chủ trương chính sách của Đảng
và Nhà nước, phát hiện những nhân tố mới, cái hay, cái đẹp trong xã hội, giới thiệu
gương người tốt việc tốt, những điển hình tiên tiến, phê phán các hiện tượng tiêu cực,
uốn nắn những nhận thức lệch lạc, đấu tranh với những quan điểm sai trái; coi trọng
nâng cao tính chân thật, tính giáo dục và tính chiến đấu của thông tin; khắc phục
khuynh hướng “thương mại hoá” trong hoạt động báo chí, xuất bản”. [6]
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong thời kỳ đổi mới, báo chí nước ta đã tập trung
nhiều công sức cùng toàn Đảng, toàn dân thực hiện cuộc đấu tranh chống tiêu cực,

11


tham nhũng, buôn lậu, lãng phí, bài trừ các tệ nạn xã hội, chống mê tín dị đoan… góp
phần lập lại trật tự, kỷ cương, lành mạnh hoá quan hệ xã hội. Có thể khẳng định rằng:
trong công cuộc thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, báo chí nước ta đã
đóng vai trò quan trọng trong việc củng cố niềm tin của tầng lớp nhân dân vào đường
lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước.
Cuộc đấu tranh chống âm mưu “diễn biến hoà bình” của kẻ thù hiện nay đang đặt
ra cho việc quản lý báo chí nhiều vấn đề phải giải quyết, đòi hỏi phải có nhận thức
mới trên nhiều phương diện. Chính điều đó sẽ giúp cho những người làm báo nhìn
thấy rõ tính hai mặt của cơ chế thị trường ở nước ta hiện nay trong bối cảnh của toàn
cầu hoá, khu vực hoá và có thái độ vững vàng trước những khẩu hiệu loè bịp về “tự
do báo chí” mà các thế lực phản động vẫn đang rêu rao hòng che đậy bản chất xấu xa
của nền báo chí tư bản.
Để tiếp tục khẳng định vị trí của báo chí nước ta trong thời kỳ đổi mới, tiếp tục tạo
ra những tác động tích cực cho công cuộc xây dựng, phát triển đất nước, điều quan
trọng nhất đối với hệ thống báo chí là phải tiếp tục nâng cao chất lượng nội dung và
hình thức. Muốn vậy, càng cần phải tăng cường sự lãnh đạo và quản lý của Đảng và

Nhà nước đối với báo chí theo quan điểm phát triển phải đi đôi với quản lý tốt hệ
thống thông tin đại chúng.
Trong bối cảnh hiện nay, cần phải có một cơ chế kiểm tra, giám sát báo chí thật
chặt chẽ và linh hoạt. Điều đó sẽ giúp cho các cơ quan báo chí kiên quyết chống xu
hướng xa rời tôn chỉ, mục đích; chống xu hướng né tránh chính trị, “trung lập hoá”
báo chí. Công tác này còn làm cho hoạt động báo chí gắn liền với thực tiễn sản xuất
và đời sống, phản ánh sinh động phong trào cách mạng, phong trào thi đua yêu nước
của các tầng lớp nhân dân ở khắp mọi miền đất nước, phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân
dân ngày càng tốt hơn.
Công tác kiểm tra, giám sát thể hiện trách nhiệm của Đảng đối với hệ thống báo
chí. Điều đó thể hiện ở sự quan tâm, tạo điều kiện, kiểm tra, phát hiện những sai lầm,
nhược điểm để khắc phục. Có thể nói công tác này nhằm làm cho báo chí vận hành
tốt và đúng với sự định hướng.

12


Chúng ta khẳng định rằng: đối với báo chí cách mạng, sự lãnh đạo của Đảng không
những không làm hạn chế việc thông tin, tuyên truyền của báo chí mà còn là điều
kiện để báo chí thực hiện tốt hơn vai trò, nhiệm vụ của mình đối với xã hội.
4. 2 Nhà nước quản lý về báo chí
Trong công cuộc đổi mới, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước những
năm vừa qua, báo chí đã đóng vai trò quan trọng trong việc củng cố niềm tin của tầng
lớp nhân dân vào đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước. Rõ ràng là trong những
thành công của đất nước có thành công của báo chí và sự nghiệp đổi mới của đất
nước muốn thành công thì không thể thiếu sự tham gia đắc lực của báo chí.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu không thể phủ nhận, nền báo chí của chúng
ta hiện nay cũng đang thể hiện nhiều hạn chế, nhược điểm, thiếu sót… Điều đó cho
thấy sự cần thiết của việc hoạch định những chiến lược, chính sách để phát triển hệ
thống báo chí.

Đến nay, hệ thống các văn bản pháp luật, chính sách, chế độ đối với báo chí ở
nước ta đã tương đối hoàn chỉnh. Tuy nhiên, công tác quản lý báo chí theo quy định
của Luật báo chí và các văn bản hướng dẫn thi hành luật vẫn còn nhiều bất cập. Hiện
vẫn đang đặt ra yêu cầu cần có một tổ chức có đủ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn để
thực hiện vai trò quản lý. Nhiều lĩnh vực như phát thanh, truyền hình, mạng Internet,
báo chí Việt Nam ở nước ngoài, báo chí nước ngoài ở Việt Nam… vẫn chưa được
quản lý tốt.
Sự quản lý của Nhà nước còn thể hiện trong công tác quy hoạch hệ thống báo chí.
Việc quy hoạch hợp lý hệ thống báo chí trong cả nước nhằm tạo ra sự thống nhất,
tính hợp lý để báo chí có thể phát huy tốt nhất hiệu quả thông tin, tuyên truyền phục
vụ nhân dân trong công cuộc đổi mới hiện nay.
Cùng với việc động viên, phát huy những yếu tố tích cực trong hoạt động báo chí,
cần phải xử lý nghiêm những cơ quan báo chí, nhà báo vi phạm những quy định trong
hoạt động báo chí. Đối với những nhà báo phạm luật, cần phải lên án mạnh mẽ và
luật pháp cần phải nghiêm khắc trừng trị (như trường hợp các nhà báo trong vụ án
“Trương Văn Cam và đồng bọn”). Chỉ có như thế mới từng bước làm cho hệ thống
báo chí của chúng ta trở nên trong sạch, lấy lại niềm tin của nhân dân. Mà muốn như

13


vậy Nhà nước không thể bỏ qua việc giám sát, kiểm tra, xử lý. Các cơ quan quản lý
báo chí thường xuyên kiểm tra giám sát các cơ quan báo chí thực hiện Luật báo chí,
làm tham mưu cho cấp uỷ Đảng chính quyền về những vấn đề mới nảy sinh để có
biện pháp xử lý kịp thời.
Việc giám sát, kiểm tra, xử lý đòi hỏi sự góp sức của nhiều cấp, nhiều ngành, trong
đó có vai trò quan trọng của các cơ quan luật pháp và của chính các cơ quan báo chí,
cơ quan chủ quản báo chí cùng với các cơ quan làm nhiệm vụ quản lý báo chí từ
Trung ương đến địa phương.
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta luôn có sự quan tâm đặc biệt đến

công tác đào tạo, đào tạo lại nhằm nâng cao trình độ của người phóng viên báo chí.
Tuy nhiên, để phát triển một nền báo chí phục vụ công cuộc đổi mới trong giai đoạn
công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh mới,
vẫn đang rất cần những giải pháp hiệu quả nhằm nâng cao chất lượng của công tác
đào tạo, đào tạo lại đối với đội ngũ cán bộ báo chí ở nước ta.
Trong hoàn cảnh tiếp tục sự nghiệp đổi mới trong cơ chế thị trường, pháp luật đã
trở nên phương tiện hàng đầu trong việc quản lý xã hội nói chung, quản lý báo chí nói
riêng. Để xây dựng Nhà nước pháp quyền thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật
trên cơ sở Hiến pháp thì việc đầu tiên là phải khẩn trương hoàn thiện và bổ sung hệ
thống pháp luật sao cho nó thực sự là công cụ để Nhà nước quản lý xã hội, đáp ứng
yêu cầu hợp tác quốc tế, phù hợp với tiến trình phát triển xã hội.
Báo chí là một lĩnh vực riêng, đồng thời phải hoạt động theo luật pháp nói chung.
Bởi lẽ đó, hoạt động báo chí cũng như hoạt động của công tác quản lý Nhà nước đối
với báo chí trước hết phải được đặt trên cơ sở một hệ thống pháp luật. Các hoạt động
luật pháp, hành pháp, tư pháp của Nhà nước về báo chí phải luôn luôn được hoàn
thiện phù hợp với yêu cầu đổi mới đất nước. Luật Báo chí (do Quốc hội nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá VIII ban hành năm 1989) đã xác lập hành
lang pháp luật về báo chí, đặt cơ sở pháp lý cho hoạt động báo chí nước ta phát
triển đúng định hướng…
Quá trình quản lý Nhà nước bằng pháp luật trở thành yếu tố quan trọng quyết định
sự thành bại của công cuộc đổi mới – trong đó có hoạt động báo chí. Thời gian qua,

14


Chính phủ ta đã ban hành một loạt văn bản mới, khẳng định quyết tâm của Đảng,
Nhà nước ta trong việc phát triển nền tảng cho một xã hội thông tin dựa trên nền
kinh tế tri thức và phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Sự phát triển nhanh chóng của báo chí và những đòi hỏi của nhân dân đang đặt ra
những đòi hỏi ngày càng tăng đối với những người làm công tác quản lý Nhà nước về

báo chí. Nền báo chí cách mạng nước ta không thể để khuynh hướng thương mại hóa
chi phối hoạt động báo chí. Để tiếp tục xứng đáng với sự tin cậy của Đảng và nhân
dân, báo chí Việt Nam cần kiên quyết khắc phục những hiện tượng trên.
Tăng cường quản lý báo chí cũng chính là tăng cường vai trò lãnh đạo của
Đảng được thể hiện thông qua hoạt động quản lý của bộ máy Nhà nước các cấp
các ngành, các địa phương. Đây là một bảo đảm chắc chắn cho báo chí có thể
phát triển ngày càng lớn mạnh, đồng thời cũng để Đảng kịp thời phát hiện, khắc
phục những thiếu sót, ngăn chặn những âm mưu nham hiểm của kẻ thù nhằm lợi
dụng báo chí để phá hoại công cuộc đổi mới phát triển đất nước của nhân dân ta.
Nói tóm lại, quản lý tốt chính là tạo một khuôn khổ pháp lý cơ bản, tạo môi trường
tự do sáng tạo, bình đẳng cho báo chí phát triển, đồng thời là hoạt động bảo đảm định
hướng xã hội chủ nghĩa trong hoạt động báo chí, chống xu hướng thương mại hoá
báo chí, bảo tồn, phát triển nền văn hoá dân tộc, ngăn chặn các hoạt động báo chí bất
chấp hậu quả về chính trị, tư tưởng và văn hoá. Lợi nhuận của hoạt động báo chí
không thể tách rời các mục tiêu hàng đầu về chính trị, tư tưởng và văn hoá.
4. 3. Tăng cường sự lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước đối với báo chí
Dưới ánh sáng của Nghị quyết và các văn kiện của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
IX, hoạt động báo chí nước ta cần tiếp tục quán triệt các quan điểm chỉ đạo nêu trong
Chỉ thị 22 của Bộ chính trị khoá VIII, chống các tiêu cực, lệch lạc, đặc biệt là chống
thương mại hoá báo chí.
Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với hoạt động
báo chí, tạo cơ sở thực tiễn để chống thương mại hoá báo chí, trong bối cảnh hiện
nay, chúng ta cần phải chú ý những vấn đề sau đây:
- Tăng cường sự lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước theo phương châm phát
triển đi đôi với quản lý tốt. Phát triển toàn diện báo chí mà trọng tâm là nâng cao chất

15


lượng tư tưởng, chính trị, văn hoá, khoa học. Đổi mới nghiệp vụ thông tin, hình thức

trình bày, in ấn theo hướng từng bước hiện đại hoá, quan tâm hàng đầu tới chất lượng
và hiệu quả.
- Nâng cao tính tư tưởng, tính chân thật, tính chiến đấu của các sản phẩm báo chí,
hướng nội dung thông tin vào nhiệm vụ trung tâm là phục vụ sự nghiệp bảo vệ độc
lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hoạt động báo chí, xuất bản phải gắn liền
với thực tiễn sản xuất và đời sống, phản ánh sinh động phong trào cách mạng, phong
trào thi đua yêu nước của các tầng lớp nhân dân ở mọi miền đất nước. Những người
làm báo phải là đội quân tư tưởng, văn hoá đáng tin cậy của Đảng.
- Quy hoạch và xây dựng hệ thống thông tin đại chúng cân đối, đồng bộ, hợp lý.
Vấn đề này thực hiện còn chậm do tư tưởng cục bộ, bản vị, thiếu kiên quyết của một
số địa phương và ngành chủ quản, thiếu một cơ chế thống nhất để giải quyết hàng
loạt vấn đề tiếp theo khi đình bản một tờ báo, ngừng phát sóng một đài phát thanh
truyền hình v.v… Điều này còn có nguyên nhân do tư tưởng hữu khuynh ở một số cơ
quan chủ quản, cơ quan quản lý.
- Trước tình hình chính trị phức tạp, các thế lực thù địch thực hiện diễn biến hoà
bình khiến cho cuộc đấu tranh thông tin ngày càng quyết liệt, các cấp quản lý, lãnh
đạo báo chí cần chú ý trong việc nắm bắt tình hình, dự báo các hoạt động trong nước
và thế giới giúp cơ quan báo chí có điều kiện giữ đúng định hướng thông tin.
- Có những quy định chặt chẽ trong việc chọn Ban biên tập, nhất là Tổng biên tập
để đảm bảo vừa có trình độ chính trị vững vàng, có nghiệp vụ báo chí giỏi, vừa phải
có khả năng quản lý tốt để thực hiện nghiêm chỉnh tôn chỉ mục đích của mỗi tờ báo.
Tổng biên tập các đài, báo cần quan tâm chỉ đạo, thẩm định các thông tin, bảo đảm
cho các thông tin báo chí sự trung thực, chống hiện tượng lợi dụng báo chí để thực
hiện ý đồ cá nhân; chủ động xử lý nghiêm khắc các sai phạm trong nội bộ cơ quan
báo chí.
- Đặc thù hoạt động của nhà báo là thường xuyên độc lập ở nhiều nơi trên nhiều
lĩnh vực khác nhau, công việc có tính điều tra phát hiện và mang tính xã hội cao. Vì
vậy các cơ quan báo chí ngoài việc kiểm tra, giám sát còn phải làm cho nhà báo tự ý
thức về mỗi việc mình làm, tự giác chấp hành các quy định về nghề nghiệp, nêu cao ý


16


thức chính trị, đạo đức của người làm báo. Các cơ quan quản lý Nhà nước về báo chí
phải thường xuyên uốn nắn nhắc nhở các cơ quan báo chí tăng cường hơn nữa việc
quản lý đội ngũ và các hoạt động về nghề báo.
- Các cơ quan chủ quản của cơ quan báo chí phải có sự chỉ đạo chặt chẽ, đồng thời
phải đầu tư thích đáng, tài trợ cho tờ báo của mình có đủ điều kiện làm việc, không
phải lo xoay sở kiếm tiền bằng mọi cách. Cần phải nhanh chóng xây dựng một loạt
những quan điểm cơ bản cho phù hợp với tình hình mới, ban hành những văn bản
dưới luật và một số chế độ chính sách để tạo động lực thúc đẩy nâng cao chất lượng
báo chí như: chế độ tiền lương, chế độ nhuận bút, chính sách giá v.v…
- Cơ quan quản lý Nhà nước cần phải thường xuyên kiểm tra, giám sát các cơ quan
báo chí thực hiện Luật báo chí và Luật xuất bản, phải làm tham mưu cho cấp uỷ Đảng
chính quyền về những vấn đề mới nảy sinh để có biện pháp xử lý kịp thời, phải kiên
quyết xử lý các trường hợp vi phạm quy định về thông tin, xa rời tôn chỉ mục đích
của các cơ quan báo chí. Cơ quan chủ quản báo chí cần nâng cao trách nhiệm quản lý
của mình. Nâng cao ý thức trách nhiệm và vai trò của người làm báo và của mỗi cơ
quan báo chí trong việc thực hiện đường lối thông tin báo chí của Đảng.
- Các cơ quan báo chí cần thực hiện đúng tôn chỉ, mục đích và đối tượng phục vụ
thực hiện đúng các quy định về thông tin mà pháp luật quy định. Phải chủ động và
tích cực ngăn ngừa, khắc phục khuynh hướng thương mại hoá trong thông tin báo chí.
Phải coi đây là việc làm liên tục, kiên quyết, kết hợp nhiều giải pháp. Nhà báo phải
thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ đã được Luật báo chí quy định, phải không ngừng
nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp để có thể thông tin
trung thực, chính xác, đúng định hướng.
- Cần có sự quản lý và tập trung thống nhất của Đảng và Nhà nước về hệ thống đào
tạo bồi dưỡng và nội dung đào tạo bồi dưỡng cán bộ báo chí và cán bộ quản lý báo
chí.
Nói tóm lại, sự trưởng thành của nền báo chí cách mạng Việt Nam luôn gắn liền

với sự phát triển của đất nước. Việc tăng cường sự lãnh đạo, quản lý của Đảng và
Nhà nước với những biện pháp cụ thể, những cơ chế, chính sách hợp lý và hiệu quả
sẽ giúp cho báo chí nước ta có điều kiện ngày càng nâng cao năng lực phục vụ nhân

17


dân, phục vụ đất nước trong sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Công tác quản lý Nhà nước về báo chí đòi hỏi sự góp sức của nhiều cấp, nhiều ngành,
của cả cơ quan báo chí, cơ quan chủ quản báo chí và các cơ quan làm nhiệm vụ quản
lý báo chí từ Trung ương đến địa phương nhằm làm cho nền báo chí cách mạng nước
ta tiếp tục phát triển, phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân ngày càng tốt hơn.

18


THỰC TRẠNG CỦA BÁO CHÍ TRUYỀN THÔNG HIỆN NAY VÀ
NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CHO HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ BÁO CHÍ
1. QUAN NIỆM VỀ HOẠT ĐỘNG BÁO CHÍ TRUYỀN THÔNG VÀ
HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ BÁO CHÍ TRUYỀN THÔNG
Quan niệm về hoạt động Báo chí truyền thông
Trong xu thế toàn cầu hóa đang diễn ra một cách mạnh mẽ trên thế giới như hiện
nay, hoạt động thông tin nói chung và báo chí nói riêng ngày càng đóng vai trò quan
trọng trong đời sống xã hội. Báo chí đang thực sự có những bước đột biến, đi vào
chiều sâu về cả lượng và chất. Trong những năm qua, thông tin trên báo chí nước ta
đã góp phần quan trọng vào mọi mặt của đời sống xã hội, phấn đấu vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trong hơn 20 năm thực hiện
chính sách và đường lối đổi mới do Đảng ta lãnh đạo, các phương tiện truyền thông
đại chúng đóng vai trò hết sức quan trọng trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa,
xã hội và đấu tranh phòng chống tội phạm

Báo chí thực sự đã trở thành một trong những kênh thực hiện nhiệm vụ tuyên
truyền quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà
nước; phát hiện và phản ánh tâm tư, nguyện vọng của quần chúng; những vấn đề bức
xúc trong đời sống xã hội; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực, quan
liêu lãng phí và suy thoái đạo đức, lối sống… Báo chí cũng đã góp phần giáo dục
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, truyền thống cách mạng, góp phần nâng cao dân trí,
đáp ứng nhu cầu ngày càng cao, phong phú và đa dạng về đời sống tinh thần của
nhân dân… Bên cạnh những vấn đề trên, báo chí nước ta trong quá trình đổi mới và
hội nhập đã góp phần nâng cao chất lượng thông tin đối ngoại, góp phần quan trọng
giới thiệu đất nước, văn hóa con người Việt Nam với bạn bè quốc tế; thực hiện đường
lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng, đa phương hóa các quan hệ quốc tế của Đảng,
Nhà nước ta; góp phần nâng cao uy tín và vị thế Việt Nam trên trường quốc tế.
Theo triết học cổ Hy Lạp: “Chữ báo chí xuất phát từ chữ information có nghĩa là
thông tin, thông báo, báo tin và được hiểu như việc tạo ra hình thái giúp cho sự hiểu
biết của con người về thế giới xung quanh đang tồn tại bằng việc lấy hiện thực khách

19


quan để phản ánh một cách liên tục, xuyên suốt trong quan hệ chặt chẽ giữa nhà báo tác phẩm - công chúng”
Trong khi đó, chính các tác giả quyển sách này lại cho rằng: “Báo chí là bao gồm
tất cả các tổ chức thông tin thuật những loại hình khác nhau (xuất bản, radio, vô
tuyến truyền hình…) và ở những cấp độ khác nhau từ trung ương đến địa phương, với
ý nghĩa là tất cả các phương tiện thông tin đại chúng”.
Một số quan điểm khác thì không định nghĩa báo chí riêng biệt mà gắn liền báo chí
với truyền thông. Ở cách hiểu này, trong Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học
định nghĩa báo chí truyền thông hiểu theo nghĩa chung nhất và trừu tượng nhất là
“quá trình truyền dữ liệu giữa các đơn vị chức năng”
Trong Từ điển xã hội học do G. Endruweit và G. Trommsdorff chủ biên, định
nghĩa báo chí truyền thông là “sự tạo ra mối liên hệ giữa hai đối tượng có thể mang

bản chất sự sống hay không”
Còn tác giả Trần Hữu Quang trong cuốn Xã hội học truyền thông đại chúng thì
khẳng định: “Báo chí truyền thông là một quá trình truyền đạt, tiếp nhận và trao đổi
thông tin nhằm thiết lập các mối liên hệ giữa con người với con người”. Theo đó, tác
giả này định nghĩa, “truyền thông đại chúng là quá trình truyền đạt thông tin một cách
rộng rãi đến mọi người trong xã hội thông qua các phương tiện truyền thông đại
chúng như phát thanh, truyền hình”
Quan niệm về hoạt động quản lý Báo chí truyền thông
-

Quản lý là sự tác động có mục đích của chủ thể quản lý đến các đối tượng

quản lý.
-

Quản lý xuất hiện ở bất kỳ nơi nào, lúc nào nếu ở nơi đó và lúc đó có hoạt

động chung của con người.
-

Mục đích, nhiệm vụ của quản lý là điều khiển, chỉ đạo hoạt động chung của

con người, phối hợp các hoạt động riêng lẻ của từng cá nhân tạo thành một hành động
thống nhất của tập thể để hướng đến mục tiêu đã định trước.
- Quản lý được thực hiện bằng tổ chức và quyền uy nhằm đảm bảo sự phục tùng và
tạo sự thống nhất trong quản lý

20



- “Quản lý Nhà nước trong lĩnh vực báo chí cũng như bất kỳ một dạng quản lý xã
hội nào khác, là dạng quản lý công vụ quốc gia của bộ máy Nhà nước - là công việc
của bộ máy hành pháp. Nó là sự tác động có tổ chức và được điều chỉnh bằng pháp
luật, trên cơ sở quyền lực Nhà nước đối với các quá trình xã hội và hoạt động báo chí
do các cơ quan có thẩm quyền trong hệ thống hành pháp từ Trung ương đến cơ sở
tiến hành để thực hiện chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước, phát triển các mối quan
hệ xã hội, thỏa mãn nhu cầu tự do báo chí của công dân”
Các nguyên tắc quản lý Nhà nước đối với báo chí


Nguyên tắc tôn trọng quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận của công

dân


Nguyên tắc đảm bảo quyền thụ hưởng thành quả hoạt động báo chí

một cách bình đẳng của tất cả công dân


Kiên quyết đấu tranh chống lợi dụng việc tôn trọng tự do báo chí, tự

do ngôn luận làm trái pháp luật
Nội dung quản lý Nhà nước đối với báo chí
1- Xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển sự
nghiệp báo chí;
2- Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về báo chí; xây
dựng chế độ, chính sách về báo chí;
3- Tổ chức thông tin cho báo chí; quản lý thông tin của báo chí;
4- Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chính trị, nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp

cho đội ngũ cán bộ báo chí;
5- Tổ chức, quản lý hoạt động khoa học, công nghệ trong lĩnh vực báo chí;
6- Cấp, thu hồi giấy phép hoạt động báo chí, thẻ nhà báo;
7- Quản lý hợp tác quốc tế về báo chí, quản lý hoạt động của báo chí Việt Nam liên
quan đến nước ngoài và hoạt động báo chí nước ngoài tại Việt Nam;
8- Kiểm tra báo chí lưu chiểu; quản lý kho lưu chiểu báo chí;
9- Tổ chức, chỉ đạo công tác khen thưởng trong hoạt động báo chí;
10- Hướng dẫn, thanh tra, kiểm tra việc thực hiện chế độ, chính sách, quy hoạch,
kế hoạch phát triển báo chí và việc chấp hành pháp luật về báo chí; thi hành các biện

21


pháp ngăn chặn hoạt động báo chí trái pháp luật; giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý vi
phạm trong hoạt động báo chí".
Ý nghĩa của việc quản lý Nhà nước đối với báo chí
Nhà nước đối với báo chí có các ý nghĩa to lớn khi vừa đảm bảo được trật tự an
ninh, an toàn xã hội vừa đảm đảm bảo tôn trọng quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận
trên báo chí của công dân
Làm cho báo chí hoạt động và phát triển theo đúng chủ trương của Đảng và pháp
luật của Nhà nước, đấu tranh tích cực, làm thất bại các âm mưu sử dụng diễn đàn của
nhân dân cho chiến lược diễn biến hòa bình trên phương diện thông tin đại chúng và
văn hóa xã hội
2. THỰC TRẠNG CỦA BÁO CHÍ TRUYỀN THÔNG HIỆN NAY
Tình hình hoạt động báo chí:
Trong năm qua, những khó khăn của nền kinh tế thế giới và trong nước đã có ảnh
hưởng không nhỏ đến sự phát triển của báo chí. Với sự chỉ đạo kịp thời của Ban
Tuyên giáo Trung ương, Bộ Thông tin và Truyền thông và Hội Nhà báo Việt Nam, sự
quản lý trực tiếp của các cơ quan chủ quản, các cơ quan báo chí đã có nhiều cố gắng,
duy trì hoạt động, tiếp tục phát triển về số lượng, chất lượng, hình thức và nội dung

báo chí cũng như đội ngũ những người làm báo.
Về báo chí in, tính đến tháng 3 năm 2012, cả nước có 786 cơ quan báo chí in với
1.016 ấn phẩm. Trong đó báo có 194 cơ quan (gồm 81 báo chí Trung ương, 113 báo
địa phương); tạp chí có 592 cơ quan (475 tạp chí Trung ương và 117 tạp chí địa
phương).
Trong năm qua, sự khó khăn của doanh nghiệp đã có tác động làm suy giảm doanh
thu quảng cáo trên báo chí in. Tuy nhiên, nhìn trên bình diện tổng thể, doanh thu
quảng cáo vẫn lớn hơn năm 2010 nhưng tỷ lệ tăng trưởng có giảm hơn so với những
năm trước đó. Theo số liệu báo cáo của các cơ quan báo chí, tổng doanh thu quảng
cáo của loại hình báo chí in trong năm 2010 là khoảng 1690 tỷ đồng; ước tính năm
2011 là khoảng trên 1700 tỷ đồng; tổng doanh thu năm 2011 ước tính khoảng 4200 tỷ
đồng, trong đó nộp ngân sách nhà nước khoảng 300 tỷ đồng.

22


Về phát thanh, truyền hình, hiện toàn quốc có 67 đài Phát thanh truyền hình Trung
ương và địa phương, trong đó có 2 đài quốc gia, 1 đài truyền hình kỹ thuật số, 64 Đài
Phát thanh, truyền hình cấp tỉnh. Ngoài hệ thống truyền hình quảng bá, hệ thống
truyền hình trả tiền ở nước ta phát triển mạnh bằng nhiều loại công nghệ truyền dẫn
như cáp, vệ tinh, số mặt đất và đang bước đầu thử nghiệm công nghệ IPTV. Cả nước
có 47 đơn vị được cấp phép hoạt động truyền hình cáp, 09 đơn vị cung cấp dịch vụ
truyền dẫn tín hiệu truyền hình cáp.Trong đó có 03 đơn vị cung cấp dịch vụ truyền
dẫn tín hiệu truyền hình cáp lớn nhất trong cả nước là VCTV, SCTV và HTVC.
Riêng 05 cơ quan báo hình lớn nhất của Việt Nam (Đài Truyền hình Việt Nam, Đài
Truyền hình Kỹ thuật số VTC, Đài Phát thanh - Truyền hình Hà Nội, Đài Truyền
hình thành phố Hồ Chí Minh, Đài Phát thanh- Truyền hình Bình Dương) đã sản xuất
62 kênh truyền hình trả tiền. Ngoài ra, trên hệ thống truyền hình trả tiền hiện có 75
kênh truyền hình nước ngoài, phục vụ gần 2,5 triệu thuê bao trên toàn quốc. Năm
2011, toàn ngành phát thanh- truyền hình nộp ngân sách nhà nước 900 tỷ đồng.

Cũng tính đến tháng 3 năm 2012, trong lĩnh vực thông tin điện tử, cả nước có 61
báo, tạp chí điện tử, 191 mạng xã hội, hơn 1.000 trang thông tin điện tử tổng hợp.
Cả nước có gần 17.000 nhà báo được cấp thẻ hành nghề, hàng nghìn phóng viên
đang hoạt động báo chí chuẩn bị đến thời hạn cấp thẻ.
Nhiều cơ quan báo chí chủ động tổ chức các hoạt động xã hội từ thiện như ủng hộ
đồng bào bị thiên tai ở trong nước và quốc tế, hỗ trợ đồng bào những vùng khó khăn,
các đối tượng chính sách, tổ chức các hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thể thao tôn
vinh các doanh nghiệp, doanh nhân, người lao động xuất sắc.
Tình hình thông tin trên báo chí:
Trong bối cảnh tình hình quốc tế và trong nước có những diễn biến phức tạp nhưng
có thể nói báo chí đã làm tốt vai trò, trách nhiệm là cơ quan ngôn luận của Đảng, Nhà
nước và diễn đàn của nhân dân, với những kết quả đáng ghi nhận:
- Trong năm qua, báo chí trong cả nước đã thực hiện đúng sự lãnh đạo, chỉ đạo,
định hướng thông tin của Đảng, Nhà nước, thông tin nhanh nhạy, đầy đủ, toàn diện
về mọi diễn biến của đời sống chính trị, kinh tế - xã hội ở trong nước và quốc tế, là
diễn đàn thực sự tin cậy của nhân dân.

23


- Thông tin trên báo chí in, phát thanh, truyền hình và thông tin điện tử đã tuyên
truyền sâu rộng, có chất lượng, với hình thức phong phú, đa dạng về những sự kiện
trọng đại của đất nước như: Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI và công tác triển khai
đưa Nghị quyết Đại hội Đảng vào cuộc sống; Bầu cử Quốc hội khóa XIII và Hội
đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2011-2016; Kỳ họp thứ nhất và thứ hai Quốc hội
khóa XIII; Kỷ niệm 100 năm ngày Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước, 80 năm thành
lập Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và năm Thanh Niên 2011 v.v...
Hiện nay, báo chí đang tập trung tuyên truyền việc quán triệt triển khai thực hiện
Nghị quyết Trung ương 4 trong cả nước, tạo được lòng tin, thu hút sự quan tâm của
toàn Đảng, toàn dân đối với Nghị quyết quan trọng này.

- Báo chí phát huy tính chủ động, sáng tạo, tích cực tuyên truyền các giải pháp điều
hành kinh tế - xã hội của Chính phủ nhằm phát triển kinh tế, kiềm chế lạm phát, ổn
định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao niềm tin của nhân dân vào sự
lãnh đạo của Đảng, sự điều hành của Chính phủ. Báo chí cũng đã tập trung phản ánh
một số nhiệm vụ cấp bách mà Đảng, Nhà nước đang chỉ đạo như tái cơ cấu doanh
nghiệp nhà nước, tài chính tiền tệ, giá cả thị trường, quản lý và sử dụng đất đai, xuất
khẩu hàng hóa, xóa đói giảm nghèo...
Bên cạnh đó, những vấn đề nóng của nền kinh tế được cả xã hội quan tâm như sự
phá sản của nhiều doanh nghiệp; nợ thuế và nợ ngân hàng của các đơn vị kinh tế tư
nhân được báo chí phản ánh với thái độ khách quan, thận trọng, không gây bức xúc
trong xã hội. Báo chí cũng đã đưa ý kiến của nhiều chuyên gia, nhà chuyên môn đánh
giá, dự báo trên tinh thần khách quan, xây dựng, góp phần xử lý những khó khăn,
vướng mắc trong sản xuất và đời sống.
- Báo chí đã bám sát tư tưởng chỉ đạo, quan điểm, giải pháp của Đảng, Nhà nước ta
về những vấn đề phức tạp, nhạy cảm. Hàng trăm bài viết về chủ đề biển đảo đăng,
phát trên các phương tiện thông tin đại chúng đã thể hiện ý thức bảo vệ chủ quyền
lãnh thổ đồng thời bảo đảm môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.
- Báo chí đã góp phần quan trọng trong việc phát triển dân chủ xã hội, kịp thời phát
hiện, đấu tranh kiên quyết với những hành vi tham nhũng, lãng phí và các hành vi

24


tiêu cực xã hội khác, góp phần củng cố niềm tin của người dân đối với Đảng, Nhà
nước, chế độ.
- Tuyên truyền có hiệu quả việc “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh”; kịp thời biểu dương những gương người tốt, việc tốt, những điển hình tiên
tiến trong lao động, học tập và bảo vệ Tổ quốc.
- Báo chí đã làm tốt việc đấu tranh phản bác các quan điểm, thông tin sai trái của

các thế lực thù địch và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ
cán bộ, đảng viên. Thông tin trên báo chí đã góp phần quảng bá hình ảnh đất nước và
con người Việt Nam, thành tựu đổi mới của nhân dân ta với bạn bè quốc tế và đồng
bào ta sinh sống ở nước ngoài.
- Đối với các vụ việc nhạy cảm, phức tạp, báo chí đã thể hiện sự chấp hành đúng
các quy định của pháp luật; sự chỉ đạo và cung cấp thông tin của các cơ quan chức
năng, tạo được những thông tin chính xác, kịp thời góp phần ổn định dư luận xã hội.
3. NHỮNG VẤN ĐỀ TỒN TẠI
Trong thời gian qua công tác báo chí đã đạt được những thành tích đáng ghi nhận,
góp phần vào sự nghiệp đổi mới của đất nước, ổn định chính trị xã hội, xứng đáng là
lực lượng xung kích trên mặt trận tư tưởng văn hóa của Đảng. Tuy nhiên, cũng
nghiêm khắc nhận thấy rằng một số thiếu sót, khuyết điểm, thậm chí là những khuyết
điểm nghiêm trọng, kéo dài trong hoạt động báo chí chậm được khắc phục đang đặt
ra cho chúng ta những suy nghĩ về trách nhiệm của những người làm báo, quản lý
báo chí đối với sứ mệnh mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó.
- Thông tin không đúng với tôn chỉ, mục đích, không đúng đối tượng phục vụ đã
được quy định trong giấy phép. Đây là khuyết điểm lớn nhất, kéo dài nhất, trong đó
trách nhiệm trước hết là cơ quan báo chí, cơ quan chủ quản báo chí và cũng phải nói
đến sự thiếu kiên quyết của cơ quan quản lý nhà nước về báo chí. Tình trạng báo của
ngành này, địa phương này nhưng lại đưa thông tin nhiều về ngành khác, địa phương
khác, mà lại chủ yếu là các vấn đề tiêu cực, thông tin một chiều, thiếu kiểm chứng,

25


×