Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Tiểu luận môn kế toán quốc tế lịch sử hình thành và phát triển của chuẩn mực kế toán quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (201.85 KB, 15 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC

KẾ TOÁN QUỐC TẾ

LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
CỦA CHUẨN MỰC KẾ TOÁN QUỐC TẾ

SVTH: NGUYỄN THỊ KIM CHI
STT: 06
LỚP: 16C1ACC52201
KHÓA 25 (2015 – 2017)
GVHD: TS. PHẠM QUANG HUY

TP. HCM, tháng 08 năm 2016


NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN
..................................................................................................................................................
..................................................................................................................................................
..................................................................................................................................................
..................................................................................................................................................
..................................................................................................................................................
..................................................................................................................................................
..................................................................................................................................................
..................................................................................................................................................
..................................................................................................................................................
..................................................................................................................................................
..................................................................................................................................................
..................................................................................................................................................
..................................................................................................................................................


..................................................................................................................................................
..................................................................................................................................................
..................................................................................................................................................
..................................................................................................................................................
..................................................................................................................................................
..................................................................................................................................................
..................................................................................................................................................
Ngày … tháng … năm …

TS. Phạm Quang Huy


LỜI CẢM ƠN
Mặc dù chưa có nhiều kinh nghiệm trong quá trình nghiên cứu và kiến thức còn hạn chế
nhưng cùng với sự trợ giúp của giảng viên hướng dẫn, sự tổng hợp tài liệu từ kho sách báo của
thư viện ,... đã giúp em hoàn thành bài tiểu luận này.
Em xin chân thành cảm ơn:
• Ban giám hiệu nhà trường đã tạo những điều kiện học tập tốt nhất với cơ sở vật
chất, trang thiết bị hiện đại... giúp quá trình nghiên cứu và hoàn thành bài tiểu luận
được dễ dàng hơn.
• Các cán bộ quản lí thư viện đã tạo điều kiện tốt nhất cho em vào tham khảo tài
liệu, tìm kiếm thông tin từ sách báo, từ hệ thống Internet.
• Đặc biệt là giảng viên: TS. Phạm Quang Huy đã hướng dẫn cặn kẽ cho em phương
thức thực hiện bài nghiên cứu này.
Em xin chân thành cảm ơn!
TP Hồ Chí Minh, tháng 08 năm 2016


MỤC LỤC



1. Lịch sử hình thành và phát triển của chuẩn mực kế toán quốc tế
1.1. Sự cần thiết phải có chuẩn mực kế toán quốc tế và những rào cản đối với việc
hình thành chuẩn mực kế toán quốc tế
 Giai đoạn hình thành:
- Trong quá trình nghiên cứu về lịch sử kế toán, các nhà khoa học đã tìm thấy
nhiều tài liệu ghi khắc trên các cổ vật bằng đá, bằng đất nung của các dân tộc xa xưa cho
thấy kế toán đã xuất hiện rất lâu, từ khoảng 3, 4 ngàn năm trước công nguyên. Điều này
như minh chứng rõ hơn về lịch sử của kế toán: hình thành và phát triển cùng lúc với sự
hình thành đời sống kinh tế xã hội của loài người.
- Để có thể tồn tại và phát triển trước những thử thách khắc nghiệt của giới tự
nhiên,con người luôn tìm mọi cách đương đầu và vượt khó khăn, cố gắng nâng cao đời
sống thông qua hoạt mua bán trao đổi hàng hóa. Và để hỗ trợ trong việc đo lường hiệu quả,
đánh giá và tiên liệu những hoạt động kinh tế phát sinh, con người đã sử dụng một công
cụ, đó chính là hạch toán. Khi xã hội phát triển thì công cụ này cũng ngày càng phát triển,
phong phú và đa dạng về nội dung, hình thức và phương pháp.Phương pháp hạch toán kế
toán ra đời và trở thành một bộ phận không thể tách rời của lịch sử hạch toán.
- Có thể nói trước khi trở thành một môn khoa học độc lập, hạch toán kế toán đơn
thuần chỉ là công cụ được con người sử dụng để phản ánh, sao chép hiện thực của đời sống
kinh tế một cách thụ động trong đầu óc của con người, không có sự hỗ trợ của các công cụ
tính toán, dù là thô sơ nhất. Cho đến khi chữ viết và số học cao cấp ra đời, đỉnh cao là việc
phát minh ra hệ đếm thập phân và sử dụng rộng rãi chữ số Ả rập, đã tạo điều kiện cho hạch
toán kế toán phát triển, xuất hiện phương pháp hạch toán kế toán đầu tiên: phương pháp kế
toán đơn. Phương pháp này chịu sự ảnh hưởng nhiều bởi nền văn minh La Mã cổ đại và Ba
Tư, thể hiện ở sự lệ thuộc vào các quy tắc của tài khoản tài sản và tiền tệ khi họ cho rằng,
ban đầu người ta cần kê lại mọi tài sản, do đó phương pháp kiểm kê ra đời trước tiên. Tuy
nhiên để thực hiện công việc này, cần thiết phải phân loại tài sản theo một số tiêu thức nhất
định, điều này đã dẫn đến việc hình thành một phương pháp mới: phương pháp tài khoản,
và tài khoản trở thành một hệ thống thống nhất khi xuất hiện thước đo bằng tiền tệ.
 Giai đoạn hình thành:

Tuy nhiên do đời sống xã hội con người ngày càng phát triển, để có thể đáp ứng
được nhu cầu sống và kinh doanh, phương pháp kế toán cũng ngày càng chi tiết và tỉ mỉ
hơn.
Năm 1494, phương pháp ghi sổ kép do Luca Pacioli- một nhà toán học người Ý
tạo ra được xem là một bước ngoặc mới trong quá trình phát triển kế toán. Cách thức ghi
chép vào sổ cái, kỹ thuật ghi sổ kép cũng như các nguyên tắc kế toán căn bản, sự cân bằng
giữa nợ và có trong phương pháp này đã đưa kế toán lần đầu tiên được xem như một môn
[1]


khoa học và gây ảnh hưởng mạnh đến đời sống kinh tế xã hội của loài người khi được ứng
dụng trên toàn thế giới.
Có thể nói Luca Pacioli là một trong những nhà lý luận tiêu biểu của trường phái
xem kế toán như một môn khoa học có tính phương pháp luận tổng hợp. Tuy nhiên, trường
phái này lại quá cường điệu
Sự phát triển của kế toán ở các nước thường có sự khác nhau về các qui định và
cách thức hạch toán kế toán cộng thêm sự khác biệt về hệ thống kinh tế và điều kiện
thương mại giữa các nước dẫn đến sự khác nhau giữa các nước về mô hình và phương
pháp kế toán.
Sự khác nhau này tạo nên nét đặc trưng của hệ thống kế toán mỗi quốc gia nhưng
lại có ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả của thị trường thế giới và có thể làm giảm sút khả
năng hợp tác, tìm kiếm vốn để cạnh tranh một cách có hiệu quả. Trong xu thế hội nhập
kinh tế quốc tế, sự tồn tại của hệ thống chuẩn mực kế toán quốc tế với vai trò là ngôn ngữ
chung để làm cầu nối cho các nền kinh tế là một nhu cầu tất yếu.
Tuy nhiên, những rào cản đối với việc tạo lập các chuẩn mực kế toán chung là
khá nhiều:
Đối với những người theo chủ nghĩa hoài nghi thì họ tin rằng chuẩn mực kế toán
quốc tế sẽ rất là phức tạp vì nó còn liên quan đến các vấn đề thuộc về quy định và luật
pháp tại các nước sở tại. Hơn thế nữa, chuẩn mực kế toán quốc tế cũng vừa mới ra đời nên
vẫn còn trẻ và vẫn còn nhiều cơ hội để phát triển và hoàn thiện hơn. Cũng có nhiều câu hỏi

được đặt ra trong vấn đề này đó là thực chất của quá trình xích lại gần nhau của
GAAP(“generally accepted accounting principles” – là thuật ngữ kế toán bao gồm các
nguyên tắc, quy tắc và thông lệ kế toán được chấp nhận) và IFRS là như thế nào? Chuẩn
mực kế toán toàn cầu sẽ là một sự kết hợp mang tính toàn diện hay là sự kết hợp bao gồm
cả 2 hệ thống (hệ thống kế toán dựa trên các điều luật và hệ thống kế toán dựa trên các quy
tắc) nhưng tách biệt nhau.
Một sự chấp nhận đối với một chuẩn mực kế toán dựa trên các nguyên tắc có
nghĩa là đã cho nó một chỗ đứng qua việc làm hiểu rõ các nguyên tắc kế toán được áp
dụng như thế nào. Chính điều này có thể chứa đựng những rủi ro tiềm tàng tạo ra sự không
nhất quán đối với các báo cáo của các quốc gia. Trên thực tế, đây là một sự cản trở cho các
quốc gia trong việc nỗ lực tham gia quá trình toàn cầu hóa này.
Ủy ban Châu Âu, một bộ phận điều hành của Khối liên minh Châu Âu trong lĩnh
vực này cũng đã thành lập những bộ phận tư vấn như là một sự xác nhận của IFRS.
Eumedion - một diễn đàn về quản trị doanh nghiệp trong lĩnh vực đầu tư cũng bày tỏ
những mỗi quan tâm của mình đối với việc chuyển đổi sang hệ thống kế toán dựa trên các
[2]


nguyên tắc này. Qua diễn đàn, cũng có nhiều ý kiến bày tỏ rằng sẽ có những rủi ro tiềm ẩn
đó là các thông tin tiêu cực sẽ không được chia sẻ với các thành viên của Ủy ban chuẩn
mực kế toán quốc tế và cuối cùng nó sẽ ảnh hưởng đến quá trình quản trị công ty. Diễn đàn
cũng nhìn nhận và chỉ thẳng ra các vấn đề còn tồn tại như là thiếu tính khách quan, không
có khả năng so sánh, thiếu các thông tin về địa lý và sự không nhất quán đối với các tiêu
chí đo lường mà họ đã áp dụng.
Một mối quan tâm khác cũng được đưa ra thảo luận đó là ảnh hưởng của nó đến
những người thuộc cộng đồng quốc gia Hồi giáo, nơi mà con người có thói quen là đặt
niềm tin vào đồng tiền. Thời kỳ phát triển của nền tài chính Hồi giáo thường được biết đến
là vào năm 1970 với sự ra đời hàng loạt các ngân hàng Hồi giáo tại Ả Rập và Tiểu vương
quốc Ả Rập thống nhất. Nền tài chính của Hồi giáo phát triển được dựa trên nguồn gốc là
luật Hồi giáo và Sharia. Sharia tuyên bố rằng không có khoảng cách nào giữa nhà thờ và

nhà nước của họ, đó là một thế thống nhất.
Khi xem xét các vấn đề đã nêu trên có thế thấy rằng việc toàn cầu hóa đối với
chuẩn mực kế toán sẽ xảy ra trong một tương lai không xa. Và mục tiêu của IFRS nhằm
thúc đẩy các công ty đa quốc gia hoạt động với một một sự thống nhất cao và quyết liệt
trong việc áp dụng các chuẩn mực kế toán.
Sự khác biệt trong mục đích sử dụng báo cáo tài chính giữa các nước: ở một số
nước báo cáo tài chính chỉ đơn thuần được lập cho mục đích tính thuế, còn ở nước khác là
để hỗ trợ cho quá trình ra quyết định của nhà đầu tư. Điều đó sẽ khiến cho yêu cầu trình
bày báo cáo chi tiết đến mức độ nào và chi tiết những khoản mục nào là khác nhau giữa
các nước.
Do hệ thống pháp luật khác nhau dẫn đến sự hạn chế của một số hoạt động kế
toán và điều này đương nhiên sẽ được phản ánh trong các chuẩn mực kế toán.
Ngoài ra, mỗi nước có một quan điểm khác nhau về người sử dụng báo cáo tài
chính và tầm quan trọng của họ. Như ở Mỹ thì nhà đầu tư và các tổ chức tín dung được đặt
ưu tiên lên hàng đầu trong khi ở Châu Âu thì người lao động lại được quan tâm nhiều hơn.
Các nước đang phát triển hiển nhiên đang chậm chân hơn so với các nước đã phát
triển trong việc soạn thảo các chuẩn mực kế toán. Có những quy tắc và những chuẩn mực
cơ bản đã được ban hành từ lâu ở các nước đã phát triển thì nay mới chỉ được các nước
đang phát triển tiến hành soạn thảo.
Sự khác biệt về văn hóa khiến cho mục tiêu của hệ thống kế toán khác nhau giữa
các nước.
Một vài nước phải ở vào trong những hoàn cảnh đặc biệt như siêu lạm phát, nội
chiến, hạn chế lưu thông tiền tệ,… tác động tới mọi mặt của đời sống xã hội cũng như ảnh
hưởng lớn tới các công ty khiến cho họ không thể lập được các báo cáo theo các tiêu chuẩn
[3]


bình thường.
Hơn nữa,một số nước không có một tổ chức kế toán độc lập đủ vững mạnh để tạo
áp lực dư luận giúp cho việc soạn thảo các chuẩn mực kế toán tốt hơn và thúc đẩy sự hài

hòa về các nguyên tắc kế toán giữa các quốc gia.
1.2. Sự hình thành và phát triển của tổ chức soạn thảo chuẩn mực kế toán quốc tế
1.2.1. Ủy ban xây dựng chuẩn mực kế toán quốc tế (IASC):
 Ra đời năm 1973 ở London, nước Anh:
Thế nhưng, bất chấp những rào cản kể trên, năm 1973, Ủy ban xây dựng chuẩn
mực kế toán quốc tế (IASC) đã ra đời tại London, nước Anh với tư cách là tổ chức soạn
thảo chuẩn mực quốc tế đầu tiên trên thế. Sự ra đời của IASC là kết quả của một thỏa
thuận giữa các hiệp hội nghề nghiệp của các nước Autralia, Canada,Pháp, Đức,
Nhật,Mexico, Phần Lan, Anh, Ireland và Mỹ.
IASC được thành lập trong một thời kỳ chứng nhiều biến động trong quy định kế
toán. Ở Mỹ, Hội đồng chuẩn mực kế toán tài chính (FASB) vừa mới được thành lập. Ở
Anh, cơ quan soạn thảo chuẩn mực quốc gia đầu tiên ra đời (accounting standads
committee – ASC). Trong khi đó, EU đang soạn thảo những điểm chính trong kế hoạch hài
hòa hóa hệ thống kế toán của riêng mình (được đánh dấu bởi sự ra đời của chỉ thị số bốn
(fourth directive) ban hành ngày 25/7/1978 bởi hội đồng liên minh Châu Âu). UN và
OECD tại thời điểm này cũng vừa mới thành lập hội đồng kế toán của riêng mình.
 Giai đoạn nỗ lực để tồn tại như một tổ chức độc lập với IFAC và duy trì vai trò
là tổ chức duy nhất soạn thảo các chuẩn mực kế toán quốc tế:
Đến năm 1977, Liên đoàn kế toán quốc tế (IFAC) được thành lập. IASC đã phải
đấu tranh quyết liệt để kháng cự lại những nỗ lực muốn biến IASC thành thành viên của
IFAC. Cuối cùng, IASC phải đi đến một nhượng bộ là dù cho IASB vẫn tồn tại độc lập với
IFAC nhưng các thành viên của IFAC tự động trở thành viên của IASC và IFAC có thể đề
cử thành viên cho cơ quan soạn thảo các chuẩn mực kế toán quốc tế.
Cả UN và OECD trong giai đoạn những năm 70 của thế kỷ 19 đều rất tích cực
soạn thảo những nguyên tắc kế toán quốc tế. Thế nhưng, IASC đã thành công trong việc
thuyết phục UN và OECD hãy để IASC soạn thảo những nguyên tắc quốc tế về ghi nhận
và xác định giá trị của các đối tượng kế toán.
Như vậy, IASC đã thành công trong việc duy trì vai trò của mình là tổ chức soạn
thảo chuẩn mực kế toán quốc tế duy nhất trên thế giới. Tuy nhiên, IASC lại gặp khó khăn
trong việc thuyết phục mọi người sử dụng các chuẩn mực do chính mình soạn thảo ra. Dù

cho các thành viên của IASC đã cam kết thúc đẩy việc sử dụng các chuẩn mực kế toán
quốc tế ở mỗi quốc gia nhưng trên thực tế thì một số hiệp hội nghề nghiệp thành viên lại ít
có ảnh hưởng trong việc soạn thảo các chuẩn mực kế toán quốc gia, một số hiệp hội thành
[4]


viên lại ưa chuộng chuẩn mực kế toán của quốc gia mình hơn là những chuẩn mực kế toán
do IASC soạn thảo và ban hành.
 Những nỗ lực tìm kiếm sự tiếp nhận của cộng đồng thế giới đối với những chuẩn
mực kế toán quốc tế của IASC:
Năm 1987 đánh dấu một bước chuyển mới trong nỗ lực thúc đẩy việc sử dụng
các chuẩn mực quốc tế của IASC. Được sự ủng hộ và khích lệ từ ủy ban chứng khoán Mỹ
(US SEC), tổng thư ký IASC, ông David Cairns, đã ký một thỏa thuận với tổ chức thế giới
các ủy ban chứng khoán (IOSCO). Theo đó, IASC sẽ xem xét sửa đổi các chuẩn mực kế
toán quốc tế hiện có của mình để có thể thỏa mãn nhu cầu của IOSCO là cần có một tập
hợp các chuẩn mực làm cơ sở chung cho việc lập và trình bày báo cáo tài chính của các
công ty muốn được niêm yết trên thị trường chứng khoán nước ngoài.
IASC đã hoàn thành việc sửa đổi các chuẩn mực kế toán quốc tế vào năm 1993.
Thế nhưng, IOSCO đã đưa ra một quyết định làm cho IASC vô cùng thất vọng. Thay vì sử
dụng toàn bộ bộ chuẩn mực kế toán quốc tế do IASC soạn thảo, IOSCO chỉ lựa chọn một
số chuẩn mực để áp dụng.
Đến năm 1995, IASC với một ban lãnh đạo hoàn toàn mới đã tiến hành xem xét
và sửa đổi một lần nữa các chuẩn mực kế toán quốc tế đã được ban hành với mong muốn
khắc phục những khiếm khuyết trong các chuẩn mực kế toán đó. Lần này, với rất nhiều nỗ
lực và nhượng bộ, bộ chuẩn mực kế toán quốc tế đã được sửa đổi của IASC đã được
IOSCO chấp nhận vào phụ lục nhưng đó chỉ mới là sự chấp nhận tạm thời.
Cùng thời gian đó, IASC cũng quan tâm xem xét tới việc tổ chức lại cơ cấu của
mình. Trong vòng 25 năm kể từ khi IASC được thành lập, mô hình soạn thảo chuẩn mực
kế toán mà theo đó việc soạn thảo các chuẩn mực là do các hội nghề nghiệp đảm trách, đã
và đang dần được thay thể bởi mô hình mới. Đó là mô hình mà việc soạn thảo các chuẩn

mực kế toán được giao cho một hội đồng quốc gia chuyên trách và độc lập thay vì cho một
hội nghề nghiệp kế toán đảm trách. Sự chuyển đổi này có thể thấy ở Anh và Mỹ. Ở Mỹ,
việc soạn thảo chuẩn mực kế toán được giao cho Hội đồng chuẩn mực kế toán tài chính
(FASB) thay vì cho hiệp hội kế toán công chứng Mỹ (AICPA). Còn ở Anh là giao cho Ủy
ban chuẩn mực kế toán (ASC) sau đổi thành hội đồng chuẩn mực kế toán (ASB) thay vì
cho hiệp hội kế toán công chứng Anh (ACCA).
 Mốc son năm 2000:
Năm 2000 có thể nói là một năm có nhiều biến động với IASC. Tháng 5 năm
2000, các thành viên IOSCO đã bỏ phiếu chấp nhận chính thức tất cả các chuẩn mực kế
toán quốc tế của IASC. Đây là một bước tiến đáng kể sau rất nhiều nỗ lực kiên trì và bền bỉ
của các thành viên IASC với hai lần sửa đổi chuẩn mực kế toán kế toán quốc tế vào năm
[5]


1993 và 1995. Giấc mơ về một bộ chuẩn mực kế toán chung được sử dụng rộng rãi trên
toàn thế giới đã có cơ hội được trở thành hiện thực bất chấp rất nhiều khó khăn và rào cản.
IASC cuối cùng đã nhận được sự hậu thuẫn của các cơ quan quản lý chứng khoán toàn cầu
thông qua IOSCO.
Tháng 6 năm 2000, Cao Ủy Châu Âu đưa ra tuyên bố sẽ đưa việc sử dụng các
chuẩn mực kế toán quốc tế của IASC trong việc lập trình và trình bày báo cáo tài chính
làm điều kiện cho các công ty có ý định niêm yết chứng khoán tại bất kỳ nước thành viên
nào của Liên Minh Châu Âu (EU). Đây là một thành công ngoài sự mong đợi của IASC.
Kể từ thời điểm đó, EU đã trở thành một tổ chức có ảnh hưởng mạnh mẽ đối với tiến trình
thúc đẩy sự tiếp nhận của cộng đồng thế giới đối với các chuẩn mực kế toán quốc tế. Quả
thực, sự hậu thuẫn từng một thời là cứu cánh của IOSCO đối với IASC nay đã giảm bớt
tầm quan trọng trước tuyên bố trên của Cao Ủy Châu Âu.
Tiếp đó, tháng 7 năm 2000, các thành viên của IASC đã bỏ phiếu tán thành
chuyển đổi cơ cấu từ chỗ dựa trên các hiệp hội nghề nghiệp thành một hội đồng soạn thảo
chuẩn mực kế toán chuyên trách và độc lập với các hội nghề nghiệp. Ủy ban xây dựng
chuẩn mực kế toán quốc tế (IASC) chính thức đổi tên thành Hội đồng kế toán quốc tế

(IASB).
1.2.2. Hội đồng chuẩn mực kế toán quốc tế (IASB):
Đến năm 2001, Hội đồng chuẩn mực kế toán quốc tế (IASB – International
Accounting Standards Board) ra đời thay thế IASC và tồn tại cho đến ngày nay. Cấu trúc
của IASB có những cơ quan như sau:
Đứng đầu là Ban quản trị ủy ban xây dựng chuẩn mực kế toán quốc tế (IASC
foundation). Đây là một pháp nhân độc lập gồm hai bộ phận – các ủy viên quản trị (trustee)
và IASB. Ban quản trị ủy ban xây dựng chuẩn mực kế toán quốc tế là cơ quan nắm giữ bản
quyền của các chuẩn mực kế toán quốc tế và các văn bản khác của IASB.
Các ủy viên quản trị chỉ định các thành viên của IASB, thực hiện việc giám sát và
gây quỹcần thiết. Còn IASB có toàn bộ trách nhiệm đối với việc soạn thảo các chuẩn mực
kế toán.
Ngoài ra, cơ cấu của IASB còn bao gồm hai cơ quan nữa là Hội đồng tư vấn
chuẩn mực (Standards Advisory Council –SAC) và Ủy ban giải thích các chuẩn mực kế
toán quốc tế(International Financial Reporting Interpretations Committee – IFRI).
Các ủy viên quản trị (trustees) bao gồm một nhóm 20 người đến từ những khu
vực địa lý khác nhau và có những kinh nghiệm hoạt động khác nhau. Các ủy viên quản trị
bổ nhiệm thành viên của IASB, IFRIC, SAC. Bên cạnh việc giám sát IASC để đảm bảo
hoạt động hiệu quả của ủy ban này và gây quỹ, các ủy viên quản trị còn phê chuẩn ngân
sách của IASC và chịu trách nhiệm xem xét những thay đổi trong điều lệ hoạt động của hội
[6]


đồng. Các ủy viên quản trị được bầu sao cho có 6 người đến từ Bắc Mỹ, 6 người đến từ
Châu Âu, 4 người đến từ Châu Á Thái Bình Dương và 3 người đến từ các khu vực khác để
đảm bảo sự cân bằng địa lý.
Hội đồng tư vấn chuẩn mực (Standards Advisory Council - SAC) tạo ra một cầu
nối chính thức giúp cho các tổ chức và cá nhân khác, những người mà đến từ những khu
vực địa lý khác nhau và có nền tảng học vấn đa dạng, được đưa ra những ý kiến góp ý cho
hội đồng và cũng có thể là tư vấn cho các ủy viên quản trị. Hội đồng này bao gồm 15 thành

viên và gặp nhau ít nhất 3 lần một năm. Hội đồng này được tham vấn bởi IASB trong
những dự án quan trọng. Hội đồng cũng tư vấn cho IASB về những ưu tiên trong lịch trình
hoạt động và tác động của các chuẩn mực được đề xuất có ảnh hưởng đến người sử dụng
và người lập báo cáo tài chính.
Ủy ban giải thích chuẩn mực kế toán quốc tế (IFRIC) đưa ra những chỉ dẫn về
cách áp dụng và giải thích các tiêu chuẩn báo cáo tài chính quốc tế. Ủy ban này chịu trách
nhiệm về những vấn đề báo cáo tài chính mới xuất hiện mà chưa được nêu ra trong các tiêu
chuẩn báo cáo tài chính quốc tế hoặc những vấn đề mà chưa có cách giải thích phù hợp
hoặc có những sự giải thích trái ngược.
Trong quá trình hoạt động, hội đồng này đã sửa đổi, bổ sung một số chuẩn mực
kế toán cũ, thay thế chuẩn mực kế toán cũ bằng những những chuẩn mực kế toán bằng
trình bày báo cáo tài chính và ban hành một số chuẩn mực kế toán mới về những vấn đề
chưa được đề cập trước đó.
2. Quy trình soạn thảo các chuẩn mực kế toán quốc tế
Chuẩn mực kế toán quốc tế được hình thành qua một hệ thống các quy trình
chuẩn và được sự tham vấn rộng rãi của cộng đồng quốc tế.
Quy trình chuẩn cho việc soạn thảo một chuẩn mực kế toán quốc tế gồm các bước
sau:
-

Bước 1: Các nhân viên của IASB sẽ nhận diện, xem xét và đề xuất các vấn đề mà

có thể làm cho hội đồng quan tâm. Hội đồng sẽ thảo luận về các dự án tiềm năng và quyết
định để theo đuổi một dự án phải được đưa ra trong một cuộc họp hội đồng công khai.
Trước khi đi đến một quyết định như vậy, IASB sẽ tham vấn SAC để lên một lịch trình
hoạt động và đặt ra các ưu tiên.
- Bước 2: Khi đưa một dự án vào một lịch trình hoạt động, IASB sẽ quyết định có
thực hiện dự án đó một mình hay là sẽ hợp tác với các tổ chức soạn thảo chuẩn mực khác.
- Bước 3: Sau khi xem xét bản chất của vấn đề, IASB sẽ thiết lập một nhóm làm
việc.

-

Bước 4: Mặc dầu một văn bản mời thảo luận không phải là một bước bắt buộc

trong quy trình chuẩn, IASB vẫn thường công bố một văn bản mời thảo luận cho những
[7]


chủ đề mới quan trọng. Thông thường thì một văn bản mời thảo luận sẽ bao gồm một phần
tổng quát về vấn đề được bàn luận, các cách tiếp cận để giải quyết vấn đề, quan điểm ban
đầu của tác giả hay của IASB và một lời mời đưa ra ý kiến. Nếu IASB quyết định bỏ bước
này thì IASB phải đưa ra lý do giải thích.
- Bước 5: Công bố bản thảo (draft) lấy ý kiến công chúng là một bước bắt buộc
trong quy trình chuẩn. Bản thảo này phải được chín thành viên của IASB phê chuẩn. Một
bản thảo sẽ bao gồm cơ sở để đưa ra kết luận và các quan điểm trái ngược từ các thành
viên IASB không phê chuẩn.
- Bước 6: IASB sẽ xem xét những lời nhận xét và kết quả của những lần tham vấn
khác.
-

Bước 7: Khi IASB thấy rằng hội đồng đã có thể đưa ra một kết luận về vấn đề

đang được thảo luận, hội đồng sẽ chỉ đạo cho nhân viên của mình soạn thảo chính thức các
chuẩn mực kế toán quốc tế. Một chuẩn mực kế toán mới phải được chính thành viên của
IASB phê chuẩn. Một chuẩn mực kế toán sẽ bao gồm cơ sở để đưa ra kết luận và các quan
điểm trái ngược từ các thành viên IASB không phê chuẩn.
Sự phối hợp chặt chẽ giữa IASB và các tổ chức soạn thảo chuẩn mực kế toán của
các quốc gia là một nhân tố quan trọng giúp cho IASB có thể hoàn thành nhiệm vụ của
mình. IASB đang tìm cách để tạo ra sự hài hòa giữa quy trình chuẩn của IASB và quy trình
chuẩn của các quốc gia. Đặc biệt, IASB đang đề xuất một quy trình phối hợp giữa IASB và

các tổ chức soạn thảo chuẩn mực kế toán quốc gia cho những dự án mang tầm quốc tế.
Quy trình đó như sau:
(a) IASB sẽ phối hợp với các tổ chức soạn thảo chuẩn mực kế toán của các quốc
gia để khi IASB bắt đầu thực hiện một dự án, các tổ chức soạn thảo chuẩn mực kế toán đó
sẽ đưa dự án đó vào kế hoạch hoạt động của mình. Nhờ đó, một sự đồng thuận quốc tế cao
trong việc soạn thảo chuẩn mực kế toán có thể đạt được. Tương tự, khi tổ chức soạn thảo
chuẩn mực kế toán của một quốc gia bắt đầu một dự án của họ, IASB cũng sẽ xem xét xem
liệu hội đồng có cần soạn thảo một chuẩn mực kế toán mới hay xem xét lại các chuẩn mực
kế toán hiện hành. Qua một khoảng thời gian hợp lý, IASB và các tổ chức soạn thảo chuẩn
mực kế toán quốc gia sẽ cùng xem xét lại tất cả các chuẩn mực nơi có sự khác biệt đáng kể
và ưu tiên cho những vấn đề có sự khác biệt lớn nhất.
(b) Các tổ chức soạn thảo chuẩn mực kế toán quốc gia không bắt buộc phải dựa
theo các chuẩn mực kế toán quốc tế khi soạn thảo các chuẩn mực kế toán của quốc gia
mình vì mỗi nước có quyền tự do lựa chọn có sử dụng các chuẩn mực kế toán quốc tế, có
bổ sung sửa đổi một số điều hay là lựa chọn các chuẩn mực khác. Tuy nhiên, một sự đồng
thuận quốc tế sẽ là một nhân tố mà các nhà soạn thảo chuẩn mực kế toán quốc gia sẽ xem
[8]


xét đến khi họ soạn thảo các chuẩn mực kế toán của quốc gia mình.
(c) IASB sẽ tiếp tục công bố bản dự thảo chuẩn mực lấy ý kiến công chúng của
riêng mình.
(d) Các tổ chức soạn thảo chuẩn mực kế toán quốc gia cũng sẽ công bố cho công
chúng bản dự thảo chuẩn mực của riêng mình cùng thời gian với bản dự thảo chuẩn mực
của IASB và sẽ cùng kêu gọi những góp ý cho những sự khác biệt quan trọng trong cả hai
bản dự thảo. Trong một số trường hợp, các tổ chức soạn thảo chuẩn mực kế toán quốc gia
có thể đưa vào bản dự thảo những quan điểm cụ thể về những vấn đề có liên quan đến
quốc gia họ hoặc có thể kèm theo những chỉ dẫn cụ thể thường có trong những văn bản
tương ứng của IASB.
(e) Các tổ chức soạn thảo chuẩn mực kế toán quốc gia sẽ tuân theo quy trình soạn

thảo chuẩn mực riêng mà họ cho rằng là hài hòa nhất với quy trình soạn thảo chuẩn mực
của IASB. Sự hài hòa này sẽ loại bỏ mọi sự trì hoãn không cần thiết trong quá trình soạn
thảo chuẩn mực và hạn chế ở mức tối đa những sự khác biệt không cần thiết giữa chuẩn
mực kế toán quốc tế và chuẩn mực kế toán quốc gia.
3. Lợi ích của việc ban hành các chuẩn mực kế toán quốc tế
Các chuẩn mực kế toán quốc tế ra đời dựa trên nhu cầu thực tế của đời sống. Chúng ta có
thể liệt kê ra rất nhiều lợi ích của việc có những chuẩn mực quốc tế chung:
3.1. Lợi ích đối với các nhà đầu tư:
Các nhà đầu tư, cả nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu tư tổ chức, sẽ có thể so sánh
các kết quả tài chính của các công ty khác nhau nằm ở các nước khác nhau trên toàn thế
giới cũng như đưa ra các quyết định đầu tư quốc tế một cách dễ dàng hơn và tốn kém ít chi
phí hơn.
3.2. Lợi ích đối với các công ty đa quốc gia:
Các công ty đa quốc gia sẽ dễ dàng kêu gọi được vốn đầu tư từ các nhà đầu tư
nước ngoài hơn.
Quản lý cũng dễ dàng hơn với các công ty này do cùng được soạn thảo trên một
chuẩn mực kế toán chung làm cho các thông tin tài chính được truyền tải giữa công ty con
và công ty mẹ dễ dàng hơn.
Việc thâu tóm và sáp nhập các công ty nước ngoài cũng dễ dàng hơn. Các công ty
đa quốc gia cũng có thể tuân thủ theo các yêu cầu về báo cáo của các sở giao dịch chứng
khoán ở nước ngoài được thuận lợi hơn.
3.3. Lợi ích đối với các nước đang phát triển:
Chính phủ của các nước đang phát triển cũng sẽ tiết kiệm được thời gian nếu họ
có thể sử dụng luôn các chuẩn mực kế toán quốc tế thay vì phải soạn thảo các chuẩn mực
kế toán riêng cho quốc gia mình. Nếu các quốc gia này sử dụng các chuẩn mực kế toán
quốc tế thì họ có thể kiểm soát tốt hơn hoạt động của các công ty đa quốc gia đang hoạt
[9]


động trong phạm vi lãnh thổ của nước mình. Các công ty này không thể viện lý do là họ

không thể hiểu bản chất của các chuẩn mực kế toán quốc gia này.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PTS. Nguyễn Văn Thơm, PTS.Trần Văn Thảo, Th.S Lê Tuấn, Th.S Nguyễn Thế

Lộc,“Kế toán Mỹ”. Nhà xuất bản tài chính. 1999.
2. Nhóm biên dịch Lý Thị Minh Châu, Nguyễn Trọng Nam, “Lý thuyết và thực hành

kế toán Mỹ”. Tập 1 và 2. Trường đại học kinh tế TP. HCM. 1993
3. Chủ biên: TS. Nguyễn Thị Minh Phương – TS. Nguyễn Thị Đông, “Giáo trình kế

toán quốc tế”. Nhà xuất bản thống kê Hà Nội 2002
4. TS.Nguyễn Thị Minh Tâm, “Giáo trình kế toán quốc tế”. Nhà xuất bản đại học

quốc gia Hà Nội. 2004

[10]



×