Tải bản đầy đủ (.doc) (92 trang)

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của tổng công ty 319 – bộ quốc phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.84 MB, 92 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Từ khi gia nhập WTO, nền kinh tế Việt Nam hội nhập ngày càng sâu
rộng hơn vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Đây chính là bước ngoặt đánh
dấu sự chuyển biến quan trọng của nước ta trong tiến trình hội nhập và toàn
cầu hóa. Khi tham gia vào thị trường chung thế giới tức là phải chấp nhận luật
chơi chung và chịu sức ép cạnh tranh lớn từ các công ty, các tập đoàn nước
ngoài đã, đang và sẽ thâm nhập vào thị trường Việt Nam. Vào WTO cũng tức
là chúng ta phải thực hiện những cam kết đã ký trong đàm phán như: cắt giảm
thuế quan, giảm và tiến tới loại bỏ những hàng rào phi thuế quan, giảm bớt
các trở và hạn chế đối với dịch vụ, đầu tư quốc tế, điều chỉnh các chính sách
thương mại vv.... Điều này đồng nghĩa với việc xóa bỏ hàng rào bảo hộ, tạo
một sân công bằng, bình đẳng cho doanh nghiệp trong và ngoài nước. Các đối
thủ nước ngoài thì có tiềm lực rất mạnh về Tài chính, công nghệ, về trình độ
quản lý, trong khi đó khó khăn của các doanh nghiệp Việt Nam là năng lực
còn hạn chế, quy mô sản xuất nhỏ, tài chính còn khiêm tốn, năng lực quản lý
và hiệu quả sử dụng vốn chưa cao, mối liên kết giữa các doanh nghiệp còn
yếu mang tính hình thức. Do vậy nếu mỗi doanh nghiệp trong nước không tự
nâng cao năng lực canh tranh của mình thì trong trận đấu vốn không cân sức
với đối thủ nước ngoài thì rất dễ bị loại khỏi cuộc chơi. WTO sẽ là cơ hội tốt
cho doanh nghiệp nào biết tận dụng nó một cách hợp lý song cũng chính là
thách thức lớn cho doanh nghiệp nếu không tự nâng cao được năng lực canh
tranh cần thiết cho mình.
Nâng cao năng lực canh tranh chính là đáp ứng yêu cầu tất yếu khách
quan, phù hợp với quy luật cạnh tranh của thị trường. Bất kỳ doanh nghiệp
nào hoạt động trong nền kinh tế thị trường đều phải đối mặt với cạnh tranh,
với quy luật "mạnh được yếu thua", nếu né tránh thì sớm muộn gì doanh
nghiệp cũng bị cạnh tranh đào thải. Do vậy để có thể tồn tại, đứng vững trên
thương trường và thắng được đối thủ thì tất yếu doanh nghiệp phải tự nâng
cao năng lực cạnh tranh của mình bằng cách không ngừng nâng cao chất
lượng hạ giá thành, áp dụng những thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến


vào sản xuất, sử dụng kiến thức quản lý tiên tiến hiện đại vào hoạt động quản
trị một cách khoa học và sáng tạo.
1


Mặt khác nâng cao năng lực cạnh tranh cũng chính là nhằm đáp ứng
yêu cầu đòi hỏi của thực tế. Sở dĩ như vậy là vì:
- Do yêu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng về hàng hóa, dịch vụ
không chỉ về mặt chất lượng, giá cả, kiểu cách thiết kế, tính mỹ thuật sản
phẩm, các dịch vụ sau bán mà sự ưa chuộng của khách hàng còn được thể
hiện qua uy tín, kinh nghiệm, thương hiệu của chính doanh nghiệp. Vì thế đòi
hỏi mỗi doanh nghiệp phải có những cải tiến đổi mới nhất định để nâng cao năng
lực của mình mới có khả năng đáp ứng những yêu cầu này của khách hàng.
- Do cuộc bùng nổ cách mạng công nghệ toàn cầu, với những tiến bộ
của khoa học đã tạo ra những dây truyền máy móc thiết bị vô cùng hiện đại,
tự động hóa, làm giảm rất nhiều chi phí cho sản xuất, tăng tiến độ hoàn thành
sản phẩm, và giúp doanh nghiệp có thể thực hiện được những dự án có quy
mô lớn và tính phức tạp cao về kỹ thuật. Trong cuộc chạy đua này nếu doanh
nghiệp nào tận dụng được sức mạnh kỹ thuật thì chắc chắn sẽ về đích nhanh
hơn. Mà để tiếp cận được với những công nghệ cao này đòi hỏi mỗi doanh
nghiệp phải tự tích lũy, nâng cao năng lực của mình.
Vì vậy, nâng cao năng lực cạnh tranh là cần thiết cho sự phát triển kinh
tế, xã hội. Mỗi doanh nghiệp là một tế bào của nền kinh tế, do vậy mỗi tế bào
"khỏe" thì cả nền kinh tế đó cũng có năng lực cạnh tranh cao hơn. Ngược lại
khi nền kinh tế đó "khỏe" thì nó lại tạo điều kiện môi trường thuận lợi cho các
doanh nghiệp phát huy được lợi thế của mình.
Tổng công ty 319 tiền thân là Sư đoàn 319/Quân khu 3, thành lập ngày
07/03/1979 theo Quyết định số 231/QĐ-QP của Bộ Quốc phòng. Thực hiện
Nghị quyết số 27, ngày 26/06/1980 của Bộ Chính trị về Quân đội thực hiện
nhiệm vụ xây dựng kinh tế, ngày 27/09/1980, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ra

Quyết định số 579/QĐ-QP chuyển nhiệm vụ của Sư đoàn 319 từ lực lượng cơ
động, huấn luyện quân sự sang nhiệm vụ xây dựng kinh tế, đổi tên thành
Công ty xây dựng 319 với các chức năng thi công xây lắp các công trình công
nghiệp, dân dụng, sản xuất và cung cấp sản phẩm công nghiệp phục vụ Quốc
phòng và dân dụng. Trong những năm qua, Tổng công ty 319 đã nhận thầu thi
công được nhiều dự án lớn về lĩnh vực thi công xây lắp, giao thông, rà phá
bom mìn vật nổ như: Bệnh viện trung ương quân đội 108, Bệnh viện 103;
105, Bệnh viện Việt Tiệp, Học viện kỹ thuật quân sự, Học viện hậu cần; Đại
2


học Cần Thơ; Đại học Văn hóa;Dự án dò tìm xử lý bom mìn vật nổ tuyến cáp
quang xuyên biển; Dự án đường tuần tra biên giới Đông Trường Sơn; Quốc lộ
18, đường trục Nam-Bắc đảo Phú Quốc vv…Các công trình do Tổng công ty
tham gia đều đạt tiến độ, chất lượng, an toàn và hiệu quả.
Tuy nhiên, cùng với xu thế mở cửa hội nhập với nền kinh tế thế giới
ngày càng sâu rộng, Tổng công ty 319 đang đứng trước những cơ hội và
những thách thức lớn lao trong điều kiện cạnh tranh gay gắt. Để có thể tồn tại,
đứng vững và phát triển vươn lên tầm cao mới, đòi hỏi Tổng công ty 319 phải
xác định cho mình những mục tiêu, phương thức hoạt động, những chính
sách, chiến lược cạnh tranh đúng đắn.
Nhận thức sâu sắc được tầm quan trọng của xu thế hội nhập quốc tế và
cạnh tranh cũng như mong muốn được đóng góp những ý kiến của mình về
nâng cao năng lực cạnh tranh của Tổng công ty để Tổng công ty 319 ngày
càng phát triển và vươn tới tầm cao mới. Là người đã công tác nhiều năm
trong lĩnh vực thi công xây dựng, bản thân rất hiểu rõ sự cạnh tranh khốc liệt
giữa các doanh nghiệp xây dựng để được nhận thầu, thắng thầu thi công các
công trình. Sau một thời gian nghiên cứu tìm hiểu tình hình thực tế tại Tổng
công ty, tôi đã quyết định chọn đề tài nghiên cứu: "Giải pháp nâng cao năng
lực cạnh tranh của Tổng công ty 319 – Bộ quốc phòng" với hy vọng đóng

góp một phần công thức nhỏ bé vào sự nghiệp phát triển của Tổng công ty.
2.Tình nghiên cứu đề tài:
Mặc dù lĩnh vực nâng cao năng lực canh tranh trong kinh doanh rất
quan trọng, nhưng theo sự hiểu biết của tác giả thì Tổng công ty 319 chưa có
nghiên cứu chuyên sâu và báo cáo riêng về vấn đề này, mà chỉ là những kế
hoạch kinh doanh, một số đề xuất, giải pháp riêng lẻ.
Trong luận văn này, ngoài việc kế thừa những kết quả, những đề xuất
đã có thì luận văn này có còn bổ sung thêm về cơ sở lý luận về nâng cao năng
lực cạnh tranh, một số kiến nghị và giải pháp nhằm giúp Tổng công ty phát
triển phù hợp với tình hình thực tiễn và xu hướng hội nhập của nền kinh tế.
3. Mục tiêu nghiên cứu:
Qua phân tích, đánh giá thực trạng môi trường hoạt động SXKD của
Tổng công ty 319, nhằm đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh của Tổng
công ty trong việc sản xuất, cung cấp dịch vụ, nhận thầu thi công các công
3


trình xây dựng dân dụng, giao thông, thủy lợi... Từ đó đề xuất một số giải
pháp nhằm nâng cao hơn nữa năng lực cạnh tranh của Tổng công ty trong
hiện tại và những năm tiếp theo.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn là: Năng lực cạnh tranh
và những giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của Tổng công ty
trong việc sản xuất, cung cấp sản phẩm, dịch vụ và nhận thầu thi công các
công trình xây dựng dân dụng, giao thông, thủy lợi...
5. Phương pháp nghiên cứu:
Trong luận văn này sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Luận văn được sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu, trong
đó chủ yếu là phương pháp thu thập, phân tích, kết hợp khái quát hóa.
- Trao đổi, lấy ý kiến chuyên gia về các yếu tố chủ yếu môi trường bên

trong, yếu tố bên ngoài có ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh trong hoạt động
SXKD của Tổng công ty.
6. Đóng góp của luận văn:
Luận văn có những đóng góp sau:
- Đánh giá thực trạng năng lực cạnh tranh của Tổng công ty với các đối
thủ trong cùng lãnh vực khi tham gia đấu thầu, nhận thầu thi công các công
trình xây dựng,giao thông, thủy lợi...
- Giúp Ban lãnh đạo Tổng công ty 319 nhận diện được những điểm
mạnh, yếu trong việc cạnh tranh với các đối thủ trong và ngoài quân đội,
những giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, từ đó có
những quyết sách đúng đắn nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động
SXKD ngày càng tốt hơn, hiệu quả cao hơn...
7. Bố cục của đề tài:
Ngoài phần mở đầu, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương sau:
- Chương I: Một số lý luận cơ bản về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp
- Chương II: Thực trạng về năng lực cạnh tranh của Tổng công ty 319 –
Bộ quốc phòng.
- Chương III: Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Tổng công ty
319 – Bộ quốc phòng.
4


CHƯƠNG I:
MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CẠNH TRANH VÀ NĂNG LỰC
CANH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP
1.1 Cạnh tranh:
1.1.1 Khái niệm về cạnh tranh:
Có nhiều khái niệm về cạnh tranh, theo Mác”cạnh tranh là sự phấn đấu

ganh đua gay gắt giữa những nhà tư bản nhằm giành giật những điều kiện
thuận lợi trong sản xuất và trong tiêu thụ để đạt những lợi nhuận siêu ngạch”.
Có các quan điểm khác lại cho rằng”cạnh tranh là sự phấn đấu về chất lượng
sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp mình sao cho tốt hơn các doanh nghiệp
khác,”(theo nhóm tác giả cuốn”nâng cao năng lực cạnh tranh và bảo hộ sản
xuất trong nước”). Theo kinh tế chính trị học”canh tranh là sự thôn tính lẫn
nhau giữa các đối thủ nhằm giành lấy thị trường, khách hàng cho doanh
nghiệp mình”.
Cạnh tranh kinh tế là sự ganh đua giữa các chủ thể kinh tế (nhà sản
xuất, nhà phân phối, bán lẻ, người tiêu dùng thương nhân.......) nhằm giành
lấy những vị thế tạo nên lợi thế tương đối trong sản xuất, tiêu thụ hàng hóa,
dịch vụ hay các lợi ích về kinh tế, thương mại khác để thu được nhiều lợi ích
nhất cho mình.
Cạnh tranh có thể xảy ra giữa những nhà sản xuất, phân phối với nhau
hoặc có thể xảy ra giữa người sản xuất với người tiêu dùng khi người sản xuất
muốn bán hàng hóa, dịch vụ với giá thành cao, người tiêu dùng lại muốn mua
được với giá thấp. Cạnh tranh của một doanh nghiệp là chiến lược của một
doanh nghiệp với các đối thủ trong cùng một ngành...
Có nhiều biện pháp cạnh tranh: cạnh tranh giá cả (giảm giá) hoặc cạnh
tranh phi giá cả (Khuyến mại, quảng cáo) hay cạnh tranh của một doanh nghiệp,
một ngành, một quốc gia là mức độ mà ở đó, dưới các điều kiện về thị trường tự
do và cong bằng có thể sản xuất ra các sản phẩm hàng hoá và dịch vụ đáp ứng
được đòi hỏi của thị trường, đồng thời tạo ra việc làm và nâng cao được thu nhập
thực tế.
Vì vậy, ngày nay hầu hết các nước đều thừa nhận và coi cạnh tranh không
chỉ là môi trường mà nó còn là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội. Do vậy
5


khái niệm cạnh tranh nói chung là: “Sự phấn đấu vươn lên, không ngừng để giành

lấy ưu thế hơn về cùng một loại sản phẩm hang hóa hoặc dịch vụ, về cùng một
loại đối tượng khách hàng so với đối thủ cạnh tranh, bằng cách ứng dụng những
tiến bộ khoa học kỹ thuật tạo ra nhiều lợi thế nhất, tạo ra sản phẩm mới, nâng cao
năng suất và hiệu quả cao nhất”.
1.1.2. Vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường:
Trong cơ chế kế hoạch hóa tập chung trước đây thì phạm trù cạnh tranh
hầu như không tồn tại giữa các doanh nghiệp. Từ khi chuyển sang nền kinh tế thị
trường thì cạnh tranh xuất hiện . Cạnh tranh có vai trò quan trọng trong nền sản
xuất hàng hoá nói riêng, và trong lĩnh vực kinh tế nói chung, là động lực thúc đẩy
sự phát triển của khoa học kỹ thuật góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển, góp
phần vào sự phát triển kinh tế.
Cạnh tranh là tiền đề thúc đẩy sản xuất và nâng cao chất lượng hàng hóa
dịch vụ. Càng nhiều doanh nghiệp cạnh tranh với nhau thì sản phẩm hay dịch vụ
cung cấp cho khách hàng sẽ càng có chất lượng tốt hơn. Cạnh tranh đòi hỏi doanh
nghiệp không ngừng công tác maketinh, bắt đầu từ việc điều tra nghiên cứu thị
trường để quyết định sản xuất cái gì? Sản xuất như thế nảo? sản xuất cho ai.
Nghiên cứu thị trường để giúp cho doanh nghiệp xác định được nhu cầu thị
trường và chỉ sản xuất những gì mà thị trường cần chứ không sản xuất những gì
mà doanh nghiệp có. Cạnh tranh buộc doanh nghiệp phải sản xuất ra những sản
phẩm có chất lượng cao hơn, phong phú về chủng loại sản phẩm, mẫu mã, tiện
dụng cho người tiêu dùng hơn. Nói cách khác, cạnh tranh sẽ đem đến cho khách
hàng giá trị tối ưu nhất đối với những đồng tiền mồ hôi công sức của họ.
Cạnh tranh là một tất yếu mà bất kỳ doanh nghiệp, cá nhân nào khi tham
gia thị trường cũng đều phải chấp nhận nó như một quy luật sinh tồn. Cạnh tranh
lành mạnh sẽ thực sự tạo ra các nhà doanh nghiệp giỏi và đồng thời là động lực để
thúc đẩy nền kinh tế phát triển, đảm bảo công bằng xã hội. Cũng chính vì vậy mà
cạnh tranh đòi hỏi cần có sự quản lý của Nhà nước để phát huy những mặt tích
cực, hạn chế những mặt tiêu cực như cạnh tranh không lành mạnh dẫn đến độc
quyền gây lung loạn và xáo trộn thị trường.
1.1.3. Phân loại cạnh tranh:

1.1.3.1. Căn cứ vào chủ thể tham gia cạnh tranh:
Cạnh tranh được chia ra thành ba loại:
6


* Cạnh tranh giữa người bán và người mua:
Là cuộc cạnh tranh diễn ra theo hình thức mua rẻ, bán đắt. Bất kì doanh
nghiệp kinh doanh nào cũng đều muốn bán sản phẩm của mình với giá cao
nhất có thể, nhưng người mua thì ngược lại đều muốn mua được sản phẩm
chất lượng với giá cả thấp nhất có thể. Kết quả của cuộc cạnh tranh này dẫn
tới sự "thương lượng" cân bằng giữa cung và cầu để đạt được mức giá hợp lý
mà tại đó người bán chấp nhận bán và người mua chấp nhận mua.
* Cạnh tranh giữa người mua và người mua:
Là cuộc cạnh tranh diễn ra trên cơ sở theo qui luật cung-cầu. Trường
hợp canh tranh này xảy ra khi lượng cung cấp của một loại hàng hóa nào đó
trở nên khan hiếm hơn so với lượng cầu. Người tiêu dùng sẽ phải cạnh tranh
nhau để có thể có được lượng hàng hóa mình cần và thường là cạnh tranh
nhau bằng giá tức là họ sẵn sàng trả mức giá cao hơn người khác để có được
sản phẩm đó. Và kết quả là mức giá sẽ được đẩy lên cao, nhà sản xuất sẽ được
lợi. Đây chính là quy luật "cung cầu" của thị trường và cao trao này sẽ chỉ xảy
ra trong một thời gian ngắn, sau đó thị trường sẽ tự điều tiết lại.
* Cạnh tranh giữa những người bán với nhau:
Đây là cuộc cạnh tranh gay go quyết liệt nhất, Khi mà trong nền kinh tế
thị trường sức cung lớn hơn mức cầu rất nhiều, khách hàng có cơ hội lựa chọn
và được coi là thượng đế của người bán, là nhân tố quyết định sự tồn vong
của doanh nghiệp. Do vậy doanh nghiệp phải luôn ganh đua, loại trừ nhau để
dành những ưu thế cho mình. Mọi doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển
được thì ngoài việc không ngừng phải tự đổi mới, phát huy thế mạnh của
mình thì còn phải tìm hiểu các thông tin về đối thủ cạnh tranh cả hiện tại lẫn
tiềm ẩn. Từ đó tìm ra được điểm mạnh cũng như điểm yếu của đối thủ để có

cách ứng phó kịp thời nhằm dành được thị phần cao hơn đối thủ. Kết quả của
cuộc cạnh tranh này chính là quy luật "cá lớn nuốt cá bé", những doanh
nghiệp kém năng lực sẽ bị các doanh nghiệp lớn thôn tính.
1.1.3.2 Căn cứ vào phạm vi nghành kinh tế:
Cạnh tranh được chia thành hai loại:
* Cạnh tranh trong nội bộ ngành:
Đây là sự cạnh tranh giữa các Công ty, xí nghiệp trong cùng một
ngành, cùng sản xuất ra cùng một loại hàng hóa, dịch vụ nhằm mục đích tiêu
7


thụ hàng hóa có lợi hơn để thu lợi nhuận siêu ngạch. cuộc cạnh tranh này khó
khăn hơn rất nhiều bởi các doanh nghiệp cùng trên một chiến tuyến với mục
tiêu sản phẩm, thị trường, khách hàng như nhau, do vậy doanh nghiệp nào tìm
được lợi thế hơn đối thủ dù chỉ chút xíu cũng có thể giành được thị phần cao
hơn.. Do vậy đề giành được phần thắng trong cuộc cạnh tranh quyết liệt này
doanh nghiệp cần phải không ngừng tìm tòi sáng tạo, cải tiến công nghệ để
tăng năng suất lao động tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao, không
ngừng thu thập thông tin về đối thủ, phân tích và so sánh với bản thân doanh
nghiệp để thấy được những điểm mạnh và bất lợi của mình so với đối thủ để
xây dựng những chiến lược đúng đắn.
* Cạnh tranh giữa các ngành:
Đây là sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp thuộc các ngành khác nhau
nhằm giành nơi đầu tư có lợi nhất để thu được lợi nhuận và tỉ suất lợi nhuận
cao hơn so với số vốn đã bỏ ra. Trong quá trình canh tranh doanh nghiệp
chuyển vốn đầu tư từ ngành có lợi nhuận thấp sang ngành có lợi nhuận cao
hơn. Sự điều chỉnh tự nhiên sau tiếng gọi của lợi nhuận này sau một thời gian
nhất định sẽ hình thành lên sự phân phối hợp lý giữa các ngành sản xuất để
rồi kết quả cuối là cá chủ doanh nghiệp đầu tư ở các nghành sản xuất khác
nhau với số vốn như nhau thì cũng chỉ thu được lợi nhuận như nhau, tức là

hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân giữa các ngành.
1.1.3.3 Căn cứ vào mức độ, tính chất của cạnh tranh trên thị trường:
Cạnh tranh được chia thành ba loại
* Cạnh tranh hoàn hảo:
Đây là hình thức cạnh tranh mà trên thị trường có rất nhiều người bán,
người mua nhỏ, không ai có đủ lớn để làm ảnh hưởng đến giá cả, dịch vụ.
Điều đó có nghĩa là không cần biết họ sản suất được bao nhiêu, họ đều có thể
bán được hết sản phẩm của mình tại mức giá hiện hành. Đối với thị trường
cạnh tranh hoàn hảo sẽ không có hiện tượng cung cầu giả tạo, không bị hạn
chế bởi biện pháp hành chính của Nhà nước. Vì vậy trong thị trường này giá
cả thị trường dần tới mức chi phí sản xuất.
* Cạnh tranh không hoàn hảo:
Nếu một hãng có thể tác động đáng kể đến giá cả thị trường đối với đầu
ra của hãng thì hãng đó được liệt vào “hãng cạnh tranh không hoàn
8


hảo”...Như vậy, cạnh tranh không hoàn hảo là cạnh tranh trên thị trường
không đồng nhất với nhau, mỗi loại sản phẩm có thể có nhiều loại nhãn hiệu
khác nhau, mỗi loại nhãn hiệu có hình ảnh và uy tín khác nhau cho dù xem
xét về chất lượng thì sự khác biệt giữa chúng là không đáng kể. Đây là loại
hình cạnh tranh rất phổ biến trong giai đoạn hiện nay.
* Cạnh tranh độc quyền:
Đây là hình thức cạnh tranh mà ở đó một số người bán một số sản
phẩm thuần nhất hoặc nhiều người bán một lại sản phẩm không đồng nhất.
Họ có thể kiểm soát được gần như toàn bộ sản phẩm hay hàng hóa bán ra trên
thị trường. Thị trường này có pha trộn lẫn giữa độc quyền và cạnh tranh. Điều
kiện ra nhập hoặc rút lui khỏi thị trường cạnh tranh độc quyền có nhiều trở
ngại do vốn đầu tư lớn hoặc do độc quyền về bí quyết công nghệ, thị trường
này không có cạnh tranh về giá cả mà một số người bán toàn quyền quyết

định về giá bán. Trong thực tế tình trạng độc quyền xảy ra khi thị trường
không có sản phẩm thay thế sản phẩm độc quyền hoặc một số nhà độc quyền
liên kết với nhau nhằm thao túng thị trường. Cạnh tranh độc quyền gây trở
ngại cho phát triển sản xuất và tổn hại cho người tiêu dùng. Vì vậy cần phái
chống lại sự liên minh độc quyền giữa các nhà kinh doanh với nhau.
* Độc quyền tập đoàn:
Đây là hình thức cạnh tranh tồn tại trong một số nghành sản xuất mả ở
đó chỉ có một số ít người sản xuất. Lúc này cạnh tranh xảy ra giữa một số lực
lượng nhỏ các doanh nghiệp. Do vậy các doanh nghiệp nhận thức sâu sắc rằng
giá cả các sản phẩm của họ không chỉ phụ thuộc vào số lượng mà còn phụ
thuộc vào hoạt động của các đối thủ cạnh tranh khác trên thị trường. Một sự
thay đổi giá cả của doanh nghiệp này cũng sẽ gây ra những ảnh hưởng lớn
đến nhu cầu cân đối với các sản phẩm của các doanh nghiệp khác. Những
doanh nghiệp tham gia vào thị trường này thường có tiềm lực kinh tế mạnh,
vốn đầu tư lớn.
1.2 Lợi thế cạnh tranh:
1.2.1 Khái niệm:
Lợi thế cạnh tranh là sở hữu của những giá trị đặc thù, có thể sử dụng
được để "nắm bắt cơ hội", để kinh doanh có lãi. Khi nói đến lợi thế cạnh
tranh, chúng ta nói đến lợi thế mà doanh nghiệp đang có và có thể có, so với
9


các đối thủ cạnh tranh của họ. Lợi thế cạnh tranh là một khái niệm cho doanh
nghiệp, có tính vi mô chứ không phải tính vĩ mô ở cấp quốc gia. Như vậy
không có cái gọi là "lợi thế Việt Nam" mà chỉ là lợi thế của doanh nghiệp A
hoặc doanh nghiệp B. Những giá trị nào quyết định lợi thế cạnh tranh của mỗi
doanh nghiệp? Đó chính là sự thôi thúc, đam mê, là khả năng và bản chất đặc
thù của người doanh nhân cộng với đến điện kiện hoàn cảnh cá nhân, vị trí địa
lý và tài nguyên sẵn có, nhu cầu của thị trường mà họ tiếp cận được, tạo ra

những cơ hội kinh doanh đặc thù để doanh nghiệp có thể nắm bắt, tận dụng cơ
hội kinh doanh. Như vậy mỗi doanh nghiệp có mỗi lợi thế khác nhau.
Một doanh nghiệp được xem là có lợi thế cạnh tranh khi tỷ lệ nhuận
cao hơn tỷ lệ bình quân trong ngành. Và một doanh nghiệp có lợi thế cạnh
tranh bền vững khi nó có thể duy trì tỷ lệ lợi nhuận cao trong một thời gian
dài. Hai yếu tố cơ bản hình thành tỷ lệ lợi nhuận của một doanh nghiệp, và do
đó biểu thị nó có lợi thế cạnh tranh hay không, đó là lượng giá mà khách hàng
cảm nhận được về hàng hóa hay dịch vụ của doanh nghiệp, và chi phí sản
xuất của nó. Giá trị cảm nhận của khách hàng là sự lưu giữ trong tâm trí họ về
những gì mà họ thấy thỏa mãn từ sản phẩm hay dịch vụ của doanh nghiệp.
Nói chung giá trị mà khách hàng cảm nhận và đánh giá về sản phẩm của
doanh nghiệp thường cao hơn giá mà doanh nghiệp có thể đòi hỏi về các sản
phẩm, dịch vụ của mình. Theo các nhà kinh tế phần cao hơn đó chính là thặng
dư nhà tiêu dùng mà khách hàng có thể nhận được. Cạnh tranh giành giật
khách hàng giữa các doanh nghiệp giúp khách hàng nhận được phần thặng dư
này. Cạnh tranh càng mạnh thì thặng người tiêu dùng càng lớn. Hơn nữa
doanh nghiệp không thể phân đoạn thi trường chi tiết đến mức mà có thể đòi
hỏi mỗi khách hàng một mức giá phản ánh đúng đắn những cảm nhận riêng
của họ về giá trị sản phẩm, hai lí do này chỉ có thể đòi hỏi mức giá thấp hơn
giá trị mà khách hàng cảm nhận và đánh giá về sản phẩm
Cách thức mà doanh nghiệp có được các lợi thế cạnh tranh:
- Thứ nhất, doanh nghiệp sẽ cố gắng tạo ra nhiều giá trị hơn cho khách
hàng, làm cho họ có sự thỏa mãn vượt trên cả sự mong đợi của chính họ. Các
nỗ lực của doanh nghiệp làm cho sản phẩm hấp dẫn hơn nhờ sự vượt trội về
thiết kế, tính năng chất lượng và điều đó tương tự để chính khách hàng cảm
nhận được giá trị lớn hơn và họ sẵn sàng trả giá cao hơn.
10


- Thứ hai, doanh nghiệp có thể cố nâng cao hiệu quả các hoạt động của

mình để giảm chi phí. Hệ quả là biên lợi nhuận tăng lên, hướng đến một lợi
thế cạnh tranh. Nói cách khác, khái niệm về sự sáng tạo giá trị là hạt nhân của
lợi thế cạnh tranh.
Bằng việc khai thác các năng lực cốt lõi hay lợi thế cạnh tranh để đáp
ứng và đáp ứng trên tất cả các chuẩn mực yêu cầu của cạnh tranh, các doanh
nghiệp tạo ra giá trị cho khách hàng. Về bản chất, việc tạo ra giá trị vượt trội
không nhất thiết yêu cầu một công ty có cấu trúc chi phí thấp nhất trong
ngành hay tạo ra một sản phẩm có giá trị nhất trong mắt của khách hàng, mà
quan trọng độ lệch giữa giá trị nhận thức được và chi phí sản xuất lớn hơn các
đối thủ cạnh tranh.
1.2.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến lợi thế cạnh tranh:
Bao gồm là hiệu quả, chất lượng, sự cải tiến và đáp ứng khách hàng.
* Về hiệu quả: nếu coi một doanh nghiệp như là một hệ thống chuyển
hóa các hệ thống đầu vào thành đầu ra. Các đầu vào là các yếu tố cơ bản của
sản xuất như là lao động, vốn, đất đai, quản trị, và bí quyết công nghệ.
Đầu ra là các hàng hóa và dịch vụ mà doanh nghiệp sản xuất. Cách đơn
giản nhất của hiệu quả là đem chia số lượng các đầu ra cho các đầu vào. Một công
ty càng hiệu quả khi nó cần càng ít đầu vào để sản xuất một đầu ra nhất định
* Về chất lượng: các sản phẩm có chất lượng phải đáng tin cậy theo
nghĩa mà nó được thực hiện đúng như thiết kế và làm tốt điều đó, ngoài ra
chất lượng cao dẫn đến hiệu quả cao hơn và đem lại chi phí thấp hơn. Chất
lượng cao sẽ làm giảm thời gian lao động bị lãng phí để làm ra các chi tiết sản
phẩm bị khuyết tật hay cung cấp dịch vụ không đáp ứng đủ tiêu chuẩn và
giảm thời gian bỏ ra để sửa chữa khuyết tật sẽ cho năng suất lao động cao hơn
và chi phí đơn vị thấp hơn. Như vậy, chất lượng sản phẩm cao không chỉ để
cho công ty dòi hỏi giá cao hơn về sản phẩm của mình mà còn hạ thấp chi
phí.
* Về cải tiến: cải tiến là bất kỳ những gì được coi là mới hay mới lạ
trong cách thức mà một công ty vận hành hay sản xuất sản phẩm của nó. Cải
tiến bao gồm những tiến bộ mà công ty phát triển về các loại sản phẩm, quá

trình sản xuất, hệ thống quản trị. cấu trúc tổ chức và các chiến lược. Cải tiến

11


có lẽ là khối quan trọng nhất của lợi thế cạnh tranh. Về dài hạn cạnh tranh có
thể coi như một quá trình được dẫn dắt bằng sự cải tiến.
. Về đáp ứng khách hàng, một công ty có khả năng đáp ứng khách hàng
tốt phải có khả năng nhận diện và thỏa mãn nhu cầu khách hàng tốt hơn so
với các đối thủ cạnh tranh. Có như vậy khách hàng sẽ cảm nhận giá trị sản
phẩm của công ty, và công ty có lợi thế cạnh tranh trên cơ sở khác biệt.
1.3. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp:
1.3.1 Khái niệm:
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là thể hiện thực sự của doanh
nghiệp so với đối thủ cạnh tranh trong việc thỏa mãn tốt nhất các đòi hỏi của
khách hàng để thu lợi ngày càng cao hơn.
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp tạo ra từ thực lực của doanh
nghiệp. Đây là các yếu tố nội hàm của mỗi doanh nghiệp, không chỉ được tính
bằng các tiêu chí về công nghệ, tài chính, nhân lực, tổ chức quản trị doanh
nghiệp.... một cách riêng biệt mà cần đánh giá, so sánh với các đối thủ cạnh
tranh trong hoạt động trên cùng một lĩnh vực, cùng một thị trường. Sẽ là vô
nghĩa nếu những điểm mạnh và điểm yếu bên trong doanh nghiệp được đánh
giá nếu thông qua việc so sánh một cách tương ứng với các đối thủ cạnh
tranh. Trên các so sánh đó, muốn tạo nên năng lực cạnh tranh, đòi hỏi doanh
nghiệp phải tạo lập được lợi thế so sánh với lợi đối tác của mình. Nhờ lợi thế
này doanh nghiệp có thể thỏa mãn tốt hơn các đòi hỏi của khách hàng mục
tiêu cũng như lôi kéo được khách hàng của đối tác cạnh tranh.
Thực tế cho thấy, không một doanh nghiệp nào có khả năng thỏa mãn
đầy đủ tất cả những yêu cầu của khách hàng. Thường thì doanh nghiệp có lợi
thế về mặt này và có hạn chế về mặt khác. Vấn đề cơ bản là, doanh nghiệp

phải nhận biết được điều này và cố gắng phát huy tốt những điểm mạnh mà
mình đang có để đáp ứng tốt nhất những đòi hỏi của khách hàng.Những điểm
yếu bên trong bên trong một doanh nghiệp được biểu thị thông qua các lĩnh
vực hoạt động chủ yếu của doanh nghiệp như marketing, tài chính, sản xuất,
nhân sự, công nghệ, quản trị, hệ thống thông tin... Tuy nhiên, để đánh giá
năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp, phải xác định được các yếu tố
đánh giá năng lực cạnh tranh từ những lĩnh vực hoạt động khác nhau và cần
thực hiện việc đánh giá bằng cả định tính và định lượng. Các doanh nghiệp
12


hoạt động sản xuất kinh doanh ở những ngành, lĩnh vực khác nhau có các yếu
tố đánh giá năng lực cạnh tranh khác nhau. Mặc dù vậy, vẫn có thể tổng hợp
được các yếu tố đánh giá năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp bao gồm:
giá cả sản phẩm và dịch vụ; chất lượng sản phẩm và bao gói; kênh phân phối
sản phẩm và dịch vụ bán hàng; thông tin và xúc tiến thương mại; năng lực
nghiên cứu và phát triển; thương hiệu và uy tín của doanh nghiệp; trình độ
lao động; thị phần sản phẩm doanh nghiệp và tốc độ tăng trưởng thị phần; vị
thế tài chính; năng lực tổ chức và quản trị doanh nghiệp.
1.3.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh doanh nghiệp
* Doanh nghiệp là một tế bào kinh tế - xã hội và chịu sự tác động của
hàng loạt các yếu tố của môi trường hoạt động. Doanh nghiệp cần thấy rõ
được sự ảnh hưởng của các yêu tố này để có biện pháp nhằm phát huy điểm
mạnh và giảm thiểu những điều tiêu cực nhằm tạo dựng năng lực cạnh tranh
của mình ngày càng cao hơn. Có thể chia thành hai nhóm nhân tố ảnh hưởng
tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là:
1.3.2.1 Nhóm nhân tố bên ngoài doanh nghiệp gồm:
* Nhà cung cấp các yếu tố đầu vào:
Nhà cung cấp đối với doanh nghiệp có ý nghĩa vô cùng aun trọng. Nói
đến đầu vào là nói đến việc cung cấp các yếu tố cần thiết để doanh nghiệp tiến

hành sản xuất kinh doanh như: nguyên liệu, máy móc thiết bị, vốn, nhân
lực.... Doanh nghiệp cung một lúc quan hệ với nhiều nguồn cung cấp thuộc
các loại trên. Vấn đề đặt ra là các doanh nghiệp nên tìm đến những nhà cung
ứng đầu vào có uy tín, đò hỏi số lượng phải đủ, chất lượng phải đảm bảo, thời
gian phải đúng hẹn, ổn định về giá cả. Mỗi sự sai lệch trong quan hệ với nhà
cung cấp đều ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất, điều đó có nghĩa sẽ làm giảm
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Để giảm áp lực của nhà cung cấp, doanh nghiệp nên lựa chọn nhiều nhà
cung cấp có uy tín, tránh độc quyền, nhưng doanh nghiệp cũng nên chọn
trong số đó có một nhà cung cấp chính có tiềm lực và đủ sự tin cậy làm cộng
tác lâu dài, tạo sự tin cậy giữa doanh nghiệp và nhà cung cấp đầu vào.
* Khách hàng:
Khách hàng là người sẽ quyết định hàng hóa của doanh nghiệp được
bán theo giá nào? Suy cho tất cả các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
13


đều nhằm thỏa mãn nhu cầu của khách hàng. Nếu doanh nghiệp nào càng đáp
ứng tốt nhu cầu của khách hàng so với các đối thủ cạnh tranh thì họ càng
nhận được sự ủng hộ và sự trung thành từ phía khách hàng. Trong điều kiện
có sự cạnh tranh gay gắt thì vai trò của khách hàng càng trở nên quan trọng và
ưu tiên hơn. Tuy nhiên thực tế là người mua luôn trả giá thấp vì vậy sẽ thực
hiện việc ép giá, gây áp lực đòi chất lượng cao hơn hoặc đòi được phục vụ
nhiều hơn đối với doanh nghiệp khi có điều kiện do vậy, sẽ làm giảm lợi
nhuận của doanh nghiệp. Nhóm khách hàng thường gây áp lực đối với doanh
nghiệp là cá khách hàng thường mua khối lượng lớn, Khi doanh nghiệp không kịp
thời thay đổi kịp những thay đổi trong nhu cầu của khác hàng thì họ có xu hướng
chuyển dịch sang các doanh nghiệp khác mà doanh nghiệp đó đáp ứng tốt hơn yêu
cầu của họ. Điều đó có nghĩa khách hàng của doanh nghiệp sẽ dần bị giảm đi và
như vậy sức cạnh tranh của doanh nghiệp sẽ giảm sút. Điều đó chứng tỏ yếu tố

khách hàng có ảnh hưởng lớn đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
* Đối thủ cạnh tranh hiện tại trong ngành:
Doanh nghiệp phải đối phó với hàng loạt các đối thủ cạnh tranh. Các
đối thủ cạnh tranh trong ngành quyết định tính chất mức độ tranh đua giành
giật lợi thế trong ngành, mà mục đích cuối cùng là giữ vững và phát triển thị
phần hiện có, đảm bảo thu được lợi nhuận cao nhất. Cạnh tranh trở lên khốc
liệt khi ngành ở giai đoạn bão hòa hoặc suy thoái hoặc có đông đối thủ cạnh
tranh trở lên khốc liệt khi ngành ở giai đoạn bão hòa hoặc suy thoái hoặc có
đông đối thủ cạnh tranh cùng năng lực. Đây là đối tượng ảnh hưởng rất lớn
đến doanh nghiệp, là động lực kích thích mỗi doanh nghiệp không ngừng phải
nâng cao năng lực của mình. Vì chỉ cần doanh nghiệp có những bước đi sai
lầm thì chính họ sẽ là mối đe dọa lớn của công ty trong việc tranh giành thị
trường. Do vậy doanh nghiệp cần phải tìm hiểu mọi thông tin về đối thủ như:
mục đích tương lai, các nhận định, các tiềm năng, chiến lược hiện tại, những
điểm mạnh, điểm yếu, khả năng thích nghi với môi trường... của đối thủ cạnh
tranh. Trên cơ sở đó hoàn thiện những mặt còn yếu kém, phát huy những thế
mạnh của doanh nghiệp từng bước nâng cao năng lực cạnh tranh hơn đối thủ.
* Đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn:
Khi một ngành có sự tham gia tăng thêm đối thủ cạnh tranh mới thì hệ
quả là tỷ suất lợi nhuận giảm và tăng thêm mức độ cạnh tranh. Các đối thủ
14


cạnh tranh mới tham gia vào thị trường sau nên họ có lợi thế trong ứng dụng
những thành tựu mới của khoa học, công nghệ. Không phải lúc nào cũng gặp
phải đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn, nhưng khi đối thủ mới xuất hiện thì vị thế
cạnh tranh của doanh nghiệp sẽ thay đổi. Vì vậy doanh nghiệp cần phải biết
dự đoán cho tương lai, định hướng đối tác khách hàng, phải tạo cho mình
một hàng rào ngăn cản sự xâm nhập của các đối thủ mới. Những hàng rào này
là lợi thế sản xuất theo quy mô, đa dạng hóa sản phẩm, sự đòi hỏi có nguồn

tài chính lớn, chi phí chuyển đổi mặt hàng cao, khả năng hạn chế xâm nhập
các kênh tiêu thụ.
* Các chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước:
- Môi trường chính trị: Đây là yếu tố co tác động lớn tới mọi doanh
nghiệp. Nếu quốc gia nào có môi trường chính trị ổn định, ít biến động, một
chế minh bạch rõ ràng thì thu hút được rất nhiều đầu tư nước ngoài và tạo
điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp yên tâm kinh doanh vì tài sản của họ
được đảm bảo, rủi ro cũng ít hơn, đối với các doanh nghiệp nước ngoài thì họ
có thể xác định đầu tư làm ăn lâu dài tại quốc gia đó, còn với doanh nghiệp
trong nước thì có điều kiện phát huy năng lực cạnh tranh của mình.
- Môi trường pháp lý: yếu tố này được mọi doanh nghiệp quan tâm vì
nó ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích cũng như nghĩa vụ của doanh nghiệp.
Trước khi bắt tay vào kinh doanh một lĩnh vực gì đó thì doanh nghiệp cũng
phải xem xét tới hệ thống văn bản pháp lý của quốc gia có cho phép kinh
doanh mặt hàng đó hay không? các thủ tục cần thiết là gì? những quyền và
nghĩa vụ của doanh nghiệp ra sao?.... Do vậy, nếu một quốc gia có hệ thống
luật pháp cồng kềnh, phức tạp, chồng chéo, thủ tục hành chính rườm rà, nhiều
tiêu cực, quá nhiều cửa, và đặc biệt hay thay đổi chính sách hoặc chính sách đưa
ra còn chưa phù hợp với thực tế thì đây quả là rào cản vô cùng to lớn cho doanh
nghiệp, làm hạn chế khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thương trường.
- Môi trường kinh tế: Bao gồm các chính sách phát triển kinh tế, chính
sách thương mại, chính sách cạnh tranh, chính sách đầu tư... Các chính sách
biện pháp kinh tế nhằm khuyến khích hay hạn chế, ưu tiên hay kìm hãm sự
phát triển của từng ngành cụ thể, do đó ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của
từng doanh nghiệp trong các ngành đó. Do đó, các chính sách kinh tế, các quy
định và thủ tục hành chính phải đơn giản, minh bạch, không phân biệt đối xử
15


giữa các loại hình doanh nghiệp sẽ có tác động mạnh tới kết quả, hiệu quả và

năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp.
- Môi trường khí hậu tự nhiên: Cũng tùy vào doanh nghiệp khác nhau
mà sự ảnh hưởng của yếu tố này cũng khác nhau. Nếu quốc gia có vị trí địa lý
thuận lợi cho thông thương quốc tế thì là điều kiện để doanh nghiệp kinh
doanh xuất nhập khẩu nâng cao được năng lực của mình. Ví dụ như đối với
ngành xây dựng sản phẩm là các công trình do vậy điều kiện khí hậu cũng
ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng sản phẩm và tiến độ thi công của doanh
nghiệp.
* Bối cảnh quốc tế và sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật:
Ngày nay thế giới đang chuyển biến mạnh mẽ, thời đại của hội nhập kinh tế
quốc tế, của toàn cầu hóa, của công nghệ tự động hóa. Đó quả thực là vũ đài
kinh tế lớn, là sân chơi chung cho mọi quốc gia, nó sẽ là cơ hội cho doanh
nghiệp nào biết tận dụng biết tận dụng. Đồng thời nó cũng tạo điều kiện tốt
cho doanh nghiệp nâng cao được năng lực của mình bằng việc chuyển giao
công nghệ, vốn, nhân lực có trình độ tay nghề vào trong sản xuất.
1.3.2.2 Nhóm nhân tố bên trong doanh nghiệp gồm:
* Các chính sách chiến lược của công ty:
Chính sách và chiến lược của doanh nghiệp giữ vai trò quan trọng, giúp
hoạt động cho doanh nghiệp trong trung hạn và dài hạn, giúp doanh nghiệp
hạn chế rủi ro, vượt qua khó khăn thử thách để đi đến thành công. Chính sách
và chiến lược bao gồm nhiều loại như: Chính sách nhân sự, chính sách sản
phẩm, chính sách và chiến lược đúng là điều cơ bản để mọi doanh nghiệp
giành được thành công trên thương trường. Làm được điều này phụ thuộc rất
nhiều vào tài, đức và nghệ thuật quản lý của lãnh đạo doanh nghiệp.
* Sự sẵn sàng của các nhân tố đầu vào:
Các nhân tố đầu vào bao gồm: nhân lực, nguyên vật liệu, phụ liệu, bán
thành phẩm, nhiên liệu, công nghệ, thông tin. Các nhân tố này phải sẵn sàng,
nghĩa là phải dự trữ đủ số lượng, chủng loại và chất lượng, để kịp thời cung
cấp cho các bộ phận sản xuất kinh doanh khi cần, nếu không sẽ làm gián đoạn
quá trình cung cấp sản xuất, làm giảm năng suất và chất lượng, hậu quả là làm

giảm năng lực cạnh tranh. Đặc biệt trong thời đại ngày nay việc thu thập,
phân tích, cung cấp thông tin về đối thủ và thị trường đúng và kịp thời cho
16


các nhà quản lý là cực kỳ quan trọng để các nhà quản lý có những quyết sách
đúng đắn, kịp thời giúp doanh nghiệp có thể chiến thắng trong cạnh tranh.
* Nhận thức chung của người lao động trong doanh nghiệp:
- Thứ nhất là, nhận thức của người lao động về cạnh tranh:Quy luật của
cạnh tranh là sẽ đào thải những cái yếu, cái không đủ năng lực. Do vậy nếu
người lao động trong công ty chưa nhận thức được quy luật và không chịu rèn
luyện, phấn đấu, học tập nâng cao trình độ, chưa nhận thức được vai trò và
địa vị của mình trong dây chuyền sản xuất sẽ làm cho sản phẩm không đảm
bảo chất lượng và như vậy sẽ gây tổn hại đến năng lực cạnh tranh, cũng như
sự tồn tại cảu của doanh nghiệp.
- Thứ hai là: sự hiểu biết của người lao động về chính sách luật pháp
cảu Nhà nước. Điều này rất quan trọng vì nếu kiến thức này của người lao
động chưa được trang bị đầy đủ thì rất có thể gây ra những hành vi sai lầm
xâm hại tới lợi ích của tập thể, của quốc gia, làm giảm uy tín của daonh nghiệp
như: họ có thể tham gia biểu tình, đình công mà pháp luật không cho phép.
- Thứ ba là, quan điểm về lao động: Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa mọi
người cần nhận thức rõ rằng là mình làm cho ai? và để làm gì? chứ không chỉ
đơn thuần là làm thuê kiếm sống. Từ đó mới có ý thức lao động tốt, người lao
động cần phát huy sáng tạo trong công việc nhằm xây dựng và phát triển công
ty. Nếu quan điểm lao động không đúng sẽ dẫn tới kỷ luật lao động chấp
hành không tốt, người lao động làm với tinh thần nghĩa vụ, hoàn thành công
việc với chất lượng không cao, sản phẩm không có tính cạnh tranh và điều
này sẽ ảnh hưởng lớn tới sức cạnh tranh của doanh nghiệp.
* Về trình độ tổ chức, quản trị doanh nghiệp:
- Thứ nhất là về cơ cấu tổ chức cuả doanh nghiệp: Nếu một doanh

nghiệp có cơ cấu tổ chức hợp lý, phân công trách nhiệm và quyền hạn rõ ràng
thì mọi hoạt động sẽ trôi chảy, có năng suất. Ngược lại một cơ cấu chồng
chéo, quyền lực không được phân chia thì hiệu quả hoạt động sẽ kém. Trong
đó thì cơ cấu Ban lãnh đạo có phẩm chất và tài năng có vai trò quan trọng bậc
nhất, ảnh hưởng tới sự thành công của doanh nghiệp. Một nhà lãnh đạo giỏi
không chỉ biết làm cho bộ máy công ty vận hành đúng quy luật và còn phải
làm cho nó hoạt động một cách linh hoạt, uyển chuyển cho phù hợp với sự
thay đổi của môi trường trong và ngoài doanh nghiệp.
17


- Thứ hai là công tác đào tạo: Quản trị doanh nghiệp trước hết là phải
làm tốt công tác giáo dục trong công ty. Lãnh đạo doanh nghiệp phải tiến
hành thường xuyên việc giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, văn hoá cho
mọi thành viên. Từ đó giúp họ nhận thức tốt về pháp luật, về đường lối chính
sách của Đảng, Nhà nước, khuyến khích mọi người tiết kiệm, chống lãng phí,
tham nhũng, giảm thiểu những chi phí vô ích, ngoài ra còn tạo môi trường văn
hoá lành mạnh trong công ty giúp mọi người đoàn kết, gắn bó, tạo dựng được
tập thể vững mạnh cùng phấn đấu cho mục tiêu “nâng cao năng lực cạnh
tranh” của doanh nghiệp.
- Thứ ba là việc áp dụng phương pháp quản trị mới: Nếu biết áp dụng
các phương pháp và biện pháp quản trị mới sẽ mang lại hiệu quả và năng suất
cao, giảm được nhiều chi phí, tạo điều kiện nâng cao năng lực cạnh tranh.
Nếu ta sử dụng một lối mòn trong quản trị sẽ dẫn đến sự trì trệ, bảo thủ,
không phù hợp với những thay đổi của cơ chế thị trường và đặc biệt sẽ bị đối
thủ “bắt bài” tìm kẽ hở để chiếm mất thị phần của công ty.
1.3.2.3 Xây dựng ma trận hình ảnh cạnh tranh:
Qua phân tích, đánh giá những nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh
tranh thì daonh nghiệp cần phải xây dựng ma trận hình ảnh cạnh tranh để
nhận diện những đối thủ cạnh tranh chủ yếu cùng những ưu và nhược điểm

đặc biệt của họ. Ma trận này là sự mở rộng ma trận đánh giá các yếu tố bên
ngoài, vì nó bao gồm cả các yếu tố bên ngoài lẫn các yếu tố bên trong có tầm
quan trọng quyết định đến sự thành công của doanh nghiệp. Ngoài ra, trong
ma trận hình ảnh cạnh tranh, các đối thủ cạnh tranh cũng sẽ được xem xét và
tính tổng số điểm quan trọng. Tổng số điểm được đánh giá của công ty cạnh
tranh được so sánh với công ty đang nghiên cứu. Việc so sánh cung cấp cho ta
nhiều thông tin chiến lược quan trọng.
Cách xây dựng ma trận hình ảnh cạnh tranh gồm các bước như sau:
Bước 1: Lập danh mục các yếu tố có vai trò quyết định đối với sự
thành công như đã nhận diện trong quá trình đánh giá môi trường vĩ mô.
Danh mục này bao gồm từ 10 đến 20 yếu tố, bao gồm cả những cơ hội và đe
doạ ảnh hưởng đến công ty và ngành kinh doanh của công ty.
Bước 2: Phân loại tầm quan trọng từ 0,0 (không quan trọng) đến 1,0
(rất quan trọng) cho mỗi yếu tố. Sự phân loại cho thấy tầm quan trọng tương
18


ứng của yếu tố đó đối với sự thành công trong ngành kinh doanh của công ty.
Mức phân loại thích hợp có thể được xác định bằng cách so sánh những công
ty thành công với công ty không thành công trong ngành, hoặc thảo luận và
đạt được sự nhất trí của nhóm xây dựng chiến lược. Tổng số các mức phân
loại phải bằng 1,0. Như vậy, sự phân loại dựa trên cơ sở ngành.
Bước 3: Phân loại từ 1 đến 4 cho mỗi yếu tố quyết định sự thành công
để cho thấy cách thức mà các chiến lược hiện tại của công ty phản ứng với
yếu tố này. Trong đó: 4 là phản ứng tốt, 3 là trên trung bình, 2 là trung bình
và 1 là yếu. Các mức này dựa trên hiệu quả chiến lược của công ty.
Bước 4: Nhân tầm quan trọng của mỗi biến số với phân loại của nó
( = bước 2 x bước 3) để xác định số điểm về tầm quan trọng.
Bước 5: Cộng tổng số điểm về tầm quan trọng cho mỗi biến số để xác
định tổng số điểm quan trọng cho tổ chức.

Bất kể số lượng cơ hội và đe doạ trong ma trận, tổng số điểm quan
trọng cao nhất mà một công ty có thể có là 4,0, thấp nhất là 1,0 và trung bình
là 2,5. Tổng số điểm quan trọng là 4,0 cho thấy chiến lược của công ty tận
dụng tốt cơ hội bên ngoài và tối thiểu hoá ảnh hưởng tiêu cực của môi trường
bên ngoài lên công ty.
1.3.3 Các chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp:
1.3.3.1 Nhóm chỉ tiêu định lượng:
 Thị phần doanh nghiệp trên thị trường:
Thị phần phản ánh thế mạnh của doanh nghiệp trong ngành, là chỉ tiêu
được doanh nghiệp hay dùng để đánh giá mức độ chiếm lĩnh thị trường của
mình so với đối thủ cạnh tranh. Thị phần lớn sẽ tạo lợi thế cho doanh nghiệp
chi phối và hạ thấp chi phí sản xuất do lợi thế về quy mô. Thị phần của doanh
nghiệp trong một thời kỳ là tỷ lệ phần trăm thị trường mà doanh nghiệp đã
chiếm lĩnh được trong thời kỳ đó. Có các loại thị phần sau:
- Thị phần tuyệt đối: Thị phần của doanh nghiệp đối với một loại hàng
hoá, dịch vụ nhất định là tỷ lệ phần trăm giữa doanh số mua vào của doanh
nghiệp này với tổng doanh số mua vào của tất cả các doanh nghiệp kinh
doanh loại hàng hoá, dịch vụ trên thị trường liên quan theo tháng, quý, năm.
(Điều 3 Luật Cạnh Tranh)
* Công thức tính:
19


Doanh thu của doanh nghiệp
* 100%
Tổng doanh thu trên thị trường
Riêng đối với ngành xây dựng có thể tính thị phần tuyệt đối theo công
thức sau:
Giá trị tổng SLXL do DN hoàn thành
Thị phần tuyệt đối =

* 100%
Tổng giá trị SLXl hoàn thành trên thị trường
- Thị phần tương đối: là tỷ lệ so sánh về doanh thu cảu công ty so với
đối thủ cạnh tranh mạnh nhất. Nó cho biết vị thế của công ty trong cạnh tranh
trên thị trường như thế nào. Công thức tính:
Doanh thu của doanh nghiệp
Thị phần tương đối =
* 100%
Doanh thu của đối thủ cạnh tranh mạnh nhất
Chỉ tiêu này đơn giản dễ tính tính, song kết quả tính toán chưa thật
chính xác do khó lựa chọn được đối thủ cạnh tranh mạnh nhất, đặc biệt khi
doanh nghiệp kinh doanh trên trên nhiều lĩnh vực.
* Chỉ tiêu lợi nhuận:
Chỉ tiêu lợi nhuận được thể hiện qua một số yếu tố sau như: giá trị tổng
sản lượng sản xuất, lợi nhuận ròng, tỷ suất lợi nhuận/ tổng sản lượng sản xuất.
Đây là một trong các chi tiêu phản ánh hiệu quả sản xuất của doanh
nghiệp. Nếu các chỉ tiêu này ngày cao phản ánh hiệu quả sản xuất kinh doanh
của doanh càng cao và do đó tạo điều kiện nâng cao khả năng cạnh tranh cuả
doanh nghiệp.
* Năng suất lao động:
Năng suất lao động là chỉ tiêu tổng hợp của nhiều yếu tố như: con
người, công nghệ, cơ sở vật chất kỹ thuật, tổ chức phối hợp …. Do vậy nó là
tiêu chí rất quan trọng để đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Năng suất lao động được đo bằng sản lượng sản phẩm đảm bảo chất lượng
trên một đơn vị số lượng lao động làm ra sản phẩm đó.
* Công thức tính:
Lượng sản phẩm đảm bảo chất lượng
Năng suất lao động =
Số lượng lao động làm ra sản phẩm đó
Năng suất lao động của doanh nghiệp càng cao bao nhiêu thì năng lực

cạnh tranh càng cao bấy nhiêu so với các doanh nghiệp cùng lĩnh vực.
1.3.3.2 Nhóm chỉ tiêu định tính:
* Uy tín, thương hiệu:
Thị phần tuyệt đối =

20


Đây là chỉ tiêu có tính chất khái quát, nó bao gồm rất nhiều yếu tố như:
chất lượng sản phẩm, các hoạt động dịch vụ do doanh nghiệp cung cấp, hoạt
động Marketing, quan hệ của doanh nghiệp với các tổ chức tài chính, mức độ
ảnh hưởng của doanh nghiệp với chính quyền. .. Đó là tài sản vô hình vô giá
mà doanh nghiệp nào cũng coi trọng, nếu mất uy tín thì chắc chắn doanh
nghiệp sẽ không có khả năng cạnh tranh trên thương trường. Có uy tín doanh
nghiệp có thể huy động được rất nhiều nguồn lực như: vốn, nguyên vật liệu,
và đặc biệt là sự an tâm, gắn bó của người lao động với doanh nghiệp hay sự
ủng hộ của chính quyền địa phương với công ty.
* Kinh nghiệm của doanh nghiệp:
Một công ty có bề dày kinh nghiệm trên thương trường thì cũng được
đáng giá rất cao về năng lực cạnh tranh. Kinh nghiệm lâu năm sẽ giúp công
ty nâng cao chất lượng sản sản phẩm, có thể nắm bắt và xử lý nhiều tình
huống phức tạp với chi phí và thời gian thấp nhất. Đây cũng chính là một lợi
thế của doanh nghiệp trong cuộc chạy đua với các đối thủ khác.
1.4 Các biện pháp nâng cao năng lực cạnh tranh doanh nghiệp:
1.4.1 Về sản phẩm:
* Chất lượng sản phẩm:
Chất lượng sản phẩm là yếu tố đặt lên hàng đầu của đại bộ phận người
tiêu dùng khi chọn lựa sản phẩm. Do vậy, khi doanh nghiệp nào đáp ứng được
nhu cầu người tiêu dùng một cách tối đa thì doanh nghiệp đó sẽ giành được
thị phần cao hơn. Chất lượng sản phẩm là tổng hợp các đặc tính cần có của

sản phẩm bao gồm cả tính kỹ thuật, tính mỹ thuật, tính kinh tế, độ tin cậy và
độ an toàn. Chất lượng sản phẩm là công cụ cạnh tranh hữu hiệu của mọi
doanh nghiệp. Vấn đề nâng cao chất lượng sản phẩm là tất yếu khách quan
cho bất kỳ doanh nghiệp nào hoạt động trong cơ chế thị trường, ngoài việc đạt
được mục tiêu lợi nhuận thì sản phẩm chất lượng lại còn giúp doanh nghiệp
đạt được nhiều mục tiêu khác nữa như uy tín, hình ảnh, thương hiệu vv…
* Giá cả sản phẩm:
Quy luật giá trị đã chỉ ra rằng: Với cùng một sản phẩm có chất lượng
như nhau thì nếu sản phẩm nào có giá trị thấp hơn sẽ thắng trong chạy đua
cạnh tranh và ngược lại thì sẽ bị thị trường đào thải. Do vậy, ngoài việc nâng
cao chất lượng sản phẩm thì doanh nghiệp cần tìm mọi biện pháp để giảm
21


thiểu chi phí, hạ giá thành sản phẩm nhằm thu hút sự quan tâm của khách
hàng so với đối thủ cạnh tranh.
* Tiến độ hoàn thành sản phẩm:
Một doanh nghiệp có thể tạo ra sản phẩm với chất lượng cao và giá cả
hợp lý xong tiến độ hoàn thành lại quá chậm không đảm bảo giao hàng đúng
hợp đồng thì uy tín của doanh nghiệp cũng sẽ giảm sút và quy mô kinh doanh
cũng bị hạn chế. Nếu rút ngắn được tiến độ hoàn thành sản phẩm thì doanh
nghiệp sẽ giảm được nhiều chi phí, hạ được giá thành và từ đó góp phần tăng
khả năng cạnh tranh cho doanh nghiệp. Để làm được điều này doanh nghiệp
cần phải áp dụng các tiến bộ khoa học vào khâu quản lý, đổi mới, cải tiến
công nghệ, phân công lao động hợp lý, tạo dây chuyền lao động khoa học,
hiệu quả, xây dựng kế hoạch cung cấp các nhân tố đầu vào một cách lô - gic
và khoa học….
* Hệ thống kênh phân phối:
Doanh nghiệp cần xây dựng và kiến tạo được mạng lưới kênh phân
phối rộng khắp, chuyên nghiệp. Đó không chỉ là cách đưa sản phẩm đến tay

người tiêu dùng mà đó còn là cách quảng bá hình ảnh của doanh nghiệp. Các
kênh phân phối này cần phải liên kết trao đổi thông tin với nhau và đưa thông
tin phản hồi chính xác từ phía khách hàng tới công ty và ngược lại.
1.4.2 Về quản trị doanh nghiệp:
* Hiện đại hoá hệ thống tổ chức, quản lý của doanh nghiệp:
Doanh nghiệp nên thực hiện tổ chức phân cấp, không nên tập trung
quyền lực vào một hoặc một ít người. Phải phân công rõ ràng, hợp lý giữa các
phòng ban, giữa các bộ phận nhằm phát huy được năng lực sở trường của các
cá nhân, tránh chồng chéo, rườm rà gây lãng phí và triệt tiêu nguồn lực. Quán
triệt và thực hiện tốt công tác tự quản, tự kiểm tra của cán bộ công nhân viên.
Áp dụng các phương pháp quản lý hiện đại, nhằm gắn kết được mọi bộ phận
trong doanh nghiệp, có thể phản ứng nhanh với thay đổi của thị trường, tạo
năng lực cạnh tranh mạnh hơn đối thủ.
* Xây dựng văn hoá doanh nghiệp:
Văn hoá doanh nghiệp là cách ứng xử của mọi thành viên trong doanh
nghiệp với nhau, giữa doanh nghiệp với người tiêu dùng và với cộng đồng xã
hội được hình thành trên nền tảng đạo đức. Chính vì vậy doanh nghiệp phải
22


quán triệt, giáo dục nhân viên về văn hoá doanh nghiệp mình làm cho hình
ảnh văn hoá, biểu tượng doanh nghiệp in sâu vào trong tâm trí của mọi thành
viên làm cho họ yêu mến doanh nghiệp biến nó thành hành động sáng tạo
trong sản xuất kinh doanh, thiết kế, chế tạo sản phẩm mang đặc trưng chất
lượng riêng của doanh nghiệp tăng sự đoàn kết giữa các thành viên. Điều này
sẽ tạo cho doanh nghiệp một năng lực cạnh tranh mạnh hơn đối thủ.
1.4.3 Phát triển các nguồn lực doanh nghiệp:
* Nguồn nhân lực:
Nguồn nhân lực là yếu tố đầu vào cần thiết và quyết định cho sự phát
triển của doanh nghiệp, là nguồn tài nguyên không bị cạn kiệt. Tuy nhiên,

không phải cứ có nguồn nhân lực dồi dào thì năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp đó cao, mà nó phải được thể hiện ở chất lượng lao động đó như thế
nào. Vì vậy, doanh nghiệp cần nâng cao công tác đào tạo nhân lực nhằm đào
tạo ra được đội ngũ cán bộ nhân viên có nghiệp vụ và trình độ chuyên môn,
đội ngũ công nhân, thợ lành nghề và có kinh nghiệm. Lãnh đạo doanh nghiệp
cần học cách quản lý tốt nguồn nhân lực, sử dụng nó một cách hiệu quả. Phải
xây dựng được mối quan hệ tốt giữa lãnh đạo và cấp dưới nhằm tạo ra một tập
thể vững mạnh và đoàn kết.
* Nguồn vốn:
Nguồn vốn là yếu tố đầu vào vô cùng quan trọng đối với mọi doanh
nghiệp nó là yếu tố thể hiện tiềm lực cạnh tranh mạnh hay yếu của doanh
nghiệp trên thương trường. Do vậy, doanh nghiệp tìm mọi biện pháp nhằm
thu hút và huy động nguồn vốn đầu tư từ các cổ đông và trên thị trường tài
chính. Đặc biệt trong thời ký hậu WTO thì cơ hội cho các doanh nghiệp tìm
kiếm các nhà đầu tư nước ngoài là rất lớn. Doanh nghiệp có thể liên doanh liên
kết với doanh nghiệp nước ngoài, tham gia thị trường chứng khoán, phát hành cổ
phiếu, trái phiếu vv…
* Công nghệ:
Doanh nghiệp phải không ngừng cải tiến và áp dụng những công nghệ
mới vào trong sản xuất nhằm tăng năng suất và chất lượng sản phẩm, hạ giá
thành, tạo ra lợi thế cạnh tranh trên thương trường. Là thời đại của khoa học
công nghệ nên doanh nghiệp nào có trình độ công nghệ cao sẽ chiếm được ưu
thế hơn. Do vậy doanh nghiệp cần tăng cường công tác tìm hiều, kiểm tra,
23


kiểm soát chất lượng máy móc thiết bị từ khâu thu mua nhằm tránh việc nhập
khẩu những máy móc, công nghệ cũ, lạc hậu từ các nước gây lãng phí và ô
nhiễm môi trường.
1.4.4 Hoạt động nghiên cứu phát triển:

So với hoạt động đào tạo thì hoạt động khoa học - công nghệ (nghiên
cứu - triển khai) cũng không kém phần quang trọng đối với doanh nghiệp.
Nếu doanh nghiệp còn ở trình độ thấp thì phải nghiên cứu để nhập khẩu máy
móc, công nghệ mới, phải xây dựng được đội ngũ cán bộ kỹ sư có đủ trình độ
để đánh giá chúng, nếu không rất dễ mua phải công nghệ lạc hậu, giảm năng
suất, chất lượng kém. Đối với các doanh nghiệp có trình độ cao thì có thể mua
một vài công đoạn khó để mổ sẻ nghiên cứu, sau đó cải tiến, chế tạo ra công
nghệ thích hợp với điều kiện ở Việt Nam, tạo năng suất cao hơn, chất lượng
đảm bảo và giá thành rẻ hơn.
1.5. Đặc điểm kinh tế - kỹ thuật chủ yếu của Tổng công ty 319BQP:
* Về sản phẩm và ngành nghề kinh doanh:
Ngành nghề kinh doanh chủ yếu là xây dựng công trình dân dụng, công
nghiệp, giao thông, thủy lợi, thủy điện, đường dây, trạm điện, công trình
nghầm, khảo sát dò tìm xử lý bom mìn vật nổ, sản xuất vật liệu xây dựng,
kinh doanh thương mại và xuất nhập khẩu máy móc thiết bị.
* Về lao động:
Hiện nay, Tổng công ty có khoảng 9.270 người lao động bao gồm: cán
bộ chuyên môn, kỹ sư, công nhân và thợ lành nghề có nhiều kinh nghiệm.
Điều này đã giúp cho Tổng công ty có thể hoàn thành các công trình đúng
tiến độ, đảm bảo chất lượng , kỹ mỹ thuật công trình, sản phẩm. Qua các năm
cơ cấu lao động của công ty có nhiều chuyển biến tích cực, Tổng công ty đảm
bảo công ăn việc làm cho nhiều người lao động, đời sống, thu nhập cho người
lao động năm sau luôn cao hơn năm trước.
* Về công nghệ và trang thiết bị:
Sau khi đi vào hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con, Tổng
công ty đã không ngừng trang bị, cải tiến và hiện đại hoá công nghệ máy móc
của mình nhằm phục vụ tốt nhất cho việc thi công công các công trình. Với số
lượng và nhiều chủng loại máy được sản xuất từ nước ngoài, tuy đã khấu hao
24



tương đối lớn nhưng do đội ngũ quản lý, vận hành có chuyên môn kỹ thuật
am hiểu và kinh nghịêm lâu năm nên giúp công ty vận hành máy móc thiết bị
dễ dàng và hiệu quả, góp phần tăng năng suất lao động, giảm được nhiều chi
phí, hạ giá thành sản phẩm.
* Về vốn và nguồn vốn:
Vốn điều lệ của Tổng công ty 319 là 920.000.000.000 đồng, Vốn pháp
định là 6.000.000.000đồng.
Nguồn vốn chủ yếu là do Bộ quốc phòng cấp và vốn vay tại các ngân
hàng trên địa bàn hoạt động.

25


×