Tải bản đầy đủ (.doc) (107 trang)

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Tổng công ty Sông Đà trong thời kỳ hậu WTO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (512.5 KB, 107 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp
MỤC LỤC
NỘI DUNG ............................................................................................................... 3
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CẠNH TRANH ........................................ 3
VÀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH ....................................................................... 3
................................................................................................................................... 3
1.1. Cơ sở lý luận về cạnh tranh ...................................................................... 3
1.1.1 Khái niệm và vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường ..... 3
1.1.1.1. Khái niệm cạnh tranh .................................................................. 3
1.1.1.2. Lợi thế cạnh tranh ........................................................................ 5
1.1.1.3. Vai trò của cạnh tranh ................................................................. 7
Đối với toàn nền kinh tế .............................................................................. 7
Đối với doanh nghiệp .................................................................................. 8
1.1.2. Phân loại cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường ........................... 10
1.1.2.2. Căn cứ vào phạm vi ngành kinh tế ......................................... 10
A/ MỞ ĐẦU
Trong cơ chế thị trường, kinh doanh luôn gắn liền với cạnh tranh. Mõi doanh
nghiệp không phân biệt thành phần kinh tế đều phải tự mình vận động thích nghi
với cơ chế này.
Nền kinh tế thị trường phải vận hành, phải tuân thủ những quy luật kinh tế
khách quan riêng của nó, trong đó có quy luật cạnh tranh. Cạnh tranh chính là
động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất, thúc đẩy xã hội phát triển.
Trong những năm đổi mới nền kinh tế từ tập trung quan liêu bao cấp sang
kinh tế thị trường, nền kinh tế đã có những bước tiến rõ rệt. Hoạt động kinh
Phan Thị Thảo Lớp: Kế hoạch 46B
1
Chuyên đề tốt nghiệp
doanh trong nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước đã có những
thuận lợi nhất định đem lại hiệu quả kinh tế cao. Các doanh nghiệp từng bước
thoát khỏi tình trạng trì trệ, kém năng động trong cơ chế tập trung quan liêu bao
cấp trước đây và đã chủ động trong hoạt động kinh doanh, tìm ra hướng đi mới


cho doanh nghiệp mình; từ đó không ngừng đổi mới đáp ứng nhu cầu thị trường.
Để đứng vững trên thị trường, các doanh nghiệp luôn phải cạnh tranh với nhau.
Muốn làm được điều đó một cách hiệu quả, các doanh nghiệp phải không ngừng
nâng cao năng lực cạnh tranh của mình.
Trải qua hơn 45 năm xây dựng, phát triển và trưởng thành, Tổng công ty
Sông Đà không ngừng phát triển, tạo lập vị thế trên thị trường. Trong bối cảnh
chung với sự cạnh tranh khốc liệt cả thị trường trong nước và quốc tế như vậy,
Tổng công ty Sông Đà cũng phải tự đổi mới mình để đứng vững và phát triển
trong tương lai. Vốn hoạt động trong lĩnh vực đã có vị trí quan trọng trong nền
kinh tế quốc dân, nên công ty cũng có nhiều thuận lợi về vốn đầu tư, thị
trường...Tuy nhiên do đặc điểm của lĩnh vực mà Tổng công ty hoạt động là đầu
tư lớn, chu kỳ sản xuất dài, vòng quay vốn chậm, đòi hỏi tổ chức, chuyên môn
hoá, hợp tác hoá cao làm cho hiệu quả sản xuất cũng bị ảnh hưởng. Vì vậy việc
nâng cao khả năng cạnh tranh của công ty đã được ban giám đốc, lãnh đạo công ty
rất quan tâm. Phương châm, định hướng phát triển sản xuất trong thời gian tới của
công ty là phát huy nội lực, tăng năng lực sản xuất, chủ động hội nhập kinh tế.
Sau khi nghiên cứu tài liệu tham khảo và tìm hiểu thực tế tình hình hoạt động
sản xuất kinh doanh của Tổng công ty Sông Đà , em đã chọn đề tài: "Giải pháp
nâng cao năng lực cạnh tranh của Tổng công ty Sông Đà trong thời kỳ hậu
WTO" làm chuyên đề tốt nghiệp. Với sự hướng dẫn của TS. Nguyễn Ngọc Sơn
Phan Thị Thảo Lớp: Kế hoạch 46B
2
Chuyên đề tốt nghiệp
cùng với sự hướng dẫn nhiệt tình của các cô, bác, chú, các anh chị trong Tổng công
ty nói chung và trong phòng kế hoạch nói riêng, em đã hoàn thành chuyên đề này.
Kết cấu chuyên đề gồm 3 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp
Chương II: Đánh giá năng lực cạnh tranh của Tổng công ty Sông Đà
Chương III: Một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh trnah của Tổng công ty

Sông Đà
Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên
Phan Thị Thảo


NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CẠNH TRANH
VÀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH

1.1. Cơ sở lý luận về cạnh tranh
1.1.1 Khái niệm và vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường
1.1.1.1. Khái niệm cạnh tranh
Phan Thị Thảo Lớp: Kế hoạch 46B
3
Chuyên đề tốt nghiệp
Cạnh tranh nói chung là sự phấn đấu, vươn lên không ngừng để giành lấy vị trí
hàng đầu trong một lĩnh vực hoạt động nào đó bằng cách ứng dụng những tiến bộ
khoa học, kỹ thuật tạo ra sản phẩm mới, tạo ra năng suất và hiệu quả cao nhất.
Trong bất kỳ lĩnh vực nào cũng đều có cạnh tranh. Không có cạnh tranh sẽ
không có sinh tồn và phát triển. Đó là quy luật tồn tại của muôn loài.
Cạnh tranh không phải là một khái niệm mới nhưng để có một định nghĩa
thống nhất và rộng rãi về nó thì rất khó khăn. Nguyên nhân là khái niệm “ cạnh
tranh” được sử dụng ở nhiều lĩnh vực, ngành nghề, ở nhiều cấp độ khác nhau (cá
nhân, doanh nghiệp và quốc gia ) và với mục đích khác nhau (lợi nhuận, phúc
lợi xã hội …). Trong thực tế, cạnh tranh là một khái niệm thường được dùng
nhiều nhất trong khoa học kinh tế nhưng nó cũng không được định nghĩa một
cách cụ thể và rõ ràng.
Cạnh tranh phát triển cùng với sự phát triển của nền sản xuất tư bản chủ
nghĩa. Theo Các Mác: “ Cạnh tranh tư bản chủ nghĩa là sự ganh đua, sự đấu

tranh gay gắt giữa các nhà tư bản nhằm giành giật những điêu kiện thuận lợi
trong sản xuất và tiêu thụ hàng hóa để thu lợi nhuận siêu ngạch” . Ở đây, Các
Mác đã đề cập đến vấn đề cạnh tranh trong xã hội TBCN, mà đặc trưng của chế
độ này là chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Do đó, theo quan niệm
này thì cạnh tranh có nguồn gốc từ chế độ tư hữu. Cạnh tranh là sự lấn át, chèn
ép lẫn nhau để tồn tại. Quan điểm đó về cạnh tranh được nhìn nhận từ góc độ
tiêu cực. Ngày nay hầu hết các nước trên thế giới đều thừa nhận cạnh tranh và
coi cạnh tranh vừa là môi trường vừa là động lực của sự phát triển kinh tế- xã
hội. Do vậy, cạnh tranh có thể được hiểu như sau: “Cạnh tranh là sự ganh đua,
là cuộc đấu tranh gay gắt, quyết liệt giữa những chủ thể kinh doanh với nhau
trên một thị trường hàng hóa cụ thể nào đó nhằm giành giật khách hàng và thị
Phan Thị Thảo Lớp: Kế hoạch 46B
4
Chuyên đề tốt nghiệp
trường, thông qua đó mà tiêu thụ được nhiều hàng hóa và thu được lợi nhuận
cao”. ( Trần Sửu, 2005, tr.46 ). Chủ thể kinh doanh ở đây là các cá nhân, các
doanh nghiệp và các nền kinh tế các Quốc gia. Trong khái niệm cạnh tranh này
không có cạnh tranh của hàng hóa vì bản thân hàng hóa không phải là một chủ
thể kinh doanh và do đó nó không thể tự cạnh tranh được. Nói cạnh tranh ở đây
là nói đến hành vi của chủ thể và vì vậy chỉ có hành vi của doanh nghiệp kinh
doanh, của các nhân kinh doanh và của một nền kinh tế. Để xuất hiện cạnh tranh
trong nền kinh tế cần phải tồn tại một thị trường nghĩa là phải có một nền kinh tế
thị trường; thị trường đó phải có tối thiểu hai thành viên bên cung hoặc bên cầu
cung cấp hay tiêu thụ cùng một loại sản phẩm, dịch vụ hoặc các sản phẩm, dịch
vụ tương tự nhau hoặc có tính chất thay thế cho nhau và mức độ đạt mục tiêu
của thành viên này sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến mức độ đạt mục tiêu của thành
viên khác (chẳng hạn việc mở rộng thị phần của một doanh nghiệp sẽ có nguy
cơ làm mất thị phần của doanh nghiệp còn lại, làm giảm doanh thu và lợi nhuận
của các doanh nghiệp còn lại).
Quy luật của cạnh tranh là thải loại những thành viên yếu kém trên thị trường,

duy trì và phát triển những thành viên tốt nhất và qua đó hỗ trợ đắc lực cho quá
trình phát triển của toàn xã hội. Kết quả của cạnh tranh sẽ xác định vị thế của
doanh nghiệp trên thị trường, vì thế mỗi doanh nghiệp đều cố gắng tìm cho mình
một chiến lược cạnh tranh phù hợp để vươn lên tới vị thế cao nhất
1.1.1.2. Lợi thế cạnh tranh
Để đánh giá sự thành công của một doanh nghiệp thông thường người ta xem
xét đến vị trí mà nó chiếm giữ được trên thị trường so với các đối thủ cạnh
tranh. Nếu một doanh nghiệp đạt được hiệu quả cao về mặt tài chính, vượt trội
so với các đối thủ cạnh tranh khác thì đó là do doanh nghiệp biết sử dụng hợp lý
Phan Thị Thảo Lớp: Kế hoạch 46B
5
Chuyên đề tốt nghiệp
những nguồn lực, năng lực tích lũy của mình vào các lĩnh vực đã chọn, biết lựa
chọn nhà cung cấp và có kênh phân phối sản phẩm hiệu quả. Để có thể duy trì kết
quả đạt được trong dài hạn, phát triển doanh nghiệp một cách hợp lý đòi hỏi doanh
nghiệp phải có những yếu tố chủ lực, những yếu tố này gọi là lợi thế cạnh tranh.
Lợi thế cạnh tranh được xây dựng từ những đặc trưng của bối cảnh cạnh tranh và
nằm ngay trong các thức phân bổ nguồn lực riêng của từng doanh nghiệp.
Theo lý thuyết của Michael Porter đưa ra thì lợi thế cạnh tranh có thể xây
dựng theo hai cách sau đây:
Cách thứ nhất là làm giống đối thủ cạnh tranh nhưng rẻ hơn, tức là với chi phí
thấp hơn. Trong trường hợp này doanh nghiệp sẽ có lợi thế hơn về chi phí so với
đối thủ cạnh tranh. Một khi mà doanh nghiệp đã kiểm soát được chi phí nó sẽ có
một “vũ khí cạnh tranh” rất có hiệu quả đó là giá cả. Vũ khí này cho phép doanh
nghiệp tăng lợi nhuận hoặc chiếm lĩnh thị phần của các đối thủ cạnh tranh.
Cách thứ hai là làm khác đối thủ cạnh tranh tức là doanh nghiệp có thể làm tốt
hơn và bán đắt hơn hoặc làm đơn giản hơn và bán rẻ hơn. Trong trường hợp đầu
doanh nghiệp tạo ra sự khác biệt trong sản phẩm và dịch vụ mà mình cung cấp
theo hướng hoàn thiện hơn với chi phí cao hơn. Do đó bán với giá cao hơn mà
doanh nghiệp vẫn được thị trường chấp nhận. Trong trường hợp thứ hai, doanh

nghiệp lại tạo ra sự khác biệt theo hướng ngược lại bằng cách đơn giản hóa sản
phẩm và dịch vụ với chi phí thấp hơn nên có mức giá thấp hơn để chinh phục thị
trường. Trong cả hai trường hợp ta đều thấy doanh nghiệp đều có lợi khi tạo ra
được một sự chênh lệch giữa chi phí và giá bán, tức là có lợi so với các đối thủ
cạnh tranh.
Cũng theo lý thuyết này doanh nghiệp nhằm vào hai mục tiêu là vào toàn bộ
thị trường và chấp nhận đối đầu với các đối thủ cạnh tranh. Trong trường hợp
Phan Thị Thảo Lớp: Kế hoạch 46B
6
Chuyên đề tốt nghiệp
này tham vọng của doanh nghiệp sẽ trở thành người dẫn đầu thị trường. Hoặc
một lựa chọn khác là doanh nghiệp chỉ nhằm vào một phân đoạn thị trường
(khách hàng ) đặc biệt. Lúc này, tham vọngc ủa doanh nghiệp là tránh đối đầu
trực tiếp với các đối thủ cạnh tranh mạnh và kiểm soát phân đoạn thị trường này.
1.1.1.3. Vai trò của cạnh tranh
Trong cơ chế thị trường, kinh doanh luôn gắn liền với cạnh tranh. Kinh doanh
là cạnh tranh gay gắt không khoan nhượng. Mỗi một doanh nghiệp không phân
biệt thành phần kinh tế đều phải tự mình vận động thích nghi với cơ chế này.
Cạnh tranh và quy luật cạnh tranh được thừa nhận. Vai trò của cạnh tranh ngày
càng được thể hiện rõ nét hơn.
Đối với toàn nền kinh tế
Cạnh tranh là động lực phát triển kinh tế, nâng cao năng suất lao động xã hội.
Chúng ta biết kết quả của cạnh tranh là loại bỏ các doanh nghiệp có chi phí cao
trong sản xuất kinh doanh, không có chiến lược cũng như chiến lược kinh doanh
không hiệu quả. Một nền kinh tế mạnh là khi có các công ty, các doanh nghiệp
vững mạnh và có khả năng cạnh tranh cao. Tuy nhiên cạnh tranh ở đây phải là
cạnh tranh hoàn hảo thì nền kinh tế mới bền vững được, còn cạnh tranh độc
quyền làm cho nền kinh tế không ổn định, môi trường cạnh tranh không ổn định
dẫn đến mâu thuẫn về lợi ích, quyền lợi.
Cạnh tranh sẽ đảm bảo việc điều chỉnh quan hệ giữa cung và cầu (quyền tự

chủ của người tiêu dùng ). Cạnh tranh sẽ điều khiển sao cho những nhân tố sản
xuất sẽ được sử dụng vào những nơi có hiệu quả nhất, làm giảm thiểu tổng giá
thành của sản xuất xã hội. Dưới điều kiện cạnh tranh là những tiền đề thuận tiện
nhất làm cho sản xuất thích ứng linh hoạt dưới sự biến động của cầu và công
nghệ sản xuất. Cạnh tranh sẽ tác động một cách tích cực đến việc phân phối thu
Phan Thị Thảo Lớp: Kế hoạch 46B
7
Chuyên đề tốt nghiệp
nhập thông qua việc cản trở sự bóc lột trên cơ sở quyền lực thị trường và việc
hình thành thu nhập không tương ứng với năng suất. Sự thúc đẩy đổi mới được
coi là một chức năng cạnh tranh năng động trong những thập kỷ gần đây.
Đối với doanh nghiệp
Cạnh tranh là điều bất khả kháng đối với doanh nghiệp trong nền kinh tế thị
trường. Cạnh tranh có thể gọi là cuộc đua khốc liệt mà các doanh nghiệp không
thể lẩn tránh mà cần tìm mọi cách vươn lên để chiếm ưu thế và chiến thắng.
Cạnh tranh buộc các nhà sản xuất kinh doanh phải vươn lên tìm cách nâng
cao chất lượng sản phẩm, giá cả sản phẩm, dịch vụ bán càng ngày càng hoàn
thiện hơn đáp ứng nhu cầu khách hàng và bao giờ các đối thủ cũng tìm cách đưa
ra mức giá thấp nhất và có thể chất lượng hoàn hảo nhất. Chính điều này khiến
các doanh nghiệp phải lựa chọn phương án chiến lược nội dung tối ưu như: chi
phí nhỏ nhất, công nghệ hiện đại cạnh tranh khiến các doanh nghiệp áp dụng
công nghệ mới tạo sức ép cho các doanh nghiệp phải sử dụng có hiệu quả các
nguồn lực của mình để giảm giá thành, nâng cao chất lượng.
Mỗi doanh nghiệp không thể lẩn tránh cạnh tranh vì như vậy là cầm chắc sự
thất bại, có thể dẫn tới phá sản. Vì thế doanh nghiệp muốn vươn lên phải xây
dựng cho mình một chiến lược cạnh tranh hợp lý. Coi cạnh tranh như là một
công cụ, là bàn đạp vươn lên. Trong cơ chế thị trường và trong thương mại quốc
tế, cạnh tranh có vai trò làm cho giá cả của hàng hóa giảm xuống, chất lượng
của hàng hóa không ngừng tăng lên và các dịch vụ sau bán hàng ngày càng tăng
lên. Vì thế, trước hết cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải tối ưu hóa các yếu

tố đầu vào của quá trình sản xuất, phải không ngừng áp dụng tiến bộ khoa học
công nghệ vào sản xuất.
Phan Thị Thảo Lớp: Kế hoạch 46B
8
Chuyên đề tốt nghiệp
Sự cạnh tranh khốc liệt làm cho các doanh nghiệp ngày càng vững mạnh, phát
triển đi lên, chỉ có cạnh tranh mới làm cho doanh nghiệp ngày thể hiện được khả
năng, bản lĩnh của doanh nghiệp trong quá trình tồn tại và phát triển.
Trong cơ chế thị trường, cạnh tranh là một quy luật tất yếu khách quan, các
doanh nghiệp tham gia vào thị trường đều chấp nhận cạnh tranh, cạnh tranh thúc
đẩy sản xuất và phát triển. Cạnh tranh sẽ đào thải những doanh nghiệp hoạt
động yếu kém, giúp doanh nghiệp tìm tòi và khắc phục những yếu điểm để vươn
lên nắm giữ thị trường. Doanh nghiệp nào có chính sách cạnh tranh hiệu quả sẽ
tạo ra được vị thế trên thị trường, tăng lợi nhuận và tăng thu nhập cho người lao
động. Tuy nhiên, vị thế cạnh tranh chỉ mang tính tương đối, có thể là lớn ở điểm
này nhưng lại yếu ở điểm khác. Như vậy, doanh nghiệp phải luôn nhìn nhận
cạnh tranh, điều kiện cạnh tranh như là một trong các căn cứ quan trọng để xây
dựng chiến lược phát triển trước mắt cũng như lâu dài.
Đối với khách hàng
Trên thị trường cạnh tranh giữa các doanh nghiệp diễn ra càng gay gắt thi
người được lợi nhiều nhất là khác hàng. Khi có cạnh tranh thì người tiêu dùng
(khách hàng) được tiêu dùng hàng hóa có chất lượng cao hơn với giá cả phải
chăng, nhu cầu của người tiêu dùng được đáp ứng tốt hơn. Có được điều đó là vì
có cạnh tranh nên hàng hóa trong trao đổi quốc tế trở nên phong phú và đa dạng
về chủng loại, bao bì, mẫu mã và đặc biệt là chất lượng ngày càng cao, giá thành
hạ. Bất kỳ hàng hóa nào muốn tham gia vào thị trường thế giới đều phải kiểm
tra chất lượng. Chẳng hạn, hàng thủy sản của Việt Nam muốn vào được thị
trường EU phải đạt tiêu chuẩn chất lượng theo HACCP (hệ thống phân tích mối
nguy tại điểm kiểm soát tới hạn).
Phan Thị Thảo Lớp: Kế hoạch 46B

9
Chuyên đề tốt nghiệp
1.1.2. Phân loại cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường
1.1.2.1. Căn cứ vào chủ thể tham gia vào thị trường
- Cạnh tranh giữa người bán với người mua
- Cạnh tranh giữa người bán với nhau
- Cạnh tranh giữa người mua với nhau
1.1.2.2. Căn cứ vào phạm vi ngành kinh tế
- Cạnh tranh trong nội bộ ngành: là cạnh tranh giữa các công ty, các doanh
nghiệp cùng sản xuất một loại hàng nhằm thu lợi nhuận siêu ngạch, cạnh tranh
dưới góc độ chi phí lao động cá biệt nhỏ hơn chi phí lao động xã hội cần thiết sẽ
thu được lợi nhuận siêu ngạch. Do vậy để thu được lợi nhuận các doanh nghiệp
thi đua cạnh tranh vệ khoa học kỹ thuật, phải luôn cải tiến công cụ sản xuất, máy
móc thiết bị.
- Cạnh tranh ngoài ngành: là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp hay đồng
minh các doanh nghiệp của một ngành với những ngành khác nhằm đạt được lợi
nhuận cao và tìm kiếm nơi đầu tư có lợi (những nơi có tỷ suất lợi nhuận cao).
Rõ ràng giữa các ngành kinh tế do điều kiện kỹ thuật và điều kiện khác nhau
như: nhu cầu, tâm lý, tính chất quan trọng hay không quan trọng nên cùng một
lượng vốn đầu tư vào ngành này có thể mang lại tỷ suất lợi nhuận cao hơn ngành
khác. Điều đó dẫn đến tình trạnh những người sản xuất tại những nơi có tỷ suất
lợi nhuận thấp có xu hướng chuyển nguồn nhân lực sang sản xuất tại những
ngành có tỷ suất lợi nhuận cao hơn, đó chính là biện pháp để thực hiện cạnh
tranh giữa các ngành. Kết quả là những ngành có tỷ suất lợi nhuận cao sẽ thu hút
các nguồn lực, quy mô sản xuất tăng. Do đó cung ứng hàng hóa vượt quá cầu
của nó sẽ làm cho giá cả hàng hóa giảm xuống. Điều đó làm giảm tỷ suất lợi
nhuận, ngược lại những ngành trước đây có tỷ suất lợi nhuận thấp khiến cho một
Phan Thị Thảo Lớp: Kế hoạch 46B
10
Chuyên đề tốt nghiệp

số nhà đầu tư chuyển sang lĩnh vực khác làm cho quy mô sản xuất của ngành
giảm, cung nhỏ hơn cầu nên giá cả hàng hóa tăng nên tỷ suất lợi nhuận tăng.
1.1.2.3. Căn cứ vào thị trường
- Cạnh tranh hoàn hảo
Thị trường cạnh tranh hoàn hảo là thị trường trong đó mà trong đó không phải
chỉ có một người sản xuất hay một người tiêu dùng nào đó là bộ phận lớn của thị
trường có ảnh hưởng cá nhân đến giá cả thị trường.
Đặc điểm của thị trường này:
+ Hàng hóa có tính đồng nhất cao, chúng dễ thay thế cho nhau trên thị trường.
+ Người mua và người bán đều không ảnh hưởng đến giá cả, thị trường của
sản phẩm, tức là phải chấp nhận giá của thị trường.
+ Trong thị trường hoàn hảo người mua và người bán tự do tham gia hay rút
lui khỏi thị trường mà không bị ràng buộc.
- Cạnh tranh không hoàn hảo
Thị trường cạnh tranh không hoàn hảo (gồm cạnh tranh độc quyền và cạnh
tranh tập đoàn) là loại thị trường mà trong đó chỉ có một số hãng cung ứng toàn
bộ mức cung ứng của toàn bộ thị trường về mọi loại hàng hóa và dịch vụ nào đó.
+ Đặc trưng của thị trường cạnh tranh độc quyền là các doanh nghiệp cạnh
tranh với nhau bằng việc bán các sản phẩm phân biệt, các sản phẩm này thay thế
cho nhau ở mức độ cao nhưng không phải thay thế hoàn toàn. Sự gia nhập hay
rút lui vào thị trường dễ dàng.
+ Đặc trưng của thị trường cạnh tranh tập đoàn: Hàng hóa và dịch vụ có thể
giống nhau một ít, có thể khác nhau một ít, các hàng hóa mới khó ra nhập thị
trường. Giá cả luôn cứng nhắc, khi chi phí giảm hay cầu thị trường giảm thì các
doanh nghiệp không muốn giảm giá vì điều đó xảy ra thì cuộc chiến tranh giá sẽ
Phan Thị Thảo Lớp: Kế hoạch 46B
11
Chuyên đề tốt nghiệp
xảy ra giữa các doanh nghiệp; ngược lại cầu tăng, hay chi phí tăng các doanh
nghiệp không muốn tăng giá vì các đối thủ cùng tập đoàn không tăng giá

1.1.3. Các lý thuyết cạnh tranh
1.1.3.1. Lý thuyết cạnh tranh của trường phái cổ điển
Hiện tượng cạnh tranh xuất hiện đồng thời với sự ra đời và phát triển của nền
sản xuất hàng hóa. Tuy vậy, trong cả một thời gian dài người ta không coi cạnh
tranh như là một quá trình cũng như không quan sát và phân tích những tác động
của chúng trong nền kinh tế. Chỉ đến khi các khái niệm giá trị, giá bán được
nghiên cứu một cách nghiêm túc thì khi đó vấn đề cạnh tranh mới được đặt đúng
vị trí của nó.
Ý nghĩa của việc cạnh tranh trước hết được những người thuộc trường phái
trọng nông phát hiện thông qua sự biến động giá cả. Theo họ “ giá tự nhiên” bao
gồm lao động chứa trong sản phẩm và địa tô. Khi xuất hiện một sự bất thường
nào đó thì giá thị trường có thể chênh lệch với “ giá tự nhiên” trong một giai đoạn
ngắn. Trong trường hợp đó, cạnh tranh sẽ hoạt động tích cực để điều chỉnh “bên
cung” và làm cho giá thị trường trở lại mức của “giá tự nhiên”. Adam Smith đã tiếp
thu nội dụng này và bổ xung thêm vào đó vấn đề cạnh tranh “ bên cầu”.
Như vậy, Adam Smith chính là người đầu tiên đưa ra những lý thuyết tương
đối hoàn chỉnh về cạnh tranh. Lý thuyết của ông đòi hỏi phải đảm bảo tự do
hành động cho doanh nghiệp và các hộ gia đình, nghĩa là đảm bảo sự tự do cạnh
tranh giữa các doanh nghiệp cũng như sự lựa chọn tiêu dùng của các hộ gia đình.
Thông qua cơ chế thị trường, việc tận dụng tự do cạnh tranh để theo đuổi lợi ích
riêng dẫn đến việc mỗi chủ thể kinh tế sẽ nhận được những thành quả mà họ cống
hiến cho thị trường. Mô hình cạnh tranh này của trường phái cổ điển có thể được
hiểu như một quá trình điểu phối không có “ bàn tay hữu hình” của Nhà nước.
Phan Thị Thảo Lớp: Kế hoạch 46B
12
Chuyên đề tốt nghiệp
Tuy vậy, mô hình cạnh tranh của họ khônh đồng nghĩa với chính sách “ bỏ
mặc doanh nhân” như nhiều người nhầm lẫn mà họ đòi hỏi nhà nước phải tạo ra
và đảm bảo một trật tự pháp lý làm khung khổ cho quá trình cạnh tranh. Sự hài
hòa về lợi ích như Adam Smith phỏng đoán đã được trường phái tân cổ điển

nghiên cứu và tìm cách xác định điều kiện để tồn tại sự tương ứng giữa lợi ích
riêng và lợi ích tổng thể trong xã hội. Kết quả của những cố gắng của nhà kinh
tế theo trường phái tân cổ điển đã mang lại “ Mô hình Cân Bằng” của cạnh tranh
hoàn hảo. Họ đã thay thế và rút gọn việc phân tích cạnh tranh ở trạng thái động
bằng mô hình toán học “ tĩnh” phân tích trạng thái cân băng theo lý thuyết giá.
1.1.3.2. Lý thuyết cạnh tranh không hoàn hảo và cạnh tranh độc quyền
Vào đầu những năm 20 của thế kỷ XX, nhiều nhà kinh tế mà nổi tiếng nhất là
nhà kinh tế học Mỹ E.Chamberlin và nhà kinh tế học Anh J.Robinson đã tìm
cách nghiên cứu để vượt qua sự tách bạch quá rạch ròi giữa hai cực là độc quyền
thuần túy và cạnh tranh hoàn hảo. Mô hình cạnh tranh không hoàn hảo hoặc
cạnh tranh mang tính độc quyền là phạm trù thứ ba giữa hai cực này. Sự khác
biệt của nó so với hai phạm trù kia là nó thiếu một số nhân tố hoàn hảo hoặc
nhân tố độc quyền của thị trường.
Cạnh tranh mang tính độc quyền, theo nghĩa rộng là cuộc cạnh tranh giữa
nhiều đơn vị cung với những hàng hóa khác biệt cạnh tranh lẫn nhau trên những thị
trường với một số ít đơn vị cung. Đến nay, người ta hiểu khái niệm cạnh tranh
mang tính độc quyền chỉ theo nghĩa hẹp là: cạnh tranh giữa nhiều người cung với
những hàng hóa khác biệt (về giá, địa chỉ, chất liệu … )
Lý thuyết về cạnh tranh mang tính độc quyền đã tạo cơ sở cho các doanh nghiệp
có thêm phương án để xây dựng chiến lược marketing khác nhau phù hợp với vị thế
của mình trên thị trường đồng thời phù hợp với hình thái thị trường.
1.1.3.3. Lý thuyết cạnh tranh hiệu quả
Phan Thị Thảo Lớp: Kế hoạch 46B
13
Chuyên đề tốt nghiệp
Lý thuyết này được hình thành vào đầu những năm 40 dựa trên luận điểm của
nhà kinh tế học người Mỹ J.Maurice Clack là: Những nhân tố không hoàn hảo
trên thị trường có thể được sửa chữa bằng những nhân tố không hoàn hảo khác như
thiếu sự tường minh của thị trường và tính tạp chủng của hàng hóa. Bởi vì những
tính không hoản hảo này sẽ làm giảm sự phụ thuộc lẫn nhau trong chính sách giá

giữa các hãng ở thị trường tạo điều kiện cho các hoạt động cạnh tranh có hiệu quả.
Quan điểm này của Clack bắt nguồn từ luận điểm của nhà kinh tế học người
Mỹ gốc Áo Schumpeter về cạnh tranh. Ông cho rằng phải cạnh tranh bằng sản
phẩm mới, bằng kỹ thuật mới, bằng nguồn cung ứng mới và bằng hình thức tổ
chức mới. Theo ông đổi mới chính là “ sự phá hủy mang tính sáng tạo”, Clark
đã nhanh chóng tiếp thu luận điểm này của Schumpeter. Theo đó, việc các siêu
lợi nhuận của doanh nghiệp tiên phong trên cơ sở lợi thế nhất thời vừa có hiệu
quả, vừa là tiền đề của cạnh tranh. Lợi nhuận này không nên xóa bỏ ngay lập tức
mà chỉ nên giảm dần để doanh nghiệp có thể có điều kiện thời gian tạo ra sự đổi
mới, cải tiến khác.
Chính vì vậy, theo Clark sự vận hành của cạnh tranh được đo bằng giảm giá,
tăng chất lượng hàng hóa cũng như hợp lý hóa trong sản xuất. Tóm lại, nội dung
cơ bản của lý thuyết cạnh tranh hiệu quả là phân biệt rõ những nhân tố không
hoàn toàn là có ích, nhân tố nào có hại cho chính sách cạnh tranh và nhận biết
được điều kiện nào là điều kiện cần và đủ cho tính hiệu quả cạnh tranh trong nền
kinh tế.
1.2. Năng lực cạnh tranh và các tiêu chí đánh giá.
Trong cạnh tranh nảy sinh kẻ có khả năng cạnh tranh mạnh, người có khả
năng cạnh tranh yếu hoặc sản phẩm có khả năng cạnh tranh mạnh, sản phẩm có
khả năng cạnh tranh yếu. Khả năng cạnh tranh đó gọi là năng lực cạnh tranh.
Phan Thị Thảo Lớp: Kế hoạch 46B
14
Chuyên đề tốt nghiệp
Năng lực cạnh tranh của quốc gia hay năng lực cạnh tranh của một nền kinh
tế được hiểu là thực lực là lợi thế mà nền kinh tế hay quốc gia đó huy động được
để duy trì và cải thiện vị trí của nó so với các đối thủ cạnh tranh khác trên thị
trường thế giới một cách lâu dài và có ý chí nhằm thu được lợi ích ngày càng
cao cho nền kinh tế của mình và cho quốc gia mình.
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng doanh nghiệp tạo ra được
lợi thế cạnh tranh, có khả năng tạo ra năng suất và chất lượng cao hơn đối thủ

cạnh tranh và phát triển bền vững.
Năng lực cạnh tranh của sản phẩm là khả năng sản phẩm đó tiêu thụ được
nhanh chóng trong khi có nhiều người cùng bán loại sản phẩm đó trên cùng một
thị trường. Hay nói cách khác, năng lực cạnh tranh của sản phẩm được đo bằng
thị phần của sản phẩm đó. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm phụ thuộc vào chất
lượng của nó, giá cả, tốc độ cung cấp, dịch vụ đi kèm, uy tín của người bán,
thương hiệu, quảng cáo, điều kiện mua bán …
* Để đánh giá năng lực cạnh tranh của một nền kinh tế ta dùng các chỉ tiêu
sau:
- Độ mở của nền kinh tế.
- Mức độ tham gia vào phân công lao động quốc tế của nền kinh tế (mức độ
tham gia vào các tổ chức và các liên kết kinh tế quốc tế).
- Tiềm lực tài chính của nền kinh
- Kết cấu hạ tầng của nền kinh tế
- Trình độ công nghệ của nền kinh tế
- Trình độ, tác phong làm việc và mức độ linh hoạt của đội ngũ nhân lực
trong nền kinh tế.
- Mức độ thông thoáng của cơ chế kinh doanh..
Phan Thị Thảo Lớp: Kế hoạch 46B
15
Chuyên đề tốt nghiệp
- Hệ thống pháp luật phải đầy đủ, rõ ràng và tạo điều kiện cho các nhà kinh
doanh.
- Quan hệ đối ngoại của Quốc gia đó.
- Hệ thống kênh thông tin ra vào nền kinh tế.
- Khả năng khai thác các lợi thế của nền kinh tế.
- Qui mô của nền kinh tế, sự ổn định về hệ thống chính trị Quốc gia.
- Ấn tượng về hình ảnh của một nền kinh tế trong tiềm thức của người tiêu
dùng trên thế giới.
* Để đánh giá năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp, ta sử dụng phương

pháp phân tích chuỗi giá trị. Một số yếu tố để đánh giá năng lực cạnh tranh của
một doanh nghiệp như :
- Số chủng loại sản phẩm của doanh nghiệp cung ứng trên thị trường so với
các đối thủ cạnh tranh.
- Số mặt hàng của doanh nghiệp có mức độ hấp dẫn cao hơn về mẫu mã, giá
cả, dịch vụ sau bán hàng so với các đối thủ cạnh tranh.
- Số mặt hàng của doanh nghiệp có sự thuận tiện hơn về hệ thống phân phối
so với các đối thủ cạnh tranh.
- Số mặt hàng có năng lực cạnh tranh cao hơn trên thị trường so với các đối
thủ cạnh tranh.
- Số tiêu chí đo lường năng lực cạnh tranh mà doanh nghiệp đáp ứng được so
với các đối thủ cạnh tranh.
- Số ưu thế mà doanh nghiệp có được so với các đối thủ cạnh tranh.
Một doanh nghiệp kinh doanh đa ngành, đa lĩnh vực thường kinh doanh nhiều
mặt hàng trong một lĩnh vực và trong nhiều lĩnh vực khac nhau. Vì vậy, không
phải tất cả các mặt hàng do doanh nghiệp sản xuất ra đều có năng lực cạnh tranh
Phan Thị Thảo Lớp: Kế hoạch 46B
16
Chuyên đề tốt nghiệp
hoặc có năng lực cạnh tranh bằng nhau. Một tất yếu sẽ xảy ra là một số mặt
hàng có năng lực cạnh tranh cao nhưng một số mặt hàng khác lại có năng lực
cạnh tranh thấp . Trong trường hợp đó, ta chỉ nên đánh giá năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp theo một hoặc một số mặt hàng.
* Để đánh giá năng lực cạnh tranh (sức cạnh tranh, khả năng cạnh tranh) của
một mặt hàng, ta có thể dùng các tiêu chí sau:
- Mức doanh thu của mặt hàng đó trong từng năm.
- Thị phần của mặt hàng đó trên thị trường trong từng năm so với các đối thủ
cạnh tranh.
- Mức độ hấp dẫn của sản phẩm đó về mẫu mã, kiểu cách,…so với các đối thủ
cạnh tranh.

- Mức chênh lệch về giá của mặt hàng đó so với các đối thủ cạnh tranh.
- Mức chênh lệch về chất lượng của hàng hoá đó so với hàng hoá cùng loại
của các đối thủ cạnh tranh.
- Mức ấn tượng về hình ảnh, nhãn hiệu về hàng hoá của nhà sản xuất ra mặt
hàng đó so với các hàng hoá cùng loại của các đối thủ cạnh tranh.
1.3. Các chiến lược cạnh tranh của doanh nghiệp
1.3.1 Chiến lược chi phí thấp
Công ty theo chiến lược chi phí thấp lựa chọn sự khác biệt hóa sản phẩm ở
mức thấp. Khác biệt hóa có chí phí cao: nếu công ty dành nguồn lực tập trung
vào việc tạo sự khác biệt cho sản phẩm thì chi phí sản xuất sẽ tăng. Công ty theo
chiến lược chi phí thấp chủ trương đạt mức khác biệt trong sản phẩm không cao
hơn công ty theo chiến lược khác biệt hóa (công ty cạnh tranh bằng việc dành
toàn bộ nguồn lực để phát triển sản phẩm sản phẩm), nhưng phải đạt mức chi
phí thấp. Công ty theo chiến lược chi phí thấp không cố gắng trở thành công ty
Phan Thị Thảo Lớp: Kế hoạch 46B
17
Chuyên đề tốt nghiệp
đầu ngành trong việc tạo sự khác biệt; thông thường công ty chỉ tạo sự khác bỉệt
hóa khi khách hàng có nhu cầu.
Ưu điểm: Công ty theo đuổi chiến lược chi phí thấp có thể cạnh tranh với các
đối thủ ngành vì có lợi thế chi phí và nếu như cạnh tranh ngành tăng lên, các
công ty bắt đầu cạnh tranh về giá thì công ty có chi phí thấp sẽ có khả năng chịu
đựng được sự cạnh tranh tốt hơn các công ty khác. Công ty cũng ít bị tác động
khi các nhà cung cấp tăng giá và khi khách hàng yêu cầu giảm giá vì sản xuất
quy mô lớn có thể giảm chi phí. Hơn nữa các công ty này thường có thị phần
lớn, mua với số lượng nhiều nên họ có quyền mặc cả giá với người cung cấp.
Cuối cùng là công ty có chi phí thấp tạo ra cản trở xâm nhập ngành cao với các
đối thủ tiềm ẩn.
Nhược điểm: Các đối thủ cạnh tranh có thể bắt trước phương pháp sản xuất
với chi phí thấp hơn hoặc do khoa học công nghệ phát triển nên ngày càng có

nhiều công nghệ sản xuất tiên tiến có khả năng làm mất lợi thế của công ty với
chi phí thấp hơn.
1.3.2. Chiến lược khác biệt hóa sản phẩm
Mục tiêu của chiến lược khác biệt hóa sản phẩm có được lợi thế cạnh tranh
bằng cách tạo ra sản phẩm mà khách hàng cho rằng có những điểm khác biệt.
Công ty theo đuổi chiến lược này có khả năng thỏa mãn nhu cầu khách hàng
theo cách mà đối thủ cạnh tranh không làm được, do đó công ty có thể đặt giá
cao hơn giá trung bình ngành. Khả năng tăng thu nhập bằng cách đặt giá cao cho
phép công ty theo chiến lược các đối thủ và có được lợi nhuận cao hơn trung
bình.
Ưu điểm: Công ty nào theo đuổi chiến lược khác biệt hóa sẽ ít bị cạnh tranh từ
các đối thủ vì họ có lòng trung thành về nhãn hiệu sản phẩm của khách hàng. Và
Phan Thị Thảo Lớp: Kế hoạch 46B
18
Chuyên đề tốt nghiệp
vì vậy cũng không bị áp lực từ phía khách hàng do họ cung cấp các sản phẩm
đặc biệt duy nhất. Còn đối với các nhà cung cấp sức ép đối với công ty cũng rất
ít, họ có thể chịu việc tăng giá đầu vào ở một mực độ nào đó do mục tiêu hàng
đầu của họ cần tạo ra sự khác biệt hóa. Và cuối cùng lòng trung thành của khách
hàng là rào cản lớn để ngăn chặn sự đe dọa từ các đối thủ tiềm ẩn và các sản
phẩm thay thế.
Nhược điểm: Khả năng duy trì sự khác biệt của công ty là không lây dài và
không ổn định vì dễ bị các đối thủ cạnh tranh bắt chước sản phẩm giống như của
công ty. Mối nguy hiểm nữa là sự khác biệt hóa và mức giá cao hơn mức trung
bình của công ty không được thị trường chấp nhận. Điều này sẽ là nguy cơ dẫn
đến chiến lược khác biệt hóa không thành công.
1.3.3. Chiến lược trọng tâm (tập trung )
Chiến lược tập trung trọng điểm khác với hai chiến lược trên ở chỗ công ty
đeo đuổi chiến lược này chỉ phục vụ nhu cầu của một số nhóm khách hàng hoặc
phân đoạn thị trường nào đó. Công ty theo đuổi chiến lược này chủ yếu phục vụ

thị trường hẹp, có thể là một vùng, một loại khách hàng hoặc một loại sản phẩm.
Ưu điểm: Lợi thế cạnh tranh của công ty theo chiến lược này bắt nguồn từ
năng lực khác biệt của nó- hiệu quả, chất lượng, đổi mới hoặc đáp ứng yêu cầu
của khách hàng. Công ty có thể cạnh tranh với các đối thủ vì nó cung cấp sản
phẩm và dịch vụ mà các đối thủ không thể có. Khả năng này giúp cho công ty có
quyền lực với khách hàng vì khách hàng không thể mua hàng hóa như vậy ở chỗ
khác. Chiến lược này cho phép công ty gần gũi với khách hàng và phản ứng
nhanh với những nhu cầu thay đổi.
Nhược điểm: Các công ty theo đuổi chiến lược này chỉ tập trung vào một phân
đoạn thị trường nên sản xuất với số lượng nhỏ. Do vậy, chi phí sản xuất thường
Phan Thị Thảo Lớp: Kế hoạch 46B
19
Chuyên đề tốt nghiệp
cao hơn công ty theo chiến lược chi phí thấp và công ty theo chiến lược khác
biệt hóa. Các công ty theo chiến lược này dễ bị mất thị trường khi ưu thế khoa
học công nghệ của công ty theo chiến lược chi phí thấp thỏa mãn nhu cầu khách
hàng của họ hoặc thị trường của họ sẽ bị các công ty theo đuổi chiến lược khác
biệt hóa nhằm tới với năng lực sản xuất lớn hơn rất nhiều.
1.4. Các nhân tố ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
1.4.1 Các yếu tố môi trường vĩ mô
1.4.1.1. Các yếu tố kinh tế
Các yếu tố kinh tế có ảnh hưởng rất lớn đến các công ty, vì các yếu tố này
tương đối rộng cho nên các công ty cần chọn lọc để nhận biết tác động cụ thể,
ảnh hưởng trực tiếp nhất.
Ảnh hưởng chủ yếu về kinh tế thường bao gồm:
Tỷ lệ lãi suất:
Tỷ lệ lãi suất có thể tác động đến mức cầu đối với sản phẩm của công ty. Tỷ
lệ lãi suất là rất quan trọng khi người tiêu dùng thường xuyên vay tiền để thanh
toán các khoản mua bán hàng hoá của mình. Tỷ lệ lãi suất còn quyết định mức
chi phí về vốn và do đo quyết định mức đầu tư. Chi phí này là nhân tố chủ yếu

khi quyết định tính khả thi của chiến lược.
Tỷ giá hối đoái:
Tỷ giá hối đoái là sự so sánh về giá trị của đồng tiền trong nước với đồng tiền
của các quốc gia khác. Thay đổi về tỷ giá hối đoái có tác động trực tiếp đến tính
cạnh tranh của sản phẩm do công ty sản xuất trên thị trường quốc tế. Khi giá trị
của đồng tiền trong nước thấp so với các đồng tiền khác, hàng hoá sản xuất
trong nước sẽ tương đối rẻ hơn, trái lại hàng hoá sản xuất ở ngoài nước sẽ tương
Phan Thị Thảo Lớp: Kế hoạch 46B
20
Chuyên đề tốt nghiệp
đối đắt hơn. Một đồng tiền thấp hay đang giảm giá sẽ làm giảm sức ép từ các công
ty nước ngoài và tạo ra nhiều cơ hội để tăng sản phẩm xuất khẩu và ngược lại.
Tỷ lệ lạm phát:
Lạm phát có thể gây xáo trộn nền kinh tế làm cho sự tăng trưởng kinh tế
chậm lại, tỷ lệ lãi suất tăng và sự biến động của đồng tiền trở nên không lường
trước được. Nếu lạm phát tăng liên tục, các hoạt động đầu tư trở thành công việc
hoàn toàn may rủi.
Thực trạng của lạm phát là ở chỗ nó làm cho tương lai kinh doanh trở nên khó
dự đoán được. Nếu trong một môi trường mà lạm phát mạnh sẽ không thể nào
dự đoán được giá trị thực của lợi nhuận có thể thu được từ một dự án. Sự bất
trắc này làm cho các công ty không muốn bỏ tiền vào đầu tư. Hành động này lại
hạn chế sự hoạt động của nền kinh tế và cuối cùng thì đẩy nền kinh tế rơi vào
tình trạng khủng hoảng. Do vậy, lạm phát cao là một nguy cơ đối với công ty.
Quan hệ giao lưu quốc tế:
Những thay đổi về môi trường quốc tế có thể xuất hiện cả những cơ hội cũng
như nguy cơ về việc mở rộng thị trường trong nước và ngoài nước của một công
ty. Đối với các nước đang phát triển như Việt Nam hiện nay mang lại nhiều cơ
hội cho công ty các nước đầu tư vào. Đồng thời cũng tạo ra sự cạnh tranh ngày
càng mạnh hơn ở cả thị trường trong nước và quốc tế.
1.4.1.2. Các yếu tố công nghệ

Ngày nay công nghệ được coi là yếu tố quan trọng trong cạnh tranh. Thay đổi
về công nghệ có thể làm cho các sản phẩm đang sản xuất trở nên lỗi thời trong
khoảng thời gian ngắn. Cũng với thời gian đó có thể tạo ra hàng loạt sản phẩm
mới. Như vậy nó đồng thời có thể là cơ hội cũng như mối đe dọa. Do sự phát
triển nhanh chóng của công nghệ đã diễn ra xu hướng làm ngắn lại chu kỳ sống
của sản phẩm. Các công ty phải lường trước được những thay đổi do công nghệ
Phan Thị Thảo Lớp: Kế hoạch 46B
21
Chuyên đề tốt nghiệp
mới mang lại. Công nghệ cũng tạo ta nhiều phương pháp sản xuất mới, những
phương pháp này cũng sẽ tạo ra những cơ hội hoặc những đe dọa.
1.4.1.3. Các yếu tố chính trị và pháp luật
Các yếu tố thuộc về chính trị và luật pháp cũng có tác động lớn đến mức độ
thuận lợi và khó khăn của môi trường. Các công ty hoạt động phải tuân theo các
quy định của chính phủ về thuê mướn nhân công, thuế, quảng cáo, nơi đặt nhà
máy và bảo vệ môi trường…Những quy định này có thể là cơ hội hoặc hạn chế
sự phát triển cũng như địa bàn hoạt động của công ty…
1.4.1.4. Các yếu tố văn hóa, xã hội, dân số
Tất cả các công ty đều phải phân tích các yếu tố xã hội nhằm nhận biết các cơ
hội và nguy cơ có thể xảy ra. Khi một hay nhiều yếu tố thay đổi chúng có thẻ tác
động đến công ty như xu hướng nhân chủng học, sở thích vui chơi giải trí, chuẩn
mực đạo đức xã hội, vấn đề lao động nữ. Các yếu tố xã hội thường biến đổi hoặc
tiến triển chậm nên đôi khi thường khó nhận biết. Cùng với sự phát triển kinh tế,
sự biến động về các yếu tố xã hội ngày càng có tác động mạnh hơn đến sự hoạt
động của các công ty như tỷ lệ sinh đẻ, sự trẻ hóa hoặc lão hóa của dân số, quy
mô của gia đình.
1.4.1.5. Xu hướng toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế
Cũng giống các yếu tố khác đều có tác động hai mặt đến hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp, xu hướng toàn cầu hóa cũng mở ra rất nhiều cơ
hội nhưng đồng thời cũng đem lại cho doanh nghiệp rất nhiều mối đe dọa, nhiều

nguy cơ. Toàn cầu hóa sẽ giúp mở rộng thị trường hoạt động của doanh nghiệp,
xóa bỏ các rào cản kinh tế, giúp các doanh nghiệptiếp thu được những tiến bộ
khoa học công nghệ một các nhanh chóng. Nhưng đồng thời nó lại cũng tạo ra
áp lực cạnh tranh mạnh mẽ hơn do sức ép từ các đối thủ tiềm ẩn cùng ngành
ngày càng tăng, các doanh nghiệp nước ngoài thâm nhập vào thị trường nội địa
ngày càng tăng. Chính vì vậy, các doanh nghiệp trong nước phải nhận thức rõ
Phan Thị Thảo Lớp: Kế hoạch 46B
22
Chuyên đề tốt nghiệp
toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế là một xu thế không thể đảo ngược. Họ buộc phải
nâng cao sức cạnh tranh, phải nhanh chóng nắm lấy cơ hội do quá trình này tạo
ra nhưng đồng thời phải có biện pháp để đẩy lùi và hạn chế nguy cơ thách thức.
1.4.2. Các yếu tố môi trường vi mô (môi trường ngành )
Michael E. Porter của trường quản trị kinh doanh Harvard đã đưa ra những vấn
đề cốt lõi nhất để giúp cho các nhà quản lý sử dụng phân tích môi trường ngành
Porter đưa ra mô hình năm lực tác động vào ngành:
* Mức độ cạnh tranh giữa các công ty đang hoạt động trong ngành.
* Khả năng cạnh tranh của các đối thủ tiềm ẩn.
* Mức độ cạnh tranh của các sản phẩm thay thế.
* Sức ép về giá của người mua.
* Sức ép về giá của người cung ứng.
Lập luận của Porter là mỗi tác động ngày càng lớn mạnh của những lực đó có
thể coi là một sự đe dọa khi mà nó làm giảm lợi nhuận. một tác động cạnh tranh
yếu tố có thể được coi là cơ hội khi nó cho phép công ty kiếm được lợi nhuận
nhiều hơn.
1.4.2.1. Sự cạnh tranh của các đối thủ tiềm ẩn
Đối thủ tiềm ẩn là các công ty hiện không ở trong ngành nhưng có khả năng
nhảy vào những hoạt động kinh doanh trong ngành đó. Đổi thủ mới tham gia
trong ngành có thể là yếu tố làm giảm lợi nhuận của công ty do họ đưa vào khai
thác các năng lực sản xuất mới với mong muốn giành được một thị phần thị

trường. Do đó những công ty đang hoạt động tìm mọi cách để hạn chế các đối
thủ cạnh tranh tiềm ẩn nhảy vào lĩnh vực kinh doanh của họ. Bởi vì hiển nhiên
là nhiều công ty nhảy vào kinh doanh trong một ngành, nó sẽ trở nên khó khăn
hơn đối với các công ty đang hoạt động trong ngành đó. Vì vậy để bảo vệ vị trí
cạnh tranh của mình công ty thường quan tâm đến việc duy trì hàng rào hợp
pháp ngăn cản sự xâm nhập từ bê ngoài
Phan Thị Thảo Lớp: Kế hoạch 46B
23
Chuyên đề tốt nghiệp
Một nghiên cứu có tính kinh điển về những trở ngại cho việc nhẩy vào ngành
kinh doanh được nhà kinh tế học Joe Bain đưa ra. Ông ta xác định 3 yếu tố trở
ngại chủ yếu đối với việc nhảy vào một ngành kinh doanh.
Sự ưa chuộng sản phẩm: Đó là sự ưa thích của người mua đối với sản phẩm
của các công ty hiện đang hoạt động, những công ty này có thể thiết lập nên sự
ưa chuộng của khách hàng đối với sản phẩm của mình bằng cách: quảng cáo
thường xuyên tên công ty và nhãn hiệu. Đối với sản phẩm thông qua các chương
nghiên cứu và phát triển nhấn mạnh ưu thế về chất lượng hàng hóa cao và dịch
vụ sau bán hàng.
Như vậy sự ưa chuộng sản phẩm làm giảm bớt sự đe dọa thâm nhập vào ngành
của các đối thủ tiềm ẩn, làm cho họ thấy rằng việc phá dỡ sự ưa thích của người
tiêu dùng đối với sản phẩm của các công ty trong ngành là khó khăn và tốn kém.
Các ưu thế về chi phí thấp: Đây chính là khó khăn đối với các đối thủ tiềm ẩn
khi mới nhảy vào ngành. Những lợi thế về chi phí thường bắt nguồn từ: Phương
pháp sản xuất tốt do kết quả của quá trình tích lũy kinh nghiệm lâu dài, sự quản
lý có hiệu quả đầu vào của sản xuất như lao động, nguyên vật liệu, máy móc
thiết bị có nguồn vốn cho kinh doanh ổn định với lãi suất thấp do hoạt động của
công ty chứa đựng ít rủi ro hơn các công ty khác.
Tính hiệu quả của sản xuất lớn: Đây là ưu thế về chi phí của các công ty có
quy mô lớn. Ưu thế của sản xuất lớn bao gồm: giảm chi phí thông qua sản xuất
hàng loạt các đầu ra đã được tiêu chuẩn hóa, giảm giá cho việc mua các nguyên

liệu đầu vào và các bộ phận máy móc thiết bị với một khối lượng lớn, sự phân
bổ đều những chi phí cố định cho một khối lượng sản xuất lớn hơn và cả tính
hiệu quả của sản xuất lớn trong quảng cáo.
Nếu công ty có được những lợi thế này sẽ buộc các công ty mới xâm nhập
vào đương đầu với những khó khăn về quy mô sản xuất nhỏ và phải đương đầu
với những bất lợi về chi phí lớn.
Phan Thị Thảo Lớp: Kế hoạch 46B
24
Chuyên đề tốt nghiệp
1.4.2.2. Sự cạnh tranh của sản phẩm thay thế
Sản phẩm thay thế là những sản phẩm của công ty trong những ngành khác
nhau nhưng thỏa mãn những nhu cầu của người tiêu dùng giống như các công ty
trong ngành. Những công ty này thường cạnh tranh gián tiếp với nhau. Ví dụ các
công ty trong ngành cà phê cạnh tranh một cách gián tiếp với các công ty trong
ngành chè và những ngành nước giải khát không cồn. Nếu giá của cà phê tăng
quá lớn so với giá chè thì người uống cà phê sẽ chuyển sang uống chè.
Như vậy, sự tồn tại những sản phẩm thay thế hình thành một sức ép cạnh
tranh rất lớn. Nó giới hạn mức giá của một công ty có thể định ra và do đó giới
hạn mức lợi nhuận của công ty. Ngược lại nếu sản phẩm của công ty có ít các
sản phẩm thay thế, công ty có cơ hội để tăng giá và kiếm thêm được lợi nhuận.
1.4.2.3. Sức ép về giá của người mua
Người mua được xem như là sự đe dọa mang tính cạnh tranh khi họ đẩy giá
cả xuống hoặc khi họ yêu cầu chất lượng sản phẩm và dịch vụ tốt hơn làm cho
chi phí hoạt động củ doanh nghiệp tăng lên. Ngược lại nếu người mua có những
yếu thế sẽ tạo cho công ty cơ hội để tăng giá và kiếm nhiều lợi nhuận hơn.
Người mua có thể gây áp lực với công ty đến mức độ nào phụ thuộc vào thế
mạnh của họ trong quan hệ với công ty. Theo Porter, những yếu tố tạo nên áp
lực cho người mua là:
- Khi ngành cung cấp gồm nhiều công ty nhỏ còn người mua chỉ là số ít công
ty nhưng có quy mô lớn.

- Khi người mua mua với số lượng lớn, họ có thể sử dụng sức mua của mình
như một đòn bẩy để yêu cầu được giảm giá.
- Khi người mua có thể lựa chọn đơn đặt hàng giữa các công ty cung ứng cùng
loại sản phẩm.
1.4.2.4. Sức ép về giá của người cung cấp
Phan Thị Thảo Lớp: Kế hoạch 46B
25

×