Tải bản đầy đủ (.doc) (48 trang)

PHÁT TRIỂN sản PHẨM cá KHO tại xã hòa hậu, HUYỆN lý NHÂN, TỈNH hà NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (356.95 KB, 48 trang )

HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
KHOA KINH TẾ VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
----------------------------

ĐỀ CƯƠNG CHI TIẾT
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

PHÁT TRIỂN SẢN PHẨM CÁ KHO TẠI XÃ HÒA HẬU,
HUYỆN LÝ NHÂN, TỈNH HÀ NAM

GV hướng dẫn

: Ths. Lưu Văn Duy

Sinh viên thực hiện

: Trần Thị Thu

Lớp

: KTC – K58

Chuyên ngành

: Kinh tế

HÀ NỘI 2016


PHẦN I – MỞ ĐẦU
1.1 Tính cấp thiết của đề tài


Từ xưa đến nay, các làng nghề truyền thống luôn chiếm vị trí quan
trọng trong đời sống kinh tế - xã hội, văn hóa tinh thần của các vùng quê Việt
Nam. Nhằm giải quyết mục tiêu kinh tế, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập
cho người lao động, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, nâng cao
thu nhập dân cư. Sản xuất ra các sản phẩm không những đáp ứng thị trường
trong nước mà còn xuất khẩu thu ngoại tệ góp phần thúc đẩy các ngành kinh
tế và tạo điều kiện thực hiện cơ giới hóa trong nông thôn, việc phát triển làng
nghề là điều kiện cần thiết vì đó là nguồn tài sản quý giá của đất nước. Phát
triển làng nghề không chỉ có ý nghĩa kinh tế, mà còn có ý chính trị to lớn
trong công cuộc CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.
Trong công cuộc mở cửa và hội nhập hiện nay, việc phát triển các làng
nghề truyền thống luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm, coi đó là nội
dung quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn. Sự phát triển của các làng nghề không những góp phần gìn giữ,
phát huy những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc mà còn góp phần
phát triển kinh tế và thúc đẩy quá trình CNH – HĐH.
Nằm trong khu vực đồng bằng sông Hồng, tỉnh Hà Nam là một trong
những địa điểm có nhiều làng nghề đang hoạt động và phát triển, có đóng góp
to lớn vào phát triển kinh tế của toàn tỉnh. Một trong số những sản phẩm được
sản xuất ra trên miền đất này là sản phẩm cá kho tại xã Hòa Hậu, huyện Lý
Nhân của tỉnh. Ngày nay, sản phẩm cá kho ở Hòa Hậu nổi tiếng khắp các
vùng và có mặt trên mọi miền đất nước, thậm chí được xuất khẩu ra nước
ngoài nhằm góp phần tăng thu ngoại tệ cho đất nước. Bên cạnh đó, việc phát
triển sản phẩm cá kho cũng đã góp phần đáng kể vào việc cải thiện đời sống
người dân nơi đây, giúp nâng cao thu nhập và tạo công ăn việc làm cho người

2


lao động, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn… Vì vậy, việc phát

triển sản phẩm của làng nghề mạnh hơn nữa là một việc làm rất cần thiết.
Mặt khác, nền kinh tế thị trường đang ngày càng phát triển mạnh mẽ,
các mặt hàng sản phẩm, thực phẩm được sản xuất ra ngày càng nhiều, các
món ngon truyền thống cũng ngày càng phong phú hơn; vì vậy, nó đang là
thách thức to lớn cho sản phẩm cá kho của xã Hòa Hậu. Vấn đề hiện nay là
làm sao để duy trì và phát triển sản phẩm của làng nghề tại xã? Giải pháp nào
để có thể thực hiện mục tiêu đó? Xuất phát từ thực tiễn trên tôi tiến hành
nghiên cứu đề tài: “Phát triển sản phẩm cá kho tại xã Hòa Hậu, huyện Lý
Nhân, tỉnh Hà Nam”.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu chung
Đánh giá thực trạng phát triển sản phẩm cá kho tại xã Hòa Hậu, huyện
Lý Nhân, tỉnh Hà Nam, trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp phát triển sản
phẩm cá kho tại xã Hòa Hậu trong những năm tới.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về sự phát triển sản phẩm làng
nghề.
- Phân tích thực trạng phát triển sản phẩm cá kho tại xã Hòa Hậu.
- Đánh giá các yếu tố ảnh hưởng tới sự phát triển sản phẩm cá kho tại
xã Hòa Hậu.
- Đề xuất các giải pháp nhằm phát triển sản phẩm cá kho tại xã Hòa
Hậu, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam.
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu sản phẩm cá kho tại xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân,
tỉnh Hà Nam

3



1.3.2 Đối tượng khảo sát
- Các hộ gia đình sản xuất sản phẩm cá kho tại xã Hòa Hậu, huyện Lý
Nhân, tỉnh Hà Nam.
- Cơ quan chính quyền địa phương có liên quan.
- Cơ sở, thị trường tiêu thụ trên địa bàn và các thị trường tiêu thụ khác.
1.3.3 Phạm vi nghiên cứu
a. Về nội dung
Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề về phát triển kinh tế, xã hội
của sản phẩm cá kho tại xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam.
b. Về không gian
Thực hiện trên địa xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam.
c. Về thời gian
Các số liệu thứ cấp được thu thập trong các năm 2013 – 2015. Các số
liệu sơ cấp là kết quả điều tra, khảo sát các hộ sản xuất, kinh doanh và các tác
nhân liên quan đến việc sản xuất cá kho tại địa bàn.
Đề tài thực hiện từ ngày 20/06/2016 đến ngày 12/11/2016.

4


PHẦN II – CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN SẢN
PHẨM LÀNG NGHỀ
2.1 Cơ sở lý luận
2.1.1 Một số khái niệm cơ bản
2.1.1.1 Phát triển
Ngày nay, có rất nhiều quan điểm khác nhau về phát triển, mà mỗi định
nghĩa lại phản ánh một cách nhìn nhận và đánh giá khác nhau. Ngân hàng thế
giới (WB) đã đưa ra khái niệm phát triển với ý nghĩa rộng lớn bao gồm những
thuộc tính quan trọng có liên quan đến hệ thống giá trị của con người, đó là:
“Phát triển là sự tăng trưởng cộng thêm các thay đổi cơ bản trong cơ cấu của

nền kinh tế. Sự tăng lên của sản phẩm quốc dân do ngành công nghiệp tạo ra,
sự đô thị hóa, sự tham gia của các dân tộc một quốc gia trong quá trình tạo rat
hay dổi nói trên là những nội dung của phát triển. Phát triển là việc nâng cao
lợi ích của nhân dân, nâng cao các tiêu chuẩn sống, cải thiện giáo dục, sức
khỏe và đảm bảo sự bình đẳng hơn về cơ hội, sự tự do về chính trị và các
quyền tự do công dân, củng cố niềm tin trong cuộc sống của con người, trong
mối quan hệ với nhà nước…” (Phạm Xuân Phương, 2003).
Bên cạnh đó, “Phát triển được hiểu là một phạm trù triết học dung để
chỉ quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ
kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của sự vật. Quá trình đó diễn ra vừa dần
dần, vừa nhảy vọt, đưa tới sự ra đời của cái mới thay thế cái cũ. Quan điểm
này cũng cho rằng, sự phát triển là kết quả của quá trình thay đổi dần dần về
lượng dẫn đến sự thay đổi về chất, là quá trình diễn ra theo đường xoáy ốc và
hết mỗi chu kỳ sự vật lặp lại dường như sự vật ban đầu nhưng ở cấp độ cao
hơn” (Nguyễn Ngọc Long và cộng sự, 2009). Mặt khác, “Phát triển là một
quá trình tăng trưởng bao gồm nhiều yếu tố khác nhau như kinh tế, chính trị,
kỹ thuật, văn hóa…” (Lưu Đức Hải, 2001).

5


Phát triển là một tổ hợp các hoạt động, một số mục tiêu xã hội, một số
mục tiêu kinh tế, dựa trên tài nguyên thiên nhiên, vật chất, trí tuệ nhằm phát
huy hết khả năng của con người, được hưởng một cuộc sống tốt đẹp hơn. Phát
triển theo khái niệm chung nhất là việc nâng cao hạnh phúc của người dân
bao hàm nâng cao chuẩn mực sống, cải thiện điều kiện giáo dục, sức khỏe, sự
bình đẳng về cơ hội,... Trong kinh tế, phát triển là quá trình chuyển biến về
mọi mặt của nên kinh tế trong một thờ kì nhất định, trong đó bao gồm sự tăng
lên cả về quy mô sản phẩm, sự hoàn thiện về cơ cấu kinh tế và việc nâng cao
chất lượng mọi mặt của cuộc sống (Mai Thanh Cúc và cộng sự, 2005).

Phát triển được hiểu là một quá trình lớn lên, tăng tiến về mọi lĩnh vực.
Bất cứ trong lĩnh vực nào, sự phát triển đều thỏa mãn các thành tố như: sự
tăng lên về chất và lượng, sự thay đổi về cơ cấu, thể chế, chủng loại, tổ chức;
sự thay đổi về thị trường và giữ công bằng xã hội, an ninh, trật tự
(Fajardo,1999)
Tăng trưởng và phát triển là hai mặt của sự phát triển xã hội và có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau. Tăng trưởng diễn tả động thái của nền kinh tế, còn
phát triển thì phản ánh sự thay đổi về chất lượng của nền kinh tế để phân biệt
các trình độ khác nhau trong sự tiến bộ xã hội (Đinh Văn Đãn, 2009).
Tuy có nhiều quan niệm về sự phát triển, nhưng tựu trung lại các ý kiến
đều cho rằng: Phạm trù của sự phát triển là phạm trù vật chất, phạm trù tinh
thần, phạm trù về hệ thống giá trị của con người. Mục tiêu chung của phát triển
là nâng cao các quyền lợi về kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội và quyền tự do.
Khái niệm về phát triển kinh tế
Theo WB (1991): Phát triển kinh tế là sự tăng bền vững về các tiêu
chuẩn sống bao gồm tiêu dùng vật chất, sức khỏe và bảo vệ môi trường.
Hay, nhà kinh tế học E.Wayne Nafziger cho rằng: Phát triển kinh tế là
sự tăng trưởng kinh tế theo những thay đổi về phân phối sản lượng và cơ cấu
kinh tế.

6


Hiện nay, người ta có định nghĩa khái quát về phát triển kinh tế như
sau: Phát triển kinh tế là sự tăng trưởng kinh tế đi kèm với sự tiến bộ của cơ
cấu kinh tế, thể chất kinh tế và chất lượng cuộc sống.
Như vậy, có thể thấy rằng, phát triển kinh tế bao gồm sự tăng trưởng,
sự tăng lên về tổng sản phẩm xã hội và thu nhập bình quân trên đầu người, sự
biến đổi cơ cấu theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, giảm tỷ trọng của
ngành nông nghiệp, tăng tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ trong tổng

sản phẩm quốc dân, đời sống của người dân được nâng cao về phúc lợi xã hộ,
giáo dục, y tế và sự bình đẳng về kinh tế, chinh trị, xã hội.
2.1.1.2 Sản phẩm
Sản phẩm là những hàng hóa và dịch vụ với những thuộc tính nhất
định, với những ích dụng cụ thể nhằm thỏa mãn những nhu cầu đòi hỏi của
khách hàng. Sản phẩm có giá trị sử dụng và giá trị, nó có thể là hữu hình hoặc
vô hình (Trần Minh Đạo, 2012). Bên cạnh đó, Philip Kotler (1994) cho rằng:
“Sản phẩm là tất cả những gì có thể thỏa mãn được nhu cầu hay mong muốn
và được chào bán trên thị trường với mục đích thu hút sự chú ý, mua sử dụng
hay tiêu dùng. Đó có thể là các vật thể hữu hình, dịch vụ, người, mặt bằng, tổ
chức và ý tưởng”.
Phần lớn các sản phẩm được cấu trúc ở năm mức độ: lợi ích cốt lõi, sản
phẩm chung, sản phẩm mong đợi, sản phẩm hoàn thiện và sản phẩm tiềm ẩn.
+ Mức cơ bản là lợi ích cốt lõi, chính là dịch vụ hay lợi ích cơ bản mà
khách hàng mua. Chẳng hạn như, đối với một lọ nước hoa, khách hàng mua
“một niềm hi vọng”, đối với chuyến đu lịch thiên nhiên, khách hàng mua “sự
thư giãn và bầu không khí trong lành”. Nhà kinh doanh phải xem mình là
người cung ứng lợi ích.
+ Sản phẩm chung, chính là dạng cơ bản của sản phẩm đó. Vì thế một
khách sạn phải là một tòa nhà có các phòng để cho thuê. Tương tự như vậy, ta
có thể nhận ra các sản phẩm khác như một chiếc dù, một buổi hòa nhạc,…

7


+ Sản phẩm mong đợi, tức là tập hợp những thuộc tính và điều kiện mà
người mua thường mong đợi và chấp nhận khi họ mua sản phẩm đó. Ví dụ,
khách đến khách sạn mong có được một cái giường sạch sẽ, xà phòng, khăn
tắm, tủ để quần áo và mức độ yên tĩnh tương đối. Vì đa số các khách sạn đều
có thể đáp ứng được mong muốn tối thiểu này, nên khách du lịch không thiên

vị đối với khách sạn nào mà sẽ vào bất kỳ khách sạn nào thuận tiện nhất.
+ Sản phẩm hoàn thiện thêm, tức là một sản phẩm bao gồm những dịch
vụ và lợi ích phụ thêm làm cho sản phẩm của doanh nghiệp khác với sản
phẩm của đối thủ cạnh tranh. Ví dụ khách sạn có thể hoàn thiện thêm sản
phẩm của mình bằng cách trang bị máy thu hình, bổ sung dầu gội và hoa tươi,
dịch vụ đăng ký và trả phòng nhanh chóng..
Ở các nước phát triển ngày nay cạnh tranh chủ yếu diễn ra ở mức độ
hoàn thiện sản phẩm. Theo Levitt, cuộc cạnh tranh mới không phải là giữa
những gì các công ty sản xuất ra, mà là giữa những gì họ bổ sung cho sản
phẩm mình dưới hình thức bao bì, dịch vụ, quảng cáo,…

Hình 2.1. Năm cấp độ của sản phẩm

8


+ Sản phẩm tiềm ẩn, tức là những sự hoàn thiện và biến đổi mà sản
phẩm đó có thể có được trong tương lai. Trong khi sản phẩm hoàn thiện thể
hiện những gì đã đưa vào sản phẩm hiện nay, thì sản phẩm tiềm ẩn chỉ nêu ra
hướng phát triển có thể của nó. Vì thế các doanh nghiệp tích cực tìm kiếm
những cách thức mới để thảo mãn khách hàng và tạo ra sự khác biệt cho sản
phẩm của mình. Như vậy, sản phẩm bao gồm nhiều thuộc tính cung ứng sự
thỏa mãn nhu cầu khác nhau của khách hàng.
2.1.1.3 Phát triển sản phẩm
Theo Trần Minh Đạo (2012), phát triển sản phẩm là việc cải biến các
sản phẩm hiện có, đã có, là kết quả của quá trình nghiên cứu của bộ phận
nghiên cứu và phát triển sản phẩm của công ty, doanh nghiệp, làng nghề sản
xuất sản phẩm.
Có thể xuất phát từ hoạt động sản xuất và việc tìm hiểu sự thay đổi về
nhu cầu của khách hàng, của thị trường để phát triển sản phẩm trên những

thành tựu đã có.
- Sàng lọc những phát triển
Qua giai đoạn tìm kiếm, thu thập ý kiến, có thể thu được nhiều đề xuất,
nhà sản xuất cần sang lọc những ý kiến hay, loại bỏ những ý kiến kém.
- Phát thảo ý đồ về sản phẩm và thử nghiệm
Một ý kiến góp ý cần được phát thảo thành một ý đồ cụ thể về sản
phẩm. Phát thảo sản phẩm cần được thăm dò với khách hàng để thu được
những ý kiến phản hồi nhằm cải tiến cho phù hợp hơn.
- Phân tích triển vọng kinh doanh
Phần này nhà sản xuất phân tích và phát thảo sơ bộ về tiềm năng thị
trường, chi phí đầu tư, giá bán ra,… qua đó để biết sản phẩm mới có đạt yêu
cầu về mục tiêu kinh doanh hay không.

9


- Phát triển sản phẩm
Các nhà sản xuất nghiên cứu từ những ý đồ phát thảo để thiết kế ra
được một sản phẩm cụ thể đạt được những nhu cầu của người tiêu dùng.
- Thử nghiệm thị trường
Giai đoạn này sản phẩm được thử nghiệm thực tế với người tiêu dung
trước khi được đưa vào sản xuất đại tra.
- Tung sản phẩm ra thị trường
Giai đoạn thử nghiệm giúp nhà sản xuất có đủ cơ sở để kết luận có nên
tung sản phẩm mới ra thị trường hay không. Nếu nhà sản xuất quyết định tung
sản phẩm ra thị trường thì cần xác định thời gian sản xuất, chọn thị trường
tung sản phẩm trước…
2.1.2 Đặc điểm của làng nghề
2.1.2.1 Điểm nổi bật nhất của làng nghề là tồn tại ở nông thôn, gắn bó chặt
chẽ với nông nghiệp

Nhắc tới làng nghề, ta thường hay liên tưởng ngay đến những vùng quê
yên ả với những người nông dân chân chất, hiền hậu, cặm cụi lao động sớm
trưa. Làng nghề phản ánh cuộc sống cửa những người dân nông nghiệp gắn
với cơ chế sản xuất theo mùa vụ, mang đặc trưng riêng của làng xã trong đó
bao gồm cả yếu tố dòng họ. Do đặc trưng của sản xuất là mang tính thời vụ
nên cuộc sống của người dân vẫn chưa đảm bảo được do thu nhập thấp. Chính
vì vậy, ngoài làm nông, người dân tìm kiếm thêm nghề phụ để tăng thêm thu
nhập, đảm bảo cuộc sống. Mặt khác, từ các sản phẩm, chúng ta có thể nhận
thấy gốc tích nông nghiệp như nguyên vật liệu, công cụ chế tác, giá trị sử
dụng của nó… Mỗi nghề gắn liền với mỗi cộng đồng dân cư được cư trú ổn
định trong quy mô làng xã. Nét đặc trưng này đã phản ánh sự phong phú và
đa dạng của làng nghề trong hệ thống làng xã nông thôn.

10


2.1.2.2. Làng nghề có truyền thống lâu đời và có bản sắc văn hóa riêng
Làng nghề ở Việt Nam chủ yếu là làng nghề truyền thống, hầu hết có
truyền thống lâu đời. Từ đời xa xưa đã hình thành lên các làng nghề với quy
mô nhỏ, lẻ và nhu cầu lao động còn rất ít. Sản phẩm từ các làng nghề chủ yếu
phục vụ cho những công việc hiện tại như phát triển nghề rẻn đúc tạo ra
những công cụ như cày, cuốc, dao…đã mang lại cho người dân hiệu quả cao
hơn so với dùng đá, tre hay những gậy gỗ thô sơ. Và cứ thế cho đến nay, các
làng nghề truyền như thế vẫn tồn tại và ngày càng đa dạng hóa sản phẩm hơn
nữa để phục vụ cho đời sống và sản xuất. Sản phẩm từ mỗi làng nghề sẽ gắn
liền với địa danh của nó như làng tranh Đông Hồ, làng gốm Bát Tràng…đó
chính là những đặc điểm rõ nét để phân biệt sự riêng có trong sản phẩm của
mỗi làng nghề.
Đặc điểm của các sản phẩm mang dấu ấn riêng của người sản xuất ra
nó, vì vậy mà các sản phẩm này đều mang tính khác biệt, phong cách riêng

của mỗi nghệ nhân và mang đậm nét văn hóa riêng của địa phương, tồn tại
giao lưu với cộng đồng. Qua thử thách với thời gian, giao lưu, những nét
riêng đã được chọn loc và thừa nhận để tồn tại và ngày càng phát triển hơn
nữa, Bên cạnh đó, cộng với sự sáng tạo của mỗi nghệ nhân mà sản phẩm ngày
càng hoàn thiện, tạo nên sự riêng biệt độc đáo và ngày càng thể hiện bản sắc
của dân tộc Việt Nam.
2.1.2.3 Công nghệ kỹ thuật sản xuất sản phẩm thường rất thô sơ, lạc hậu
cùng với thói quen sản xuất tiển nông nên công nghệ chậm đưuọc cải tiến và
thay thế
Công cụ sản xuất chủ yếu là công cụ thủ công, mang tính đơn chiếc.
Phương pháp công nghệ mang tính cổ truyền do lịch sử để lại và cũng do
chính người lao động trong làng nghề tạo ra. Mặc dù hiện nay, sự cơ khí hóa
từng bước trong sản xuất nhưng không có nhiều nghề có khả năng cơ giới hóa
được một số công đoạn.

11


Để bảo tồn và nâng cao chất lượng, cần phải có sự hợp tác của công
nghệ hiện đại ở những công đoạn nhất định trong quá trình sản xuất. Đối với
những làng nghề truyền thống, công nghệ có sự cải tiến song vẫn phải mang
theo yếu tố truyền thống. Đặc điểm này tồn tại suốt trong quá trình CNH,
HĐH nông nghiệp, nông thôn kể cae khi quá trình này có hình thành.
2.1.2.4 Phần đông lao động trong làng nghề là lao động thủ công và phương
thức dạy nghề chủ yếu theo phương thức truyền thống
Nhờ sự khéo léo, tinh xảo của đôi tay, đầu óc thẩm mỹ của từng nghệ
nhân mà những sản phẩm của làng nghề đã được tạo ra. Trước kia, do trình độ
khoa hoc và công nghệ chưa phát triển thì hầu hết các các công đoạn trong
quy trình sản xuất đều là lao động thủ công. Ngày nay, việc ứng dụng khoa
học – công nghệ mới vào nhiều công đoạn trong sản xuất làng nghề nên đã

giảm bớt được lực lượng lao động thủ công đơn giản. Tuy nhiên, một số công
đoạn trong quá trình vẫn phải duy trì kỹ thuật lao động thủ công mà không thể
sử dụng công nghệ thay thế được.
Về phương thức truyền nghề thì chủ yếu được truyền qua các thế hệ gia
đình, cha truyền con nối và chỉ dừng trong khuôn khổ từng làng, ít được phổ
biến ra bên ngoài bởi vì quy định truyền nghề rất chặt chẽ. Tuy nhiên, phương
thức truyền nghề đã trở nên đa dạng và phong phú hơn từ sau khi thực hiện
cải cách công thương nghiệp. Phương thức dạy nghề theo lối tuyên truyền có
nhiều thay đổi, thay vì giữ bí mật như trước kia thì đã được chía sẻ rộng khắp
cho mợi người cùng biết.
2.1.2.5 Thị trường tiêu thụ sản phẩm hầu hết mang tính địa phương, tại cỗ và
nhỏ hẹp
Sự ra đời của làng nghề xuất phát từ việc đáp ứng nhu cầu về tiêu dùng
tại chỗ của người dân. Thị trường tiêu thụ sản phẩm từ trước đến nay về cơ
bản là nhỏ hẹp, tiêu thụ tại chỗ, ở mỗi làng nghề đều có các chợ dùng làm nơi
để trao đổi, mua bán sản phẩm của làng nghề. Chính vì thị trường nhỏ nên giá

12


thành của sản phẩm cũng thấp. Vì vậy, khi nền kinh tế chuyển sang hoạt động
theo cơ chế thị trường thì làng nghề đứng trước những nguy cơ không nhỏ,
nhiều hộ sản xuất trong làng nghề đã lâm vào tình trạng điêu đứng.
2.1.2.6 Khả năng tiếp cận nguồn vốn thuận lợi
Hiện nay, nguồn vốn để các cơ sở kinh doanh trong làng nghề phát
triển sản xuất chủ yếu là vốn tự có và vốn đi vay, vay của họ hàng, người thân
hay của ngân hàng do sự quan tâm của Đảng và Nhà nước. Trong những năm
qua, lượng vốn mà làng nghề vay của các tổ chức tín dụng đã tăng lên, song
vẫn chưa thể đáp ứng được nhu cầu. Trong quá trình phát triển sẽ tạo điều
kiện thuận lợi hơn khi tiếp cận các nguồn vốn, nguồn đầu tư, từ đó sẽ mở

rộng quy mô phát triển sản xuất.
2.1.3 Nội dung phát triển sản phẩm
2.1.3.1 Quy mô sản xuất
Phát triển sản xuất là một quá trình lớn lên (tăng lên) về mọi mặt của
quá trình sản xuất trong một thời kì nhất định. Trong đó bao gồm cả sự tăng
lên về quy mô sản lượng và sự tiến bộ về mặt cơ cấu.
Hiện nay, nhu cầu sử dụng các mặt hàng sản phẩm làng nghề ngày càng
tăng, đòi hỏi phải có một số lượng lớn sản phẩm được cung cấp ra thị trường.
Thị trường tiêu thụ càng nhiều thì lợi ích mang lại được cho người sản xuất
càng lớn. Để đáp ứng nhu cầu của thi trường tiêu thụ, trước tiên chúng ta cần
quan tâm đến quy mô sản xuất của nó. Phát triển sản xuất có thể mở rộng theo
hai hướng:
- Phát triển sản xuất theo chiều rộng là tăng sản lượng bằng cách mở
rộng diện tích sản xuất (có thể bao gồm tăng số hộ hoặc tăng quy mô sản xuất
của mỗi hộ hoặc cả hai) với cơ sở vật chất phục vụ phát triển sản xuất không
đổi. Trong điều kiện một nước kinh tế chậm phát triển, những tiềm năng chưa
được khia thác hết và tận dụng hết như lao động thì phát triển theo chiều rộng
là cần thiết và rất có ý nghĩa. Tuy nhiên nó cũng có những giới hạn nhất định,

13


vì vậy phương hướng cơ bản và lâu dài là chuyển sang phát triển theo chiều
sâu. Các hoạt động phát triển sản xuất theo chiều rộng như:
+ Tăng số hộ sản xuất: Muốn tăng số hộ tham gia vào sản xuất sản
phẩm thì chính quyền địa phương, các cấp, ngành phải có các chính sách, chủ
trương hỗ trợ nhằm khuyến khích sản xuất nhằm giữ gìn, phát huy, phát triển
bền vững sản phẩm của làng nghề.
+ Tăng vốn đầu tư sản xuất: Vốn luôn được quan tâm hàng đầu trong
quá trình sản xuất ra một sản phẩm như tiền thuê lao động, nguyên vật liệu…

Tăng vốn đồng nghĩa với việc mở rộng quy mô sản xuất, hạ tầng cơ sở vật
chất.
- Phát triển sản xuất theo chiều sâu: là việc xây dựng cơ sở hạ tầng phù
hợp với điều kiện sản xuất thực tế của làng nghề hay việc áp dụng khoa học
kỹ thuật vào quá trình sản xuất. Hiện nay, trên thế giới, khi mà các yếu tố
phục vụ cho sự phát triển theo chiều rộng có xu hướng giảm dần, các cuộc
cách mạng khoa học trên thế giới càng phát triển mạnh mẽ.
Phát triển theo chiều rộng và chiều sâu là yêu cầu tất yếu của bất kỳ
một nền kinh tế nào, nhưng mỗi nước lại có sự kết hợp khác nhau. Theo quy
luật chung của các nước thì thời kỳ đầu để phát triển thường tập trung phát
triển theo chiều rộng, sau khi đã đạt được thì sẽ chuyển sang phát triển theo
chiều sâu.
2.1.3.2 Chất lượng sản phẩm
Bên cạnh việc mở rộng phát triển quy mô sản xuất của sản phẩm thì
không thể thiếu quan tâm đến chất lượng của sản phẩm đó. Chất lượng của
sản phẩm quyết định trực tiếp đến số lượng khách hàng cũng như thị trường
tiêu thụ của sản phẩm. Dù sản xuất nhiều hay ít thì tiêu chí quan trọng là chất
lượng của sản phẩm phải giữ đúng được nét truyền thống, hương vị đặc trưng
riêng của nó. Phải đảm bảo chất lượng lúc nào cũng tốt nhất khi đến được tay
người tiêu dùng. Người tiêu dùng khi mua hàng hóa trước hết đều nghĩ đến

14


khả năng hàng hóa thỏa mãn nhu cầu của họ, tới chất lượng mà nó có. Đây là
con đường mà các làng nghề thu hút khách hàng và tạo dựng, giữ gìn chữ tín
tốt nhất.
Các hộ sản xuất cũng ý thưc được trách nhiệm của bản than trong việc
từng bước nâng cao chất lượng sản phẩm. Song thị trường lại được coi là nơi
đầy cơ hội cũng như thách thức đối với tất cả các loại sản phẩm hàng hóa, đặc

biệt là các sản phẩm từ làng nghề truyền thống. Việc ổn định chất lượng luôn
là một vấn đề nan giải đối với các hộ sản xuất. Để nâng cao chất lượng sản
phẩm, các hộ nên tham gia vào các lớp tập huấn, chia sẻ, cùng nhau trao đổi
kinh nghiệm nhằm mục tiêu nang cao chất lượng sản phẩm.
2.1.3.3 Phát triển chủng loại, mẫu mã sản phẩm
Chất lượng được coi như tiêu chí đầu tiên để người tiêu dùng tiếp xúc
lâu dài với sản phẩm đó. Chính vì vậy, nhằm đa dạng hóa cho sự lựa chọn của
khách hàng, các làng nghề đã tạo ra nhiều sản phẩm với nhiều chủng lợi, mẫu
mã khác nhau nhằm tạo nên sự phong phú cho khách hàng. Cũng từ các
nguyên liệu có sẵn trong làng nghề nhưng được sản xuất thành nhiều mặt
hàng khác nhau như sản phẩm gốm sứ, cũng cùng nguyên liệu đấy có thể làm
ra những chiếc bát, đĩa, đồ gia dụng thông thường hay những đồ thờ cúng, đồ
trang trí… Bên cạnh đó, đẹp mắt khi nhìn bao bì sản phẩm cũng làm cho
khách hàng lựa chọn. Bao bì của sản phẩm tạo nên giá trị cho sản phẩm đó
như: kích cỡ, hình dạng, chất liệu, màu sắc, kiểu chữ, dấu hiệu… những yếu
tố này phải hài hòa với nhua để làm nổi bật nên giá trị bổ sung cho sản phẩm,
cho khách hàng có thể dễ dàng nhận thấy.
2.1.3.4 Công tác tổ chức sản xuất
Người sản xuất tạo ra các sản phẩm với chất lượng hàng đầu, chủng
loại, mẫu mã đa dạng, vậy thì chính quyền đã có những công tác tổ chức ra
sao để phát triển sản phẩm đó. Trước đây, việc sản xuất sản phẩm của làng
nghề chỉ mang tính đơn, lẻ, vì vậy mà mỗi sản phẩm của mỗi hộ trong làng

15


sản xuất ra với một bao bì riêng, chất lượng sản phẩm khác nhau… nên khách
hàng ít biết đến sản phẩm của mình. Vì vậy, chính quyền địa phương, các cấp,
ngành nên có các chủ trương liên kết tất cả các hộ sản xuất với nhau xây dựng
thành các tổ chức như các hiệp hội sản xuất, kinh doanh để các hộ sản xuất dễ

dàng trao đổi kinh nghiệm, bảo vệ quyền lợi chung… hay tìm kiếm thị trường
tiêu thụ cho các hộ để thúc đẩy phát triển kinh tế của hộ.
2.1.3.5 Tính hiệu quả kinh tế
Mục tiêu cao nhất mà các hộ sản xuất trong làng nghề muốn đạt được
chính là lợi nhuận. Sản phẩm của làng nghề sản xuất ra nhiều và bán hết ra
trên thị trường thì lợi nhuận thu được của các hộ sản xuất càng nhiều. So với
thời gian, có thể lợi nhuận của sản phẩm đem lại rất ít nhưng nay lợi nhuận đó
đã cao hơn trước kia nên thu nhập của người sản xuất cũng cao hơn. Chẳng
hạn như sản phẩm bánh đa nem tại làng nghề sản xuất bánh đa nem ở Hải
Dương, trước đây, lợi nhuận đem lại cho mỗi hộ sản xuất chỉ được khoảng 5 –
7 triệu đồng/tháng, nhưng đến nay nó đã lên 8 – 10 triệu đồng/tháng, nâng cao
thu nhập và đời sống cho người sản xuất.
2.1.4 Các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển sản phẩm làng nghề
2.1.4.1 Nguyên, vật liệu đầu vào
Nguyên, vật liệu là một trong yếu tố ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất
của làng nghề. Chất lượng của nguyên liệu ảnh hưởng trực tiếp đến chất
lượng sản phẩm sản xuất ra, qua đó nó sẽ ảnh hưởng đến giá thành của sản
phẩm, lợi nhuận của đơn vị sản xuất, cho nên yếu tố nguyên liệu luôn được
các làng nghề chú trọng.
Trong thời kỳ phương tiện giao thông và phương tiện kỹ thuật chưa
phát triển, thì gần nguyên liệu được coi là một trong những điều kiện tạo nên
sự hình thành và phát triển của các làng nghề truyền thống. Hiện nay, nguồn
nguyên liệu tại chỗ của nhiều làng nghề đã cạn kiệt, phải vận chuyển từ nơi
khác về để đảm bảo nguồn nguyên liệu phục vụ cho sản xuất của làng nghề.

16


Bởi vậy cần phải sử dụng một cách hợp lý nguồn nguyên liệu, động thời phải
tìm kiếm thêm nguồn nguyên liệu thay thế hợp lý theo hướng đa dạng hóa,

giá rẻ và đảm bảo cho quy trình sản xuất, đảm bảo cho sản phẩm của làng
nghề có chất lượng cao, giá thành hạ.
2.1.4.2 Trình độ khoa học, kỹ thuật, kinh nghiệm của người sản xuất
Ngày nay, khoa học công nghệ đang trở thành lực lượng sản xuất trực
tiếp, là yếu tố quyết định để tăng năng suất lao động, lợi thế cạnh tranh và tốc
độ phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Các sản phẩm được sản xuất ra của các
làng nghề đã đáp ứng được thị hiếu của người tiêu dùng cả trong và ngoài
nước. Tuy là do quy mô sản xuất vẫn còn nhỏ, chủ yếu là sản xuất thủ công
và vẫn chưa đáp ứng được các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào trong sản xuất,
vì vậy, sản phẩm sản xuất ra chưa đạt được chất lượng cao mà chi phí thì quá
lớn, chưa đáp ứng được nhu cầu cạnh tranh trên thị trường. Chính vì vậy, để
đa dạng hóa được sản phẩm thì làng nghề cần đổi mới các trang thiết bị máy
móc cũ và lạc hậu.
Bên cạnh đó, do sự thay đổi của nền kinh tế và sự phát triển của khoa
học công nghệ đòi hỏi con người cần phải có đầu óc kinh doanh, năng động.
Điều đó nhiều khi yếu tố truyền thống, những kinh nghiệm chủ nghĩa lại làm
cản trở sự phát triển của nền kinh tế nói chung và của các làng nghề nói riêng.
Trong điều kiện kinh tế thị trường như ngày nay, không thể chỉ có kinh
nghiệm mà phải có khoa học công nghệ kết hợp.
Tóm lại, nếu có thể đưa được những tiến bộ khoa học – công nghệ hiện
đại vào sản xuất, nhưng mà vẫn giữ nguyên được yếu tố truyền thống mang
đậm bản sắc văn hóa dân tộc trong sản phẩm và với những bàn tay và khối óc
đầy kinh nghiệm của người sản xuất thì những sản phẩm đó sẽ được tiếp nhận
trong thị trường cảu xã hội hiện đại.

17


2.1.4.3 Vốn cho sản xuất
Vốn là một nguồn lực vật chất quan trọng cho hoạt động sản xuất kinh

doanh của làng nghề. Nhiệm vụ chủ yếu của nguồn vốn là đầu tư phát triển
sản xuất, đầu tư phát triển cơ sở vật chất, kết cấu hạ tầng và đầu tư đổi mới
công nghệ. Trước đây, nguồn vốn của các hộ sản xuất kinh danh trong làng
nghề thường là vốn tự có hoặc đi vay mượn của anh em, họ hàng nên quy mô
sản xuất không được mở rộng mà chỉ dừng lại là các quy mô nhỏ. Trong điều
kiện nền kinh tế thị trường cạnh tranh khốc liệt như ngày nay thì nhu cầu về
vốn đã khác trước, đòi hỏi các hộ sản xuất phải có số vốn khá lớn để đầu tư.
Vốn ít thì tình trạng nghèo đói gia tăng và tình hình đầu tư cho sản xuất thấp.
Hiện nay, với sự hỗ trợ tích cực và cụ thể từ phía Nhà nước, đặc biệt là việc
đề ra các chính sách phù hợp đã tạo điều kiện cho người sản xuất có vốn đầu
tư và mở rộng kinh doanh.
2.1.4.4 Thị trường tiêu thụ
Sự tồn tại và phát triển của làng nghề phụ thuộc rất nhiều vào thị
trường và sự biến động của nó. Sản xuất ngày càng phát triển thì càng thể
hiện rõ sự chi phối của quy luật cung – cầu và quy luật cạnh tranh. Vì nó có
khả năng thích ứng với sự thay đổi của thị trường nên tốc độ phát triển sẽ rất
nhanh vì sản phẩm của làng nghề có đủ sức cạnh tranh trên thị trường và luôn
đổi mới phù hợp với nhu cầu của thị trường. Ngược lại, một số làng nghề
không phát triển được là do không đáp ứng được những đòi hỏi khắt khe của
thị trường hoặc do nhu cầu thị trường không cần đến sản phẩm đó. Như vậy,
rõ ràng là thị trường và sự phát triển của thị trường đã tác động mạnh mẽ đến
phương hướng phát triển, cách thức tổ chức, cơ cấu của sản phẩm và là động
lực thúc đẩy sản xuất của làng nghề. Tuy nhiên, nếu thị trường không ổn định
sẽ gây ra những khó khăn, bấp bênh cho quá trình sản xuất.

18


2.1.4.5 Chính sách của Đảng và Nhà nước
Chính sách của Đảng và Nhà nước có ảnh hưởng rất lớn đến sự tồn tại

và phát triển của làng nghề. Từ việc hỗ trợ từ khâu sản xuất cho đến việc tìm
kiếm đầu ra cho các sản phẩm trong việc mở rộng thị trường xuất khẩu các
sản phẩm của làng nghề ra nước ngoài. Chính phủ có những chủ trương chú
trọng đến việc phát triển của các làng nghề, ban hành các chính sách như hỗ
trợ tín dụng, ưu tiên cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ… Trong những năm
gần đấy, Chính phủ đã ban hành những chủ trương, chính sách để các doanh
nghiệp khắc phục những khó khăn, trong đó có các hộ sản xuất trong làng
nghề. \ Đó là việc hỗ trợ 4% cho các tổ chức, cá nhân vay vốn ngân hàng để
sản xuất, kinh doanh. Các tổ chức, cá nhân còn được vay vốn trung, dài hạn
của các ngân hàng, xây dựng kết cấu hạ tầng trong thời gian tối đa 24 tháng.
Quy định mới đã tạo điều kiện cho các chủ sản xuất thực hiện các dự án kết
cấu hạ tầng, tranh thủ mua sắm máy móc thiết bị và đổi mới cộng nghệ. Một
số chính sách đã đi vào cuộc sống, góp phần chuyển biến tích cực trong nền
kinh tế, nâng cao thu nhập cho người sản xuất và rất được mợi người hoan
nghênh. Tuy nhiên, một số chính sách vẫn chưa đầy đủ, đồng bộ và trên thực
tế triển khai còn nhiều vướng mắc, thủ tục hành chính thực hiện còn gặp
nhiều vướng mắc, chưa có sự hướng dẫn cụ thể. Mặt khác, một số hộ còn
thiếu thông tin, chưa nắm bắt được các chính sách của Nhà nước hay chưa
hiểu biết hết về thủ thục cần thiết để hưởng các chính sách khuyến khích đó.
Do đó, các hộ sản xuất, kinh doanh ở trong làng nghề còn chưa được hỗ trợ
nhiều về chính sách phát triển làng nghề của Nhà nước.
Từ những phân tích trên, các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển làng
nghề ở nước ta đã đặt ra hàng loạt vấn đề cần giải quyết và liên quan đến
nhiều đơn vị, nhiều ngành và nhiều cấp. Có những vấn đề do bản thân của
từng hộ, từng cơ sở sản xuất tự giải quyết nhưng cũng có những việc đòi hỏi

19


phải có vai trò của Nhà nước với tư cách là nhân tố quyết định nên tính hiệu

quả và bền vững trong quá trình sản xuất của làng nghề.
2.2 Cơ sở thực tiễn
2.2.1 Kinh nghiệm phát triển sản phẩm của làng nghề trên thế giới
a) Tại Nhật Bản
Vào cuối những năm 70, khi Nhật Bản đã cơ bản đã thực hiện xong
công cuộc Công nghiệp hóa đất nước, các ngành công nghiệp được hình thành
và phát triển nên đã tạo sức hút về lao động từ nông thôn lên thành phố, trong
đó có Oita. Các thế hệ trẻ sau khi tốt nghiệp ở các trường đại học, cao đẳng
hay các trung tâm dạy nghề đều không muốn trở về vùng nông thôn, nơi mà
họ đã sinh ra và lớn lên để làm việc mà muốn ở lại thành phố và các trung tâm
công nghiệp. Điều này dẫn đến tình trạng thiếu lao động ở vùng nông thôn và
đặc biệt là vùng Oita nói riêng. Đứng trước tình hình đó, ngay sau khi được
bổ nhiệm là người đứng đầu của Oita, Ngài Morihiko Hiramatsu đã đề xuất ra
một loạt sáng kiến để khôi phục lại kinh tế của vùng Oita, trong đó có phong
trào là “Mỗi làng nghề một sản phẩm”.
Theo ngài Tadashi Ando, Giám đốc điều hành của “Ủy ban xúc tiến
phát triển quốc tế của phong trào mỗi làng nghề một sản phẩm” của tỉnh Oita,
3 nguyên tắc cơ bản để phát triển sản phẩm tại các làng nghề, đó là: thứ nhất:
Hành động địa phương nhưng suy nghĩ toàn cầu; thức hai: Tự tin, sáng tạo và
cuối cùng là phát triển nguồn nhân lực. Mỗi địa phương sẽ tùy theo điều kiện
tự nhiên và hoàn cảnh cụ thể của nình mà lựa chọn ra những sản phẩm độc
đáo, mang đậm nét riêng của từng địa phương để phát triển.
Để có thể tạo ra các sản phẩm chất lượng, đáp ứng nhu cầu của người
tiêu dung Nhật Bản không phải là một chuyện đơn giản, chính vì vậy, song
hành trong việc phát triển của mỗi làng nghề chính là việc phát triển các trung
tâm nghiên cứu và đào tạo phát triển sản phẩm trên các địa bàn. Ví dụ như
Trung tâm nghiên cứu và đào tạo hàng tre thủ công của tỉnh Oita. Trung tâm

20



có 2 nhiệm vụ chính là nghiên cứu các công nghệ sản xuất, bảo quản nhằm
tạo ra các sản phẩm có chất lượng cao đồng thời Trung tâm còn tiến hành đào
tạo đội ngũ áp dụng công nghệ đã được nghiên cứu các sản phẩm vào sản
xuất thực tế. Không như nhiều mô hình đào tạo của các quốc gia khác, Trung
tâm chỉ đào tạo kỹ thuật sản xuất các mặt hàng tre thực sự là sản phẩm truyền
thống gắn liền với lịch sử và văn hóa lâu đời của địa phương, đồng thời có
những chỉnh sửa cần thiết để đáp ứng nhu cầu hiện tại của khách hàng. Mỗi
khóa học như thế thường được tổ chức trong vòng 1 năm và với kinh phí do
chính quyền tỉnh hỗ trợ.
Đứng trước sức ép cạnh tranh của thị trường, các chuyên gia đào tạo
của trung tâm cho rằng: cách duy nhất để các sản phẩm làng nghề của Nhật
Bản muốn tồn tại và giữ được bản sắc văn hóa chính trị là sự kết tinh của giá
trị văn hóa trong từng sản phẩm, là việc phát huy tính sáng tạo của người thợ
thủ công để sản xuất ra các mặt hàng độc đáo và có giá trị kinh tế cao.
b) Tại Ấn Độ
Ấn Độ là một nước rộng lớn gần 3 triệu km 2 và dân số đứng thứ 2 thế
giới, trong đó thì có 2/3 dân số song ở nông thôn. Vì vậy, việc phát triển nông
thôn mà trọng tâm là phát triển các nghề thủ công truyền thống là một giải
pháp quan trọng để giải quyết việc làm cho người dân cũng như nâng cao thu
nhập của họ.
Ấn Độ có nhiều làng nghề truyền thống được hình thành từ lâu đời và
còn tồn tại cho đến ngày nay. Bên cạn nghề làm nông, thì hàng triệu người
còn sinh sống bằng nghề tiểu thủ công nghiệp với doanh thi hàng năm gần 1
tỷ rupi. Chính phủ Ấn Độ đã có những giải pháp nhằm phát triển các sản
phẩm làng nghề như:
- Lựa chọn những mặt hàng truyền thống có giá trị kinh tế cao và thể
hiện bản sắc văn hóa dân tộc để thành các mặt hàng chủ lực để xuất khẩu.
Chính phủ Ấn Độ đã có những nghiên cứu và xác định là hàng thủ công mỹ


21


nghề đồ trang sức và hàng tơ lụa là hai trong số 14 hàng xuất khẩu đặc biệt.
Riêng về chế tác kim cương thì đứng vào hàng các quốc gia chế tác kim
cương lớn nhất trên thế giới.
- Chính phủ Ấn Độ đã thực hiện các chính sách cấp tín dụng cho dân
nghèo ở nông thôn. Trong 5 năm đã cho 15 triệu người nghèo vay 38 tỷ rupi.
Ngoài ra, Chính phủ còn cho các làng nghề vay vốn trung hạn và dài hạn với
lãi suất thấp để mua máy móc, thiết bị, nhằm đổi mới công nghệ, nâng cao
năng suất và chất lượng của sản phẩm.
- Chính phủ thành lập Viện thủ công mỹ nghệ để nghiên cứu kinh tế
phục vụ cho nhu cầu phát triển của các làng nghề cổ truyền. Đồng thời, Nhà
nước thành lập 450 trung tâm đào tạo nghề ở các vùng trong nước. Ngoài ra
còn có các trung tâm phát triển công nghệ, thiết kế mẫu mã mới. Cùng với
việc thành lập các trung tâm để đào tạo, Chính phủ còn rất quan tâm tới đội
ngũ các nghệ nhân, thợ cả. Hàng năm, tổ chức các giải thưởng cấp quốc gia
cho đội ngũ này để động viên những người thợ giỏi, có tâm huyết với nghề.
- Cuối cùng là đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng. Đây là vấn đề quan
trọng và có tác tộng trực tiếp tới sự phát triển kinh tế, xã hội nông thôn. Kết
cấu hạ tầng phát triển là một giải pháp có ý nghĩa quan trọng để mở rộng
ngành nghề trên cả phương diện sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
c) Tại Thái Lan
Thái Lan có nhiều ngành nghề tiểu thủ công nghiệp và làng nghề. Các
ngành nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống như chế tác vàng bạc, đã quý,
trang sức vẫn được duy trì và phát triển để tạo ra nhiều các mặt hàng xuất
khẩu, đứng vào thứ hai trên thế giới. Tình trạng khủng hoảng tài chính năm
1997 đã đẩy Thái Lan vào tình trạng nợ nước ngoài lớn, bị tác động đến nhiều
nhất là những người nghèo, những cư dân sống ở vùng nông thôn.
Để giải quyết được khó khăn này, Thái Lan đã thực hiện dự án quốc gia

“Mỗi làng nghề một sản phẩm”. Dự án này gồm 6 mục tiêu, bao gồm: thứ

22


nhất, tạo ra những sản phẩm riêng biệt cho sản phẩm của địa phương để tăng
doanh thu số bán; thứ hai, phục hồi kiến thực địa phương để nâng cao được
hiệu quả kinh tế; thứ ba, phát huy những tri thức truyền thống để tạo ra các
sản phẩm mang tính đặc thù riêng; thứ tư, kết hợp du lịch sinh thái và du kịch
tham quan các làng nghề để tăng thu nhập; thứ năm, xây dựng lòng tự hào
dân tộc dân tộc của nhân dân với các sản phẩm làng nghề và cuối cùng là hỗ
trợ các doanh nghiệp địa phương phát triển và có thể cạnh tranh trên thị
trường quốc tế.
Nhằm tổ chức, thực hiện có hiệu quả các mục đích nêu trên, chính phủ
Thái Lan đã ban hành và thực thi các chính sách, giải pháp sau:
Một là, huy động hầu hết các bộ, ngành chủ chốt tham gia vào dự án
trên có sở đó phân công cụ thể chứ năng, nhiệm vụ cho từng bộ, từng địa
phương và từng cơ quan.
Hai là, đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm trên cơ sở phân loại đối tượng sản
xuất theo tiềm năng của thị trường, chia ra: nhóm có khả năng xuất khẩu,
nhóm tiêu thụ trong nước, nhóm tiêu thụ ngoài nước, đồng thời thực hiện bảo
vệ quyền sở hữu trí tuệ thông qua luật pháp và hiệp định quyền sở hữu trí tuệ
có liên quan.
Ba là, xây dựng, ban hành các chính sách ưu tiên cho dự án, như ân hạn
nợ 3 năm cho nông dân, lập quỹ một triệu bath cho từng làng nghề…
Bốn là, xác định các bước thực hiện dự án: thứ nhất là quá trình hướng
nghiệp, lập kế hoạch và thiết lập các cơ quan trong cộng đồng. Thứ hai là xác
định các sản phẩm nổi bật. Thứ ba là phát triển sản phẩm: chất lượng và thiết
kế sản phẩm. Thứ tư là phân phối, marketing cho sản phẩm. Bước cuối cùng
là đánh gias dự án và hoạt động của dự án. Chính phủ giao trách nhiệm cho

từng cơ quan của chính phủ và các cấp chính quyền địa phương nhận từng
khâu công việc.

23


Năm là, xây dựng các trung tâm chuyên mua bán các sản phẩm của dự
án ở từng địa phương. Những trung tâm này nhằm khuếch trương sản phẩm
của địa phương, những người sản xuất yên tâm hơn trong việc tiêu thụ sản
phẩm. Chính phủ còn tài trợ cho các làng nghề tổ chức triển lãm, hội chợ
thương mại trong nước và ra quốc tế, quảng bá sản phẩm của địa phương.
Sáu là, phát triển mạnh thương mại điện tử. Xây dựng nên các wsbsite
về tư liệu thông tin và chi tiết về sản phẩm của từng làng nghề trên cả nước để
phục vụ cho dự án.
Dự án “Mỗi làng một sản phẩm” của Thái Lan là kết quả liên kết có
hiệu quả giữa Chính phủ, các cấp chính quyền của địa phương, tổ chức đoàn
thể và cộng đồng dân cư về phát triển và quảng bá sản phẩm trong nước.
2.2.1 Kinh nghiệm của một số địa phương ở Việt Nam
a) Kinh nghiệm của một số làng nghề ở Hà Nội
Tỉnh Hà Tây (cũ) hay gọi là Hà Nội 2 ngày nay vốn nổi tiếng là một
mảnh đất với nhiều làng nghề, hiện nay có 411 làng nghề, chiếm 1/5 số lượng
làng nghề của cả nước, với những sản phẩm thủ công nổi tiếng như lụa Vạn
Phúc, khảm trai Chuyên Mỹ, tượng gỗ Sơn Đồng, nem Phùng… Giá trị sản
xuất từ các khu vực kinh tế này đem lại cho Hà Tây thêm khoảng 3000 tỉ
đồng mỗi năm, trong đó nhiều làng nghề đạt doanh thu mỗi năm lên đến 70 tỉ
đồng. Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển của làng nghề, lao
động làng nghề tăng hàng năm hơn 14%, giá trị sản xuất tăng hàng năm gần
29,2%.
Để đạt được những kết quả đó, chính quyền và nhân dân đã không
ngừng phát triển sản phẩm bằng việc thực hiện các giải pháp sau:

Thứ nhất, phải có sự kết hợp nhiều nguồn khác nhau để giải quyết vốn
cho sản xuất và thúc đẩy phát triển sản phẩm. Để có vốn đầu tư, ngoài vốn tự
có thì các làng nghề ở Hà Tây còn huy động được thêm nguồn vốn hỗ trợ từ
các chương trình của Nhà nước như: hỗ trợ kinh phí hàng năm cho xây dựng

24


cơ bản, nhất là hệ thống cơ sở hạ tầng; ngoài ra còn được hỗ trợ vốn từ các
chương trình xóa đói giảm nghèo, chương trình quốc gia giải quyết việc
làm… Tuy nhiên nguồn vốn này thường nhỏ và khó tiếp cận, chủ yếu hỗ trợ
cho các hộ nghèo, vì vậy mà người dân đã tìm đến các nguồn vốn vay tín
dụng của các tổ chức tín dụng như: Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn, Ngân hàng Công thương, Ngân hàng Đầu tư và phát triển và hệ
thống quỹ tín dụng nhân dân.
Thứ hai, không ngừng mở rộng thị trường tiêu thị sản phẩm. Không chỉ
giới hạn lại ở việc tiêu thụ trong phạm vi của địa phương mà các làng nghề
tìm cách mở rộng thêm thị trường tiêu thụ sản phẩm. Chính những nét độc
đáo riêng nên sản phẩm các làng nghề ở Hà Tây đã tiêu thụ rộng rãi trên
phạm vi cả nước. Số lượng sản phẩm xuất khẩu sang thị trường nước ngoài
như Nga, Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc… ngày càng nhiều. Ngoài ra, các
làng nghề đã có những chú trọng trong việc khai thác thị trường dịch vụ du
lịch tại chính những nơi đã sản xuất ra những sản phẩm đó.
Thứ ba, tăng cường công tác tuyên truyền, quảng bá sản phẩm dưới
mọi hình thức khác nhau như tham gia hội chợ hay xây dựng các trang web
quảng cáo… Hàng năm, Sở du lịch tỉnh có tổ chức các hội chợ làng nghề
nhằm thu hút khách du dịch đến tham quan các sản phẩm thủ công của làng
nghề.
Thứ tư, gắn liền phát triển sản phẩm làng nghề với phát triển du lịch.
Đây đang là hướng phát triển của nhiều quốc gia trên thế giới. Bên cạnh

những lợi ích về mặt kinh tế, xã hội, nó còn góp phần bảo tồn và phát huy
những bản sắc độc đáo của địa phương.
Thứ năm, thành lập nên các hiệp hội làng nghề để có thể giao lưu, học
hỏi kinh nghiệm. Các hiệp hội góp phần không nhỏ vào việc hợp tác giới
thiệu sản phẩm, truyển bá kinh nghiệm, tạo thương hiệu cho sản phẩm, góp
phần duy trì và phát triển sản phẩm…

25


×