TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ TÔN GIÁO
VÀ CÔNG TÁC TÔN GIÁO. SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TA
TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI HIỆN NAY
Tôn giáo là một hiện tượng xã hội thuộc đời sống tinh thần của con
người, nó đã và đang có ảnh hưởng quan trọng đến các quốc gia, dân tộc trên
thế giới. Trong thời đại ngày nay, khoa học và công nghệ phát triển như vũ
bão, khoa học đã thực sự trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp và tưởng
chừng con người cùng với khoa học có thể giải thích được mọi vấn đề của tự
nhiên, xã hội, tư duy mà không cần viện dẫn thần linh. Nhưng thực tế đang có
nhiều vấn đề diễn mà chúng ta chưa giải đáp được. Không ít người đã tìm đến
tôn giáo để cầu mong được “tai qua nạn khỏi”.
Một nét chung khá rõ hiện nay ở nước ta là các hoạt động tôn giáo đang
đi vào hoạt động bình thường, nhiều lễ nghi được tiến hành thường xuyên, các
cơ sở thờ tự được tôn tạo, sửa chữa và xây dựng mới; kinh sách được in ấn, tu
sĩ, chức sắc được tu nghiệp ở trong nước và nước ngoài; các hoạt động đối
ngoại, hoạt động xã hội của tôn giáo được mở rộng; một số tín đồ khô, nhạt
đạo đã sinh hoạt trở lại; thanh thiếu niên được thu hút vào sinh hoạt tôn giáo
sôi nổi hơn. Đa số chức sắc tôn giáo, đồng bào tín đồ phấn khởi trước chủ
trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, thể hiện lòng tin với Đảng, tin tưởng
vào sự nghiệp đổi mới, chấp hành tốt chủ trương, pháp luật của Đảng và Nhà
nước. Điều này thấy được khá rõ qua tất cả các tôn giáo: Thiên chúa, Phật
giáo, Cao đài…Từ khi có chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước, Giáo
hội Thiên chúa giáo tại Việt Nam đã hưởng ứng tinh thần “sống phúc âm
trong lòng dân tộc”. Đối với một số giáo phận trước kia chủ trương “bất hợp
tác”, cấm giáo sỹ tham gia quan hệ với chính quyền địa phương, thì nay Giáo
hội đã chủ trương quan hệ, tăng cường tiếp xúc và ủng hộ chính quyền địa
phương, tăng cường các hoạt động từ thiện. Phật giáo và một số các tôn giáo
khác cũng ngày càng tăng cường hòa nhập với đời sống xã hội hơn. Biểu hiện
thông qua việc rất nhiều các nhà sư, các vị chức sắc của các tôn giáo tham gia
tích cực vào Hội đồng nhân dân, Quốc hội, ủng hộ chính sách của Đảng và
Nhà nước.
2
Song song với xu hướng tôn giáo hòa nhập với đời sống kinh tế xã hội,
xu hướng thương mại hóa các hoạt động tôn giáo đang xuất hiện và có khả
năng phát triển. Trong đời sống tôn giáo, hiện tượng mê tín, diễn ra khá phổ
biến, xuất hiện những “tôn giáo mới” mà theo các nhà nghiên cứu, các nhà
hoạt động thực tiễn đánh giá “lành ít, dữ nhiều”. Ước tính ở nước ta hiện nay,
có khoảng trên 30 giáo phái: Đạo chân không, Thiên Đạo, Tân Sứ, Đạo siêu
hóa …. Trong đó có trường phái bọc lộ sự tiêu cực rõ rệt và bị dư luận xã hội
lên án. Riêng đạo Tin lành ở các tỉnh miền núi phía Bắc có xu hướng xóa bỏ
truyền thống văn hóa của dân tộc.
Qua thực tế tôn giáo của nước ta hiện nay, cho thấy: Xu thế toàn cầu hóa
nền kinh tế thị trường một số mặt đã và đang tạo ra những cơ hội thuận lợi
cho sự phát triển kinh tế đất nước, đời sống đa phần nhân dân được cải thiện,
trong đó có các tín đồ tôn giáo; bên cạnh đó cũng tạo môi trường khách quan,
thuận lợi cho sự phát triển tín ngưỡng tôn giáo và tàng trữ trong lòng nó
những yếu tố tiêu cực. Cùng với những vấn đề “dân tộc”, “dân chủ”, “nhân
quyền”, vấn đề tôn giáo hiện nay đang là một vấn đề nhạy cảm và có nhiều
diễn biến phức tạp. Các thế lực thù địch đang lợi dụng sự khủng hoảng của
chủ nghĩa xã hội, lợi dụng toàn cầu hoá kinh tế quốc tế, sử dụng vấn đề “tôn
giáo” để tác động, can thiệp vào công việc nội bộ của nước ta, phục vụ các ý
đồ chính trị phản động của chúng. Tình trạng lợi dụng tôn giáo để chống phá,
vu khống đường lối lãnh đạo của Đảng, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc
đang có xu hướng tăng lên.
Tình hình đó đòi hỏi chúng ta phải nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về
tôn giáo và công tác tôn giáo, làm sáng tỏ hơn giá trị của tư tưởng Hồ Chí
Minh về tôn giáo và công tác tôn giáo đối với cách mạng Việt Nam, đồng thời
vận dụng linh hoạt phương pháp Hồ Chí Minh để giải quyết vấn đề tôn giáo
hiện nay.
1. Những tư tưởng cơ bản của Hồ Chí Minh về tôn giáo và công
tác tôn giáo.
Trong hoạt động lý luận của mình, Hồ Chí Minh luôn kế thừa và phát triển
sáng tạo những quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về tín ngưỡng, tôn giáo vào
điều kiện cụ thể của Việt nam. Theo Người, vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt nam
3
có những đặc điểm khác với phương Tây. Cần phải nghiên cứu tôn giáo ở Việt Nam
để tập hợp lực lượng tiến hành cách mạng vô sản, đồng thời trang bị cho những người
cộng sản quan điểm, thái độ đúng đối với vấn đề tôn giáo. Một trong những di sản to
lớn mà Hồ Chí Minh để lại cho Đảng ta đó là hệ thống những tư tưởng cách mạng và
khoa học về tôn giáo và công tác tôn giáo. Những tư tưởng này được xây dựng từ sự
kế thừa tinh hoa truyền thống văn hoá tôn giáo của dân tộc và nhân loại, từ sự vận
dụng sáng tạo quan điểm về vấn đề tôn giáo của chủ nghĩa Mác - Lê nin vào điều
kiện cụ thể Việt Nam, và từ chính từ đạo đức, nhân cách, tài năng của Người.
Trước hết, theo Hồ Chí Minh: cơ sở triết học của tôn giáo là chủ nghĩa
duy tâm. Người khẳng định: “tôn giáo là duy tâm, cộng sản là duy vật” 1.
Người tiếp cận tôn giáo dưới nhiều góc độ mang tính toàn diện với tính cách
là triết học, văn hoá. Đặc biệt, Hồ Chí Minh đã đi vào khai thác mặt tích cực
đạo đức của tôn giáo. Người đã chỉ rõ: “Chúa Giêxu dạy: đạo đức là bác ái.
Phật thích ca dạy: đạo đức là từ bi. Khổng Tử dạy: đạo đức là nhân nghĩa” 2.
Rõ ràng, theo Hồ Chí Minh, tôn giáo cũng có mặt tích cực của nó, chứ tôn
giáo không phải là thứ hoàn toàn “độc hại”, xấu xa, tiêu cực...
Về mặt tích cực của tôn giáo: Theo quan niệm của Hồ Chí Minh, đối với
người có tín ngưỡng, đức tin tôn giáo và lòng yêu nước không mâu thuẫn
nhau, mà ngược lại luôn thống nhất với nhau. Vì thế, Hồ Chí Minh không bao
giờ xúc phạm đến đức tin tôn giáo, Người lên án khía cạnh chính trị của tôn
giáo, nhưng lại rất trân trọng những những giá trị văn hoá, yếu tố tích cực về
đạo đức và những khía cạnh nhân văn, niềm tin vào con người của tôn giáo.
Người nói: “vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới
sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn
giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn,
ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức
là văn hoá”. Theo Người, ưu điểm của tôn giáo là có tính hướng thiện.
Người chỉ ra các ưu điểm cụ thể của các tôn giáo như: Đạo Khổng có ưu
điểm là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân; đạo thiên chúa có lòng nhân ái cao
cả; đạo phật có lòng từ bi hỷ xả…đó chính là những giá trị nhân văn của
nhân loại cần được bảo vệ, giữ gìn và phát triển.
1
2
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 7, tr.115
4
Từ quan niệm đúng đắn về tín ngưỡng, tôn giáo, Hồ chí Minh đã nhìn
thấy sự tương đồng, sự phù hợp giữa mục đích của tôn giáo với sự nghiệp
giải phóng dân tộc và xây dựng xã hội mới ở nước ta. Người đã nhiều lần nói
với đồng bào có tín ngưỡng rằng, mục tiêu của Đức Chúa, Đức Phật… không
khác gì mục tiêu của những người cách mạng.
Đến với đồng bào theo đạo Công giáo, Người nói: “Chúa Cơ đốc sinh ra
làm gương mọi giống phúc đức như: hy sinh vì nước, vì dân, làm gương lao
động…. Tin thờ chúa bằng tinh thần. Chúng ta kháng chiến cứu nước, thi đua
tăng gia sản xuất và tiết kiệm, cải cách ruộng đất làm cho người cày có ruộng,
tín ngưỡng tự do. Như thế là việc làm của chính phủ và nhân dân ta đều hợp
với tinh thần Phúc âm”6.
Hồ Chí Minh có quan điểm lịch sử cụ thể sâu sắc về tôn giáo. Theo
Người, ở Việt Nam không có tôn giáo như ở phương Tây. Việc thờ cúng tổ
tiên của con người Việt Nam như một việc làm phổ biến, không có một uy
quyền tuyệt đối như một linh mục.
Quan điểm lịch sử cụ thể sâu sắc về tôn giáo của Hồ Chí Minh còn được
thể hiện ở việc Hồ Chí Minh đã đánh giá vai trò của các tín đồ, chức sắc
trong tôn giáo là rất khác nhau và rất biện chứng. Một mặt, Người đề cập
đến mặt tốt của tôn giáo. Theo Hồ Chí Minh: nhân dân ta dù lương hay giáo
đều tốt cả, phần lớn đồng bào tôn giáo đều yêu nước, kháng chiến, nhưng một
phần bị địch lợi dụng như ngụy quân, cao đài, hoà hảo, công giáo ở Ninh
Bình, dẫn đến hoài nghi chính sách của Đảng. Người cũng tố cáo mạnh mẽ
sâu sắc tội ác của giáo hội đối với nhân dân và dân tộc Việt Nam, Người vạch
rõ: “người nông dân An Nam bị hành hình vừa bằng lưỡi lê của nền văn minh
tư bản chủ nghĩa, vừa bằng cây thánh giá của Hội Thánh đĩ bợm” 7. Bên cạnh
đó, Hồ Chí Minh cũng kịp thời biểu dương những gương tốt, việc tốt của
đồng bào theo đạo, theo Hồ Chí Minh: đồng bào lương, giáo đều tốt. Đồng
thời, Người còn trực tiếp khen ngợi những linh mục thực sự sống tốt đời, đẹp
đạo, như linh mục Lê Văn Liêm, khen ngợi đồng bào theo đạo Hoà Hảo đã
quay súng về với Tổ quốc chống xâm lược. Quan điểm của Hồ Chí Minh về
tôn giáo còn được thể hiện ở sự nhận thức đúng và giải quyết đúng giữa tôn
6
7
Hồ Chí Minh. Toàn tập, Sđd, tập 7, tr.197.
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 1, tr.229.
5
giáo và chính trị, giữa đạo và đời, giữa đời sống vật chất và đời sống tinh
thần. Đặc biệt là tư tưởng về mối quan hệ giữa tôn giáo và chính trị: Tôn giáo
không thể tách ra khỏi đời sống chính trị. Theo Hồ Chí Minh: Tổ quốc độc
lập, tổ quốc được giải phóng thì tôn giáo mới tự do.
Những quan điểm trên đã thể hiện rõ tính đặc sắc tư tưởng tôn giáo của
Người. Tư tưởng về tôn giáo của Người mãi mãi còn giữ nguyên giá trị, là cơ
sở để Đảng, Nhà nước ta hoạch định chính sách tôn giáo trong các giai đoạn
cách mạng.
Hồ Chí Minh không chỉ có tầm nhìn sắc sảo, khách quan, khoa học về
tôn giáo mà Người còn có những đóng góp lớn mang tính đặc sắc riêng có
của mình về công tác tôn giáo.
Một là, Hồ Chí Minh thật sự tôn trọng tự do, tín ngưỡng của nhân dân.
Kể cả trước, trong và sau cách mạng tháng 8 năm 1945 cũng như xuyên
suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình. Hồ Chí Minh luôn luôn là tấm
gương sáng trong cả nhận thức và hành động về sự tôn trọng tự do, tín
ngưỡng của nhân dân. Ngay sau khi cách mạng Tháng 8-1945, trong bài viết:
“Những nhiệm vụ cấp bách của nhà nước Việt nam dân chủ cộng hoà” ngày
3/9/1945, một trong sáu nhiệm vụ mà Hồ Chí Minh đề cập đến là vấn đề tôn
giáo. Người chỉ rõ: “thực dân và phong kiến thi hành chính sách chia rẽ đồng
bào Giáo và đồng bào Lương, để dễ thống trị. Tôi đề nghị chính phủ ta tuyên
bố: Tín ngưỡng tự do và Lương Giáo đoàn kết”9
Hồ Chí Minh phê phán các hành động, việc làm vi phạm đến tự do, tín
ngưỡng của nhân dân. Đặc biệt, sự tôn trọng tự do, tín ngưỡng của nhân dân
còn được thể hiện chính bằng hành động cao cả của Người. Người đã đích
thân dự những buổi lễ cầu hồn khi đồng bào công giáo bị giặc Pháp giết hại,
hoặc tự tay vẽ ảnh phật cho đồng bào theo đạo phật.
Một mặt, Hồ Chí Minh giáo dục cho mọi người cần tôn trọng tư do tín ngưỡng;
mặt khác, Người cũng nghiêm khắc phê phán những phần tử lợi dụng tín ngưỡng,
tôn giáo, những kẻ hành nghề mê tín dị đoan, phê phán những việc làm sai chủ
trương, chính sách tôn giáo của Đảng và Chính phủ, ở cả giáo chức, tín đồ và cán
bộ, đảng viên.
9
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 4, tr.9.
6
Hai là, theo quan điểm của Hồ Chí Minh: mọi công tác tôn giáo đều hướng tới
xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, xây dựng khối đoàn kết giữa đồng bào theo
đạo và không theo đạo, giữa đồng bào lương và đồng bào theo đạo thiên chúa. Đồng
thời, Hồ Chí Minh luôn luôn xác định đúng trọng tâm, trọng điểm công tác tôn giáo
- đó là công tác công giáo.
Đoàn kết không phân biệt lương, giáo và đoàn kết giữa những người có
tín ngưỡng, tôn giáo với những người không theo tín ngưỡng, tôn giáo, giữa
những người theo tôn giáo khác nhau là một bộ phận trong tư tưởng “Đoàn
kết, đoàn kết, đại đoàn kết; Thành công, thành công, đại thành công” của
Người. Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đoàn kết lương - giáo được
thể hiện trên những nội dung cơ bản đó là:
Hồ Chí Minh đã chỉ rõ cơ sở khách quan vững chắc của khối đoàn kết là
lợi ích chung của mọi người Việt nam giáo cũng như lương - đó là quyền
được sống trong độc lập, tự do, hạnh phúc. Đây chính là mẫu số chung, điểm
đại đồng để gắn kết mọi người thành một khối đoàn kết vững chắc. Từ bao
đời nay, nhân dân ta hết sức coi trọng “tình làng, nghĩa xóm”, “ người chung
một nước…” đó là một trong những yếu tố tạo nên sức mạnh Việt nam trong
dựng nước và giữ nước. Hồ Chí Minh còn mở rộng đối tượng cần đoàn kết
đến “tất cả những ai vẫn còn thừa nhận mình là con dân nước Việt nam”, nhờ
thế mà gạt đi được những đối kháng về quyền lợi bộ phận trong những hoàn
cảnh nhất định để tập trung phục vụ lợi ích chung của toàn dân tộc.
Hồ Chí Minh kiên quyết phê phán những hành vi lợi dụng tín ngưỡng,
tôn giáo, lợi dụng tự do tín ngưỡng để kích động hoạt động chống phá sự
nghiệp cách mạng của nhân dân, chia rẽ đoàn kết lương - giáo, xâm phạm lợi
ích chung của đất nước, của toàn dân tộc. Theo Người, bọn đội lốt tôn giáo
để chống phá cách mạng là bọn “Việt gian đồng thời cũng là giáo gian”.
Người đã đưa ra nhiều biện pháp để chống lại sự lợi dụng đó của kẻ thù.
Trong đó có những giải pháp hết sức quan trọng đó là: Ra sắc lệnh về việc
bảo tồn, bảo vệ các di sản văn hoá của tôn giáo như: đình, chùa, miếu, nhà
thờ, bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân; giáo dục tư tưởng cho cán
bộ của Chính phủ quán triệt tinh thần ấy để một mặt thực hiện tốt chính sách
tôn giáo đối với đồng bào có đạo, mặt khác phải kiên quyết đấu tranh, vạch
7
trần những kẻ lợi dụng tôn giáo để chống nhân dân, chống chế độ; quan tâm
thực sự đến đời sống vật chất cũng như tinh thần của đồng bào các tôn
giáo.v.v.
Hồ Chí Minh đã chỉ ra những giải pháp cơ bản để xây dựng khối đại đoàn
kết toàn dân. Trước hết để chăm lo khối đại đoàn kết toàn dân, cần phải giáo
dục mục đích của đoàn kết là kháng chiến kiến quốc chống thực dân Pháp và
đế quốc Mỹ xâm lược, bảo vệ nền độc lập dân tộc. Trong thư gửi đồng bào
nhân ngày lễ thiên chúa giáng sinh: Người chỉ rõ: “Toàn thể đồng bào ta,
không chia lương giáo, đoàn kết chặt chẽ, quyết lòng kháng chiến, để giữ gìn
non sông tổ quốc, mà cũng để giữ gìn quyền tôn giáo tự do”12. Trên cương vị là
người đứng ở vị trí cao nhất của Đảng, Nhà nước, Người đã đưa ra chính sách
và các việc làm cụ thể để xây dựng khối đại đoàn kết tôn giáo. Chẳng hạn,
thông qua các vị chức sắc trong tôn giáo để xây dựng khối đoàn kết đồng bào
giáo dân. Trong “Thư gửi giám mục Lê Hữu Từ”. Người viết: “Thưa Cụ, chính
phủ dự bị phái đại biểu vào miền Nam Trung bộ để uý lạo đồng bào trong đó.
Vì ở miền đó cũng có nhiều đồng bào công giáo, nên tôi muốn nhờ cụ chọn cho
một vị linh mục thân tín của cụ cùng đi với các đại biểu của chính phủ vào
thăm đồng bào ta”13. Hơn nữa, ở đâu? nơi nào? kẻ thù hoặc những kẻ đội lốt
tôn giáo phá hoại khối đại đoàn kết tôn giáo thì Người đã trực tiếp chỉ đạo hoặc
cử cán bộ tin cậy vào giải quyết. Quan điểm của Hồ Chí Minh về công tác tôn
giáo còn nhằm vào mục đích của sự đoàn kết toàn dân, đoàn kết lương giáo để
cứu nước, cứu dân là vô cùng cần thiết, đồng thời, Người cũng bảo vệ nền độc
lập tự do của dân tộc. Trong “Thư gửi đồng bào công giáo toàn quốc nhân dịp
lễ đức chúa giáng sinh”, Người chỉ rõ: “Nhân dịp lễ Đức Chúa giáng sinh, tôi
thân ái gửi đồng bào lời chúc phúc. Trong khi bọn thực dân Pháp và can thiệp
Mỹ tìm mọi cách chia rẽ lương giáo, hòng cướp nước ta, thì việc đoàn kết toàn
dân, đoàn kết lương giáo để cứu nước, cứu dân là vô cùng cần thiết. Tôi thành
thật khen ngợi những đồng bào công giáo đang hăng hái tham gia kháng chiến
cứu nước. Tôi mong tất cả đồng bào công giáo chúng ta đoàn kết chặt chẽ với
12
13
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, Tập 4, tr.490.
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, Tập 4, tr.211.
8
đồng bào toàn quốc, kháng chiến mạnh hơn để tiêu diệt bọn xâm lược và bè lũ
việt gian bán nước, giải phóng cho Tổ quốc”14.
Sự sáng tạo đặc sắc trong tư tưởng tôn giáo của Hồ Chí Minh còn thể
hiện: Hồ Chí Minh luôn luôn xác định đúng trọng tâm, trọng điểm công tác
tôn giáo - đó là công tác công giáo. Theo thống kê, trong các bài phát biểu
của Bác về tôn giáo thì có tới 60% Bác nói về công giáo, nói tới đồng bào
theo đạo thiên chúa. Trong bài phát biểu với đoàn đại biểu Công an Cu Ba,
Bác đã đề cập: ở Việt Nam vấn đề tôn giáo chính là vấn đề công giáo. Theo
quan điểm của Người: Công tác vận động quần chúng là nói đến công tác vận
động đồng bào tôn giáo. Trong thực tiễn cách mạng, thời kì nào vấn đề tôn
giáo có sự “bức xúc” thì Người đều giành nhiều tâm huyết, thời gian vào việc
đó.
Ba là, Hồ Chí Minh luôn luôn sáng tạo hình thức, phương pháp mới
trong công tác tôn giáo.
Trong công tác tôn giáo, Hồ Chí Minh không cứng nhắc hình thức và
phương pháp tiến hành mà Người luôn luôn có sự sáng tạo về hình thức và
phương pháp mới cho phù hợp với yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn. Chính
những cái không thành công trong công tác tôn giáo vừa chứng minh sự cao
cả vĩ đại của Hồ Chí Minh, vừa minh chứng cho sự sáng tạo hình thức,
phương pháp mới về công tác tôn giáo. Hồ Chí Minh định chủ trương xây
dựng giáo hội việc làm theo tam đồng: tự sinh, tự dưỡng và tự lập không dính
dáng đến toà thánh Vaticăng nhưng không được. Hay sau năm 1956, Người
có ý định thành lập tổ chức tin lành yêu nước, Người gọi mục sư Lê Văn Thái
để thuyết phục nhưng không thành vì mục sư Lê Văn Thái cho rằng: tôn giáo
của chúng tôi không phải là tôn giáo nhập thế..., mong cụ thứ lỗi cho.. đơn cử
những việc làm của Hồ Chí Minh như vậy chúng ta càng tự hào về Bác.
Mặt khác, sự sáng tạo vận dụng nhiều hình thức, phương pháp mới của
Hồ Chí Minh về công tác tôn giáo còn được thể hiện ở việc: Hồ Chí Minh tìm
kiếm sự đồng thuận giữa mục tiêu của cách mạng với mục đích của những
người sáng tạo ra tôn giáo. Dĩ nhiên là mục tiêu cách mạng đồng thuận với
mục đích của tôn giáo nguyên thủy chứ không phải thứ tôn giáo bị lợi dụng
14
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, Tập 6, tr.589.
9
hoặc trong quá trình vận động, nó có thể bị biến chất, bị tha hoá. Hồ Chí
Minh tiến hành công tác tôn giáo với tư tưởng của những người đồng cảm với
suy nghĩ, tình cảm, niềm tin của những người đồng thuận vì lợi ích của dân
tộc, tổ quốc. Ngay trong cách sử dụng ngôn ngữ, văn phong của mình cũng
rất gần gũi và gây được sự đồng cảm với đồng bào tôn giáo, Người chưa bao
giờ gọi công giáo là “thiên chúa giáo”, mà Người thừa nhận tên gọi của họ,
Người rất thiên tài trong sử dụng ngôn từ, nắm chắc nội dung của các giáo lý,
giáo luật để thu phục đồng bào theo đạo. Đồng thời, bằng thủ pháp vạch rõ
âm mưu chia rẽ của bọn thực dân đế quốc như một mặt đối lập để làm công
tác tôn giáo. Người viết: “bọn thực dân Pháp và can thiệp Mỹ mưu cướp nước
ta, bọn Việt gian bù nhìn mưu bán nước ta. Chúng muốn bắt dân ta làm nô lệ.
Chúng phạm nhiều tội ác, như đốt phá tượng thánh, nhà thờ, giết hại nhân dân
lương và giáo. Chúng đã bạo ngược làm trái hẳn với lời chúa”15.
Trong công tác tôn giáo, Hồ Chí Minh chỉ ra phương pháp, phương
châm để tiến hành vận động đồng bào công giáo là phải 3 cùng: cùng ăn,
cùng ở, cùng làm với đồng bào, phải có tính tổ chức, tính kỷ luật và lòng kiên
trì trong công tác vận động đồng bào theo đạo.
Tất cả những vấn đề trên cho chúng ta thấy tư tưởng cơ bản của Hồ Chí
Minh về tôn giáo và công tác tôn giáo thể hiện tính nhân văn cao cả của
Người, phản ánh tính đặc sắc của Hồ Chí Minh trong việc vận dụng nguyên lý
của chủ nghĩa Mác - Lê nin về công tác tôn giáo vào điều kiện cụ thể ở nước
ta. Hồ Chí Minh là hiện thân mẫu mực về thái độ ứng xử đối với tôn giáo,
trong những hoàn cảnh lịch sử ngặt nghèo của sự nghiệp giải phóng dân tộc,
khi các thế lực phản cách mạng luôn tìm cách lợi dụng tôn giáo vì mục tiêu
chính trị, chia rẽ và phá hoại khối đoàn kết dân tộc thì Hồ Chí Minh vẫn luôn
tỉnh táo, sáng suốt để nhìn nhận, đánh giá và có thái độ ứng xử đúng mực đối
với tôn giáo và công tác tôn giáo.
2. Sự vận dụng của Đảng ta về tôn giáo và công tác tôn giáo theo
quan điểm Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đổi mới hiện nay.
* Vài nét về tình hình tôn giáo và sự lợi dụng tôn giáo của các thế lực
thù địch chống phá cách mạng nước ta hiện nay.
15
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, Tập 7, tr.197.
10
Nước ta nằm ở vị trí địa chính trị hết sức quan trọng của khu vực Châu á,
nơi giao lưu của nhiều luồng dân cư, văn hoá, tôn giáo, nơi luôn phải cảnh
giác với những âm mưu xâm lược của các thế lực ngoại bang. Vì vậy, cùng
với những tôn giáo “nội sinh”, các tôn giáo đã du nhập vào nước ta sớm, làm
cho nước ta là một quốc gia đa tôn giáo. Sự thăng trầm của tôn giáo luôn gắn
liền với sự thăng trầm của lịch sử xã hội Việt Nam. Trong lịch sử, các tín
ngưỡng tôn giáo, dù nội sinh hay ngoại nhập, cũng đã góp phần tích cực trong
đấu tranh giành độc lập dân tộc, bảo vệ tổ quốc trong từng giai đoạn lịch sử
khác nhau. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa tôn giáo và chính trị cũng đã từng bị
các thế lực chính trị bẻ lái theo khuynh hướng tiêu cực. Sự biến dạng quan hệ
giữa tôn giáo và chính trị gắn liền với chiêu bài sử dụng tôn giáo vào mục
đích xâm lược của thực dân Pháp và sau đó là đế quốc Mỹ trong hai cuộc
chiến tranh giải phóng của dân tộc ta trong thế kỷ XX.
Ngày nay, mặc dù sự nghiệp đổi mới đất nước đã và đang thu được nhiều
thành tựu to lớn. Nhưng đối với mỗi người, mỗi cộng đồng, đều luôn phải suy
tư trước những thành công, vấp váp, cái được, cái mất, cái may, cái rủi...
Trong cuộc sống mưu sinh, mưu nghiệp, con người chưa tránh khỏi những bất
hạnh và dày vò cá nhân, những cảm giác trống rỗng, thiếu hụt và mất cân
bằng tâm lý. Mặt khác, trên thực tế con người chưa xử lý được một cách
chính xác và thoả đáng mối quan hệ độc lập tương đối giữa chủ quan và
khách quan, giữa tất nhiên và ngẫu nhiên, giữa hữu hạn và vô hạn, giữa tình
cảm và lý trí... Những ý kiến trái ngược nhau giữa khoa học và đời sống hiện
thực, khoảng trống trong nhận thức của con người vẫn còn ở phía trước.
Những nguyên nhân đó làm cho tôn giáo có cơ sở để tồn tại, sự trở lại của tôn
giáo đã và đang là một xu thế khó cưỡng lại, đúng như lời nhận xét của Mác:
Chính cái thế giới con người không hoàn thiện đã sản sinh ra tôn giáo ấy là
một thế giới cần có tôn giáo, và ngược lại tôn giáo cũng đáp ứng những yêu
cầu của con người trong cái thế giới ấy. Hiện nay, các tôn giáo Việt Nam
chiếm một tỉ lệ tương đối lớn trong cộng đồng con người và dân số Việt Nam.
Theo số liệu thống kê về số lượng tín đồ một số tôn giáo chính ở nước ta hiện
nay: Đạo Phật: khoảng gần 10 triệu tín đồ, Đạo công giáo: 5.324.492 tín đồ,
Đạo tin lành: khoảng 800.000 tín đồ, Đạo hồi: khoảng 64.990 tín đồ, Đạo
11
cao đài: 2.276.976 tín đồ và Đạo hoà hảo: có khoảng 1.232.572 tín đồ…
Tính chung, số lượng tín đồ tôn giáo ở nước ta hiện nay chiếm khoảng 25%
dân số.
Trong sự nghiệp đổi mới, các thế lực phản động đứng đầu là đế quốc Mỹ chưa
từ bỏ dã tâm đen tối, lợi dụng tôn giáo để thực hiện mục đích chính trị chống phá
cách mạng nước ta, sử dụng tôn giáo như là một chiêu bài hòng thực hiện âm mưu
“diễn biến hòa bình”. Trong điều kiện nước ta gia tăng hội nhập kinh tế quốc tế, hội
nhập WTO, cần tăng cường cảnh giác với các âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù
địch, dùng đòn “tôn giáo” để “hạ bệ” chủ nghĩa Mác - Lênin, lợi dụng vấn đề “tôn
giáo” để can thiệp vào nội bộ nước ta, đòi nước ta phải theo “Luật tự do tôn giáo
quốc tế” (HR2431) mà Mỹ đã dựng lên.
Âm mưu, thủ đoạn, dã tâm của chúng được thể hiện trên một số điểm cơ
bản sau đây: Một là, tìm mọi cách để đưa các chức sắc tôn giáo đã bỏ ra nước
ngoài trở lại Việt Nam. Tiếp tục kiện toàn tổ chức, tạo dựng ngọn cờ, tập hợp
lực lượng, âm thầm phát triển. Với các thủ đoạn cụ thể: bước đầu tránh đụng
độ với chính quyền, lợi dụng đầu tư, lợi dụng hội nhập kinh tế quốc tế, lợi
dụng tình hình tham nhũng để can thiệp sâu hơn vào vấn đề tôn giáo. Hai là,
xúi giục đòi tự do dân chủ, nhân quyền, đòi tự do tôn giáo, gây ra nhiều điểm
nóng về tôn giáo, làm mất ổn định chính trị nước ta. Lợi dụng sơ hở trong giải
quyết điểm nóng tôn giáo của ta để nếu có điều kiện gây nội chiến (những sự
việc xảy ra ở Tây Nguyên, Huế, thành phố Hồ Chí Minh và một số địa
phương khác thời gian qua đã bọc lộ rõ âm mưu thủ đoạn này của Mỹ và các
thế lực thù địch). Ba là, sử dụng những Việt kiều đội lốt tôn giáo, đội lốt
những doanh nghiệp, những nhà kinh tế vào Việt Nam hợp pháp để hoạt động
gián điệp. Khi bị lộ hoặc bị bắt thì coi đó là nguyên cớ để vu khống chúng ta
đàn áp tôn giáo, cưỡng bức và cấm tôn giáo hoạt động. Bốn là, tìm mọi cách
để dần thoát khỏi sự quản lý của Nhà nước bằng việc tuyên truyền kích động,
cho rằng tôn giáo và hoạt động tôn giáo phải được tự do vô chính phủ, không
cần phải xin phép ai cả. Đánh đồng giữa hợp pháp và bất hợp pháp, có tư cách
pháp nhân và không có tư cách pháp nhân. Năm là, lợi dụng công tác làm từ
thiện để truyền đạo trái phép, lợi dụng lòng tin mù quáng và trình độ nhận
thức thấp kém của một bộ phận quần chúng nhân dân (nhất là ở vùng sâu,
12
vùng xa) để dựng lên các tôn giáo, tông đảng mới, xúi giục nhân dân chống
lại đường lối chính sách của Đảng và nhà nước (việc truyền đạo Tin Lành trái
phép ở Tây Bắc, Tây Nguyên là minh chứng)…
Để kiên định với mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, thực hiện
thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, Đảng ta
phải vận dụng tốt tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo và công tác tôn giáo để
xem xét và giải quyết tốt vấn đề tôn giáo hiện nay. Những quan điểm, tư
tưởng về vấn đề tôn giáo của Hồ Chí Minh chính là sự “thể hiện đầy đủ và
nhuần nhuyễn quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về tôn giáo, đồng thời
cũng là những mẫu mực về việc vận dụng những quan điểm đó vào hoàn cảnh
cụ thể của nước ta”17. Những tư tưởng ấy vẫn giữ nguyên giá trị, nó đã và
đang là cơ sở lý luận, phương pháp luận của quan điểm, đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề tôn giáo hiện nay.
* Sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo và công tác tôn giáo
của Đảng ta hiện nay.
Tôn giáo “là thuốc phiện của nhân dân”, là “thứ ruợu tinh thần” độc hại
cần phải loại bỏ nó ra khỏi đời sống tinh thần nhân dân. Nó là một nội dung
cơ bản trong cuộc đấu tranh chính trị tư tưởng, đấu tranh giai cấp ở nước ta.
Giải phóng nhân dân khỏi vòng hạnh phúc ảo tưởng, khỏi vòng nô lệ của tôn
giáo gắn liền với cuộc đấu tranh giai cấp, gắn liền với cuộc đấu tranh cho chủ
nghĩa xã hội. Đó là quan điểm nhất quán của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và cũng là của Đảng ta. Tuy nhiên, chúng ta không thể nóng vội
tả khuynh, máy móc, siêu hình trong giải quyết vấn đề tôn giáo, càng không
thể tuyên chiến với tôn giáo, vì như thế thì càng làm cho tôn giáo nảy sinh và
khó loại bỏ nó.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề tôn giáo, trên thực tế đã được Đảng ta
vận dụng ngay từ những năm 30 của thế kỷ XX. Trong cương lĩnh, luận
cương của Đảng và trong cao trào Xô Viết Nghệ - Tĩnh, Đảng ta đã đưa ra
quan điểm đúng đắn về tôn giáo và công tác tôn giáo, thực hiện phương
châm: bảo đảm tự do tín ngưỡng của quần chúng. Năm 1961, Ban Bí thư
(khoá III) ban hành chỉ thị 22 đề ra chính sách tự do tín ngưỡng, tập hợp đoàn
Các Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7, Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX, Tài liệu nghiên cứu,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tr.118.
17
13
kết toàn dân đấu tranh làm thất bại âm mưu thủ đoạn lợi dụng tôn giáo của đế
quốc tay sai. Nghị quyết 40 của Ban Bí thư (khoá IV) năm 1981 nêu lên bốn
nhiệm vụ chung: Một là, cảnh giác, đấu tranh trấn áp bọn phản động. Hai là,
vận động quần chúng tăng cường đoàn kết toàn dân, cùng toàn dân xây dựng
chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Ba là, tranh thủ cải tạo
giáo sĩ và giáo hội theo hướng phục tùng pháp luật, đi với dân tộc và chủ
nghĩa xã hội. Bốn là, giáo dục quần chúng nhất là lớp trẻ về nhân sinh quan,
thế giới quan cách mạng, khoa học giúp quần chúng thoát dần khỏi mê tín tôn
giáo.
Trong những năm đổi mới, để đáp ứng với yêu cầu mới về tôn giáo và
công tác tôn giáo, Đảng ta đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách đúng đắn.
Năm 1990, Bộ Chính trị (khoá VI) ra nghị quyết 24, đề ra ba nhiệm vụ đối
với đồng bào tín đồ về cả hai mặt đạo - đời. Ba nhiệm vụ đó thể hiện trong
các nguyên tắc chính sách được thể chế hoá trong nghị định 69 năm 1991 của
Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ). Sau Đại hội toàn quốc lần thứ VII
của Đảng (1991), quán triệt quan điểm tôn giáo và công tác tôn giáo của
Đảng, Hiến pháp năm 1992 của Nhà nước ta, điều 70 ghi rõ: “Công dân Việt
Nam có quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo
nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Những nơi thờ tự của các tín
ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ. Không ai được xâm phạm tự do tín
ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật và
chính sách của nhà nước”18. Ngày 2/7/1998, Bộ Chính trị ra chỉ thị về công
tác tôn giáo trong tình hình mới với hệ thống các nguyên tắc và nhiệm vụ cụ
thể. Đặc biệt nghị định 26 năm 1999 của Chính phủ đã đưa ra những quan
điểm cơ bản và quy định cụ thể đối với các hoạt động tín ngưỡng tôn giáo.
Nội dung của những chỉ thị, nghị định này chính là sự vận dụng những quan
điểm, tư tưởng của Hồ Chí Minh về công tác tôn giáo ở nước ta. Những quan
điểm đó đã được kết tinh trong sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc.
Từ yêu cầu thực tiễn của việc gia tăng hội nhập quốc tế hiện nay, vận
dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo và công tác tôn giáo, Đại hội
18
Các văn bản của Nhà nước về hoạt động tôn giáo, Quyển 1, Hà Nội, 1995. tr.7.
14
đại biểu toàn quốc lần thứ IX và lần thứ X của Đảng, Nghị quyết lần thứ VII
BCHTW Đảng ( khoá IX) đã đưa ra những quan điểm cơ bản về tôn giáo và
công tác tôn giáo: Khẳng định tôn giáo là một vấn đề tồn tại lâu dài trong quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hoạt động tôn giáo và công tác tôn giáo phải
nhằm tăng cường đoàn kết tôn giáo trong khối đại đoàn kết dân tộc, phát huy
sức mạnh của toàn dân tộc thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ vững chắc tổ quốc vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đại hội X khẳng
định: “Đồng bào các tôn giáo là bộ phận quan trọng của khối đại đoàn kết
toàn dân tộc. Thực hiện chính sách nhất quán tôn trọng và đảm bảo quyền tự
do tín ngưỡng, theo hoặc không theo tôn giáo của công dân, quyền sinh hoạt
tôn giáo bình thường theo pháp luật. Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo
khác nhau, đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo. Phát huy
những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo. Động viên, giúp đỡ
đồng bào theo đạo và các chức sắc tôn giáo sống “tốt đời, đẹp đạo”. Các tổ
chức tôn giáo hợp pháp hoạt động theo pháp luật và được pháp luật bảo hộ.
Thực hiện tốt các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống
vật chất, văn hóa của đồng bào các tôn giáo. Tăng cường công tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ làm công tác tôn giáo, đấu tranh ngăn chặn các hoạt động mê
tín dị đoan, các hành vi lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo làm phương hại đến lợi
ích chung của đất nước, vi phạm quyền tự do tôn giáo của nhân dân” 19.
Quan điểm cơ bản của Đảng về tôn giáo và công tác tôn giáo mà Đại hội IX,
Đại hội X của Đảng, Nghị quyết lần thứ VII BCHTW Đảng ( khoá IX) đã đề
cập thể hiện tư duy trí tuệ mới của Đảng, thể hiện sự vận dụng đúng đắn khoa học
và cách mạng tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo và công tác tôn giáo trong giai
đoạn cách mạng mới ở nước ta hiện nay. Hệ thống những quan điểm cơ bản đó
được phản ánh qua những nội dung cơ bản sau đây:
Thứ nhất, tín ngưỡng tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân.
Việc khẳng định quan điểm này là cần thiết, là tất yếu khách quan, vừa khắc
phục những biểu hiện nhận thức không đúng trước đây của Đảng, vừa thể hiện
rõ quan điểm của những người cộng sản không có chủ trương xoá bỏ tôn giáo
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2006, tr.122-123.
19
15
mà tôn trọng nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, hướng các hoạt động
tôn giáo vào việc xây dựng một xã hội có đạo đức, phụng sự Tổ quốc, tốt đời
đẹp đạo, sống phúc âm giữa lòng dân tộc, hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp
và luật pháp của Nhà nước. Việc khẳng định tín ngưỡng tôn giáo là nhu cầu tinh
thần của một bộ phận nhân dân là sự phản ánh đúng điều kiện khách quan của
thực tiễn về kinh tế, xã hội, lịch sử của đất nước: khi những nguồn gốc nhận
thức, xã hội, tâm lý vẫn tồn tại, là cơ sở cho sự nảy sinh, tồn tại tín ngưỡng, tôn
giáo, thì tất yếu tín ngưỡng tôn giáo vẫn là nhu cầu tinh thần của một bộ phận
nhân dân.
Thứ hai, thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự
do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn
giáo bình thường theo đúng luật pháp của nhà nước.
Vấn đề này bảo đảm quyền tự do, bình đẳng của công dân Việt Nam.
Trong số hơn 80 triệu dân của nước ta, có khoảng 25 triệu người sinh hoạt
trong các tôn giáo khác nhau. Vấn đề người theo tôn giáo được quyền sinh
hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật, không ảnh hưởng đến đại
đoàn kết toàn dân và ảnh hưởng đến quyền của những người không theo tôn
giáo. Đảng và Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách này. Luật pháp của
nhà nước ta từ Hiến pháp năm 1992 đến các nghị định của chính phủ, và mới
đây là nghị định 26-NĐ/CP của Chính phủ đều nhất quán, thể hiện rõ tính luật
pháp đảm bảo quyền tự do, tín ngưỡng của công dân Việt Nam.
Thứ ba, đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau, đồng bào theo
tôn giáo và không theo tôn giáo. Chăm lo phát triển kinh tế, văn hoá nâng
cao đời sống của đồng bào có đạo.
Tư tưởng đoàn kết đồng bào lương - giáo là tư tưởng truyền thống của
dân tộc Việt nam. Ở nước ta hiện nay có 6 tôn giáo lớn: Phật giáo, Thiên chúa
giáo, Tin lành, Hồi giáo, Cao đài, Phật giáo Hoà hảo. Ngoài ra, số đông nhân
dân có tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Trong đồng bào các dân tộc thiểu số còn
tồn tại nhiều tín ngưỡng dân gian, tôn giáo nguyên thuỷ. Trong số các tôn
giáo trên, có những tôn giáo du nhập từ bên ngoài, có những tôn giáo nội sinh.
Dân tộc Việt Nam ta đã tiếp nhận hoà bình những tôn giáo từ bên ngoài,
không hề có chiến tranh tôn giáo trong lịch sử dân tộc. Một số mâu thuẫn tôn
16
giáo từng nảy sinh trong lịch sử hoàn toàn đều do các thế lực thù địch bên
trong và bên ngoài lợi dụng tôn giáo để phục vụ cho mục đích chính trị của
chúng. Trong đấu tranh giành và giữ nền độc lập các dân tộc, các tôn giáo đã
đoàn kết dưới ngọn cờ của Đảng. Nhiều chức sắc, giáo dân đã hy sinh vì nền
độc lập dân tộc. Trong xây dựng hoà bình, đồng bào lương giáo đoàn kết thực
hiện đường lối của Đảng để xây dựng đất nước và cuộc sống ấm no, tự do,
hạnh phúc. Vì vậy, có thể nói đoàn kết giữa các đồng bào theo các tôn giáo
khác nhau, giữa đồng bào có đạo và những người không theo tôn giáo là một
trong truyền thống quý báu của dân tộc ta. Tư tưởng đoàn kết lương giáo của
Hồ Chí Minh, quan hệ của Hồ Chí Minh với các chức sắc tôn giáo và đồng
bào có đạo là một mẫu mực của việc thực hiện chính sách đại đoàn kết... Việc
xây dựng xã hội mới, chăm lo phát triển kinh tế - văn hoá, nâng cao đời sống
nhân dân chính là mục tiêu của sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo. Chủ
tịch Hồ Chí Minh từng nói rằng, nếu để một người Việt Nam còn đói rét thì
đó là lỗi của Đảng. Đảng và Nhà nước không phân biệt đối xử mà còn quan
tâm chăm lo sâu sắc đến sự phát triển mọi mặt của các vùng có đồng bào theo
tôn giáo.
Thứ tư, từng bước hoàn thiện luật pháp về tín ngưỡng, tôn giáo. Đồng
bào theo đạo và các vị chức sắc tôn giáo có nghĩa vụ làm tròn trách nhiệm
của công dân đối với Tổ quốc, sống “tốt đời, đẹp đạo”. Phát huy những giá
trị tốt đẹp về văn hoá, đạo đức của tôn giáo, đồng thời đấu tranh ngăn chặn
các hoạt động mê tín dị đoan, các hành vi lợi dụng tín ngưỡng tôn giáo làm
phương hại đến lợi ích chung của đất nước.
Hiện nay nhà nước ta đã có những văn bản pháp luật quy định quyền tự
do tín ngưỡng và các hoạt động tôn giáo. Nghị định 26 của chính phủ cùng
các thông tư hướng dẫn của Ban tôn giáo chính phủ đã góp phần quan trọng
vào việc tổ chức và duy trì hoạt động tôn giáo bình thường đúng pháp luật.
Tuy nhiên trong nhiều hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo, việc cụ thể hoá các văn
bản pháp luật, việc phổ biến, tổ chức thực hiện còn nhiều hạn chế. Có hiện
tượng không nắm chắc luật pháp, có hành vi vi phạm đối với hoạt động tôn
giáo hoặc buông lỏng, né tránh trước những hoạt động truyền đạo trái phép,
những hành vi lợi dụng tôn giáo làm trái pháp luật. Hoàn thiện luật pháp về
17
tín ngưỡng tôn giáo, sớm nghiên cứu ban hành luật tôn giáo đi liền với quá
trình tổ chức, triển khai cụ thể đang là một yêu cầu thực tiễn của nước ta hiện
nay.
Đồng bào có đạo và các chức sắc tôn giáo là một bộ phận trong cộng
đồng dân tộc, là những công dân Việt Nam nên phải có nghĩa vụ và trách
nhiệm công dân theo quy định của Hiến pháp, pháp luật. Việc sinh hoạt tôn
giáo không được cản trở hoặc làm trái với việc thực hiện nghĩa vụ và trách
nhiệm công dân theo quy định. Động viên đồng bào có đạo sống: “tốt đời, đẹp
đạo”, phát huy những giá trị tốt đẹp về văn hoá, đạo đức của tôn giáo là nhằm
tăng cường sự tham gia của quần chúng nhân dân có đạo vào việc xây dựng
xã hội mới. Đó là sự kết hợp hài hoà giữa đạo và đời, vừa tròn trách nhiệm
với đạo, vừa làm tròn trách nhiệm phụng sự Tổ quốc.
Trong hoạt động tôn giáo, tích cực đấu tranh với những hoạt động mê tín
dị đoan, lợi dụng mê tín để trục lợi. Đồng thời thực hiện tốt quan điểm:
“Nghiêm cấm lợi dụng các vấn đề dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động
trái pháp luật và chính sách của Nhà nước, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ
các dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia” 20. Các vụ gây rối mang tính
chất bạo loạn chính trị ở Tây Nguyên, hoạt động công khai chống phá cách
mạng của Nguyễn Văn Lý, Lê Quang Liêm và một số người khác là những
hoạt động vi phạm trắng trợn luật pháp nước ta, cần được sử lý theo pháp luật.
Thứ năm, tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác
tôn giáo. Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh
đạo của Đảng trong tiến hành công tác tôn giáo.
Nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng,
công tác với con người. Công tác tôn giáo liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời
sống xã hội, đòi hỏi phải phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn bộ hệ thống
chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trọng tâm là đội ngũ cán bộ trực tiếp tiến
hành công tác tôn giáo. Vì vậy, chúng ta phải quan tâm đào tạo, bồi dưỡng đội
ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ.
Phải phát huy sức mạnh của hệ thống chính trị việc triển khai tổ chức thực
hiện công tác tôn giáo: chính quyền phải thực hiện tốt chức năng quản lý nhà
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, Hà Nội, 2001,
tr.128
20
18
nước của mình đối với tôn giáo; các tổ chức quần chúng như Mặt trận, Đoàn
thanh niên, Phụ nữ và các tổ chức quần chúng khác phải đẩy mạnh phong trào
vận động quần chúng thực hiện tốt chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước về tôn trọng tự do tín ngưỡng, thực hiện phương châm sống “tốt đời, đẹp
đạo”, gắn bó với dân tộc, đoàn kết xây dựng đất nước.
Hồ Chí Minh khẳng định: “Tổ quốc độc lập tôn giáo mới tự do” 22. Đảng,
Nhà nước ta đã và đang làm hết sức mình để cho đồng bào có đạo hoặc
không có đạo có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Vì vậy, mọi tôn giáo
khác nhau đã và đang đoàn kết dưới sự lãnh đạo của Đảng, thực hiện thắng
lợi mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, dân chủ, văn minh
mà Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, lần thứ XII của Đảng
đã đề ra.
22
Hồ Chí Minh, Sđd, Tập 6, tr.342.