Tải bản đầy đủ (.doc) (109 trang)

LUẬN án TIẾN sĩ ĐẢNG CỘNG sản VIỆT NAM LÃNH đạo đất nước hội NHẬP KINH tế từ năm 1991 đến năm 2001

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (428.86 KB, 109 trang )

BẢNG CHỮ VIẾT TẮT
CHỮ VIẾT ĐẦY ĐỦ

CHỮ VIẾT TẮT

Chủ nghĩa tư bản

CNTB

Chủ nghĩa xã hội

CNXH

Chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực Chung của AFTA

CEPT

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá

CNH, HĐH

Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương

APEC

Đầu tư trực tiếp nước ngoài

FDI

Hiệp hội các nước Đông Nam Á


ASEAN

Hợp tác Á - Âu

ASEM

Hội nhập kinh tế quốc tế

HNKTQT

Khu vực mậu dịch tự do ASEAN

AFTA

Ngân hàng Phát triển châu Á

ADB

Ngân hàng thế giới

WB

Quỹ tiền tệ quốc tế

IMF

Tối huệ quốc

MFN


Tổ chức thương mại thế giới

WTO

Tư bản chủ nghĩa

TBCN

Viện trợ phát triển chính thức

ODA

Xã hội chủ nghĩa

XHCN


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay khu vực hoá, toàn cầu hoá đã trở thành xu thế chung của tất cả các quốc gia trên thế
giới. Quá trình ấy diễn ra hết sức sôi động đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế, đây là một tất yếu
khách quan, bắt nguồn từ sự phát triển như vũ bão của cách mạng khoa học, công nghệ hiện đại yếu tố hàng đầu tạo nên bước phát triển đột phá về chất của lực lượng sản xuất. Toàn cầu hoá
kinh tế vừa tạo thời cơ lớn, vừa làm nảy sinh không ít nguy cơ, thách thức nghiêm trọng đối với
sự phát triển ổn định, bền vững của từng quốc gia, cũng như của cả cộng đồng quốc tế. Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ IX nhận định: Toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế khách quan, lôi cuốn
ngày càng nhiều nước tham gia, vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực, vừa thúc đẩy hợp tác,
vừa tăng sức ép cạnh tranh. Từ nhận định đó, Đảng chủ trương HNKTQT và khu vực theo tinh
thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập, tự chủ và định
hướng XHCN, bảo vệ lợi ích dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái.
HNKTQT là một quá trình đi liền với toàn cầu hoá kinh tế mà trọng tâm là mở cửa kinh tế,

tham dự phân công hợp tác quốc tế, tạo điều kiện kết hợp có hiệu quả nguồn lực trong nước với
nguồn lực bên ngoài, mở rộng không gian và môi trường để phát triển và chiếm lĩnh vị trí phù
hợp nhất có thể được trong quan hệ kinh tế quốc tế.
HNKTQT là một nội dung quan trọng trong đường lối đối ngoại của Đảng, hướng tới việc kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng bảo vệ đất
nước . Trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học, công nghệ phát triển như vũ bão và xu thế toàn
cầu hoá kinh tế đang diễn ra sôi động, sự nghiệp đổi mới ở nước ta thời gian vừa qua đạt được


những thành tựu to lớn trong quá trình HNKTQT đã góp phần đưa nước ta thoát khỏi khủng
hoảng kinh tế - xã hội, đẩy lùi cuộc bao vây, cấm vận của các thế lực phản động, ổn định chính
trị - xã hội, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Song bên cạnh đó, cũng còn nhiều
khuyết điểm, yếu kém, nảy sinh nhiều vấn đề tiêu cực trong quá trình HNKTQT.
Thực tiễn đang đặt ra nhiều vấn đề lý luận. Công cuộc đổi mới nói chung, quá trình
HNKTQT nói riêng cần được tổng kết, đánh giá đúng thành tựu, hạn chế, nguyên nhân và rút ra
những bài học vận dụng vào thời kỳ mới, đưa sự nghiệp đổi mới tiếp tục tiến lên phấn đấu vì
mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh theo định hướng XHCN.
Với ý nghĩa đó, tác giả chọn đề tài: “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo hội nhập kinh tế
quốc tế từ 1991 đến 2001” làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt
Nam.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trên cả bình diện lý luận và thực tiễn vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế đã có nhiều công trình
khoa học đề cập dưới nhiều góc độ khác nhau. Nhóm các công trình nghiên cứu của các nhà
khoa học, tiêu biểu có các công trình: Hội nhập quốc tế và giữ vững bản sắc, của Bộ Ngoại giao,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1995; Hội nhập với AFTA cơ hội và thách thức, Của Tô Xuân
Đán, Đỗ Đức Bình, Nxb Thống Kê, Hà Nội 1997; Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế của Việt
Nam, của Bộ Ngoại giao, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1999; Toàn cầu hoá và chủ trương
hội nhập quốc tế của Việt Nam - Mấy vấn đề phương pháp nghiên cứu, của Hoàng Chí Bảo,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2001; ; Toàn cầu hoá phương pháp luận và phương pháp tiếp
cận nghiên cứu, của Nguyễn Đức Bình, Lê Hữu Nghĩa, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2001;

Việt Nam hội nhập kinh tế trong xu thế toàn cầu hoá - vấn đề và giải pháp, của Bộ ngoại giao,


Vụ hợp tác kinh tế đa phương, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2002; Quá trình Việt Nam hội
nhập khu vực châu Á - Thái Bình Dương theo đường lối đổi mới của Đảng , của Đinh Xuân Lý,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2003; Những vấn đề lớn của thế giới và quá trình hội nhập phát
triển của nước ta, của Ban Tư tưởng văn hoá Trung ương, Vụ tuyên truyền và hợp tác quốc tế,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2004; Việt Nam với tiến trình gia nhập Tổ chức Thương mại thế
giới, của Phan Thanh Phố, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2005. Các công trình trên, đã bàn khá
rõ cơ sở lý luận và thực tiễn vấn đề toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế.
Nhóm các bài báo khoa học được đăng tải trên các tạp chí, tiêu biểu: “Toàn cầu cơ hội và
thách thức trong tiến trình Việt Nam hội nhập kinh tế với khu vực và Thế giới”, của Cao Sĩ
Kiêm, Tạp chí Cộng sản, (4), năm 1999; “Hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam trong quá
trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế”, của Trung Hiếu, Tạp chí Lý luận Chính trị, (3), năm
2003; “Đường lối hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng ta - quá trình hình thành và kết quả bước
đầu”, của Nguyễn Hoàng Giáp, Tạp chí Lịch sử Đảng, (11), năm 2003; “Xây dựng nền kinh tế
độc lập tự chủ trong điều kiện mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế”, của Phan Trọng Phức, Tạp chí
Cộng sản, (25), năm 2003; “Vấn đề cần quan tâm trong mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế”, của
Phan Tá, Tạp chí Cộng sản, (33), năm 2003; “Những thành tựu bước đầu của Việt Nam về hội
nhập kinh tế quốc tế”, của Hoàng Xuân Hoà, Tạp chí Lý luận Chính trị, (6), năm 2004; “Một số
vấn đề về hội nhập kinh tế quốc tế”, của Vũ Văn Hiền, Tạp chí Cộng sản, (10), năm 2004. Đã
tiếp cận dưới các góc độ khác nhau trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Nhóm các luận án, luận văn có các công trình: Công cuộc đổi mới với sự phát triển nhận thức
về con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam (1986 – 1994), Luận án
tiến sĩ lịch sử, của Đoàn Ngọc Hải, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội 1995; Độc
lập, tự chủ và sáng tạo trong lãnh đạo sự nghiệp đổi mới (1986 – 1996), Luận án tiến sĩ lịch sử,


của Doãn Hùng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội 1998; Đặc điểm công cuộc
đổi mới ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ lịch sử, của Tường Thuý Nhân , Học viện Chính trị quốc gia

Hồ Chí Minh, Hà Nội 2000; Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo hội nhập APEC, Luận án tiến sĩ
lịch sử, của Đinh Xuân Lý, Đại học Quốc gia, Hà Nội 2003; Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo
công cuộc đổi mới đưa đất nước từng bước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội từ 1986 đến
1996, Luận án tiến sĩ lịch sử, của Nguyễn Văn Sự, Học viện Chính trị quân sự, Hà Nội 2006;
Đảng Cộng sản Việt Nam với việc đổi mới tư duy hoạt động đối ngoại trong công cuộc đổi mới
(1986 – 2001), Luận án thạc sĩ, của Phan Trọng Tám, Học viện Chính trị quân sự, Hà Nội 2003.
Những công trình khoa học nêu trên đã giải quyết khá sâu sắc cơ sở lý luận và thực tiễn của quá
trình đổi mới toàn diện đất nước, nhưng chưa đi vào nghiên cứu chuyên sâu, riêng biệt về quan
điểm và chủ trương của Đảng đối với quá trình HNKTQT. Tuy nhiên, các công trình khoa học
nêu trên là những tài liệu quý, tác giả có thể tham khảo trong quá trình xây dựng luận văn của
mình.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục đích:
Làm rõ sự đúng đắn, sáng tạo của Đảng cùng những kinh nghiệm trong lãnh đạo HNKTQT
(từ 1991 đến 2001), từ đó có thế vận dụng vào thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước vì mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Nhiệm vụ:
- Khẳng định yêu cầu khách quan của quá trình HNKTQT.
- Trình bày cơ bản, hệ thống chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng về HNKTQT từ 1991 đến
2001.


- Đánh giá những thành tựu, hạn chế, chỉ rõ nguyên nhân, từ đó rút ra một số kinh nghiệm
trong quá trình Đảng lãnh đạo HNKTQT từ 1991 đến 2001
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Đường lối, chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng trong HNKTQT.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung làm rõ Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo
HNKTQT từ 1991 đến 2001.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận của luận văn dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,

quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về HNKTQT làm cơ sở lý luận nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu chủ yếu của luận văn sử dụng là phương pháp lịch sử, phương
pháp lô gích và sự kết hợp giữa hai phương pháp đó. Đồng thời luận văn sử dụng một số phương
pháp khác như: đồng đại, lịch đại, so sánh, tổng hợp, thống kê...
6. Ý nghĩa của luận văn
Luận văn góp phần khẳng định đường lối đúng đắn của Đảng lãnh đạo HNKTQT từ 1991đến
2001; đánh giá thành tựu, hạn chế và rút ra một số kinh nghiệm trong quá trình Đảng lãnh đạo
HNKTQT ở nước ta. Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo nghiên cứu, giảng dạy môn
khoa học lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam trong các trường quân đội.
7. Kết cấu của luận văn
Gồm phần mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.


Chương 1
YÊU CẦU KHÁCH QUAN VÀ CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG VỀ HỘI NHẬP KINH TẾ
QUỐC TẾ TỪ 1991 ĐẾN 2001
1.1. Yêu cầu khách quan của việc hội nhập kinh tế quốc tế
1.1.1. Vai trò của hội nhập kinh tế quốc tế
HNKTQT có liên quan trực tiếp với toàn cầu hoá kinh tế, là quá trình đồng hành với quá trình
toàn cầu hoá kinh tế. Dưới tác động của toàn cầu hoá kinh tế, thì nhu cầu HNKTQT cũng xuất
hiện. Có thể coi HNKTQT và toàn cầu hoá kinh tế là hai mặt của một quá trình, không thể có
toàn cầu hoá kinh tế nếu không có sự tham gia ngày càng nhiều của các quốc gia, dân tộc. Toàn
cầu hoá kinh tế là tất yếu kinh tế và trở thành một quá trình vận động mạnh mẽ của kinh tế thế
giới. HNKTQT là đòi hỏi khách quan và đang là lực hấp dẫn, vẫy gọi đối với mọi khu vực và
mọi quốc gia.
Khi nghiên cứu giai đoạn phát triển thấp của CNTB, giai đoạn đang diễn ra cuộc cách mạng
công nghiệp, C. Mác và Ph. Ăngghen không dùng thuật ngữ “toàn cầu hoá”, nhưng hai Ông đã
phát hiện ra xu thế vận động của nó. Trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” (1848), C. Mác và
Ph. Ăngghen đã đưa ra dự báo rằng, với sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất sẽ dẫn đến
phân công lao động xã hội rộng rãi mở rộng sự trao đổi hàng hoá trên phạm vi thế giới, hình

thành thị trường thế giới. Thị trường thế giới lại liên kết các dân tộc, các quốc gia trên toàn cầu.
C. Mác và Ph. Ăngghen viết :
Đại công nghiệp đã tạo ra thị trường thế giới... Nhờ cải tiến mau chóng công cụ sản xuất và
làm cho phương tiện giao thông trở nên vô cùng tiện lợi, giai cấp tư sản lôi cuốn đến cả những
dân tộc dã man nhất vào trào lưu văn minh. Giá rẻ của những sản phẩm của giai cấp ấy là trọng


pháo bắn thủng tất cả những bức vạn lý trường thành và buộc những người dã man bài ngoại một
cách ngoan cường nhất cũng phải hàng phục [46, tr. 598 - 602].
Toàn cầu hoá kinh tế phát triển kéo theo toàn cầu hoá các lĩnh vực khác. Trong Tuyên ngôn
của Đảng Cộng sản, hai Ông đã nêu lên xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế: “Do bóp nặn thị
trường thế giới, giai cấp tư sản đã làm cho sản xuất và tiêu dùng của tất cả các nước mang tính
chất thế giới... Thay cho tình trạng cô lập trước kia của các địa phương và dân tộc vẫn tự cung tự
cấp, ta thấy phát triển những quan hệ phổ biến, sự phụ thuộc phổ biến giữa các dân tộc” [45,
tr.601-602].
Do sự thúc đẩy bởi nhu cầu về nơi tiêu thụ mới mà giai cấp tư sản đã xâm lấn khắp toàn cầu,
thiết lập các mối quan hệ và khai thác ở khắp nơi. Điều này cho thấy, việc chiếm đoạt lợi nhuận
là động cơ thôi thúc bên trong gây nên toàn cầu hoá của giai cấp tư sản. Giai cấp tư sản muốn tạo
ra một thế giới theo hình ảnh của nó. Đây chính là thực chất toàn cầu hoá của giai cấp tư sản,
chính là quốc tế hoá tư bản, thực hành phương thức sản xuất TBCN ở khắp mọi nơi. Quá trình
quốc tế hoá các lực lượng sản xuất đã dẫn đến sự thay đổi chỉnh thể đời sống xã hội hình thành
nên lịch sử thế giới. Lịch sử thế giới không chỉ đánh dấu bằng cuộc “cách mạng kỹ thuật”, “cách
mạng công nghiệp”, mà bao gồm cả cuộc “cách mạng xã hội” làm biến đổi toàn bộ diện mạo
của đời sống xã hội. Trong điều kiện đó, không chỉ sản xuất, tiêu dùng, mà cả sự phát triển của
khoa học, văn hoá, tinh thần cũng có tính chất quốc tế. Trong khuôn khổ của quan hệ sản xuất
TBCN thì quá trình này về thực chất là quá trình quốc tế hoá tư bản mà động lực bên trong thôi
thúc nó là chiếm đoạt lợi nhuận. C. Mác và Ph. Ăngghen chỉ rõ: “Vì luôn luôn bị thúc đẩy bởi
nhu cầu về những nơi tiêu thụ sản phẩm, giai cấp tư sản xâm lấn khắp hoàn cầu. Nó phải xâm
nhập vào khắp nơi, trụ lại ở khắp nơi và thiết lập những mối liên hệ ở khắp nơi” [46, tr.601].



Như vậy, toàn cầu hoá kinh tế không chỉ là kết quả tất yếu của quá trình xã hội hoá sản xuất,
của tốc độ phát triển nhanh của lực lượng sản xuất, bắt nguồn từ sự thúc đẩy của khoa học, kỹ
thuật và công nghệ hiện đại, mà nó còn là kết quả tất yếu của sự phát triển sâu rộng nền kinh tế
thị trường trên phạm vi toàn thế giới, sự gia tăng phân công lao động quốc tế, sự mở rộng hơn
nữa trong không gian và thời gian các mối quan hệ giao lưu phổ biến của loài người và sự xuất
hiện những vấn đề toàn cầu cấp bách.
Khi CNTB đã phát triển thành chủ nghĩa đế quốc, thời kỳ mà sự tác động lẫn nhau đã trở nên
hết sức cấp bách của hai xu hướng thế giới: Một mặt là xu hướng quốc tế hoá, hội nhập kinh tế
và toàn bộ đời sống kinh tế xã hội và mặt khác là xu hướng biệt lập, xây dựng các nhà nước độc
lập. Hai xu hướng trên đã được V.I.Lênin phân tích một cách khoa học và hết sức sâu sắc, tiếp
tục vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác vào điều kiện lịch sử mới. Ngay từ năm 1913,
V.I.Lênin đã ghi nhận rõ ràng sự cách tân của lịch sử thế giới, sự chuyển biến trong sự tác động
lẫn nhau của các xu hướng biệt lập và xích lại gần nhau của các dân tộc ở đầu thế kỷ XX:
Trong quá trình phát triển của CNTB, có hai xu hướng lịch sử trong vấn đề dân tộc. Xu
hướng thứ nhất là: Sự thức tỉnh của đời sống dân tộc và của các phong trào dân tộc, cuộc đấu
tranh chống lại mọi áp bức dân tộc, việc thiết lập các quốc gia dân tộc. Xu hướng thứ hai là: Việc
phát triển và tăng cường đủ mọi thứ quan hệ giữa các dân tộc, việc xoá bỏ những hàng rào ngăn
cách các dân tộc và việc thiết lập sự thống nhất quốc tế của tư bản của đời sống kinh tế nói
chung, của chính trị, của khoa học... cả hai xu hướng đó là qui luật phổ biến, của chủ nghĩa tư
bản. Xu hướng thứ nhất chiếm ưu thế trong lúc chủ nghĩa tư bản mới bắt đầu phát triển, xu
hướng thứ hai là đặc trưng của chủ nghĩa tư bản già cỗi sắp chuyển thành xã hội xã hội chủ nghĩa
[38, tr. 58].


V.I.Lênin không phủ nhận xu hướng nào, mà thừa nhận sự tồn tại khách quan của chúng và
kêu gọi các nhà chính trị phải tính đến chúng. Xu hướng xích lại gần nhau tuy chưa có tính chất
toàn cầu và V.I.Lênin miêu tả nó bằng khái niệm “quốc tế hoá” nhưng đằng sau xu hướng đó,
V.I.Lênin đã chỉ ra đó là tương lai: “Biến thành xã hội XHCN” và bằng mọi cách phải sử dụng nó
để đấu tranh không khoan nhượng với chủ nghĩa dân tộc tư sản. Đồng thời, V.I.Lênin cũng chỉ

rõ, xu hướng đó không chỉ bao trùm trên lĩnh vực tư tưởng mà còn rất rộng rãi trong “ đời sống
kinh tế, chính trị, khoa học”. Đây là một cách tiếp cận rất khoa học và rất hữu ích đối với việc
nghiên cứu toàn cầu hoá hiện nay.
Trong quá trình phân tích các xu hướng lịch sử khách quan, V.I.Lênin đã rất thận trọng, tỉ mỉ,
rạch ròi và cũng rất nguyên tắc trong cuộc tranh luận với các luận điểm của các nhà tư sản đương
thời về vấn đề đồng hoá, tức là một dạng của hội nhập, mà họ đang kiên quyết phê phán hiện
tượng đồng hoá, đòi hỏi phải có một cuộc đấu tranh cách mạng chống lại nó, vì ở Nga nói riêng
và chế độ TBCN nói chung, đồng hoá đi kèm với sử dụng bạo lực áp bức, bất bình đẳng
V.I.Lênin cho rằng, người mác xít chống lại bạo lực, bất bình đẳng. Là tất yếu, nhưng Người lại
đặt ra vậy trong khái niệm đồng hoá, ngoài mọi thứ bạo lực và bất bình đẳng ra còn có cái gì
thực tế không? Và Người trả lời:
Đương nhiên là có. Còn có cái xu hướng lịch sử toàn thế giới của chủ nghĩa tư bản muốn xoá
bỏ những hàng rào ngăn cách các dân tộc, xoá bỏ mọi sự phân biệt dân tộc, muốn đồng hoá các
dân tộc, xu hướng cứ mười năm một lại mạnh mẽ hơn lên và trở thành một trong những động lực
lớn nhất biến chủ nghĩa tư bản thành chủ nghĩa xã hội [38, tr.159].
Như vậy, V.I.Lênin và những người mácxít chân chính cho rằng: Cần đấu tranh xoá bỏ không
phải là xu hướng đó mà là chống lại các phương tiện, các thủ đoạn cưỡng bức, bất bình đẳng, áp


bức mà CNTB sử dụng để đưa xu hướng đó vào đời sống hiện thực. Điều này rất có ý nghĩa đối
với việc nghiên cứu toàn cầu hoá và chiến lược hội nhập quốc tế đối với mỗi quốc gia hiện nay.
Đồng thời, V.I.Lênin cũng là người đầu tiên phân tích một cách sâu sắc những đặc điểm của
chủ nghĩa đế quốc và xem đó là giai đoạn phát triển tột cùng của CNTB. Người chỉ rõ, để tranh
thủ những nguồn lực, phương tiện vật chất cần thiết cũng như học hỏi kinh nghiệm của CNTB
thì: “Chúng ta không hình dung một thứ CNXH nào khác hơn là CNXH dựa trên cơ sở tất cả
những bài học mà nền văn minh lớn của chủ nghĩa tư bản đã thu được” [39, tr.334].
Nghiên cứu CNTB ở giai đoạn phát triển cao, V.I.Lênin đã đưa ra thuật ngữ “quốc tế hoá tư
bản”, luận giải qua xuất khẩu tư bản, hình thành những liên minh độc quyền quốc tế của các
nước tư bản chia nhau thị trường và khu vực đầu tư thế giới. Đó là một trong những đặc điểm cơ
bản của CNTB ở giai đoạn phát triển cao, giai đoạn CNTB độc quyền, làm cho sức sản xuất phát

triển cao độ đòi hỏi phải phá vỡ các rào cản thương mại giữa các quốc gia, xoá bỏ sự hỗ trợ mậu
dịch để các luồng tư bản (vốn), lao động... được tự do lưu chuyển trên phạm vi toàn cầu. Như
vậy, giữa quốc tế hoá nền kinh tế và toàn cầu hoá kinh tế có đặc điểm chung đều là kết quả của
sự phát triển lực lượng sản xuất, phân công và hợp tác lao động.
Cùng với toàn cầu hoá, HNKTQT vừa là đòi hỏi khách quan của kinh tế quốc tế nói chung,
vừa là nhu cầu nội tại của sự phát triển kinh tế của mỗi nước. Hội nhập giúp cho việc mở rộng cơ
hội kinh doanh, thâm nhập thị trường thế giới, tìm kiếm và tạo lập thị trường ổn định, từ đó có
điều kiện thuận lợi để xây dựng kế hoạch và cơ cấu đầu tư, sản xuất kinh doanh, giải quyết việc
làm, phát triển kinh tế trong nước.
Quá trình HNKTQT diễn ra ở nhiều cấp độ khác nhau và nhiều phương thức khác nhau. Tuỳ
theo tình hình, hoàn cảnh cụ thể, tuỳ theo thời gian và không gian cụ thể mà sự tham gia hội


nhập quốc tế được thực thi theo các cấp độ như: Song phương, tam giác, tứ giác, tiểu khu vực,
khu vực, liên khu vực và toàn cầu. Các cấp độ hội nhập này được biểu hiện dưới nhiều vẻ khác
nhau, có thể từ thấp tới cao, từ đơn phương, song phương đến đa phương, nhưng cũng có khi hội
nhập tiến hành cùng một lúc với nhiều cấp độ. Về mặt phương thức hội nhập cũng diễn ra rất đa
dạng: Khu vực mậu dịch ưu đãi, khu vực mậu dịch tự do, liên minh thuế quan, thị trường chung,
liên minh kinh tế...
Ở cấp độ đơn phương, mỗi nước có thể chủ động thực hiện những biện pháp thuận lợi hoá,
mở cửa trong một số lĩnh vực nhất định mà họ thấy cần thiết vì mục đích phát triển kinh tế của
mình, chứ không nhất thiết phải do sức ép hay quy định của các định chế, tổ chức kinh tế quốc tế
mà họ là thành viên. Rất nhiều nước đã hành động như vậy, nhất là trong lĩnh vực đầu tư. Ở cấp
độ song phương, nhiều nước đã và đang tích cực đàm phán để ký với nhau các hiệp định song
phương trên cơ sở các nguyên tắc của một khu mậu dịch tự do. Những năm gần đây, xu hướng
này khá phát triển cùng với sự hình thành, mở rộng các khu mậu dịch tự do đa phương. Ở cấp độ
đa phương, nhiều nước cùng nhau thành lập hoặc tham gia vào những định chế, tổ chức kinh tế
khu vực thường vận hành trên cơ sở các nguyên tắc nền tảng của WTO.
Các tổ chức kinh tế thương mại khu vực đều dựa trên nền tảng, tuân thủ các nguyên tắc của
WTO. Chúng ra đời là nhằm mục tiêu thúc đẩy hợp tác, thực hiện tự do hoá, thuận lợi hoá

thương mại và đầu tư, tạo lợi thế cạnh tranh trên trường quốc tế. Mỗi tổ chức đều chọn những
lĩnh vực mà mình có lợi thế hơn để tập trung nguồn lực, thúc đẩy hợp tác chiều sâu, theo những
phương thức đa dạng, nhằm tạo lợi thế cạnh tranh riêng cho khu vực.
Thực tế cho thấy, sự ra đời và hoạt động của các tổ chức toàn cầu cũng như khu vực đều
nhằm giải quyết vấn đề thị trường. Xu thế toàn cầu hoá và khu vực hoá là kết quả của quá trình
cạnh tranh, giành giật thị trường quyết liệt giữa các quốc gia và giữa các thực thể kinh tế quốc tế.


Nhờ những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, cùng những cải tiến trong
quản lý, điều hành sản xuất kinh doanh, mà sức sản xuất ngày càng tăng, sản phẩm tạo ra càng
nhiều, điều đó đòi hỏi mở rộng thị trường tiêu thụ. Thông qua hợp tác quốc tế, những rào cản
thương mại, đầu tư dần được dỡ bỏ, nhờ vậy sản xuất cũng như trao đổi thương mại giữa các
nước ngày càng trở nên sôi động và thuận lợi hơn, toàn bộ nền sản xuất thế giới trở thành “một
dây chuyền sản xuất liên hoàn”, cả thế giới trở thành “một thị trường thống nhất”.
Trước những biến đổi to lớn về khoa học - công nghệ và sự phát triển mạnh mẽ của xu thế
toàn cầu hoá, khu vực hoá, cho nên, tất cả các nước trên thế giới đều tiến hành điều chỉnh cơ cấu
kinh tế, đổi mới chính sách theo hướng mở cửa, giảm và tiến tới dỡ bỏ hàng rào thuế quan và phi
thuế quan, tạo thông thoáng cho việc trao đổi hàng hoá, luân chuyển vốn, lao động và kỹ thuật
trên phạm vi toàn cầu; tích cực tham gia vào phân công lao động quốc tế, mở đường cho kinh tế
quốc tế phát triển. Tức là hầu hết các nước đều nhận thấy cần phải tiến hành hội nhập kinh tế khu
vực và kinh tế toàn cầu.
Trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay, hội nhập kinh tế có nét mới. Nó bao hàm đồng thời quá
trình mở cửa nền kinh tế, thị trường trong nước cho các đối tác bên ngoài vào và tiến hành thâm
nhập vào hệ thống kinh tế trong nước, thị trường bên ngoài. Nếu trước đây, hai mặt này thường
không diễn ra đồng thời, không song hành với nhau, thì giờ đây không thể tiến hành HNKTQT
mà không mở cửa nền kinh tế và thị trường trong nước. HNKTQT càng sâu, thì càng phải mở
cửa nhiều. Cơ sở của sự gắn kết này chính là sự phát triển sâu sắc của phân công lao động quốc
tế.
Nhìn chung, các hình thức và mức độ HNKTQT là rất phong phú. Mỗi hình thức, mỗi mức độ
đòi hỏi những điều kiện nhất định mà các thành viên tham gia phải đáp ứng được. Về mặt kinh

tế, các thành viên phải là những nền kinh tế theo cùng một mô típ (cùng mô hình kinh tế thị


trường). Khi hội nhập đạt đến mức cao, đòi hỏi các thành viên phải có trình độ phát triển kinh tế
không quá chênh lệch nhau. Về mặt chính trị - xã hội, sự khác biệt về hệ thống chính trị - xã hội
giữa các thành viên cũng là những cản trở đối với quá trình hội nhập. Khi mức độ hội nhập càng
sâu, thì những đòi hỏi đồng nhất về hệ thống chính trị - xã hội cũng càng cao. Bởi lẽ, hội nhập ở
mức cao, thì các thành viên phải phối hợp và thống nhất chính sách chung không chỉ trong lĩnh
vực kinh tế mà cả trong lĩnh vực chính trị - xã hội. Thời kỳ chiến tranh lạnh, những đòi hỏi về
mặt kinh tế cũng như về mặt chính trị - xã hội đối với các thành viên của cùng một định chế hoặc
tổ chức kinh tế quốc tế nhìn chung rất chặt chẽ. Lúc đó, sự khác biệt về bản chất của hệ thống
kinh tế, chính trị, xã hội là yếu tố không thể chấp nhận được đối với các thành viên của cùng một
định chế hoặc tổ chức kinh tế quốc tế. Về mặt địa lý, những tổ chức kinh tế khu vực thường bao
hàm yếu tố gần nhau về địa lý giữa các nước. Tuy nhiên, giờ đây, các tiêu chí này ngày càng
không còn là đòi hỏi bắt buộc đối với nhiều định chế, tổ chức khu vực nữa.
1.1.2. Những cơ hội và thách thức của các nước trong hội nhập kinh tế quốc tế
Những cơ hội trong hội nhập kinh tế quốc tế
Toàn cầu hoá và HNKTQT tạo ra những cơ hội mà các nước có thể tận dụng để đẩy nhanh
tốc độ tăng trưởng kinh tế và nâng cao mức sống cho người dân. Toàn cầu hoá và HNKTQT là
quá trình thuận lợi hoá thương mại và đầu tư, làm cho các rào cản đối với trao đổi thương mại và
đầu tư bị loại bỏ dần. Điều này tạo điều kiện thuận lợi để các nước tăng cường buôn bán, trao đổi
quốc tế, thu hút đầu tư và các nguồn lực bên ngoài, phát huy các nguồn nội lực nhằm phát triển
những ngành sản xuất mà mỗi nước có khả năng nhất và hiệu quả nhất. Nhờ toàn cầu hoá, tăng
cường HNKTQT, tích cực tham gia vào phân công lao động quốc tế, các nước, nhất là các quốc
gia đang phát triển, nhận được nguồn vốn bổ sung thông qua FDI, những dây chuyền sản xuất,
công nghệ tiên tiến, kinh nghiệm, tri thức quản lý kinh tế tiên tiến. Do vậy, có cơ hội tăng tốc sự


phát triển kinh tế, thoát khỏi đói nghèo, lạc hậu, có thêm nguồn lực để giải quyết các vấn đề xã
hội.

HNKTQT cũng là quá trình truyền bá và chuyển giao trên quy mô ngày càng lớn (tuy chưa
được như mong muốn) những thành quả mới mẻ, những đột phá sáng tạo về khoa học, công
nghệ, về tổ chức quản lý, về sản xuất và kinh doanh, đưa kiến thức và kinh nghiệm đến với các
dân tộc cũng như đến từng gia đình, từng người dân, thúc đẩy quá trình CNH, HĐH nền kinh tế
mỗi nước. HNKTQT cũng mang lại những nguồn lực rất quan trọng, rất cần thiết cho các nước,
nhất là các nước đang phát triển, từ nguồn vốn vật chất đến nguồn vốn tri thức và kinh nghiệm,
từ chiến lược dài hạn đến kế hoạch ngắn hạn, cả cách thức tiến hành ở tầm vĩ mô của quốc gia
lẫn tầm vi mô của từng doanh nghiệp, tạo điều kiện để các nước có thể tạo lập được vị trí của
mình trong quan hệ kinh tế quốc tế.
HNKTQT là quá trình hợp tác trên cơ sở có đi có lại, áp dụng chế độ ưu đãi đối với các nước
thành viên trong tổ chức mà mình tham gia và đối xử thuận lợi hơn đối với các quốc gia kém
phát triển hơn trên cơ sở tuân thủ các nguyên tắc, chấp nhận các luật lệ và tập quán quốc tế.
HNKTQT nhằm mở rộng thị trường, nhận được những ưu đãi về thương mại. Nhìn chung,
các tổ chức WTO, ASEAN/AFTA, APEC... đều có mục tiêu chung là giải quyết vấn đề thị
trường và vấn đề sống còn của thương mại, thực hiện tự do hoá thương mại và đầu tư thông qua
việc giảm dần từng bước, đi tới triệt tiêu hàng rào thuế quan và phi thế quan, không thừa nhận sự
bảo hộ bằng phi thuế, đồng thời hợp tác hỗ trợ lẫn nhau để phát triển sản xuất mở rộng thị
truờng.
Những thách thức trong hội nhập kinh tế quốc tế


Tham gia vào toàn cầu hoá kinh tế HNKTQT với nhiều quy định khắt khe làm cho nhiều
nước khó đáp ứng hoặc nếu đáp ứng được thì phải trả giá đắt. Mỗi tổ chức kinh tế quốc tế đều có
mục tiêu, nguyên tắc tổ chức, hoạt động riêng rất chặt chẽ. Một nước thành viên của tổ chức phải
tuân thủ các quy định của tổ chức và hoàn thành nghĩa vụ của mình. Điều đó thực sự là khó
khăn, nhất là đối với các nước đang phát triển, vì các điều luật đều được xây dựng trên nền tảng
kinh tế - xã hội của các nước phát triển và chịu sự chi phối của các nước đó.
Hội nhập kinh tế càng sâu, càng rộng, thì đối với nhiều nước, tính tuỳ thuộc vào bên ngoài
càng cao, khả năng bất trắc, khó lường càng lớn. Mở rộng thêm khoảng cách giàu nghèo ở từng
nước và giữa các nước, các khu vực của thế giới. Các mối lợi thu được từ toàn cầu hoá và

HNKTQT được phân phối không đồng đều, không công bằng không chỉ giữa các nước, mà còn
cả giữa các tầng lớp, bộ phận dân cư, giữa các vùng, địa phương trong từng nước.
Toàn cầu hoá kinh tế và HNKTQT tạo nên thách thức đối với độc lập dân tộc chủ quyền quốc
gia, làm xói mòn quyền lực của Nhà nước nhất là trong lĩnh vực kinh tế. Quá trình hội nhập kinh
tế đặt ra những vấn đề phải xử lý, liên quan đến độc lập chủ quyền, đến hệ thống chính trị và các
thiết chế xã hội. Tính độc lập của mỗi quốc gia sẽ bị thách thức. Điều này được thể hiện đặc biệt
rõ nét trong lĩnh vực kinh tế. Tham gia vào các tổ thức kinh tế, thương mại khu vực và toàn cầu,
để thu hút đầu tư của các đối tác bên ngoài, các Chính phủ buộc phải nhượng một phần quyền
quyết định, quản lý sản xuất kinh doanh, kiểm soát lưu thông của các dòng tài chính, đầu tư cho
các thể chế quốc tế và các đối tác. Việc các nước mở cửa với bên ngoài, cho phép các đối tác
bên ngoài vào làm ăn, kinh doanh trên lãnh thổ của mình, tạo khe hở, dễ bị các thế lực thù địch
tận dụng để tăng cường hoạt động chống phá, đe dọa an ninh, chủ quyền quốc gia.
Toàn cầu hoá và HNKTQT làm cho nhiều mặt hoạt động và đời sống của con người trở nên
kém an toàn hơn: Từ lĩnh vực kinh tế tài chính tiền tệ, đến lĩnh vực văn hoá xã hội, môi trường.


Trong bối cảnh toàn cầu hoá và HNKTQT cũng phát sinh hàng loạt vấn đề toàn cầu như: Ô
nhiễm môi trường tự nhiên, bệnh tật hiểm nghèo, xung đột tôn giáo, sắc tộc, mở rộng hoạt động
của tội phạm quốc tế, chủ nghĩa khủng bố...
Ngoài những tác động tiêu cực và thách thức do toàn cầu hoá và HNKTQT gây ra, thì các
nước lựa chọn con đường phát triển theo định hướng XHCN (như Việt Nam chúng ta) tham gia
toàn cầu hoá và tiến hành HNKTQT còn phải đối mặt với một thách thức không nhỏ mang tính
chính trị. Đó là, nguy cơ chệch hướng XHCN.
Từ những phân tích ở trên cho thấy, HNKTQT giờ đây đã trở thành một xu hướng tất yếu,
một điều kiện, tiền đề không thể thiếu cho sự phát triển thịnh vượng của các quốc gia trong cộng
đồng thế giới. Vấn đề đặt ra không chỉ là sự nhận thức rõ ràng xu thế tất yếu ấy, mà điều quan
trọng hơn là xây dựng được chiến lược, đưa ra được hệ những giải pháp phù hợp với tình hình
quốc tế, và điều quan trọng nhất là phải phù hợp với trình độ phát triển của đất nước. Để
HNKTQT thành công, cần phải có không chỉ quyết tâm, ý chí chính trị, mà còn phải có thực lực,
đường lối chiến lược, sách lược hợp lý và đặc biệt là phải kịp thời nghiên cứu, học tập kinh

nghiệm HNKTQT của các nước trên thế giới và khu vực, vận dụng sáng tạo, phù hợp với điều
kiện khả năng của Việt Nam.
1.1.3. Kinh nghiệm của một số nước trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
HNKTQT là một quá trình lâu dài và bao quát nhiều lĩnh vực trên toàn cầu, với sự tham gia
của hầu hết các quốc gia, từ các nước công nghiệp phát triển nhất, đến các nước đang phát triển.
Để thích ứng hiệu quả với quá trình này tất cả các nước một mặt, đều cần có đường lối chiến
lược và sách lược cùng với hệ thống các giải pháp đồng bộ, phù hợp với đặc điểm kinh tế - xã


hội quốc gia, mặt khác, chủ động nắm bắt, đón nhận các xu hướng mới và tuân thủ nội dung các
cam kết và thông lệ quốc tế về HNKTQT.
Kinh nghiệm của Nhật Bản
Kinh nghiệm nổi bật và đáng giá nhất trong HNKTQT là của Nhật Bản với sự lựa chọn phát
triển các ngành, sản phẩm chủ lực được chế biến sâu, hướng về xuất khẩu, thích hợp với nhu cầu
thị trường thế giới và lợi thế so sánh của Nhật Bản. Lúc đầu, Nhật lựa chọn các ngành sợi tổng
hợp, hóa dầu, luyện thép và điện tử..., sau chuyển dần trọng tâm sang các ngành cơ khí chế tạo: ô
tô, máy móc, thiết bị điện tử sinh hoạt...
Để thực hiện sự lựa chọn đúng đắn, hiệu quả các định hướng chuyển dịch cơ cấu vĩ mô và vi
mô trong quá trình HNKTQT, Chính phủ Nhật Bản đã giữ vai trò quan trọng, trước hết trong
việc khơi thông thị trường quốc tế bằng các hiệp định liên chính phủ và cấp các khoản ODA cho
các nước là thị trường tiềm năng, tăng cường cung cấp thông tin thị trường, giảm dần sự kiểm
soát, can thiệp trực tiếp của chính phủ.
Nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp và sản phẩm xuất khẩu là ưu tiên hàng
đầu của Nhật Bản. Nhằm mục tiêu này, chính phủ tích cực chỉ đạo việc cấp ưu đãi thuế, tín dụng
cho doanh nghiệp, nhưng giảm dần “liều lượng” ưu đãi để sớm đặt các doanh nghiệp trong sự
cạnh tranh thị trường đầy đủ, lành mạnh hơn. Ngoài những ưu đãi trên, Chính phủ khuyến khích
doanh nghiệp nhập khẩu và “nội địa hoá” công nghệ nước ngoài. Mặt khác, chính phủ tích cực
khuyến khích, dàn xếp “dỡ bỏ” các doanh nghiệp yếu, kết nối các xí nghiệp lại thành những
công ty lớn hơn và các tập đoàn doanh nghiệp để đủ sức cạnh tranh với các công ty đa quốc gia ở
thị trường trong và ngoài nước.



Trong xúc tiến thương mại, đặc biệt là xúc tiến xuất khẩu, mới thật sự là trọng tâm ưu tiên và
chìa khoá quan trọng cho sự thành công của Nhật trong suốt quá trình HNKTQT ở cả cấp chính
phủ lẫn tập đoàn doanh nghiệp. Phát triển và mở rộng quy mô các quan hệ giữa hoạt động nghiên
cứu khoa học - công nghệ và nghiên cứu tiếp thị - xúc tiến thương mại.
Như vậy, với việc hình thành phát triển và ngày càng mở rộng quy mô, đồng bộ và tự chủ
hơn, tổ chức xúc tiến thương mại ở Nhật Bản cho thấy vai trò tích cực của chính phủ trong việc
kết hợp chặt chẽ giữa hoạt động nghiên cứu phát triển khoa học - công nghệ với nghiên cứu tiếp
thị xúc tiến thương mại. Điều này càng được thể hiện đậm nét qua việc triển khai những đổi mới
quan trọng về cơ chế quản lý và xúc tiến thương mại nó được đặt ra trong thực tiễn hoạt động
của bộ Ngoại giao và các bộ ngành khác
Tất cả các cơ quan xúc tiến thương mại của Nhật Bản đều là cơ quan phi lợi nhuận, được xếp
vào nhóm các cơ quan sự nghiệp phúc lợi công cộng, trực thuộc chính phủ và không phải là cơ
quan quản lý. Chúng có mạng lưới toả rộng khắp trong và ngoài nước làm nhiệm vụ theo dõi
những thay đổi về chính sách thuế quan, thị hiếu tiêu dùng, sức cạnh tranh, thăm dò, tìm kiếm
đối tác tiềm năng ở nước ngoài, rồi chuyển thông tin về nước phục vụ các doanh nghiệp, đồng
thời làm nhiệm vụ thành lập các phòng trưng bày, triển lãm ở nước ngoài cho sản phẩm xuất
khẩu của Nhật Bản. Các cơ quan này nhận được tài trợ từ nhiều nguồn: Nguồn ngân sách nhà
nước tập trung được cấp trực tiếp, nguồn thu phí hội viên, lệ phí dịch vụ và các hoạt động có thu
khác...
Để tăng cường sức cạnh tranh trong HNKTQT cho khu vực doanh nghiệp, Nhật Bản rất quan
tâm đến việc thành lập các hiệp hội và tổ chức hỗ trợ toàn diện các doanh nghiệp vừa và nhỏ,
nhất là về tín dụng và bảo lãnh tín dụng, tư vấn, cho doanh nghiệp, đổi mới giáo dục nhận thức


và đào tạo tay nghề cho công nhân, tạo cơ hội phát triển những ngành công nghệ mới, linh hoạt
hoá thị trường lao động.
Tiến hành “mở cửa” toàn diện hơn hầu hết các lĩnh vực hàng hoá, lao động, tài chính, xây
dựng và đầu tư... , cải thiện môi trường pháp lý văn hoá và kinh doanh của mình phù hợp cam

kết, tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế. Cải tổ cơ cấu kinh tế, tạo ra sự liên quan và thống nhất chặt
chẽ cả “dọc” và “ngang”, trong nước và quốc tế.
Tăng cường đầu tư trực tiếp ra nước ngoài để lập cơ sở sản xuất cung cấp cho thị trường tại
chỗ, xuất khẩu sang nước thứ ba hoặc tái xuất vào Nhật Bản là biện pháp cơ bản để Nhật Bản
giải quyết mâu thuẫn với các bạn hàng và HNKTQT. Giữa các công ty mẹ ở Nhật Bản và công ty
con hay chi nhánh ở nước ngoài hình thành mạng lưới toàn cầu thống nhất, mỗi công ty, nhà máy
đảm nhận một khâu của quá trình sản xuất kinh doanh đó, bổ sung và phụ thuộc lẫn nhau, song
ngày càng tăng cường tính độc lập, tự chủ, nhằm tận dụng những lợi thế so sánh ở từng nước.
Mặt khác, Nhật Bản tham gia sâu rộng hơn vào các vấn đề quốc tế, thể hiện và đáp ứng trách
nhiệm, chia sẻ nghĩa vụ quốc tế trong các vấn đề toàn cầu, trước hết là các vấn đề khu vực châu
Á.
Các nước đang phát triển châu Á
Theo mô hình Nhật Bản, đa số các nước đang phát triển ở châu Á đều khởi động quá trình
HNKTQT của mình từ việc đẩy mạnh xuất khẩu một số mặt hàng chủ lực với hàm lượng chế
biến tăng dần:
Nếu như năm 1970 nhiên liệu, khoáng sản, kim loại và các sản phẩm sơ chế chiếm tới 97%
tổng xuất khẩu của In-đô-nê-xi-a, 97 % của Mianma, 74 % của Thái lan, 65% của Phi-líp-pin,
11% của Hàn Quốc, 49% của Xingapo và 39% của Ấn Độ, thì đến năm 1990 cơ cấu xuất khẩu


của các nước này đã có những chuyển biến căn bản; đa dạng hơn, giảm hàng hoá nhiên liệu và
nông sản, tăng nhanh hàng công nghiệp có hàm lượng khoa học và chế biến cao. Chẳng hạn,
hàng sơ chế và nông sản của Malayxia chỉ còn chiếm 20,4% tổng kim ngạch xuất khẩu năm
1995; của Thái Lan chỉ còn 17,4% năm 1994. Hơn nữa, hầu như mỗi nước đều đã tìm được và
tập trung phát triển 5-10 mặt hàng chủ lực mà mình có lợi thế so sánh nhất [60, tr.73].
Nét chung về nhập khẩu của các nước trong khu vực là đều cố gắng giảm nhập khẩu hàng tiêu
dùng, dành ngoại tệ để nhập nguyên vật liệu, máy móc, thiết bị, công nghệ, sản phẩm trung gian,
tăng cường sản xuất trong nước, giải quyết việc làm và phát triển nền công nghiệp nội địa. Hai
chủng loại mặt hàng là các hàng hoá có hàm lượng công nghệ cao và các “hàng hoá trung gian”
bán thành phẩm chiếm tới 90 - 93% tổng giá trị hàng nhập khẩu của các nước ASEAN. Song, tỷ

trọng nhập khẩu sản phẩm trung gian giảm dần, do nhiều nước ASEAN đã tự sản xuất được các
sản phẩm trung gian ở trong nước, thay vào đó, tỷ trọng nhập khẩu hàng hoá có hàm lượng công
nghệ cao như máy móc, thiết bị công nghiệp tăng lên.
Các nước trong khu vực đều coi trọng tự do hoá kinh doanh của khu vực tư nhân và Nhà
nước, chú ý sử dụng linh hoạt các biện pháp ưu đãi về thuế, trợ giúp xuất khẩu và thực thi chính
sách tỷ giá linh hoạt. Phương thức “hàng đổi hàng”, “thanh toán bồi hoàn”, “mua bán trả chậm”
cũng được vận dụng mền dẻo để khắc phục tình trạng khó khăn về thị trường và ngoại tệ nhằm
hỗ trợ tích cực xuất khẩu.
Trong quá trình HNKTQT kết hợp hai chiến lược: “sản xuất thay thế nhập khẩu” với “sản
xuất hướng vào xuất khẩu” để khai thác các khía cạnh tích cực, giảm thiểu các tác động tiêu cực
của cả hai chiến lược này. Nhưng xu hướng chuyển dịch trọng tâm từ “thay thế nhập khẩu” sang
“hướng về xuất khẩu” đã thắng thế ở một loạt nước Đông - Nam Á.


Từ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của các nước trong khu vực có thể rút ra một số kinh
nghiệm như sau:
Một là, trong cách thức lựa chọn thị trường, các nước này đều đặt trọng tâm ưu tiên vào xây
dựng và phát triển các thị trường có dung lượng lớn, sức tiêu thụ cao ở các nước phát triển nhằm
khai thác tối đa các lợi thế cạnh tranh của mình. Đồng thời, xuất khẩu lẫn sang nhau trong khuôn
khổ AFTA cũng được nhiều nước ASEAN coi trọng.
Hai là, thực hiện chính sách đa dạng hoá thị trường cũng được nhấn mạnh nhằm mục tiêu xác
lập cơ cấu cân bằng giữa các thị trường trong khu vực và toàn thế giới, để vừa mở rộng thị
trường, phát triển ngoại thương, khuyến khích xuất khẩu, vừa tránh được sự phụ thuộc quá mức
vào một thị trường nào đó.
Ba là, một số nước chuyển từ chính sách ưu tiên thay thế nhập khẩu sang hướng vào xuất
khẩu, mở cửa HNKTQT. Nhiều biện pháp được áp dụng đồng bộ: hoàn thiện môi trường pháp
lý, tự do hoá thị trường hối đoái, tự do hoá nhập khẩu; Nhà nước tăng cường hỗ trợ tài chính cho
các tập đoàn doanh nghiệp lớn nhanh chóng vươn mình ra thị trường nước ngoài; ưu đãi tài chính
- tín dụng cho các doanh nghiệp xuất khẩu, miễn thuế cho các hoạt động gia công xuất khẩu,
miễn thuế nhập nguyên liệu, máy móc để gia công, cho vay tín dụng lãi xuất thấp, khuyến khích

nhập khẩu tư bản nước ngoài thông qua luật thúc đẩy nhập khẩu tư bản nước ngoài.
Bốn là, từng bước đề ra và xúc tiến một loạt chính sách tự do hoá thương mại, tự do hoá đầu
tư, khuyến khích FDI, đặc biệt là mời chào các công ty đa quốc gia vào kinh doanh tại đất nước
mình. Cũng nhờ vậy, các doanh nghiệp trong nước sớm trở nên “cứng cáp” hơn. Lúc đầu, các
công ty địa phương chỉ đảm nhận công việc đại lý, tiêu thụ hàng hoá; liên doanh, liên kết với các
công ty đa quốc gia trong việc lắp ráp sản phẩm. Dần dần, họ trưởng thành và đảm nhận các


công việc phức tạp và có lợi nhuận cao như nhà thầu phụ, sản xuất các linh kiện, phụ tùng rồi
biến thành công ty con của các công ty đa quốc gia, sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm mang
nhãn hiệu nổi tiếng thế giới, hoặc sẽ trở thành các công ty độc lập, tự bươn trải trên thị trường.
Năm là, quản lý chất lượng hàng hoá, sản phẩm xuất - nhập khẩu, thực hiện chế độ bắt buộc
áp dụng các tiêu chuẩn quốc gia và tự nguyện áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế như ISO 9000, ISO
9001, ISO 14000...tham gia vào quản lý chất lượng hàng hoá ở những nước này, ngoài các cơ
quan nhà nước còn có hàng loạt các công ty giám định chất lượng thế giới. Khi ký hợp đồng
ngoại thương, các doanh nghiệp có thể quy định việc sử dụng dịch vụ của các công ty giám định
này trong hợp đồng.
Như vậy, các nước đang phát triển đều có chủ trương tiếp tục góp phần đẩy mạnh và đón
nhận toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế, đặc biệt là ngành công nghiệp; phát triển kinh tế theo
hướng tri thức, phát triển các tập đoàn kinh tế đủ sức giữ vững thị phần trong nước và cạnh tranh
hiệu quả ở nước ngoài trên cơ sở đa dạng hoá, linh hoạt và hiện đại hoá công nghệ sản xuất và
dịch vụ cung ứng sản phẩm, hoàn thiện hơn cơ chế thị trường và tăng cường cải thiện môi trường
kinh doanh theo các cam kết, tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế.
Tóm lại, cả Nhật Bản cũng như các nước đang phát triển và nhiều nước khác, dù khác nhau
về lộ trình, nội dung và hình thức trong quá trình HNKTQT, nhưng tất cả đều nổi lên nhiều điểm
chung, đó là việc chuyển từ định hướng phát triển sản xuất thay thế nhập khẩu sang tích cực
hướng về xuất khẩu và kết hợp thay thế nhập khẩu tuỳ theo lợi thế so sánh của mỗi nước, mỗi
giai đoạn phát triển và tình hình thị trường trên cơ sở tích cực đàm phán tham gia các tổ chức
kinh tế khu vực và quốc tế chủ động mở cửa thực hiện tự do hoá thương mại, đầu tư, kinh doanh,
tuân thủ các cam kết, tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế trong các lĩnh vực hoạt động quản lý và kinh

doanh; hỗ trợ tăng sức cạnh tranh của khu vực doanh nghiệp trong nước theo cả hai hướng


khuyến khích các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đồng thời tích cực hỗ trợ phát triển các tập đoàn
kinh doanh lớn, định hướng hoạt động xuyên quốc gia, xúc tiến các hoạt động thương mại và vận
động đầu tư nước ngoài, đi đôi với khuyến khích các doanh nghiệp trong nước và đầu tư ra nước
ngoài. Đặc biệt, việc cải thiện môi trường đầu tư để thu hút FDI, thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu
sản xuất trong nước hoà nhập với sự phân công lao động và liên kết kinh tế quốc tế đều được các
nước dành sự ưu tiên hàng đầu.
1.1.4. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trước những năm đổi mới toàn
diện đất nước
Kế thừa và vận dụng sáng tạo những tư tưởng trên của chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện
thực tế Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chủ trương kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại, coi đó là một trong những nguyên tắc cơ bản của cách mạng Việt Nam, đặt nền
móng, cơ sở hình thành đường lối chiến lược HNKTQT của ta sau này. Trong thư gửi Tổng thư
ký Liên hợp quốc tháng 12/ 1946 Hồ Chí Minh viết:
Việt Nam sẵn sàng thực thi chính sách mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực:
a. Nước Việt Nam dành sự tiếp nhận thuận lợi cho đầu tư của các nhà tư bản, nhà kỹ thuật
nước ngoài trong tất cả các ngành kỹ nghệ của mình,
b. Nước Việt Nam sẵn sàng mở rộng các cảng, sân bay và đường sá giao thông cho việc buôn
bán và quá cảnh quốc tế.
c. Nước Việt Nam chấp nhận tham gia mọi tổ chức hợp tác kinh tế quốc tế dưới sự lãnh đạo
của Liên hợp quốc [48, tr.470].
Khi chiến tranh thế giới thứ hai vừa kết thúc, đất nước mới giành được độc lập, với tầm nhìn
xa, trông rộng và bằng tư duy sắc sảo của một lãnh tụ thiên tài, Hồ Chí Minh đã hình thành nên


tư tưởng chiến lược kinh tế mở, đề cập một cách đầy đủ và rõ ràng, đạt tầm hiện đại, xuyên thế
kỷ XX.
Sau chiến tranh Thế giới thứ hai, thế giới chia làm hai phe XHCN và CNTB. Trước tình hình

đó Hồ Chí Minh cố gắng tìm mọi cách mở rộng quan hệ với các nước, để tranh thủ sự ủng hộ,
giúp đỡ của bạn bè cho sự nghiệp xây dựng nước nhà. Ngày 18 tháng 7 năm 1947, khi trả lời một
nhà báo nước ngoài, Hồ Chí Minh nói :
Chúng tôi chủ trương làm cho tư bản Việt Nam phát triển. Mà chỉ có thống nhất và độc lập thì
tư bản Việt Nam mới có thể phát triển. Đồng thời chúng tôi hoan nghênh tư bản Pháp và tư bản
các nước khác thật thà cộng tác với chúng tôi. Một là để xây dựng lại Việt Nam sau lúc bị chiến
tranh tàn phá, hai là để điều hoà kinh tế thế giới và gìn giữ hoà bình [ 49, tr.170].
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến lược kinh tế mở được hình thành từ rất sớm. Cùng với thời
gian và trước những thử thách khắc nghiệt của công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước suốt mấy
chục năm, Hồ Chí Minh luôn nhất quán và xử lý linh hoạt, đúng đắn chiến lược kinh tế mở. Tư
tưởng của Người đã, đang là điểm tựa quan trọng để Đảng và Nhà nước ta hoạch định đường lối
chiến lược HNKTQT trong xu thế toàn cầu hoá kinh tế quốc tế hiện nay.
Kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, nước ta tạm thời chia
thành hai miền. Trong bối cảnh như vậy, nhiệm vụ xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội ở miền
Bắc để làm hậu phương vững chắc cho sự nghiệp giải phóng miền Nam được xác định là một
nhiệm vụ chiến lược quan trọng của cách mạng Việt Nam Trong thời kỳ này, phát triển quan hệ
kinh tế đối ngoại được Đảng và Nhà nước ta quan tâm. Năm 1955, nước ta đã thiết lập quan hệ
buôn bán với: "10 nước, trong đó có 7 nước nước xã hội chủ nghĩa và 3 nước tư bản chủ nghĩa"
[68, tr.314]. Đến năm 1968, nước ta có quan hệ với 31 nước. Trao đổi mậu dịch quốc tế trong


×