Tải bản đầy đủ (.doc) (106 trang)

LUẬN án TIẾN sĩ VAI TRÒ ĐỊNH HƯỚNG xã hội CHỦ NGHĨA của NHÀ nước đối với sự PHÁT TRIỂN nền KINH tế VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (467.21 KB, 106 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Để giành và giữ vững nền độc lập dân tộc, mang lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân trước hết là nhân dân lao động, ngay từ đầu thế kỷ XX, Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn phương hướng
phát triển đất nước theo con đường XHCN. Trung thành với sự lựa chọn đúng đắn đó, trong công cuộc
đổi mới toàn diện đất nước hiện nay, trên lĩnh vực kinh tế, chúng ta đang đẩy mạnh quá trình chuyển từ
nền kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp sang nền KTTT định hướng XHCN.
Quá trình phát triển nền KTTT chính là quá trình hình thành một cơ chế tinh vi cho phép phối hợp
một cách có hiệu quả giữa nhân dân, cá nhân người tiêu dùng với người sản xuất, với các doanh nghiệp
thông qua hệ thống giá cả thị trường. Cơ chế thị trường cũng tạo điều kiện để phân bổ, sử dụng và tái
tạo có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên, kích thích áp dụng khoa học, công nghệ mới khiến nó
thực sự vừa là động lực, vừa là thị trường của CNH, HĐH đất nước...
Thực tế phát triển KTTT định hướng XHCN 15 năm qua mang lại cơ sở đáng tin cậy để khẳng định
rằng cơ chế thị trường đã phát huy tác dụng tích cực to lớn để sự phát triển kinh tế - xã hội. Nó chẳng
những không đối lập mà còn là nhân tố khách quan cần thiết của việc xây dựng và phát triển đất nước
theo con đường XHCN.
Song, như chúng ta đã biết, bất kỳ sự vật nào cũng là sự thống nhất của các mặt đối lập. Trong khi
khẳng định mặt tích cực là cơ bản của cơ chế thị trường định hướng XHCN, và cũng chính vì vậy, nó
được sử dụng như là một điều kiện để đẩy mạnh sự phát triển đất nước, chúng ta cũng không thể không
thấy rằng cơ chế thị trường có những tác động tiêu cực, mâu thuẫn với bản chất của CNXH. Chạy theo lợi
ích trước mắt, người ta có thể khai thác cạn kiệt nguồn tài nguyên rừng, sông, biển, đất đai mà không chịu
đầu tư thoả đáng cho việc tái sản xuất giản đơn, chưa nói tới tái sản xuất mở rộng những nguồn tài nguyên
vô giá đó. Nhằm giảm tối đa đầu tư, người ta sẵn sàng giảm tới mức tối thiểu việc chi phí cho công nghệ
làm sạch chất thải trong những dây chuyền sản xuất. Cơ chế thị trường cũng có nguy cơ tăng cường thất
nghiệp cả ở thành thị và nông thôn, tăng cường sự phân hoá giàu nghèo. Cơ chế đó dễ sản sinh ra lớp
người xem lợi ích kinh tế là tất cả, xem thường, thậm chí trà đạp lên nhiều giá trị truyền thống tốt đẹp của
dân tộc và định hướng chính trị XHCN của quá trình phát triển đất nước...
Tất cả những hiện tượng trên đây đều trái với truyền thống dân tộc, với mục tiêu XHCN mà Đảng và
nhân dân ta đã lựa chọn.
Thực tiễn 15 năm đổi mới cho thấy rằng, để cơ chế thị trường đóng được vai trò là đòn xeo của sự
phát triển đất nước theo định hướng XHCN, cùng với việc nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước có ý
nghĩa cực kỳ quan trọng.




Vì lý do nêu trên, chúng tôi chọn vấn đề “Vai trò định hướng xã hội chủ nghĩa của Nhà nước đối
với sự phát triển nền kinh tế Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận án của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong quá trình đổi mới ở nước ta, vấn đề định hướng XHCN nói chung, vai trò định hướng XHCN của
Nhà nước đối với sự phát triển nền KTTT nói riêng đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học thuộc
các cơ quan nghiên cứu. Do vậy, trong những năm gần đây, nhiều chương trình khoa học có liên quan đã
được triển khai. Chẳng hạn, Chương trình KX.01 “Những vấn đề lý luận về CNXH và con đường đi lên
CNXH ở nước ta” do GS.TSKH Nguyễn Duy Quý làm chủ nhiệm; Đề tài KX.05-04 “Đặc trưng cơ bản
của hệ thống chính trị nước ta trong giai đoạn quá độ lên CNXH” do GS.TS Nguyễn Ngọc Long làm chủ
nhiệm; Đề tài KX 03-04 “Cơ chế thị trường và vai trò của Nhà nước trong quản lý nền kinh tế nước ta
hiện nay” do GS.TSKH Lương Xuân Quỳnh làm chủ nhiệm...
Liên quan tới vấn đề của luận án cũng đã có nhiều công trình nghiên cứu được công bố. Chẳng hạn,
“Định hướng XHCN ở Việt Nam, một số vấn đề lý luận cấp bách” của GS Trần Xuân Trường; “Một số
vấn đề về định hướng XHCN ở Việt Nam” của Nguyễn Đức Bách, Nhị Lê, Lê Văn Yên; “Cơ sở khoa
học của công cuộc đổi mới kinh tế ở Việt Nam” của TS Lê Đăng Doanh; “Đổi mới, hoàn thiện chính
sách và cơ chế quản lý kinh tế ở nước ta” của GS.TS Vũ Đình Bách, GS.TS Ngô Đình Giao; “Một
số vấn đề về định hướng XHCN ở nước ta” (Kết quả hội thảo của Hội đồng lý luận Trung ương
đăng trên Tạp chí Cộng sản từ số 4 tháng 2/1996 đến số 7 tháng 4/1996); “Kinh tế thị trường và định
hướng XHCN” của GS Bùi Ngọc Chưởng, Tạp chí Cộng sản tháng 6/1992; “Vai trò lãnh đạo chính
trị của Đảng và chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước trong điều kiện nền KTTT ở nước ta hiện
nay” của Nguyễn Tiến Phồn, Tạp chí Triết học số 3/1995; “Mối quan hệ biện chứng giữa đổi mới
chính sách kinh tế và đổi mới chính sách xã hội” của GS.TS Nguyễn Trọng Chuẩn, Tạp chí Triết
học số 3/1996; “Nhà nước trước yêu cầu xây dựng kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập
quốc tế” của GS.TS Phạm Ngọc Quang, Tạp chí Thông tin lý luận số 6/2000...
Liên quan tới đề tài này đã có một số luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ được bảo vệ. Chẳng hạn, “Định
hướng XHCN ở Việt Nam, nội dung cơ bản và những điều kiện chủ yếu để thực hiện” (luận án TS khoa
học Triết học chuyên ngành Chủ nghĩa cộng sản khoa học được bảo vệ tại Học viện Chính trị Quốc gia
Hồ Chí Minh năm 1994) của Nguyễn Văn Oánh...

Mặc dù các công trình nghiên cứu đã đề cập khá nhiều khía cạnh khác nhau có liên quan đến đề
tài, như: con đường lên CNXH, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản; bước chuyển từ nền kinh tế kế
hoạch hoá tập trung sang KTTT; vai trò của các nhân tố chủ quan trong việc lựa chọn và thực hiện
định hướng XHCN, ...song, chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống, dưới góc độ
triết học về “Vai trò định hướng XHCN của Nhà nước đối với sự phát triển nền kinh tế Việt Nam


hiện nay”. Sự ra đời của luận án này là một nỗ lực theo hướng góp phần làm sâu sắc thêm nhận thức
của chúng ta về vấn đề còn ít được nghiên cứu đó.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
Mục đích:
Trên cơ sở làm rõ tác động của Nhà nước tới quá trình xây dựng và phát triển nền KTTT theo định
hướng XHCN ở Việt Nam, luận án góp phần đề xuất một số giải pháp nâng cao vai trò định hướng
XHCN của Nhà nước đối với sự phát triển nền KTTT ở Việt Nam hiện nay.
Nhiệm vụ:
Để đạt được mục đích trên, luận án có nhiệm vụ:
- Làm rõ vai trò của Nhà nước trong quá trình phát triển kinh tế nói chung, trong quá trình xây dựng
và phát triển nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam nói riêng.
- Xác định nội dung và phương thức định hướng XHCN của Nhà nước đối với sự phát triển nền KTTT
ở Việt Nam.
- Xuất phát từ thực trạng vai trò định hướng XHCN của Nhà nước đối với sự phát triển KTTT ở nước
ta 15 năm đối mới vừa qua và những vấn đề phát sinh có liên quan tới vấn đề này, luận án nêu ra một số
giải pháp nhằm tiếp tục nâng cao vai trò định hướng XHCN của Nhà nước trong sự phát triển nền KTTT
Việt Nam trong những năm trước mắt.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Trong quá trình nghiên cứu, luận án lấy những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh làm cơ sở lý luận chung.
Luận án cũng bám sát các văn kiện của Đảng, chủ trương, chính sách của Nhà nước; kế thừa các thành
quả của các công trình nghiên cứu có liên quan.
- Để hoàn thành được mục đích và nhiệm vụ đã đặt ra, luận án chủ yếu sử dụng các phương pháp của

chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đặc biệt là các phương pháp phân tích và
tổng hợp, lôgíc và lịch sử...
5. Cái mới về mặt khoa học của luận án
- Đã góp phần làm rõ cơ sở khoa học của định hướng XHCN trong sự phát triển KTTT và vai trò của
Nhà nước trong việc thực hiện sự định hướng đó.
- Bước đầu nêu ra một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò định hướng XHCN của Nhà nước đối với
sự phát triển nền KTTT ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Luận án đã góp phần làm sáng tỏ vị trí của Nhà nước trong việc bảo đảm định hướng XHCN đối với
sự phát triển của nền KTTT ở nước ta và những giải pháp để Nhà nước hoàn thành ngày càng tốt hơn
chức năng đó của mình.
- Những kết quả đạt được trong luận án có thể được vận dụng vào việc nghiên cứu và giảng dạy môn
triết học Mác - Lênin, trước hết là nghiên cứu và giảng dạy vấn đề quan hệ giữa chính trị và kinh tế.


Luận án cũng có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho môn kinh tế chính trị học và một số môn
khác trong phạm vi liên quan đến đề tài.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục các tài liệu tham khảo, luận án được chia thành 3 chương, 9
tiết.
Chương I
VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
1.1. NHÀ NƯỚC VỚI KINH TẾ
Lịch sử phát triển loài người kể từ khi xuất hiện giai cấp và Nhà nước đến nay cho thấy, dù trực tiếp
hay gián tiếp, Nhà nước đều tác động đến kinh tế. Tổng kết thực tiễn đó, Ăngghen đã chỉ ra rằng: “tác
động ngược trở lại của quyền lực nhà nước đối với sự phát triển kinh tế có thể có ba loại. Nó có thể tác
động theo cùng hướng - khi ấy sự phát triển sẽ nhanh hơn; nó có thể tác động ngược lại sự phát triển
kinh tế, khi ấy thì hiện nay, ở mỗi dân tộc lớn, nó sẽ tan vỡ sau một khoảng thời gian nhất định, hoặc là
nó có thể cản trở sự phát triển kinh tế ở những hướng nào đó và thúc đẩy sự phát triển ở những hướng
khác. Trong trường hợp này rốt cuộc dẫn đến một trong hai trường hợp trên” [69, tr. 678].

Vì sao Nhà nước lại có thể tác động đến kinh tế? Vì sao sự tác động của Nhà nước lại có thể khiến sự
phát triển của kinh tế diễn ra theo nhiều chiều hướng khác nhau, thậm chí trái ngược nhau như vậy?
Việc nghiên cứu lịch sử ra đời của Nhà nước đã mang lại nhiều bằng chứng đáng tin cậy để các nhà
kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định rằng Nhà nước không phải là cơ quan để điều hoà mâu
thuẫn giai cấp; ngược lại, nó ra đời do mâu thuẫn giai cấp ngày càng sâu sắc, không thể điều hoà. Giai
cấp bóc lột không thể duy trì được quyền nắm hầu hết tư liệu sản xuất trong xã hội, từ đó, duy trì quyền
bóc lột của mình đối với tất cả các giai cấp và tầng lớp không có (hay hầu như không có) tư liệu sản
xuất, nếu không dựa vào bộ máy bạo lực mà bộ phận chủ yếu của nó là những đội vũ trang đặc biệt
dùng để trấn áp giai cấp bị bóc lột. Trong điều kiện đấu tranh giai cấp đã trở nên gay gắt, chế độ nhân
dân tự tổ chức thành lực lượng vũ trang không còn thích hợp. Nó phải được thay thế bằng thiết chế Nhà
nước.
Khi đề cập tới nguyên nhân trực tiếp xuất hiện Nhà nước, Lênin cho rằng Nhà nước là sản phẩm và
biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà được. Bất cứ ở đâu, hễ lúc nào và chừng nào
mà, về mặt khách quan, những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà được, thì Nhà nước xuất hiện. Và
ngược lại: sự tồn tại của Nhà nước chứng tỏ rằng những mâu thuẫn giai cấp là không thể điều hoà được.
Không có Nhà nước, một tổ chức bạo lực chuyên dùng để trấn áp thì giai cấp thống trị không thể duy
trì được ách áp bức, bóc lột của mình đối với giai cấp bị trị. Như vậy, sự ra đời của Nhà nước là một tất
yếu khách quan để làm “dịu” sự xung đột giai cấp, để làm cho sự xung đột diễn ra trong vòng “trật tự”


nhằm duy trì chế độ kinh tế, trong đó, giai cấp này được bóc lột giai cấp khác. Nhà nước - đó là sự kiến
lập ra một “trật tự”, trật tự này hợp pháp hoá và củng cố sự áp bức kia bằng cách làm dịu xung đột giai
cấp.
Đương nhiên, trên cơ sở của tính tất yếu nói trên, lực lượng lập ra và sử dụng bộ máy nhà nước phải là
giai cấp có thế lực nhất - giai cấp thống trị về mặt kinh tế. Nói cách khác, Nhà nước là tổ chức chính trị
của giai cấp thống trị về kinh tế nhằm bảo vệ trật tự hiện hành và đàn áp sự phản kháng của các giai cấp
khác.
Nhờ có Nhà nước, giai cấp này từ chỗ là lực lượng thống trị trên lĩnh vực kinh tế, nó cũng trở thành
giai cấp thống trị về mặt chính trị và, do đó, có thêm những phương tiện mới để đàn áp và bóc lột giai
cấp bị áp bức.

Nhà nước ra đời từ sự phát triển của kinh tế, do sự phát triển của kinh tế quy định. Sau khi ra đời “lực
lượng mới có tính độc lập này tác động trở lại những điều kiện và quá trình sản xuất nhờ tính độc lập
vốn có của mình” [69, tr.677]. Theo nghĩa đó, Lênin đã viết: “chính trị là biểu hiện tập trung của kinh
tế” [56, tr.349], “là kinh tế cô đọng lại” [57, tr.147] và “bạo lực” (tức là quyền lực nhà nước) cũng là
một sức mạnh kinh tế” [69, tr.683]. Nói gọn lại, Nhà nước là sản phẩm phát triển của sản xuất, của kinh
tế; nó ra đời nhằm bảo vệ lợi ích kinh tế và toàn bộ các lợi ích khác của giai cấp thống trị trên lĩnh vực
kinh tế. Cho nên, Nhà nước không chỉ do kinh tế, mà còn là, và chủ yếu là vì kinh tế. Từ đó có thể nói,
sự tác động lại của Nhà nước tới kinh tế cũng mang tính tất yếu khách quan không kém gì tính tất yếu
kinh tế dẫn tới sự ra đời của Nhà nước.
Khi đề cập tới sự tác động của Nhà nước đến kinh tế trong thời kỳ cổ đại, Ăngghen cho rằng nhờ có
sự ra đời của Nhà nước mà ở Aten thời cổ đại cũng như ở nhiều nơi khác trên thế giới, tất cả các ngành
sản xuất của xã hội như thương nghiệp, công nghiệp và của cải xã hội mau chóng phát triển.
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế xã hội, các yếu tố cấu thành nó cũng ngày càng nhiều
lên, mối quan hệ hệ các yếu tố đó ngày càng phức tạp hơn. Tương ứng với mỗi trình độ phát triển của
nền sản xuất xã hội mà giữa các yếu tố cấu thành có những quan hệ tỷ lệ nhất định để tạo ra được sự phù
hợp của QHSX với LLSX, để đảm bảo cho nền kinh tế phát triển được ổn định, thăng bằng, cân đối. Các
quan hệ tỷ lệ hình thành trong nền kinh tế luôn có xu hướng bị phá vỡ do sự phát triển không ngừng của
LLSX, do sự tác động của các nhân tố chủ quan và khách quan. Điều đó ảnh hưởng đến sự phát triển
bình thường, đến quy mô và nhịp điệu phát triển của nền kinh tế. Vì vậy, yêu cầu tạo sự cân đối giữa
các yếu tố cấu thành nền sản xuất xã hội, tạo sự phù hợp của QHSX với tính chất và trình độ phát triển
của LLSX trong sự phát triển của nền kinh tế là nguyên nhân sâu xa, nguyên nhân khách quan quy định


vai trò kinh tế của Nhà nước. Trong nền kinh tế hàng hoá, KTTT, cơ sở khách quan này được thể hiện ở
những mặt sau:
- Trong nền sản xuất hàng hoá, sự sản xuất diễn ra dưới tác động của cơ chế thị trường, một cơ chế
tinh vi, phối hợp một cách không tự giác các chủ thể của nền kinh tế thông qua hệ thống giá cả trên thị
trường, một cơ chế mà điều kiện cần thiết cho sự phát triển của nó là một trật tự kinh tế. Nhưng chính
trong bản chất của cơ chế thị trường, sự vận động của nó luôn đẻ ra những nhân tố, những mâu thuẫn
làm rối loạn trật tự kinh tế.

Trong cơ chế thị trường, mỗi cá nhân tham gia vào hoạt động sản xuất, kinh doanh với nhu cầu, lợi ích
riêng của mình và đều tìm kiếm những phương thức hoạt động nhằm tối ưu hoá nhu cầu, lợi ích đó. Vì
mỗi cá nhân trong hoạt động chỉ chú ý đến lợi ích riêng của mình, lợi ích của người này nhiều khi đối
lập với lợi ích của người khác; do đó, lợi ích của cá nhân, bộ phận này được thực hiện sẽ làm thiệt hại
đến lợi ích của cá nhân, bộ phận khác trong xã hội. Biểu hiện về mặt kinh tế - xã hội của tình trạng đó là
các hoạt động kinh tế chồng chéo, cản trở hoặc triệt tiêu lẫn nhau; sự phân bổ nguồn lực không hợp lý;
cơ cấu kinh tế bị đảo lộn; phân hoá giàu nghèo gia tăng; tăng cường lạm phát, thất nghiệp, bất bình
đẳng, tham nhũng, hối lộ, tàn phá thiên nhiên, môi trường sống.
Muốn khắc phục hiện tượng này cần có bàn tay của Nhà nước. Bởi vì, trong xã hội có giai cấp, có Nhà
nước, chỉ có Nhà nước với thực lực kinh tế với quyền lực chính trị của mình mới có khả năng điều chỉnh
việc phân bố sản xuất và lao động giữa các ngành và vùng để hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý, tối ưu,
mới thúc đẩy được các ngành kinh tế trọng tâm, mũi nhọn, mới phát triển được các ngành có ý nghĩa
thúc đẩy sự tiến bộ khoa học và công nghệ trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân, mới tạo được nguồn tích
luỹ tập trung quy mô lớn để tạo ra những bước nhảy vọt trong sự phát triển kinh tế - xã hội và giải quyết
những mục tiêu kinh tế vĩ mô khác mà bản thân cơ chế thị trường không thể thực hiện được.
- Để mỗi nền kinh tế có thể tồn tại và hoạt động bình thường cần có khu vực hàng hoá và dịch vụ công
cộng - những hoạt động thường đem lại một phần lợi nhuận không lớn hoặc chậm thu hồi vốn cho nhà
sản xuất kinh doanh, không được chú ý tới. Để khắc phục tình trạng đó, với tư cách chủ thể nền kinh tế
quốc dân và để điều chỉnh mục tiêu kinh tế vi mô, Nhà nước phải nắm và đảm bảo cho xã hội những loại
hàng hoá và dịch vụ công cộng cũng như những hàng hoá mà nếu nằm trong tay tư nhân sẽ làm thiệt hại
đến lợi ích toàn xã hội.
- Nền kinh tế chỉ phát triển được khi có môi trường kinh tế, chính trị, xã hội ổn định, lành mạnh. Tuy
nhiên, bên cạnh những nhân tố bất ổn do chính bản thân tự vận hành của nền kinh tế tạo ra, “nhờ cải tiến
mau chóng công cụ sản xuất và làm cho các phương tiện giao thông trở nên vô cùng thuận lợi, giai cấp
tư sản lôi cuốn đến cả những dân tộc dã man nhất vào trào lưu văn minh” [62, tr. 602]. Sự phát triển đó
của LLSX đã dẫn đến một xu thế tất yếu, xu thế mà ở đó “thay cho tình trạng cô lập trước kia của các


địa phương và dân tộc vẫn tự cung, tự cấp, ta thấy phát triển những quan hệ phổ biến, sự phụ thuộc phổ
biến giữa các dân tộc” [62, tr. 602]. Xu thế này một mặt, tạo cơ hội cho các nước chậm phát triển thực

hiện con đường phát triển rút gắn; mặt khác, cũng tạo nhiều thách thức. Để tận dụng những thuận lợi,
hạn chế những thách thức, Nhà nước phải can thiệp vào tiến trình kinh tế để vừa giữa được độc lập tự
chủ, vừa phát triển kinh tế.
Sự tác động của Nhà nước đến kinh tế; mức độ nông, sâu của sự tác động đó còn phụ thuộc phần lớn
vào vị thế của giai cấp cầm quyền - giai cấp thống trị trong xã hội.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra nguyên nhân trực tiếp hình thành Nhà nước là
sự xuất hiện giai cấp trong xã hội. Trong “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của Nhà nước”,
Ăngghen đã khẳng định rằng chính sự phát triển của LLSX và, cùng với nó, của một số yếu tố khác
(khát vọng chiếm đoạt của chung biến thành của riêng...) đã tạo ra trong xã hội sự phân hoá thành các
giai cấp. Sự hình thành nên các giai cấp đối kháng làm xuất hiện đấu tranh giai cấp. Chính cuộc đấu
tranh giai cấp này đã dẫn tới nguy cơ chẳng những các giai cấp đó tiêu diệt lẫn nhau mà còn tiêu diệt
luôn xã hội. Để thảm hoạ đó không xảy ra, Nhà nước đã ra đời.
Song, sự ra đời của Nhà nước không những không làm dịu đi những mâu thuẫn giai cấp trong xã hội,
mà còn làm cho các mâu thuẫn đó ngày càng trở nên gay gắt hơn. Nhà nước trong xã hội có giai cấp
không phải là cơ quan để điều hoà mâu thuẫn giai cấp. Ngược lại, nó ra đời do những mâu thuẫn giai
cấp ngày càng sâu sắc, không thể điều hoà. “Đó là sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp
không thể điều hoà được. Bất cứ ở đâu, hễ lúc nào và chừng nào mà về mặt khách quan, những mâu
thuẫn giai cấp không thể điều hoà được, thì Nhà nước xuất hiện. Và ngược lại: sự tồn tại của Nhà nước
chứng tỏ rằng những mâu thuẫn giai cấp là không thể điều hoà được” [56, tr.9].
Sở dĩ sau khi ra đời, Nhà nước không thể là cơ quan điều hoà mâu thuẫn giai cấp, không phải là cơ
quan cốt chỉ để thoả mãn những lợi ích chung của những người lao động như việc tưới nước ở phương
Đông, tự vệ chống kẻ thù bên ngoài, mà là cơ quan “duy trì bằng bạo lực những điều kiện sinh hoạt và
thống trị của giai cấp thống trị chống lại giai cấp bị trị” [65, tr. 209]. Giai cấp thống trị - một thiểu số
của xã hội, để bảo vệ quyền lợi kinh tế và chính trị của mình, để thực hiện quyền thống trị của mình đối
với các giai cấp khác và đối với toàn xã hội - đã xây dựng nền chuyên chính, thiết lập và sử dụng công
cụ cưỡng bức của mình để làm “dịu” sự xung đột giai cấp, làm cho sự xung đột ấy diễn ra trong vòng
“trật tự” nhằm duy trì chế độ kinh tế có lợi cho bản thân.
Như vậy là, xét về bản chất “Nhà nước chẳng qua chỉ là một bộ máy của một giai cấp này dùng để
trấn áp một giai cấp khác” [67, tr. 290 - 291], là nền chuyên chính “của giai cấp có thế lực nhất, của các
giai cấp thống trị về mặt chính trị” [66, tr. 255]. Tất cả mọi hoạt động khác nhau của Nhà nước đều bị

chi phối bởi bản chất giai cấp của nó.


Xuất hiện trong xã hội có đối kháng với giai cấp với tư cách là “một lực lượng tựa hồ như đứng trên
xã hội, có nhiệm vụ làm dịu bớt sự xung đột giữ cho sự xung đột đó nằm trong vòng “trật tự” [66, tr.
253]. Nhưng sự “điều hoà” đó của Nhà nước diễn ra trong khuôn khổ lợi ích và phù hợp với ý chí của
giai cấp thống trị. Điều đó đứng với mọi xã hội có giai cấp. Trong “Vấn đề về nhà ở”, khi đề cập tới vấn
đề này, Ăngghen đã viết: “Nhà nước không phải là cái gì khác hơn là quyền lực tổng hợp có tổ chức của
giai cấp hữu sản, những địa chủ và những nhà tư bản, đối lập với những giai cấp bị bóc lột, những người
dân và công nhân. Điều gì mà cá nhân những nhà tư bản... không muốn thì Nhà nước của họ cũng không
muốn” [64, tr. 352]. Điều này cắt nghĩa phần nào cho ta thấy vì sao Nhà nước lại có thể tác động đến
kinh tế, khiến cho nó phát triển theo những chiều hướng khác nhau, thậm chí trái ngược nhau.
Sự tác động của Nhà nước đến kinh tế đã diễn ra trong suốt chiều dài lịch sử, kể từ khi nó xuất hiện
đến nay, với những biện pháp, những mức độ và đạt những hiệu quả khác nhau.
Trong thời kỳ Hy Lạp cổ đại, do những nguyên nhân kinh tế, Nhà nước CHNL đã ra đời. Ngay sau
khi ra đời, Nhà nước CHNL, dưới sự cầm quyền của Sôlông, Cli-xphen, đã dùng quyền lực thực thi
nhiều biện pháp khác nhau nhằm, một mặt, xoá bỏ tàn tích của xã hội CSNT; mặt khác, tạo dựng, củng
cố và phát triển xã hội CHNL.
Sôlông (khoảng 638 - 558 trước công nguyên) được coi là một nhà cải cách vĩ đại. Theo sự đánh giá
của các nhà sử học, cải cách của ông đã làm thay đổi hẳn chế độ chính trị và xã hội cũ của Aten, đánh
đòn nặng nề vào tàn tích của chế độ thị tộc và sự thống trị của giai cấp quý tộc, tạo điều kiện cho sự phát
triển của chế độ tư hữu, đặt cơ sở cho nền dân chủ chủ nô Aten [99, tr. 40]. Sôlông đã làm những gì?
Trước tiên, ông “xâm phạm chế độ sở hữu” bằng cách tuyên bố xoá bỏ mọi nợ nần; giải phóng cho
những người bị buộc phải làm nô lệ vì nợ nần, quy định mức sở hữu ruộng đất, tức là đem lại quyền sở
hữu cho những người nông dân. Liền sau đó, ông thực hành một loạt những biện pháp kinh tế và tác
động khác nhằm khuyến khích và thúc đẩy sự phát triển của thủ công nghiệp, thương nghiệp, như cải
cách chế độ tiền tệ, thừa nhận quyền tự do di sản cho bất kỳ ai theo ý muốn (trước đó, tài sản của người
quá cố thuộc quyền sở hữu của thị tộc người đó...) Cải cách quan trọng nhất của Sôlông là nhằm vào thủ
tiêu những đặc quyền, đặc lợi của quý tộc, xác định địa vị của mỗi công dân theo mức tài sản của họ.
Với những nội dung đó, cải cách của Sôlông đã giáng đòn chí tử vào chế độ công hữu CSNT, đưa chế

độ tư hữu - cơ sở kinh tế của xã hội CHNL vào cuộc sống, tạo điều kiện cho sự hình thành và phát triển
vững chắc của xã hội CHNL.
Tuy vậy, những cải cách của Sôlông đã không thủ tiêu được hoàn toàn những tàn tích của chế độ thị
tộc, chế độ sở hữu lớn cũng như những ảnh hưởng chính trị của tầng lớp quý tộc vẫn còn chiếm ưu thế;
việc chia lại ruộng đất cho nông dân cũng đã không thực hiện được. Cuộc cải cách của Sôlông không


triệt để. Sự xoá bỏ hoàn toàn những cơ sở, điều kiện của xã hội thị tộc, của phương thức sản xuất cũ
phải chờ đến cải cách của Cli-xphen.
Vừa lên cầm quyền, Cli-xphen liền thực hành ngay một loạt cải cách mà tính chất của nó, theo
Ăngghen, là cách mạng. Trong “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của Nhà nước”, Ăngghen
viết: “Cuộc cách mạng của Cli-xphen (509 trước công nguyên) lật đổ hẳn họ (tầng lớp quý tộc - tác giả
luận án ghi chú)... đồng thời lại lật đổ cả tàn tích cuối cùng của chế độ thị tộc nữa” [66, tr. 176]. Trong
cải cách, Cli-xphen đã phân chia tất cả công dân Aten theo những khu vực hành chính. Bằng cách đó,
ông đã xoá bỏ được sợi dây cuối cùng níu kéo sự tồn tại của xã hội thị tộc: sợi dây huyết thống - sợi dây
vốn đã không bền chặt, vì cơ sở kinh tế của nó - một cơ sở kinh tế mang tính thuần nhất chỉ dựa trên chế
độ công hữu - đã bị xâm phạm bởi các cải cách của Sôlông trước đó. Cuộc cải cách của Cli-xphen đã
làm thay đổi toàn bộ xã hội Aten từ cơ cấu của bản thân chính quyền nhà nước, cho đến đời sống kinh tế
- xã hội, đã tạo ra một xã hội CHNL điển hình.
Như vậy, trong giai đoạn đầu, Nhà nước CHNL đã bằng quyền lực để xoá bỏ mối quan hệ, các tàn tích
của xã hội CSNT, thiết lập nên cơ sở kinh tế cho xã hội mới - xã hội CHNL, chế độ tư hữu.
Sau khi thiết lập được cơ sở kinh tế vững chắc cho sự tồn tại của xã hội CHNL, Nhà nước chủ nô lại
tiếp tục sử dụng quyền lực của mình can thiệp vào đời sống kinh tế. Pháp luật quy định nô lệ phải làm
việc, không được phản đối (pháp luật cổ đại Trung Quốc); nếu nô lệ không vâng lời, họ có thể bị cắt tai;
nô lệ bỏ trốn thì bản thân và những người che giấu cho họ bị tử hình (luật Hăm Murabi); nô lệ ốm đau
thì chủ nô được phép bỏ cho chết dần; nô lệ bỏ trốn thì những người trong gia đình bị tử hình (luật La
Mã). Đồng thời, pháp luật cũng đảm bảo tính tuyệt đối của quyền tư hữu đối với nô lệ và mọi tài sản
khác của chủ nô, quyền cha truyền con nối nô lệ và những tài sản đó... (luật La Mã). Như vậy, luật pháp
ở đó đảm bảo quyền tuyệt đối của chủ nô trong việc chiếm hữu toàn bộ của cải vật chất do sức lao động
của nô lệ tạo ra cũng như bản thân nô lệ.

Sự can thiệp của Nhà nước trong xã hội CHNL đối với kinh tế mang tính gián tiếp. Ở đây, Nhà nước
không can thiệp trực tiếp vào quá trình sản xuất, kinh doanh; không tham gia vào việc quy định sản xuất
cái gì, Nhà nước, bằng cách ban bố pháp luật, kiểm tra, giám sát việc thi hành luật pháp, tạo ra môi
trường cho quá trình sản xuất.
Trong xã hội CHNL, vào thời kỳ hình thành và phát triển, sự tác động của Nhà nước đối với kinh tế
bằng hình thức trên đã tạo điều kiện cho nền sản xuất xã hội phát triển. Nhưng, càng về sau, nhất là vào
khoảng thế kỷ thứ II, thứ III, cũng chính sự can thiệp của Nhà nước, cũng chính môi trường pháp lý mà
Nhà nước đã tạo ra cho nền kinh tế lại trói buộc sự phát triển của LLSX, đã tạo ra những người lao động
chây ỳ, chậm chạp, lười biếng và những công cụ lao động nặng nề, thô kệch (để đối phó với sự phá hoại


của nô lệ). Những người chủ nô sử dụng nô lệ để tiến hành lao động sản xuất, nhưng không hề quan tâm
đến việc cải tiến phương pháp canh tác. Chủ nô chiếm đoạt toàn bộ thành quả lao động của nô lệ, nhưng
không đảm bảo việc cung cấp những tư liệu sinh hoạt tối thiểu cho họ. Tình trạng ngược đãi nô lệ đã
không thể làm cho năng suất lao động được nâng lên. “Nô lệ đã làm cho năng suất ruộng đất giảm sút
nghiêm trọng. Họ bị cưỡng bức làm việc như trâu, ngựa và sống một cuộc đời khổ ải không khác gì loài
vật. Họ cày cấy bừa bãi, khi gieo hạt họ cố ý gieo lung tung, làm lãng phí rất nhiều hạt giống. Họ gặt lúa
đem về sân nhà chủ mà không chú ý xem lúa đã chín chưa. Thậm chí trong khi gánh lúa về nhà chủ, họ
tìm cách thu giấu lúa đi hoặc cố ý làm rơi vãi lúa ở dọc đường” [99, tr. 220]. Để cứu vãn tình thế và đảm
bảo cho sự tồn tại của mình, các chủ nô dần dần đã cấp nhà, giao đất, công cụ súc vật kéo, giống má...
cho nô lệ, và sau mỗi vụ buộc họ nộp lại một phần lớn hoa lợi cho chủ. Bằng cách đó, nô lệ đã biến
thành lệ nông.
Tuy nhiên, sự ra đời của chế độ lệ nông cũng không làm cho phương thức sản xuất CHNL phục sinh,
không làm cho LLSX phát triển. So với những người nô lệ, lệ nông có một chút tự do hơn và, do đó, có
tinh thần tự nguyện sản xuất hơn. Nhưng những người lệ nông, về mặt pháp lý, vẫn là nô lệ; về kinh tế,
họ bị trói chặt vào mảnh đất mà chủ nô giao cho; và nói đúng ra, họ không phải là người nô lệ, nhưng
cũng không phải là người tự do. Hơn nữa, dù có thay đổi trong cách quản lý tổ chức sản xuất và phân
phối sản phẩm của quá trình sản xuất để phương thức sản xuất CHNL có những biểu hiện “phục sinh”,
nhưng bằng sức mạnh của mình, Nhà nước lại can thiệp quá thô bạo vào khâu phân phối, bắt buộc lệ
nông phải đóng sưu cao, thuế nặng; đóng góp sức người, sức của phục vụ cho bộ máy quan liêu ngày

càng phình to và tiêu xài hoang phí của nó. Cho nên, những biểu hiện “phục sinh” đó cũng qua đi nhanh
chóng, để lại đằng sau nó những cánh đồng hoang hoá, những thành thị tiêu điều, nền kinh tế xác xơ. Xã
hội CHNL lâm vào khủng hoảng. Xã hội phong kiến ra đời thay thế nó.
Sự tan rã một cách nhanh chóng của xã hội CHNL và sự hình thành xã hội phong kiến diễn ra nhờ
những biến đổi to lớn trong đời sống kinh tế dưới tác động của Nhà nước, chủ yếu biểu hiện ở việc lãnh
địa hoá toàn bộ ruộng đất trong xã hội, nông nô hoá giai cấp nô lệ, trang viên hoá nền kinh tế. Chẳng
hạn, ở xứ Gôlơ từ Sáclơ Mácten thế kỷ VII đến Saclơ Manhơ thế kỷ IX, Nhà nước đã ban hành và thực
hiện một loạt chính sách khác nhau, mà tiêu biểu là chính sách phân phong ruộng đất. Khác với chế độ
phong tặng ruộng đất trước kia, chính sách phân phong ruộng đất của Saclơ Mácten là chính sách ban
cấp ruộng đất có điều kiện. Ruộng đất ban cấp chỉ được sử dụng hết đời chứ không được truyền cho con
cháu. Sang thế kỷ IX, dưới thời Saclơ Manhơ, do kết quả của chiến tranh chinh phục, chính sách ban
cấp ruộng đất có phần nới rộng hơn: Người được nhận đất ban cấp với diện tích rộng hơn, được phép
truyền cho con cháu. Nhờ vậy, giai cấp phong kiến được hình thành ngày một đông đảo.


Sự tác động của Nhà nước vào kinh tế không chỉ thấy ở La Mã, Gôlơ thời cổ - trung đại, mà còn thấy
phổ biến ở các nơi khác. Ở phương Đông, ngay từ thời cổ đại, sự can thiệp, tác động của Nhà nước vào
kinh tế có phần sâu sắc hơn. Do phải chịu nhiều tác động của thiên tai, chiến tranh xâm lược, người ở
phương Đông phải thường xuyên tập hợp, đoàn kết thành các cộng đồng. Lực lượng tổ chức, lãnh đạo
cộng đồng làm những công việc đó chính là Nhà nước. Như vậy, trong xã hội phương Đông, ngoài
những yếu tố mang tính chất chung của lịch sử xã hội loài người (như sự phân hoá giai cấp trong xã hội
- điều mà Mác và Ăngghen đã không ít lần đề cập đến - quy định sự ra đời của Nhà nước), những công
việc mang tính chất chung như bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, chống thiên tai... cũng là
nguyên nhân cơ bản (nếu không muốn nói là nguyên nhân quyết định) của sự ra đời Nhà nước. Chính vì
lẽ đó, trong một chừng mực nhất định, có thể nói vai trò kinh tế của Nhà nước phương Đông trong buổi
bình minh của nó mang đậm tính chất xã hội. Nói cụ thể hơn, tính chất đó còn bị chi phối chủ yếu bởi
lợi ích quốc gia, dân tộc chứ không phải chủ yếu là lợi ích giai cấp như ở phương Tây và ở một số giai
đoạn phát triển sau này của nó.
Ở Việt Nam, sự can thiệp của Nhà nước vào kinh tế diễn ra rất sớm. Từ thời Hùng Vương dựng nước
- thời kỳ mà theo các nhà sử học, Nhà nước còn đang trong hình thức phôi phai - sự can thiệp của Nhà

nước Việt Nam vào kinh tế đã rõ nét. Nhà nước giữ vai trò chỉ huy xây dựng các công trình công cộng,
như đắp đê chống lũ, xây dựng hệ thống kênh, ngòi, làm đường sá. Trong giai đoạn xây dựng quốc gia
phong kiến độc lập, sự can thiệp của Nhà nước vào quá trình kinh tế đã góp phần giải phóng sức sản
xuất (chủ yếu trong lĩnh vực nông nghiệp), tạo điều kiện cho QHSX phong kiến ra đời.
Từ thế kỷ X đến thế kỷ XV, các triều đại Ngô, Đinh, tiền Lê, Lý, Trần và Lê sơ đều tập trung sự chú ý
của mình vào vấn đề ruộng đất, cơ sở quan trọng nhất của phương thức sản xuất phong kiến. Trước đó,
ruộng đất ở Việt Nam tồn tại dưới hai hình thức chủ yếu: đất công thuộc quyền sở hữu của Nhà nước và
đầu tư thuộc quyền sở hữu của tư nhân. Các triều đại phong kiến nói trên đã đưa ra những chính sách
làm thay đổi mối quan hệ của hai hình thức sở hữu này.
Nhà Đinh đã thực hiện chế độ phong cấp ruộng đất - chế độ ban thưởng ruộng đất thuộc quyền sở hữu
của Nhà nước cho các quan lại, quý tộc, người có công với triều đình. Sang thời Lý, Lê chính sách này
có những thay đổi căn bản. Thời Lý, ruộng phong cấp được chia làm hai loại: ruộng thực ấp và thực
phong. Ruộng thực phong ràng buộc người dân ở đó với quý tộc, còn ruộng thực ấp không chỉ ràng buộc
dân với quý tộc mà còn ràng buộc họ với Nhà nước. Do vậy, thời Lý ruộng thực ấp được chú ý hơn.
Thời Trần, chính sách phong cấp ruộng đất phát triển theo hướng có lợi cho sự ra đời chế độ tư hữu
ruộng đất. Ruộng đất phân phong không còn chia làm hai loại như trước, mà được hiểu như chế độ thực
phong thời Lý. Chính vì vậy, nhiều thái ấp của quý tộc Trần ra đời. Bên cạnh việc phong thái ấp, nhà


Trần còn cho phép vương hầu, quý tộc chiêu mộ dân nghèo khai hoang lập điền trang. Khác với các thái
ấp, các điền trang thuộc quyền sở hữu của quý tộc.
Cuối thời Trần, điền trang, thái ấp đều được mở rộng, nhiều công dân biến thành nông nô, nô tì chịu
sự áp bức bóc lột nặng nề. Quan hệ nông nô, nô tì lúc đó đã đi ngược lại xu thế phát triển của sản xuất
xã hội, do vậy, đã kìm hãm sức sản xuất, đẩy nhà Trần lâm vào khủng hoảng kinh tế, chính trị và đi đến
sụp đổ. Sự sụp đổ của nhà Trần là một bằng chứng lịch sử cho thấy vai trò quyết định của kinh tế trong
mối quan hệ với Nhà nước, đồng thời, nó cũng cho thấy, khi Nhà nước tác động ngược với xu thế phát
triển khách quan của kinh tế - xã hội thì sớm hay muộn nó cũng sẽ bị diệt vong.
Nhà Hồ thay thế nhà Trần. Hồ Quý Ly đã ban hành chính sách “hạn điền” và “hạn nô”. Với chính
sách này, chế độ điền trang thái ấp, nông nô, nô tì vẫn được thừa nhận, nhưng số điền trang, thái ấp,
nông nô, nô tì của quý tộc Trần đã chuyển sang tay Nhà nước. Bằng cách đó, nhà Hồ muốn tăng quyền

lực kinh tế, chính trị của mình lên. Tuy nhiên, về thực chất, chính sách “hạn điền”, “hạn nô” không góp
phần giải phóng sức sản xuất đang bị kìm hãm mà, ngược lại, còn làm cho tình trạng này trầm trọng
thêm. Vì vậy, nhà Hồ cũng giống như nhà Trần, đã bị tước bỏ quyền thống trị trong xã hội.
Dưới thời Lê sơ, năm 1477 Nhà nước ban hành chính sách “lộc điền”.Theo chính sách này, chỉ có vua
và quan tứ phẩm trở lên mới được hưởng “lộc điền”. “Lộc điền” có một phần ruộng đất được cấp vĩnh
viễn, còn phần lớn chỉ được cấp cho sử dụng. Chính sách “lộc điền” đã đánh dấu một bước phát triển
trong kinh tế Việt Nam. Nhờ có chính sách này, quan hệ địa chủ - tá điền ra đời thay thế cho quan hệ
nông nô, nô tì; chế độ tư hữu có được bước phát triển đáng kể; sức sản xuất được giải phóng; năng suất
lao động xã hội tăng lên.
Bên cạnh ruộng đất thuộc sở hữu của Nhà nước, có ruộng đất thuộc sở hữu tư nhân. Đó là số ruộng
đất của địa chủ và nông dân tự canh, trong đó, ruộng đất của địa chủ là chủ yếu. Nhiều ý kiến cho rằng
ruộng tư ở Việt Nam xuất hiện khá sớm, ngay từ thời Bắc thuộc, nhưng dưới chế độ phong kiến Vào
thời Lý, ruộng tư mới được công nhận về pháp lý.
Sang thời Trần, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách tạo điều kiện cho sự phát triển của ruộng tư.
Nhà nước đánh thuế ruộng tư nhẹ hơn so với ruộng công; bán ruộng công làm ruộng tư; bồi thường cho
chủ ruộng, nếu Nhà nước lấy ruộng của họ sử dụng...
Đến thế kỷ XV, thời Lê sơ, ruộng tư có điều kiện phát triển mạnh mẽ hơn. Nhà Lê đã ban hành nhiều
chính sách phát triển ruộng tư. Nhà nước tạo điều kiện, ủng hộ tình trạng “chiếm công vi tư”. Luật Hồng
Đức cho phép biến quyền chiếm hữu lâu năm thành quyền sở hữu, quy định các hình thức bán đợ, bán
vĩnh viễn ruộng đất trong nhân dân...
Như vậy, từ thế kỷ X đến thế kỷ XV, ruộng công và ruộng tư luôn trong tình trạng biến động. Sự biến
động đó chủ yếu do việc thực thi các chính sách cụ thể của Nhà nước các triều đại phong kiến từ nhà


Ngô đến nhà Lê ban hành. Việc thực hiện các chính sách đó đã ảnh hưởng nhiều đến sự phát triển của
kinh tế, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp.
Bên cạnh những chính sách ruộng đất, các triều đại phong kiến còn quan tâm đến một số công việc
khác có liên quan đến phát triển nông nghiệp.
Thời Lý - Trần, Nhà nước cho xây dựng các công trình thuỷ lợi lớn như đê Cơ Xá (thời Lý), đê Quai
Vạc (thời Trần)... Nhà vua trực tiếp, hoặc gián tiếp thông qua các quan chức chuyên trách trông coi hệ

thống đê điều. Nhà nước rất chú ý bảo vệ sức lao động nông nghiệp. Năm 1010, vua Lý ra chiếu bắt
những người dân lưu phong phải trở về quê cũ làm ăn. Các vua thời Lý - Trần thực hiện chính sách “ngụ
binh ư nông”, “sử dân dĩ thời”... nhằm sử dụng tốt mọi lực lượng vào sản xuất nông nghiệp.
Việc xem xét một số chính sách của các triều đại phong kiến Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XV
trên đây cho thấy, khi Nhà nước đề ra được các chính sách phù hợp với xu thế phát triển chung của sản
xuất (thời Lý - Trần, Lê sơ)thì sản xuất phát triển mạnh, xã hội hưng thịnh và phát triển; ngược lại, nếu
chính sách đề ra không giải quyết được mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển sản xuất và các lực lượng
đang kìm hãm nó (thời kỳ cuối của các triều đại và nhất là thời nhà Hồ) thì sản xuất xã hội đình trệ và,
sớm hay muộn, triều đại ấy cũng tan rã.
Như vậy, trong sự phát triển của nền sản xuất xã hội, kể từ khi Nhà nước xuất hiện cho đến thời phong
kiến, bằng các chính sách, bằng ý chí, quyền lực của mình, Nhà nước đã luôn tác động vào kinh tế và sự
tác động của Nhà nước đã có thể làm kinh tế phát triển lúc nhanh, lúc chậm, thậm chí tụt lùi. Nhà nước
đã dùng bạo lực để cưỡng bức kinh tế, chiếm đoạt đa số những sản phẩm do nhân dân lao động tạo nên.
Nhưng, bên cạnh việc cưỡng bức kinh tế, Nhà nước - đặc biệt Nhà nước phương Đông - đã có công tập
hợp lực lượng nhân dân xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, khuyến khích việc di dân, khai khẩn đất hoang
để mở rộng diện tích canh tác. Với nghĩa đó, Nhà nước cũng ít nhiều mang tính nhân dân, tính dân tộc.
Tuy nhiên, xét trong tổng thể, cùng với sự phát triển của xã hội, của chế độ tư hữu, trong quá trình tác
động vào kinh tế, tính nhân dân, tính dân tộc của Nhà nước dần dần bị chìm xuống, bị che lấp bởi tính
giai cấp. Mọi sự thăng trầm, phát triển hay ngưng trệ của nền kinh tế đều bị chi phối trực tiếp bởi lợi ích
của các thế lực cầm quyền, và do đó, nó thường gắn với sự thăng trầm của các triều đại. Điều đó diễn ra
trong tất cả các hình thái kinh tế - xã hội có Nhà nước, trong cả thời kỳ quá độ từ chế độ xã hội này sang
chế độ xã hội khác. Điều đó cũng diễn ra trong xã hội hiện đại ngày nay của chúng ta.
1.2. NHÀ NƯỚC TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.2.1. Một số học thuyết kinh tế ngoài chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò kinh tế của Nhà nước
trong KTTT
Như đã biết, sự tác động của Nhà nước đến kinh tế diễn ra trong suốt chiều dài lịch sử, kể từ khi có
Nhà nước đến nay. Tuy nhiên, trong nền kinh tế tự nhiên và nền kinh tế hàng hoá giản đơn (thường gắn


với giai đoạn CHNL, phong kiến), vấn đề điều tiết, quản lý nền kinh tế trên phạm vi toàn xã hội chưa trở

nên cấp bách. Vì thế, học thuyết nghiên cứu về kinh tế, đặc biệt những quan hệ kinh tế - chính trị còn
hết sức lẻ tẻ. Khi nền kinh tế hàng hoá phát triển lên trình độ cao, KTTT với tính chất phức tạp của nó
đã đặt ra nhu cầu có hệ thống tri thức đầy đủ, hoàn chỉnh về các quan hệ kinh tế - chính trị để chỉ đạo
hoạt động kinh tế của xã hội và là cơ sở khoa học cho việc hoạch định chính sách, pháp luật của Nhà
nước. Khi ấy, hàng loạt các quan điểm, học thuyết kinh tế - chính trị của các giai cấp, các lực lượng cơ
bản trong xã hội đã ra đời.
Gắn liền với giai đoạn quá độ từ xã hội phong kiến sang XHTB, chuyển từ kinh tế hàng hoá giản đơn
sang KTTT, tương ứng với thời kỳ tích luỹ nguyên thuỷ, chủ nghĩa trọng thương đã ra đời. Nó là cơ sở
lý luận cho việc tạo lập một trong hai điều kiện cơ bản cho sự hình thành phương thức sản xuất tư bản:
tập trung khối lượng tiền tệ cần thiết cho quá trình sản xuất, kinh doanh TBCN.
Theo các nhà trọng thương, sự giàu có của mỗi quốc gia được đánh giá không phải bằng lượng của cải
vật chất, lượng sản phẩm hàng hoá, mà là lượng tiền tệ của họ. Để làm giàu cho đất nước, để tích luỹ
được nhiều tiền tệ, chủ nghĩa trọng thương cho rằng cần chú trọng hoạt động ngoại thương, vì theo họ,
chỉ có lưu thông mua bán, trao đổi mới sinh ra lợi nhuận.
Việc tích luỹ tiền tệ của mỗi quốc gia, theo các nhà trọng thương, chỉ có thể thực hiện được nhờ bàn
tay “bà đỡ” của Nhà nước. Chỉ có Nhà nước, thông qua và bằng hệ thống pháp luật, chính sách, thậm
chí cả mức mạnh bạo lực, mới có khả năng hướng dẫn, điều tiết lưu thông tiền tệ trong phạm vi quốc
gia, cấm xuất khẩu vàng bạc; thu hút và cướp bóc vàng bạc từ bên ngoài về.
Trong tổng thể, quan điểm của chủ nghĩa trọng thương còn nhiều hạn chế, thậm chí cả sai lầm.
Nhưng, nếu đứng dưới góc độ chính trị - kinh tế, quan điểm của chủ nghĩa trọng thương đã góp phần
hình thành nên phương thức sản xuất TBCN, nó là cơ sở lý luận cho hoạt động của một số các quốc gia
(như Anh, Pháp, Hà Lan, Tây Ban Nha...), giúp các quốc gia này đẩy nhanh tốc độ phát triển của mình.
Sang thế kỷ XVIII, sự phát triển chóng mặt của phương thức sản xuất TBCN sau khi đã cởi bỏ được
những khuôn khổ chật hẹp của phương thức sản xuất phong kiến, của chế độ phong kiến, đã mở ra một
giai đoạn mới trong lịch sử phát triển của văn minh nhân loại. Sự thay thế QHSX phong kiến bằng
QHSX TBCN đã làm đảo lộn tính chất của những quan hệ xã hội, trong đó, cơ bản nhất là quan hệ kinh
tế - chính trị, kinh tế - Nhà nước. Thực tế đó đòi hỏi phải có những học thuyết mới chỉ đạo sản xuất,
kinh doanh của nhà tư bản, làm cơ sở cho chính sách của Nhà nước tư sản. Mở đầu cho hàng loạt học
thuyết bàn về vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế TBCN là học thuyết của trường phái cổ điển với
đại biểu xuất sắc như Adam Smith (1723 - 1790). Adam Smith đã dựa trên thực tiễn sinh động của

phương thức sản xuất TBCN thế kỷ XVIII để đưa ra lý thuyết “bàn tay vô hình” và nguyên lý “Nhà
nước không can thiệp vào hoạt động kinh tế”. Adam Smith cho rằng tổ chức nền sản xuất hàng hoá cần


diễn ra theo nguyên tắc tự do, vì hoạt động của nền kinh tế do chính hệ thống các quy luật kinh tế khách
quan (ông gọi là “trật tự tự nhiên”) chi phối. Theo ông, cái chi phối quan hệ giữa con người với con
người trong quá trình sản xuất và trao đổi là lợi ích cá nhân. Mỗi người chỉ biết tư lợi, chỉ thấy tư lợi và
làm theo tư lợi. Do đó, cần có “bàn tay vô hình”để buộc con người thực hiện nhiệm vụ không nằm trong
dự kiến là đáp ứng lợi ích xã hội và, thậm chí, đáp ứng lợi ích xã hội tốt hơn hay cả khi họ có ý định làm
điều đó. Từ đó, ông cho rằng Nhà nước không nên can thiệp vào kinh tế, không nên phá vỡ cái “trật tự
tự nhiên” của kinh tế. Theo ông, Nhà nước có chức năng cơ bản là bảo vệ quyền sở hữu tư bản, thông
qua luật pháp, đảm bảo hoạt động cho các nhà kinh doanh, đấu tranh chống kẻ thù bên ngoài, chống các
phần tử trong nước nhằm đảm bảo môi trường ổn định cho nền kinh tế phát triển nhanh. Nói cách khác,
ông coi Nhà nước là “người bảo vệ”, “lính canh gác cho nền kinh tế”.
Mặt dù gạt bỏ vai trò kinh tế của Nhà nước, nhưng Adam Smith cũng phải thừa nhận rằng đôi khi Nhà
nước cũng phải đảm nhiệm những nhiệm vụ kinh tế nhất định, như chăm lo tới việc đào sông, đắp
đường, duy trì ngọn hải đăng trên biển... - tức là tham gia xây dựng kết cấu hạ tầng cho nền kinh tế, giải
quyết các công việc mà mỗi cá nhân các nhà sản xuất kinh doanh không thể đảm đương được [16, tr. 62
- 63].
Lý thuyết “bàn tay vô hình” của Adam Smith là sự tổng kết thực tiễn của ông. Sau khi ra đời, nó đã
được ủng hộ nhiệt liệt của giới sản xuất, kinh doanh tư bản. Nền KTTT TB được “tự do” vận động.
Nhưng, sự vận động “tự do” đó đã dẫn đến một kết quả mang tính hai mặt: một mặt, đã làm cho phân
công lao động xã hội ngày càng sâu sắc, chuyên môn hoá ngày càng cao, kích thích cải tiến kỹ thuật,
công nghệ, làm tăng năng suất lao động, thúc đẩy LLSX phát triển; mặt khác, do tính tự phát, nền kinh
tế đã lâm vào tình trạng khủng hoảng, suy thoái.
Sang thế kỷ XIX, sự khủng hoảng của CNTB ngày càng tăng dẫn đến mâu thuẫn giai cấp giữa tư sản
và vô sản ngày càng gay gắt. Quá trình chuyển CNTB tự do cạnh tranh sang CNTB độc quyền nảy sinh
những hoạt động kinh tế - xã hội mới. Trường phái kinh tế - chính trị tư sản cổ điển tỏ ra bất lực trong
việc bảo vệ CNTB và các trường phái kinh tế học chính trị tư sản mới đã xuất hiện để phân tích nền
KTTT, trong đó có trường phái kinh tế học cổ điển mới ở áo, Anh, Mỹ; và đặc biệt, ở Thuỵ Sĩ, lý thuyết

cân bằng tổng quát của L. Wanlras đã ra đời.
Thoạt đầu, trường phái cổ điển mới ủng hộ quan điểm của trường phái cổ điển về vai trò của Nhà
nước trong nền KTTT. Nhưng, đến cuối thế kỷ XIX, sang đầu thế kỷ XX, khi cạnh tranh đã dẫn đến độc
quyền, CNTB rơi vào khủng hoảng mới, trầm trọng, sâu sắc hơn. Khi CNXH ra đời, các nhà kinh tế chính trị học cổ điển mới cho rằng Nhà nước cần phải can thiệp vào nền kinh tế trên tầm vĩ mô. Họ cho


rằng trong điều kiện độc quyền, thông qua các chính sách dưới hình thức luật, Nhà nước tác động đến
kinh tế nhằm tăng phúc lợi kinh tế, tăng thu nhập quốc dân.
Vào những năm 1929 - 1933, khủng hoảng kinh tế của CNTB diễn ra rất trầm trọng. Nó chứng tỏ học
thuyết cổ điển và cổ điển mới có nhiều điểm thiếu chính xác. Lý thuyết “bàn tay vô hình” của Adam
Smith và “cân bằng tổng quát” của L. Wanlras không thể đảm bảo cho nền kinh tế phát triển lành mạnh.
Sự phát triển nhanh chóng của CNTB độc quyền lên độc quyền nhà nước đòi hỏi cần phải có sự can
thiệp ngày càng tăng của Nhà nước vào kinh tế, đòi hỏi phải có lý thuyết kinh tế - chính trị mới. Kết quả
là, lý thuyết về nền kinh tế TBCN có sự điều tiết của Nhà nước đã ra đời. Người sáng lập của nó là J. M.
Keynes (1884 - 1946) - nhà kinh tế chính trị học người Anh.
Theo J. M. Keynes, tính chất không ổn định của nền kinh tế, khối lượng thất nghiệp ngày càng tăng
trong xã hội tư bản không phải là vốn có, mà do các chính sách kinh doanh lỗi thời, bảo thủ, thiếu sự
can thiệp của Nhà nước. J. M. Keynes không đồng ý với trường phái kinh tế - chính trị học cổ điển mới
về sự tự điều chỉnh, tự cân bằng của nền kinh tế. Ông cho rằng để định hướng nền kinh tế phát triển cân
đối, hài hoà, Nhà nước cần phải can thiệp vào thị trường, phải trực tiếp đứng trong guồng máy kinh tế và
phải điều tiết từ bên trong bằng các công cụ tài chính - tín dụng, lưu thông tiền tệ... cả ở tầm vĩ mô và vi
mô. Ở tầm vĩ mô, Nhà nước sử dụng các công cụ lãi suất, tín dụng, điều tiết lưu thông tiền tệ, chống lạm
phát, thuế bảo hiểm, trợ cấp, đầu tư phát triển. Ở tầm vi mô, Nhà nước trực tiếp phát triển các doanh
nghiệp sản xuất, kinh doanh và dịch vụ công cộng để giải quyết việc làm và góp phần ổn định nền kinh
tế.
Trong bối cảnh bất ổn định của nền kinh tế tư nhân TBCN lúc bấy giờ, học thuyết của Keynes để xem
như một cứu cánh. Các nước tư bản đã vận dụng học thuyết này vào thực tiễn kinh tế của mình với hy
vọng bằng sự can thiệp của Nhà nước, sẽ khắc phục được khủng hoảng, thất nghiệp, tạo ra sự ổn định
cho phát triển kinh tế - xã hội.
Song, những chấn động lớn trong nền kinh tế tư bản vẫn xảy ra. Khủng hoảng, thất nghiệp, lạm phát

ngày càng gia tăng. Nền kinh tế TBCN lại lâm vào khủng hoảng, bế tắc. Tình trạng đó kiến cho người ta
phê phán Keynes một cách gay gắt, từ bỏ học thuyết của ông để đi tìm một lối thoát mới. Kết quả là một
loạt học thuyết kinh tế khác nhau đã ra đời. Các học thuyết đó đều bàn về vai trò của Nhà nước trong
kinh tế, mong muốn tìm ra phương thức để Nhà nước tác động vào kinh tế một cách có hiệu quả. Một
trong số những học thuyết đó là “Chủ nghĩa tự do mới” với tư tưởng cơ bản là thực hiện cơ chế thị
trường có sự điều tiết của Nhà nước ở mức độ nhất định.
Những người tự do mới đã nhìn thấy những khiếm khuyết trong học thuyết của Keynes. Họ phê phán
Keynes, từ bỏ học thuyết của ông, nhưng họ cũng không quay trở lại với Adam Simth. Bởi lẽ, họ thừa
nhận cả quy luật kinh tế khách quan và cả tính tất yếu phải có sự can thiệp của Nhà nước vào kinh tế.


Theo họ, việc Nhà nước đã can thiệp sâu rộng vào kinh tế, cả ở tầm vĩ mô lẫn vi mô đã kiến cho nền
kinh tế không thể vận hành theo các quy luật kinh tế vốn có của nó. Để nền kinh tế có thể phát triển bình
thường, những người tự do mới yêu cầu “Nhà nước ít hơn và thị trường nhiều hơn”. Chủ nghĩa tự do
mới phát triển mạnh mẽ ở Mỹ, Pháp với khuynh hướng và nội dung cơ bản sau:
- Những người tự do mới thuộc phái trọng tiền ở Mỹ (còn gọi là trường phái Chicagô với những người
đứng đầu như Milton Friendman, Henry Simons, Geogrye Stigler...) cho rằng, nền kinh tế TBCN là nền
kinh tế thường xuyên ở trạng thái cân bằng động. Đó là hệ thống tự điều chỉnh, hoạt động dựa trên các
quy luật vốn có của nó. Do vậy, về cơ bản, các hoạt động kinh tế phải được “tự do” vận hành theo quy
luật của thị trường. Tuy nhiên, nền KTTT TBCN cũng gặp nhiều căn bệnh nan giải nhất. Để tránh và
hạn chế phần nào những căn bệnh đó, để hướng nền kinh tế theo những mục tiêu định sẵn, cần có sự tác
động của Nhà nước thông qua chính sách tiền tệ. Nhà nước thông qua việc điều tiết mức cung tiền tệ mà
điều chỉnh tốc độ thay đổi của lượng sản phẩm quốc gia, từ đó, đưa đất nước phát triển theo định hướng
của mình.
- Khác với những người trọng tiền, những người theo phái trọng cung ở Mỹ (như Arthus Laffterr,
Hede Winniski, Norman Ture, Paul Craig Roberto) cho rằng nhiệm vụ chính của Nhà nước là chống lạm
phát; vai trò của Nhà nước là điều tiết mặt cung của nền kinh tế. Theo họ, khối lượng sản xuất là kết quả
của chi phí, mà những chi phí này lại đem lại cho nền kinh tế tính kích thích. Do vậy, nhiệm vụ của Nhà
nước là xây dựng các điều kiện để các yếu tố kích thích kinh tế xuất hiện, qua đó, thúc đẩy kinh tế phát
triển. Trong số các chính sách góp phần tạo ra yếu tố kích thích kinh tế, thì chính sách khuyến khích dân

cư tiết kiệm thu nhập hiện tại để tăng thu nhập tương lai và chính sách thuế hợp lý nhằm kích thích tăng
thu nhập toàn xã hội là quan trọng nhất.
- Các nhà tự do mới ở Pháp (mà tiêu biểu là Jark Leon Ruyeffer) lại cho rằng, sự điều tiết của Nhà
nước đối với nền kinh tế chỉ có hiệu quả thông qua kế hoạch hoá định hướng cho sự phát triển. Các kế
hoạch này không thể là những “kế hoạch cứng chắc” về kinh tế, vì mọi quyết định kinh tế được tạo
thành không chỉ từ những nhân tố bên trong, mà cả nhân tố bên ngoài đất nước [41, tr. 20]; đó phải là
các kế hoạch tổng thể, kế hoạch dự báo về kinh tế vĩ mô.
Nếu như các nhà tự do mới tìm kiếm vai trò của Nhà nước ngay trong các hoạt động của nền sản xuất,
thì các nhà kinh tế học Bắc Âu lại tìm thấy sự tác động của Nhà nước đối với kinh tế thông qua việc xây
dựng mô hình “KTTT xã hội”, thông qua việc đảm bảo những phúc lợi chung cho xã hội. Theo họ,
nguồn gốc, động lực của sự phát triển xã hội chính là sự đảm bảo những phúc lợi chung. Muốn tạo được
động lực đó, Nhà nước phải nắm được mọi nguồn thu nhập và điều tiết các nguồn thu nhập đó để tạo ra
“ngôi nhà chung” cho tất cả mọi người.


Những người theo trường phái thể chế, nhất là trường phái thể chế mới (như J. K Galbraeth, D. Bell,
B. Myrdak, A. Gable, D. Perrouse...) lại cho rằng, động lực phát triển xã hội nằm ngay trong các thể chế
- như gia đình, Nhà nước, tổ chức độc quyền, các nghiệp đoàn... Đó cũng là những biểu hiện của tâm lý
xã hội, phương thức xử sự và tư duy đã trở thành thói quen; chính là biểu hiện về luật pháp, luân lý... Để
cho các thể chế đó có thể phát huy được tác dụng của mình, cần có vai trò của Nhà nước trong việc thiết
lập và tạo ra những điều kiện thuận lợi cho chúng hoạt động.
Quan điểm được xem là khá toàn diện trong việc xác định vai trò của Nhà nước đối với sự phát triển
kinh tế là quan điểm của trường phái hiện đại - một trường phái được hình thành trên cơ sở của hai
trường phái Keynes chính thống và “cổ điển mới”. Quan điểm này được trình bày khá rõ trong cuốn
“Kinh tế học” của Paul A Samuenlson. Trong tác phẩm này, Samuenlson đã nêu ba loại hình kinh tế:
kinh tế tập quán, kinh tế chỉ huy, KTTT. Sau khi phân tích đặc trưng của từng loại hình kinh tế, ông đi
đến kết luận: “Không một nền kinh tế hiện đại nào của con người là một trong những hình thức thuần
tuý như trên”..., “các xã hội là những nền kinh tế hỗn hợp với những nhân tố thị trường, chỉ huy và
truyền thống. Do đó, khi điều chỉnh một nền kinh tế hỗn hợp mà không cần cả Chính phủ lẫn cơ chế thị
trường cũng giống như vỗ tay bằng một bàn tay” [93, tr. 63]. Nếu để cho cơ chế thị trường tự vận động,

thì “bàn tay vô hình sẽ đưa nền kinh tế tới những sai lầm, những khuyết tật, khủng hoảng, thất nghiệp, ô
nhiễm môi trường, bất bình đẳng xã hội... Do đó, cần có bàn tay của Nhà nước. Nhà nước phải can thiệp
vào kinh tế để ngăn chặn khủng hoảng, thất nghiệp, tạo việc làm đầy đủ nhưng đồng thời phải giữ trong
khuôn khổ không ngoan của cạnh tranh” [93, tr. 63]. Để thực hiện vai trò đó, theo ông, Nhà nước cần
thực hiện tốt các chức năng sau đây:
Thứ nhất, Nhà nước thiết lập khuôn khổ pháp luật, hành lang pháp lý cho nền KTTT hoạt động. Nói
cách khác, Nhà nước đề ra các quy tắc trò chơi kinh tế mà các doanh nghiệp, người tiêu dùng và cả bản
thân Chính phủ cũng phải tuân thủ một cách nghiêm túc.
Thứ hai, Nhà nước sửa chữa những thất bại của thị trường để thị trường hoạt động có hiệu quả: chống
độc quyền, chống ô nhiễm môi trường, chống sự tàn phá tài nguyên thiên nhiên, sản xuất ra các hàng
hoá công cộng...
Thứ ba, Nhà nước đảm bảo sự cân bằng của xã hội thông qua các chính sách thuế (mà quan trọng nhất
là thuế luỹ tiến được áp dụng cho thuế thu nhập và thuế kế thừa), hệ thống hỗ trợ thu nhập cho người già
cả, ốm đau, thất nghiệp...
Thứ tư, Nhà nước ổn định kinh tế vĩ mô, chống lạm phát, suy thoái bằng các công cụ thuế, các khâu
chi tiêu, lãi suất, thanh toán chuyển nhượng, khối lượng tiền tệ và những quy định hay kiểm soát.
1.2.2. Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở Mỹ, Thuỵ Điển, Nhật Bản và các
nước Đông - Nam Á


Từ thế kỷ XVI và nhất là đầu thế kỷ XVIII, những người Châu Âu đã căn cứ vào Mỹ và, cùng với họ,
một làn sóng văn minh tiền tư bản đã du nhập vào vùng đất này.
Với mục đích làm giàu, khi nhập cư vào Mỹ, những người Châu Âu đã chủ trương đẩy mạnh buôn
bán, thúc đẩy sản xuất hàng hoá. Bằng phương thức sản xuất mới, những người Châu Âu đã phá vỡ tình
trạng lạc hậu ở châu lục này; tận dụng được các cơ hội thuận lợi về vị trí địa lý, tài nguyên thiên nhiên,
khí hậu... khiến cho nước Mỹ mau chóng trở thành một cường quốc trên thế giới.
Trong lịch sử nước Mỹ, theo nhiều nhà nghiên cứu, thời kỳ trước khi nội chiến kết thúc được coi là
giai đoạn phôi thai của nền kinh tế hàng hoá của Mỹ. Ở thời kỳ này, nền kinh tế phát triển chủ yếu thông
qua các đại lượng chuyển dịch các yếu tố của văn minh Châu Âu và lợi thế tự nhiên. Các nhà sản xuất
kinh doanh phát triển nông nghiệp, công nghiệp cơ khí ở giai đoạn cơ học với quy mô vừa và nhỏ. Ở

đây, sự hoạt động của các nhà sản xuất kinh doanh diễn ra theo tinh thần tự do. Nhà nước Mỹ chưa thể
hiện quyền lực đối với hoạt động kinh doanh.
Cho đến nửa cuối của thế kỷ XIX, những khác biệt về điều kiện tự nhiên giữa hai miền Nam, Bắc
nước Mỹ đã tạo thành hai khu vực kinh tế công và nông nghiệp lớn. Tuy nhiên, sự trao đổi hàng hoá
giữa hai khu vực này không ngang giá đã gây nên những mâu thuẫn gay gắt, làm bùng nổ cuộc nội chiến
1861 - 1865, đẩy nền kinh tế lâm vào cuộc đình trệ, suy thoái nặng nề những năm cuối thế kỷ XIX.
Để vực nền kinh tế Mỹ, thúc đẩy nó tiếp tục phát triển trên tinh thần ủng hộ học thuyết tự do kinh
doanh, Nhà nước Mỹ đã có những hành động hỗ trợ quan trọng. Chẳng hạn:
1. Việc ban hành những đạo luật có liên quan đến kinh doanh đất đai và các bất động sản khác được
coi là hành vi có ấn tượng nhất trong sự phát triển KTTT ở Mỹ. Nhờ hành vi này, một mặt, thị trường
đất đai và các bất động sản khác được hình thành công khai, mang tính pháp lý; mặt khác, Nhà nước có
thêm một nguồn thu lớn từ thuế để hoạt động điều hành đất nước.
2. Sự hỗ trợ của chính phủ Mỹ trong việc xây dựng đường dây điện tín đầu tiên giữa Washington và
Baltimore vào đầu những năm 40 của thế kỷ XIX đã tạo điều kiện cho ngành công nghiệp viễn thông
toàn cầu hình thành và phát triển.
3. Năm 1863, vào giữa cuộc nội chiến, Quốc hội đã thừa nhận sự cần thiết phải có một hệ thống tài
chính quốc gia và đã thông qua Đạo luật về ngân hàng quốc gia, thiết lập một cơ quan giám sát ngân
hàng đầu tiên trên phạm vi toàn quốc. Vào những năm sau đó, chính phủ đã tạo lập Hệ thống dự trữ liên
bang (Ngân hàng TƯ Hoa Kỳ) cũng như hàng loạt các tổ chức trung gian tài chính công cộng.
4. Hệ thống đường sắt xuyên lục địa đã được xây dựng sau nội chiến dưới sự trợ giúp đắc lực của
Chính phủ đã góp phần tạo dựng nên hệ thống thị trường thông suốt trong cả nước [70, tr. 736].
Những hành động đắc lực này của Nhà nước đã mở ra cho lịch sử nước Mỹ một trang mới, kỷ nguyên
CNH với tự do kinh doanh có sự hỗ trợ của Nhà nước (1865 - 1933).


Với hình thức tự do kinh doanh, đến cuối thế kỷ XIX, các doanh nghiệp lớn ở Mỹ đã thực hiện được
một cuộc cách mạng lớn, tạo ra một nền sản xuất hàng hoá đồ sộ.
Sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế Mỹ đã dần làm hình thành trong nó những tổ chức độc quyền chi phối hết thảy các công đoạn sản xuất, kinh doanh từ A đến Z và, do vậy, kiềm chế cạnh tranh. Điều
đó xâm hại đến lợi ích của những người sản xuất nhỏ, những người tiêu dùng, gây lên nhiều phản ứng
trong các tầng lớp dân cư của xã hội. Để giải quyết tình trạng đó, Nhà nước đã ban hành hàng loạt các

đạo luật chống độc quyền. Và bằng hành vi này, Chính phủ bắt đầu thể hiện vai trò pháp lý và sức mạnh
chính trị của mình đối với luận thuyết “tự do kinh doanh” của giới doanh nghiệp lớn.
Tuy nhiên, cũng cần phải thấy rằng xuất phát từ đặc thù của Mỹ, những người nào mạnh về kinh tế và
kinh doanh sẽ chi phối quyền lực chính trị, nên “dù trong các đạo luật chống độc quyền có hạn chế hoạt
động của các công ty này đến đâu đi nữa, kể cả việc cấm các công ty bàn bạc và thống nhất giá cả với
nhau trước khi đem bán, thì kẽ hở của các đạo luật cứ lộ ra một cách ngẫu nhiên hoặc cố ý. Thí dụ, công
ty lớn tự nguyện sáp nhập với nhau, trở thành những hãng khổng lồ, để qua đó cùng nhau định ra biểu
giá có lợi nhất cho mình mà không bị luật pháp khống chế. Kết quả là tới năm 1904, theo thống kê chính
thức đã có 1/3 tài sản công nghiệp của đất nước được hợp nhất vào 318 công ty khổng lồ với số vốn là
7,3 tỷ đô la. Và cuối cùng, các làn sóng hợp nhất đã dẫn đến việc hình thành những tập đoàn với tên gọi
trở nên phổ cập như Công ty thép Mỹ, Công ty điện thoại và điện tín Mỹ, Công ty len Mỹ, Công ty cao
su Hoa Kỳ [94, tr. 94 - 95].
Sự lũng đoạn của các công ty độc quyền về thị trường và giá cả đã làm cho nền kinh tế Mỹ gặp không
ít khó khăn vào những năm 20 của thế kỷ XX. Bên cạnh đó, do sức sản xuất của các công ty ngày càng
tăng, năng suất lao động nâng cao không ngừng do áp dụng rộng rãi phương pháp quản lý Taylor và tiến
bộ kỹ thuật, nên các công ty đã tạo ra một khối lượng khổng lồ các hàng hoá và dịch vụ, làm cho cung
vượt quá xa cầu. Nền kinh tế Mỹ lâm vào khủng hoảng.
Khủng hoảng bùng nổ, người ta đi tìm nguyên nhân của nó. Và một trong các nguyên nhân được chỉ
ra chính là sự “tôn trọng” chính sách “để mặc tư nhân tự do kinh doanh” của Nhà nước Mỹ.
Nhằm thoát khỏi khủng hoảng, Chính phủ của tổng Rossevelt và những người ủng hộ đã đưa ra
“đường lối mới”. Từ đấy, nền kinh tế Mỹ bước sang một giai đoạn mới - giai đoạn hậu CNH (từ 1934
đến nay) với kinh doanh tiêu dùng và Nhà nước điều tiết nền kinh tế.
Nhằm giảm bớt tình trạng cung vượt quá cầu và tỷ lệ thất nghiệp cao nhất trong lịch sử nước Mỹ, tổng
thống Rossevelt và Quốc hội đã ban hành nhiều đạo luật mới, bao gồm các biện pháp điều chỉnh việc
bán chứng khoán, thừa nhận quyền được thành lập công đoàn của công nhân, đặt ra các quy tắc về tiền
công và thời gian làm việc của công nhân, đưa ra các kiểm soát nghiêm ngặt hơn về việc sản xuất và bán
lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh và mỹ phẩm.


Những đạo luật và sự điều chỉnh của các đạo luật được ban hành trước 1930 đã và đang làm thay đổi

diện mạo của nền kinh tế Mỹ - tạo ra một xã hội tiêu dùng. Người dân Mỹ, trong nhiều thập kỷ gần đây
cho rằng, giá trị của một cá nhân trong xã hội tiêu dùng không được xác định bằng việc cá nhân ấy làm
gì và tiết kiệm được bao nhiêu tiền, mà nó được xác định bởi việc cá nhân ấy tiêu dùng cái gì.
Song song với việc tạo môi trường pháp lý cho xã hội tiêu dùng hình thành và phát triển, Chính phủ
còn dùng nhiều biện pháp khác nhau để giải quyết mâu thuẫn cung - cầu bằng kích cầu, giảm tỷ lệ thất
nghiệp: Chính phủ nỗ lực thực hiện các chương trình phúc lợi và việc làm, tạo điều kiện đáp ứng nhu
cầu kinh tế của người nghèo, người già, người không có khả năng lao động; sửa đổi các đạo luật chống
độc quyền tạo điều kiện cho hệ thống kinh doanh nhỏ phát triển (trong suốt thập kỷ 80, hơn 80% số việc
làm mới trong công nghiệp Mỹ là do khu vực này tạo ra); tác động trực tiếp vào thị trường tiền tệ và
chứng khoán; mở rộng khu vực dịch vụ, tăng cường các hợp đồng sản xuất và tiêu thu với giới quân sự.
Đến những năm 70, do tình hình kinh tế có những bước thăng trầm, các biện pháp kích cầu do Chính
phủ tạo ra cả tầm vĩ mô và vi mô không còn thích hợp. Chính phủ Mỹ dưới quyền của tổng thống
Reagan và Bush đã thay đổi cách thức bằng cách tự động kích thích các nhân tố của sản xuất (kích
cung). Những giải pháp tác động mới này đã vực nền kinh tế Mỹ dậy, và tiếp tục phát triển.
Từ việc xem xét vai trò của Nhà nước trong nền KTTT Mỹ có thể rút ra một số kết luận như sau:
1. Sự tác động của Nhà nước đến kinh tế do những nhu cầu phát triển kinh tế quy định.
2. Vì thế, mức độ tác động nông (sâu) không phải do Nhà nước, mà do quá trình kinh tế quy định.
3. Dựa vào những đặc điểm của thời đại, của dân tộc mà Nhà nước Mỹ đã xây dựng một mô hình
KTTT kiểu Mỹ - mô hình xã hội tiêu dùng.
Trong khi người Mỹ, bằng sức mạnh của Nhà nước, đã tạo dựng mô hình KTTT kiểu Mỹ, thì ở Bắc
Âu, những người Thuỵ Điển đã xây dựng nền kinh tế của mình theo mô hình “phúc lợi xã hội” (còn gọi
là mô hình Thuỵ Điển).
Mô hình Thuỵ Điển, về mặt lý luận, được bắt nguồn từ tư tưởng “ngôi nhà cho tất cả mọi người” của
P. A. Hansson, cựu thủ tướng Thuỵ Điển, chủ tịch Đảng xã hội - dân chủ Thuỵ Điển vào những năm
1932 - 1946. Cơ sở của “mô hình Thuỵ Điển” là thừa nhận sự thống trị của sở hữu tư nhân và thị trường
tự do có điều tiết trong lĩnh vực sản xuất, là thực hiện những nguyên tắc bình đẳng chung đảm bảo xã
hội cho nhân dân ở mức độ cao và có việc làm đầy đủ. Nói cách khác, “mô hình Thuỵ Điển là sự cố
gắng kết hợp nền sản xuất vật chất TBCN với những nguyên tắc phân phối chung mang tính chất
XHCN” [94, tr. 146].
Việc xây dựng mô hình Thuỵ Điển được giới hạn lãnh đạo dựa trên những điều kiện lịch sử cụ thể của

Thuỵ Điển.


Như chúng ta đã biết, từ cuối thế kỷ XIX, sang đầu thế kỷ XX, từ một trong những nước nghèo nhất
Châu Âu với 70% dân số làm nông nghiệp, Thuỵ Điển đã vươn lên trở thành một trong những nước giàu
nhất và CNH nhất thế giới.
Sự tăng trưởng mạnh về kinh tế trong nửa sau thế kỷ XIX là nhờ những cải cách sâu rộng về chính trị,
tài chính và tổ chức, do nhu cầu quốc tế tăng mạnh đối với các mặt hàng xuất khẩu của Thuỵ Điển (như
gỗ, sắt, thép...) và nhất là do sự mở rộng các ngành sản xuất công nghiệp nhờ các phát minh nổi tiếng
(phát minh hệ thống chiếu sáng của Gustaf Dalén; Alfred Nobel phát minh ra chất nổ dinamit...)
Sang đầu thế kỷ XX, cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới, cuộc đại chiến thế giới I và II tác động đến
tất cả các nước, trong đó có Thuỵ Điển. Tuy nhiên, nước này chỉ thụt lùi chút ít. Sau đại chiến thế giới
II, vào 1945, bộ máy sản xuất của Thuỵ Điển hầu như còn nguyên vẹn. Đây là một trong những nguyên
nhân khiến cho kinh tế tiếp tục phát triển và đạt được thời kỳ hoàng kim của mình vào những năm 60,
tạo điều kiện cho mô hình phúc lợi Thuỵ Điển có chỗ đứng vững chắc trong đời sống xã hội.
Phải nói rằng, cái đặc trưng nhất của “mô hình Thuỵ Điển” khiến cho khác hẳn các mô hình kinh tế
khác, trước hết là ở mức độ đảm bảo xã hội cao. Hệ thống bảo trợ xã hội ở Thuỵ Điển được coi là một
trong những hệ thống rộng rãi và hào phóng nhất thế giới. Trợ cấp cha mẹ khi sinh con được trả tổng
cộng là 15 tháng. Hai tháng trong 15 tháng này trợ cấp tương đương với 90% thu nhập bình thường
(85% từ năm 1996). Trong 10 tháng tiếp theo, trợ cấp tương đương với 80% (75% từ năm 1996). Trong
3 tháng còn lại, trợ cấp tính theo tiêu chuẩn nhất định. Cha mẹ cũng có quyền nghỉ ở nhà và trông con
ốm cho đến khi con 12 tuổi, trong khi đó, cha mẹ vẫn được hưởng 88% tiền bồi dưỡng do thu nhập bị
mất (75% kể từ năm 1986). Khoản bồi thường này tối đa 120 ngày/năm cho một đứa con [38, tr. 181].
Hệ thống y tế và bảo vệ sức khoẻ của Thuỵ Điển rất thuận tiện mà không mất tiền. Hàng năm, Nhà
nước chi cho lĩnh vực này chiếm 9,2% GNP. Hàng năm, Nhà nước chi hơn 70 tỷ cu ron cho công tác
bảo trợ đối với những người già; chi phí liên quan đến đấu tranh chống thất nghiệp chiếm trên 2% GNP
và 7% ngân sách nhà nước. Các chi phí công cộng với mức độ phúc lợi xã hội đặc biệt cao, khoảng
31,6% GNP, trong khi đó ở Cộng hoà Liên bang Đức, một quốc gia xây dựng nền KTTT theo mô hình
“KTTT xã hội”, cũng nhằm đáp ứng những nhân tố xã hội, chỉ xấp xỉ 25%, ở Anh là 20% [94, tr. 147 148].
Để thực hiện được mục đích đã đề ra, để xây dựng được mô hình “phúc lợi xã hội” trong thực tiễn,

Đảng xã hội - dân chủ Thuỵ Điển đã sử dụng Nhà nước như một công cụ chính yếu. Bằng tất cả quyền
lực của mình, Nhà nước có thể can thiệp vào tất cả các khâu, hoặc vào một trong những khâu nào đó của
nền sản xuất mà Nhà nước cho là có lợi nhất để đạt được mục đích của mình. Ở đây, Nhà nước Thuỵ
Điển đã can thiệp vào khâu phân phối lại thu nhập xã hội thông qua và bằng công cụ thuế. Thông qua
việc điều chỉnh cơ cấu thuế và chi tiêu, Nhà nước Thuỵ Điển hướng nền kinh tế vào thực hiện các mục


tiêu xã hội: thu hẹp khoảng cách người giàu và người nghèo bằng cách đem lại cho mọi thành viên trong
xã hội một phúc lợi như nhau được tạo ra từ nguồn thu nhập chủ yếu là thuế.
Lợi dụng sức mạnh của chính trị, của chính quyền nhà nước trong xã hội, Nhà nước Thuỵ Điển đã
dùng pháp luật, dùng công cụ thuế để can thiệp vào khâu phân phối với ý định thực hiện nguyên tắc
phân phối mang tính chất XHCN. Với sức mạnh quyền lực của mình, Nhà nước đã ban hành một chế độ
thuế khoá với mức thuế so với các tiêu chuẩn ở Châu Âu là quá cao. Năm 1989, khoản thu từ thuế bằng
56% GNP, mức cao nhất trong thế giới các nước công nghiệp (ở Châu Âu mức trung bình là 41%). Đối
với mỗi người dân của Thuỵ Điển, nếu tính trung bình thì gánh nặng thuế là 73% (tính cả thuế giá trị bổ
sung và tiền lương). Điều đó có nghĩa là đụng chạm đến lợi ích của người sản xuất kinh doanh, làm thui
chột tính tích cực, sáng tạo trong lao động, làm giảm động lực phát triển kinh tế. Người lao động trở
thành chây lười, thích nghỉ hơn thích làm việc, thích ốm hơn thích khoẻ, ưa hưởng lương thất nghiệp
hơn là bỏ công đi tìm việc làm. Họ đua nhau che giấu thu nhập, trốn thuế, phát triển “kinh tế ngầm”.
Các nhà tư bản không muốn đầu tư vào sản xuất trong nước, mà chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài nhằm
tìm kiếm lợi nhuận cao và ít chuyển các khoản tiền lời về nước để tránh bị đánh thuế...
Việc duy trì một nền kinh tế dựa trên chế độ thuế khoá nặng nề, mức chi dùng công cộng cao đã triệt
tiêu dần các động lực phát triển kinh tế, đẩy nền kinh tế vào khủng hoảng, lạm phát. Sự bất ổn trong lĩnh
vực kinh tế này đã tác động mạnh mẽ đến đời sống chính trị xã hội của Thuỵ Điển, làm cho những
người dân chủ - xã hội - những người khởi xướng mô hình này bị bật ra khỏi các chức vụ chủ chốt của
chính phủ, nhường chỗ cho phái bảo thủ. Hiện nay, để nền KTTT Thuỵ Điển tiếp tục phát triển, Chính
phủ nước này đang thực hiện điều chỉnh mô hình kinh tế của mình.
Khảo sát quá trình xây dựng mô hình KTTT xã hội của Thuỵ Điển, ta thấy:
- Trong đời sống xã hội, Nhà nước có vai trò hết sức to lớn. Bằng sức mạnh quyền lực của mình, bằng
luật pháp, bằng công cụ kinh tế vĩ mô, Nhà nước có thể hướng nền kinh tế phát triển theo mục tiêu nhất

định, có thể xây dựng được những mô hình kinh tế phù hợp với ý chí, nguyện vọng của mình.
- Một mô hình kinh tế được xây dựng nên bằng ý chí, nguyện vọng, sức mạnh quyền lực của giai cấp
cầm quyền có thể tồn tại được hay không; nếu có, nó tồn tại như thế nào và có tiếp tục phát triển được
hay không,...lại là vấn đề không phụ thuộc vào giai cấp cầm quyền, mà phụ thuộc vào chính bản thân
nền kinh tế. Việc Nhà nước Thuỵ Điển cố gắng xây dựng nền kinh tế theo “mô hình phúc lợi xã hội” với
mục đích đảm bảo sự công bằng, bình đẳng cho các thành viên của nó, xoá bỏ khoảng cách giàu nghèo tức là cố gắng xây dựng một xã hội vì con người trong khuôn khổ của CNTB - là việc làm hết sức đáng
chân trọng, mang tính nhân bản sâu sắc. Song, từ góc độ mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, đây là
mô hình mang nặng tính chủ quan, duy ý chí. Những khủng hoảng, trì trệ trong sự phát triển kinh tế của
mô hình đó cho phép kết luận như vậy. Để có thể thực hiện những đảm bảo xã hội ở mức độ cao, các


nhà lãnh đạo của Chính phủ Thuỵ Điển đã không dựa trên một nền sản xuất ở trình độ phát triển cao, mà
dùng biện pháp “nhanh” và “dễ” nhất (nhanh và dễ vì nó được thực hiện bằng sức mạnh quyền lực, bằng
ý chí của giai cấp cầm quyền). Thực chất của biện pháp này là sử dụng chế độ thuế khoá và phương
pháp phân phối mà họ cho là mang tính XHCN, lấy bớt của người giàu để san sẻ cho người nghèo. Tuy
nhiên, cách đảm bảo xã hội này, cách tạo ra sự công bằng xã hội này lại không gắn với sự bình đẳng xã
hội. Về thực chất, đó là sự cào bằng, san đều. Chính vì vậy, phương pháp này đã hạn chế, triệt tiêu động
lực lợi ích.
- “Mô hình Thuỵ Điển”, về thực chất, vẫn là mô hình được xây dựng dựa trên và phù hợp với lợi ích
của giai cấp thống trị, mặc dù nó có tính nhân đạo cao. Nói cách khác, trong quá trình thực hiện chức
năng của mình, mặc dù Chính phủ Thuỵ Điển đã rất chú trọng giải quyết các vấn đề mang tính nhân
loại, nhưng cái chi phối quá trình đó, xét đến cùng, vẫn là tính giai cấp. Trong khi cố gắng tạo ra sự bình
đẳng, công bằng xã hội bằng cách dùng quyền lực can thiệp vào khâu phân phối, họ vẫn duy trì chế độ
chiếm hữu tư nhân TBCN. Việc duy trì chế độ tư hữu mâu thuẫn với nguyên tắc phân phối của Thuỵ
Điển đã làm nảy sinh mâu thuẫn không thể điều hoà được giữa lợi ích cá nhân của nhà tư bản và lợi ích
xã hội. Từ đó, dẫn đến khủng hoảng trong sự phát triển kinh tế, buộc các nhà lãnh đạo phải có những cải
cách, sửa đổi theo hướng có lợi cho giai cấp cầm quyền - giai cấp tư sản.
So với Châu Âu, KTTT ở Châu Á hình thành muộn hơn. Nếu ở Châu Âu, quá trình hình thành và phát
triển kiểu cổ điển, thì ở Châu Á, quá trình đó lại diễn ra theo con đường rút ngắn cổ điển (ở Nhật), hoặc
theo con đường rút ngắn hiện đại (ở các nước NICs Châu Á). Đặc điểm chung của con đường rút ngắn

là tận dụng lợi thế của những người đi sau (tiến bộ khoa học - kỹ thuật, kinh nghiệm tổ chức xây dựng
và phát triển KTTT), khai thác triệt để nội lực để rút ngắn thời gian xây dựng nền kinh tế có sức cạnh
tranh mạnh.
Ở đây cần nhấn mạnh rằng, mô hình phát triển rút ngắn hoàn toàn không có sự đốt cháy giai đoạn. Nó
là kết quả của sự phát huy tính năng động chủ quan của các quốc gia đi sau thông qua vai trò của Nhà
nước. Điều này có thể thấy rõ qua kinh nghiệm của Nhật Bản.
Ở Nhật Bản vai trò của Nhà nước trong việc tạo điều kiện, tiền đề ra đời và hoàn thiện của KTTT
được thực hiện rõ nét qua hai thời kỳ chuyển tiếp - thời kỳ Phục hưng Minh Trị (1868 - 1911) và thời kỳ
cải cách tái thiết (1945 - 1951).
Ở thời kỳ Phục hưng Minh Trị, để đoạt tuyệt với chế độ phong kiến và chuẩn bị những điều kiện phát
triển KTTT, ngay sau khi lên nắm chính quyền, chính phủ Minh Trị đã tiến hành một loạt các cải cách
kinh tế, chính trị và xã hội căn bản, như: thiết lập chính quyền nhà nước TƯ; xoá bỏ tình trạng cát cứ
phong kiến; xoá bỏ chế độ đẳng cấp; tạo điều kiện cho sự ra đời một xã hội, mà trong đó, giá trị của con
người không phải được đánh giá bởi đẳng cấp của nó; cải cách tiền tệ, chế độ thuế khoá; mở rộng quan


hệ đối ngoại... Song song với việc tạo dựng một môi trường cho KTTT, Chính phủ Minh Trị còn tích
cực thúc đẩy quá trình CNH bằng việc xây dựng một kết cấu hạ tầng thuận lợi, khuyến khích phát triển
các ngành công nghiệp, hỗ trợ vốn cho các xí nghiệp tư nhân, kêu gọi sự đầu tư về kỹ thuật từ bên
ngoài...
Nếu cải cách Minh Trị có ý nghĩa quyết định cho sự chuyển nhanh từ kinh tế phong kiến sang KTTT,
tạo cho Nhật Bản rút ngắn được thời gian phát triển, đuổi kịp các nước tiên tiến, thì những cải cách kinh
tế sau chiến tranh đã đóng vai trò quan trọng vào việc tạo nên hiện tượng thần kỳ kinh tế.
Sau chiến tranh, nền kinh tế Nhật Bản về cơ bản bị đổ vỡ nghiêm trọng: của cải dân sự mất do chiến
tranh lên tới 6,6 tỷ Yên (bằng 25% tổng sản phẩm quốc dân), ngành chế tạo và khai khoáng mất 60% cơ
sở sản xuất, nông nghiệp bị mất 20%... Để vực nền kinh tế của mình phát triển, chính phủ Nhật Bản,
dưới sự chỉ huy thực tế của tổng tư lệnh tối cao các lực lượng chiếm đóng Mỹ, đã tiến hành ba cuộc cải
cách lớn:
+ Thủ tiêu tập trung kinh tế bằng việc giải tán các Zaibatsu, ban hành “Luật chống độc quyền” (tháng
4/1947), “Luật thủ tiêu tình trạng tập trung quá mức sức mạnh kinh tế” (tháng 12/1947), thành lập vụ xí

nghiệp nhỏ (tháng 3/1948)... Cải cách đó đã tạo điều kiện cho sự cạnh tranh mạnh mẽ trong các ngành
sản xuất công nghiệp, hình thành cơ chế thị trường luận lợi.
+ Cải cách ruộng đất nhằm chuyển quyền sở hữu ruộng đất cho nông dân. Nhờ đó, ruộng đất được cải
tạo, kỹ thuật canh tác mới được áp dụng, năng suất lao động nông nghiệp phát triển.
+ Dân chủ hoá lao động bằng việc ban hành Luật Công đoàn (1945), Luật điều chỉnh lao động (1946),
Luật cơ bản về lao động (1947). Nhờ các luật đó, công nhân có thể mặc cả tiền lương và điều kiện lao
động, làm cho thu nhập và nhu cầu tiêu dùng của công nhân tăng lên, góp phần mở rộng thị trường tiêu
thụ trong nước.
Những cải cách cơ bản trên cùng một loạt chính sách khác đã tạo được sự ổn định về kinh tế. Về cơ
bản, đến những năm 50, nền KTTT đã được khôi phục và mở đầu cho một thời kỳ tăng trưởng mới.
Từ sau thời kỳ tái thiết đất nước đến nay, vai trò của Nhà nước Nhật Bản đối với sự phát triển không
mất đi, trái lại, vẫn là nhân tố quan trọng trong việc thúc đẩy nền KTTT Nhật Bản tiếp tục phát triển.
Trước hết, Chính phủ Nhật Bản đã tạo ra được sự nhất trí cao trong dân chúng về mục tiêu quốc gia
sau chiến tranh và tập trung mọi nỗ lực cho phát triển kinh tế. Trên cơ sở đó, Chính phủ thiết lập một
chính sách ngoại giao mềm dẻo để tránh cho Nhật Bản khỏi bị cô lập trên trường quốc tế, cũng như khỏi
bị lôi kéo vào những sự kiện xa rời mục tiêu phát triển kinh tế của mình. Trong nước, Chính phủ tìm
cách duy trì trật tự và ổn định xã hội, xây dựng nền văn minh pháp luật, duy trì các quy tắc cạnh tranh
ngay thẳng, tạo được tâm lý yên tâm làm ăn trong dân chúng. Chính phủ gánh vác những chi phí đầu tư
vào các ngành công nghiệp không có lãi, song lại cần thiết cho các ngành hoạt động kinh tế khác, xây
dựng kết cấu hạ tầng văn hoá và giáo dục.


×