Tải bản đầy đủ (.doc) (109 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ tư TƯỞNG hồ CHÍ MINH về đoàn kết LƯƠNG GIÁO và sự vận DỤNG của ĐẢNG TRONG GIAI đoạn CÁCH MẠNG HIỆN NAY ở nước TA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (528.27 KB, 109 trang )

BẢNG KÝ HIỆU VIẾT TẮT
Chữ viết đầy đủ

Chữ viết tắt

Ban chấp hành Trung ương

BCHTƯ

Bộ chính trị

BCT

Chủ nghĩa cộng sản

CNCS

Chủ nghĩa đế quốc

CNĐQ

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá

CNH, HĐH

Chủ nghĩa tư bản

CNTB

Chủ nghĩa xã hội


CNXH

Dân tộc dân chủ nhân dân

DTDCND

Giai cấp công nhân

GCCN

Gia cấp tư sản

GCTS

Giai cấp vô sản

GCVS

Nhà xuất bản chính trị quốc gia

Nxb CTQG

Quân đội nhân dân

QĐND

Uỷ ban nhân dân

UBND


Xã hội chủ nghĩa

XHCN
MỞ ĐẦU

1 Tính cấp thiết của đề tài
Đoàn kết là một truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam, là một động lực cơ bản
tạo nên sức mạnh to lớn để dân tộc ta vượt qua mọi khó khăn thử thách, chiến thắng mọi
kẻ thù. Kế thừa và phát huy truyền thống đó, trong suốt cuộc đời hoạt động lý luận và
thực tiễn của mình, Hồ Chí Minh luôn coi trọng vấn đề đoàn kết và không ngừng chăm lo
xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, trong đó một nội dung quan trọng là đoàn kết lương
giáo.


Tư tưởng đoàn kết lương giáo của Hồ Chí Minh thiết thực góp phần tập hợp các lực
lượng cách mạng, đặt nền móng cho việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân vững
mạnh, góp phần vào thắng lợi của sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Đây chính là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho
đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước ta về công tác tôn giáo trong quá trình đấu
tranh vì độc lập dân tộc và CNXH.
Nước ta là một quốc gia có nhiều tôn giáo. Đồng bào theo tôn giáo chiếm một số lượng
khá đông (gần 20 triệu tín đồ tôn giáo các loại - số liệu năm 2000). Đa số đồng bào theo
tôn giáo là người lao động gắn bó với dân tộc và có nhiều công lao đóng góp cho cách
mạng, góp phần vào thắng lợi chung của sự nghiệp giải phóng dân tộc trước đây, cũng
như sự nghiệp xây dựng CNXH ngày nay. Tuy nhiên, hiện nay trong chiến lược “diễn
biến hoà bình”, kẻ thù đang tìm cách chia lẽ đồng bào tôn giáo với đồng bào không theo
tôn giáo, phá hoại khối đoàn kết lương giáo và đại đoàn kết toàn dân. Trong khi đó, chính
quyền ở một số địa phương và cơ sở đã nhận thức chưa đầy đủ và vận dụng thực hiện
quan điểm, chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước còn có những mặt hạn chế. Một bộ
phận đồng bào có tôn giáo do trình độ nhận thức có hạn, hoặc do nhẹ dạ cả tin đã bị các

thế lực thù địch kích động lôi kéo, nên đã có những việc làm đi ngược lại lợi ích dân tộc,
làm phương hại khối đại đoàn kết toàn dân. Trong sự nghiệp đổi mới vì mục tiêu dân giàu
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh hiện nay, một nhiệm vụ có ý nghĩa
chiến lược là phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết lương giáo làm thất bại
mọi âm mưu, thủ đoạn đen tối lợi dụng tôn giáo để chống phá sự nghiệp cách mạng của
nhân dân ta. Làm tốt nhiệm vụ đó là góp phần thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn


kết lương giáo, làm thất bại âm mưu “Diễn biến hoà bình” của CNĐQ đối với nước ta,
tạo động lực to lớn đưa cả nước đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Nghiên cứu một cách cơ bản, có hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết lương
giáo và sự vận dụng tư tưởng đó của Đảng và Nhà nước ta trong các giai đoạn cách
mạng, là cơ sở quan trọng và cấp thiết để quán triệt sâu sắc và thực hiện có hiệu quả quan
điểm chính sách tôn giáo và đại đoàn kết toàn dân của Đảng, Nhà nước ta trong công
cuộc đổi mới hiện nay. Vì vậy, tác giả chọn đề tài: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết
lương giáo và sự vận dụng của Đảng trong giai đoạn cách mạng nước ta hiện nay”, để
góp phần thực hiện nhiệm vụ trên.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết lương giáo là vấn đề đã và đang tập trung sự chú ý
quan tâm của Đảng, Nhà nước và các nhà khoa học. Thời gian qua đã xuất hiện một số
công trình đề cập trực tiếp hoặc gián tiếp vấn đề đoàn kết lương giáo trong tư tưởng Hồ
Chí Minh: Đó là luận án tiến sĩ “Ảnh hưởng của tín ngưỡng tôn giáo đến đời sống tinh
thần quân nhân ở đơn vị cơ sở Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay” của Lê Đại Nghĩa,
Học viện CTQS, Hà Nội 2001. Luận văn thạc sỹ: “Vấn đề đoàn kết tôn giáo ở Việt Nam
trong tư tưởng Hồ Chí Minh” của Lý Thị Bích Hồng, Học viện CTQG Hồ Chí Minh
(2001). Các bài viết đăng trên các báo và tạp chí sau: Nguyễn Đức Lữ (3/1995) “Tư
tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết lương giáo” tạp chí Lịch sử Đảng; Nguyễn Ngọc Hà
(1/1996): “Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết lương giáo”, tạp chí lịch sử
Đảng; Minh Hồng (11/1998) “Chủ tịch Hồ Chí Minh với vấn đề đoàn kết tôn giáo, đấu
tranh chống hoạt động lợi dụng tôn giáo”, tạp chí Công an Nhân dân (lưu hành nội bộ).



Những công trình nghiên cứu trên ở mức độ nhất định đã chú trọng đến các khía cạnh
khác nhau của “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết lương giáo”, phân tích sự tác động
của vấn đề này đối với thực tiễn cách mạng và giải quyết vấn đề tôn giáo ở nước ta.
Tuy nhiên, cho đến nay chưa có công trình khoa học nào tập trung nghiên cứu một cách
cơ bản, hệ thống dưới góc độ triết học và chính trị- xã hội nội dung “Tư tưởng Hồ Chí
Minh về đoàn kết lương giáo và sự vận dụng của Đảng trong giai đoạn cách mạng nước
ta hiện nay”. Vì vậy nhiệm vụ của tác giả luận văn này là tiếp thu những thành tựu của
các nhà nghiên cứu đi trước, tiếp tục mở rộng và đi sâu nghiên cứu “Tư tường Hồ Chí
Minh về đoàn kết lương giáo và sự vận dụng của Đảng trong giai đoạn cách mạng nước
ta hiện nay”, đề tài của luận văn không trùng lặp với các công trình khoa học đã được
công bố trước đó.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích:
Trên cơ sở làm rõ “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết lương giáo và sự vận dụng của
Đảng ta trong các giai đoạn cách mạng, những yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong giai
đoạn hiện nay” từ đó đề xuất một số giải pháp cơ bản để thực hiện tốt hơn nữa đoàn kết
lương giáo nhằm xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, tạo ra động lực cho cách mạng
Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới.
3.2. Nhiệm vụ:
- Bước đầu làm sáng tỏ một số vấn đề cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết
lương giáo.


- Khẳng định sự vận dụng đúng đắn của Đảng, Nhà nước trong việc thực hiện tư tưởng
Hồ Chí Minh về đoàn kết lương giáo qua các giai đoạn cách mạng.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm tăng cường đoàn kết lương giáo trong thực
hiện đại đoàn kết toàn dân hiện nay.
3.3. Phạm vi nghiên cứu:

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, vấn đề tôn giáo tín ngưỡng là một lĩnh vực rộng đề cập
đến nhiều nội dung. Ở luận văn này chỉ tập trung vào tìm hiểu những nội dung chủ yếu về
đoàn kết lương giáo theo tư tưởng Hồ Chí Minh (trọng tâm từ 1945-1969) và rút ra các
giải pháp nhằm quán triệt và phát huy tư tưởng này trong cách mạng Việt Nam.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận:
Những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin về tôn giáo; tư tưởng Hồ Chí
Minh; các văn kiện, nghị quyết của Đảng, Nhà nước ta.
4.2. Cơ sở thực tiễn:
Tình hình kinh tế, chính trị, xã hội và tình hình tôn giáo Việt Nam và trên thế giới hiện
nay.
- Kết quả thực hiện chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta qua các giai đoạn cách
mạng.
- Kết quả khảo sát thực tế của tác giả luận văn.
4.3. Phương pháp nghiên cứu:


Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử, chú trọng các phương pháp kết hợp lôgic - lịch sử, phân tích, tổng hợp và các phương
pháp đối chiếu so sánh, thống kê, để phục vụ cho mục đích nghiên cứu của luận văn.
5. Ý nghĩa của luận văn
Luận văn góp phần khẳng định tính cách mạng và khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh
về đoàn kết lương giáo và sự vận dụng sáng tạo của Đảng ta về đoàn kết lương giáo trong
quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam từ trước đến nay.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được làm tài liệu tham khảo trong nghiên
cứu, giảng dạy và vận dụng trong việc đề ra các chủ trương, biện pháp ở các đơn vị quân
đội làm công tác vận động quần chúng thực hiện chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà
nước hiện nay.
6. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm: Phần mở đầu, hai chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài liệu tham

khảo.

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐOÀN KẾT
LƯƠNG GIÁO
* Khái niệm đoàn kết lương giáo


Theo từ điển chính trị vắn tắt: Đoàn kết là hợp nhiều người thành một khối vững chắc,
cùng một lòng một dạ nhất trí với nhau; sự ủng hộ các phong trào, các tổ chức hoặc cá
nhân trên cơ sở quan điểm và lợi ích gần nhau hoặc thống nhất. Sự phối hợp hoạt động và
hành động... [46, tr.128].
Theo quan niệm trong nhân dân: “lương” nghĩa là lương thiện, nhằm chỉ những người
không theo Công giáo (Ki tô giáo); “giáo” nghĩa là giáo dân nhằm chỉ bộ phận nhân dân
có tôn giáo, chủ yếu là những người theo Công giáo (Ki tô giáo).
Theo các sách xuất bản của Viện nghiên cứu tôn giáo gần đây: “lương” được thay bằng
bộ phận không Công giáo hay Ki tô giáo, bao hàm cả những người theo đạo Phật và tín
ngưỡng thờ cúng tổ tiên.
Như vậy có thể khái quát:
Đoàn kết lương giáo trong quá trình cách mạng ở nước ta là đoàn kết giữa đồng bào
có đạo, đoàn kết giữa đồng bào theo tôn giáo khác nhau trong khối đại đoàn kết toàn
dân đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam nhằm thực hiện thắng lợi các
mục tiêu nhiệm vụ cách mạng.
Tư tưởng đoàn kết lương giáo của Hồ Chí Minh là sự kế thừa và phát triển truyền thống
đoàn kết tốt đẹp trong lịch sử dân tộc; các quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về
giải quyết vấn đề tôn giáo trong quá trình cách mạng XHCN; những giá trị văn hoá đạo
đức của tôn giáo; đồng thời xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ cách mạng Việt Nam trong các
giai đoạn, thời kỳ dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí
Minh... Những cơ sở đó bảo đảm cho tư tưởng đoàn kết lương giáo nói riêng, tư tưởng
đại đoàn kết toàn dân nói chung trong tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng ta thật sự bền



vững và sâu sắc, có ý nghĩa thực tiễn to lớn trong toàn bộ tiến trình cách mạng của Đảng
ta và dân tộc ta.
1.1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết lương giáo
1.1.1. Truyền thống đoàn kết của dân tộc
Đoàn kết, cố kết cộng đồng là truyền thống quý báu của dân tộc để tạo thành sức mạnh
chiến thắng thiên tai, địch hoạ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Việt Nam là một quốc gia có lịch sử lâu đời. Trải qua mấy nghìn năm dựng nước và giữ
nước đã tôi luyện, hun đúc cho dân tộc ta những truyền thống tốt đẹp quý báu. Đó chính
là lòng yêu nước nồng nàn, tinh thần đoàn kết, cố kết cộng đồng chặt chẽ, ý chí độc lập tự
chủ, tự lực tự cường, sự dũng cảm, mưu trí, đức tính cần cù sáng tạo, tinh thần yêu lao
động và lạc quan trong cuộc sống... Những truyền thống đó đã góp phần tạo nên sức
mạnh vô địch của dân tộc, đưa dân tộc ta vượt qua khó khăn, thử thách ác liệt để tồn tại
và phát triển. Trong đó, truyền thống đoàn kết cộng đồng, “chung lưng đấu cật” của dân
tộc được thể hiện một cách tập trung nổi bật, xuyên suốt, trở thành giá trị bền vững của
dân tộc, được giữ gìn, phát triển từ thế hệ này qua thế hệ khác.
Đoàn kết dân tộc là giá trị tinh thần cao quý được xây dựng, vun đắp trong suốt quá
trình đấu tranh để tồn tại và phát triển của nhân loại. Tuy nhiên, truyền thống đoàn kết
của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc có quá trình hình thành phát triển khác nhau và mang nội
dung, đặc điểm, sắc thái cũng khác nhau. Điều đó phản ánh nét đặc thù về điều kiện tự
nhiên và xã hội của mỗi dân tộc. Thực tiễn lịch sử chứng minh rằng, đoàn kết cộng đồng
là nhu cầu chính đáng, đồng thời là điều kiện thiết yếu trong quá trình hoạt động của cộng
đồng nói chung, là nhân tố có ý nghĩa quyết định đảm bảo cho sự tồn tạt và phát triển của
các dân tộc.


Việt Nam nằm ở khu vực Đông Nam Á, khí hậu nhiệt đối gió mùa, có địa hình đa dạng,
tài nguyên thiên nhiên phong phú, chứa đựng nhiều tiềm năng để phát triển. Đó là mặt
thuận lợi cơ bản giúp cho dân tộc Việt Nam sớm hình thành một cộng đồng cố định, có

nền văn minh nông nghiệp trồng lúa nước nổi tiếng từ lâu trong lịch sử. Nhưng thiên
nhiên Việt Nam cũng rất khắc nghiệt “không hề giành cho người Việt Nam một cuộc
sống dễ dãi như trường hợp nhiều dân tộc khác trên trái đất” [33, tr.35]. Hàng năm, bão
lụt, hạn hán xảy ra thường xuyên gây ra nhiều khó khăn trở ngại và đe doạ nghiêm trọng
tới sản xuất và đời sống, tính mạng, tài sản và những thành quả lao động của nhân dân ta.
Công cuộc xây dựng đất nước, chinh phục thiên nhiên phát triển nền kinh tế nông
nghiệp trong điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt đòi hỏi dân tộc ta sớm có ý thức đoàn kết
dân tộc. Đoàn kết dân tộc là nguồn sức mạnh, nhân tố cơ bản bảo đảm cho dân tộc ta tồn
tạt và phát triển, vượt qua những gian nan thử thách.
Từ thời Hùng Vương, thời đại mở đầu lịch sử dân tộc Việt Nam và tiếp đó là thời kỳ
Âu Lạc cách đây mấy nghìn năm, nhân dân ta đã biết liên kết với nhau để khai hoang,
làm thuỷ lợi, mở mang xóm làng, cùng nhau xây dựng nên một quốc gia độc lập, có chủ
quyền. Một số công trình thuỷ lợi đã ra đời khá sớm để tưới tiêu phục vụ cho việc trồng
cấy lúa nước, phát triển nông nghiệp. Tinh thần đoàn kết dân tộc, vươn lên đấu tranh cải
tạo thiên nhiên của người Việt Nam được phản ánh và ca ngợi bằng những kỳ tích huyền
thoại như câu chuyện mang đậm tính thần thoại Sơn tinh- Thuỷ tinh, một trong những
câu chuyện cổ nhất, xuất hiện từ thời đại Hùng Vương vẫn được lưu truyền đến ngày nay
là sự phản ánh tinh thần kiên cường đấu tranh chống lại thiên tai khắc nghiệt của tổ tiên
ta trong buổi đầu đựng nước.


Từ thế kỷ X-XI đến nay, công việc đắp đê ngăn lũ lụt và làm các công trình thuỷ lợi
khác được tiến hành trên quy mô lớn nhờ sự đoàn kết tập hợp toàn dân. Hàng nghìn cây
số đê điều bao dọc theo các con sông chính như: sông Hồng, sông Thái Bình, sông
Đuống, sông Mã, sông Lam.. .v.v. cùng với hàng trăm cây số đê ngăn nước biển để khai
phá nhiều vùng bãi bồi ven biển đã nói lên công lao to lớn của toàn dân tộc ta trong việc
chống lũ lụt, chống sự xâm thực của biển để bảo vệ mùa màng, phát triển nông nghiệp.
Trải qua nhiều thế hệ, việc bồi trúc, bảo vệ đê điều trở thành nhiệm vụ của toàn dân,
“không phân biệt sang, hèn, già, trẻ”, và trở thành một điều khoản quy định của pháp
luật, được các điều đại Lý, Trần, Lê... duy trì chặt chẽ, có hiệu quả. Ngày nay Nhà nước

Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam vẫn tiếp tục kế thừa phát triển việc duy tu bảo vệ đê
điều, pháp lệnh “bảo vệ đê điều” đã nói lên việc làm cần thiết, cấp bách đó.
Hàng nghìn cây số đê điều tạo nên một hệ thống đê của cả nước đã minh chứng cho
công lao to lớn, là sản phẩm của trí tuệ, sức lực của cộng đồng người Việt Nam gắn bó,
hợp lực, đoàn kết cùng nhau làm nên. Khi nói về vấn đề này giáo sư Phan Huy Lê đã viết:
“Cuộc đấu tranh với thiên nhiên, một thiên nhiên rất đa dạng, vừa giàu đẹp, vừa khắc
nghiệt, vừa thuận, vừa nghịch, vừa ưu đãi, vừa thử thách con người - đòi hỏi nhân dân ta
sớm phải tập hợp lại” [28, tr .493].
Đó là sự tập hợp, cố kết trong một quốc gia dân tộc thống nhất và bền chặt. Đoàn kết
cộng đồng trở thành một thuộc tính nổi bật của dân tộc Việt Nam, được lưu giữ, phát
triển trở thành truyền thống quý báu của dân tộc trong lịch sử.
Thực tiễn đấu tranh cải tạo thiên nhiên, phát triển kinh tế- xã hội, trải qua hàng nghìn
năm nhân dân Việt Nam đã hít ra chân lý của cuộc sống “Đoàn kết thì sống, chia rẽ thì


chết”. Chân lý ấy trở thành giá trị tinh thần cao quý của nhân dân ta, được truyền từ thế
hệ này sang thế hệ khác:
Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao.
Trong đấu tranh với thiên nhiên để bảo vệ mùa màng, tính mạng tài sản, dân tộc ta đã
sớm đoàn kết để tạo thành sức mạnh. Trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm, truyền
thống đoàn kết của dân tộc cũng được phát huy để chiến thắng kẻ thù, bảo vệ đất nước.
Việt Nam nằm trên bán đảo Đông Dương, phía Bắc giáp Trung Quốc, phía Tây giáp
Lào, Tây Nam giáp Cam-pu-chia, phía Đông và Đông Nam giáp biển Đông, nằm ở vị trí
địa lý chiến lược trọng yếu của khu vực Đông Nam Á, nơi có đầu mối giao thông thuỷ bộ
hết sức thuận lợi, nắm giữ con đường từ Bắc xuống Nam, từ phía Tây sang phía Đông để
thông ra biển….Ngoài yếu tố địa chính trị quan trọng Việt Nam còn có nguồn tài nguyên
khoáng sản, rừng, biển đa dạng, dồi dào. Những yếu tố thuận lợi về vị trí địa lý, về tài
nguyên khoáng sản dồi dào đã trở thành nỗi “thèm khát” ám ảnh các thế lực ngoại bang
tìm cách chiếm đoạt. Thực tế lịch sử đã chứng minh Việt Nam từ xưa đến nay là nơi

thường xuyên bị giặc ngoại xâm đe doạ.
Đối với nước ta, nạn ngoại xâm gần như là mối đe doạ thường xuyên, liên tục, dai
dẳng. Lịch sử của dân tộc Việt Nam là lịch sử dựng nước đi đối với giữ nước. Trong hoàn
cảnh đó, nhân dân Việt Nam đã sớm phát hiện sức mạnh chiến thắng kẻ thù xâm lược là
phải củng cố sự thống nhất quốc gia, thắt chặt sự đoàn kết, cố kết trong cộng đồng dân
tộc.


Từ thuở các Vua Hùng mới dựng nước, nhân dân ta đã phải đánh giặc giữ nước. Chỉ
tính từ đầu công nguyên đến nay, nhân dân ta đã phải tiến hành hàng chục cuộc kháng
chiến chống xâm lược để bảo vệ chủ quyền đất nước, giành lấy và bảo vệ nền độc lập dân
tộc. Hầu hết trong các cuộc kháng chiến đó, kẻ địch thường mạnh hơn ta gấp nhiều lần,
nhưng khi đến Việt Nam, chúng đã vấp phải sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, ý
chí kiên cường bất khuất của cả một dân tộc biết đồng sức, đồng lòng “trên dưới một
lòng, ngược xuôi gắn bó” nên kẻ địch đã phải chuốc lấy thấy bại.
Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng (40-43) là cuộc khởi nghĩa toàn dân nổi dậy trên phạm
vi cả nước với khí thế tiến cống mãnh liệt và mục tiêu độc lập rõ ràng. Dưới sự lãnh đạo
của hai vị nữ anh hùng, nhân dân ta đồng lòng cứu nước từ khắp nơi kéo về Mê Linh
trong đó có cả người Nam, người Lý ở 4 quận: Giao chỉ, Cửu chân, Nhật Nam, Hợp phố;
có đồng bào Tày, Nùng ở Việt Bắc. Bằng sức mạnh quật khởi của một dân tộc đoàn kết,
thống nhất, nhân dân ta đã lật đổ sự thống trị, đô hộ của triều đại Đông Hán. Thắng lợi
oanh liệt của cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng không chỉ mở đầu kỷ nguyên đấu tranh
chống xâm lược mà còn xác lập một phương hướng đúng đắn cho sự nghiệp đấu tranh
giải phóng dân tộc, đoàn kết cộng đồng dân tộc, đấu tranh kiên cường bất khuất giành
độc lập dân tộc và giữ độc lập dân tộc.
Dưới sự lãnh đạo của nhà Lý, nhân dân ta lại phải tiến hành cuộc kháng chiến chống
quân Tống vào thế kỷ XI. Trong cuộc kháng chiến này nhà Lý đã rất thành công trong
việc tranh thủ các tù trưởng, đoàn kết tập hợp được các dân tộc phía Bắc và Đông Bắc,
xây dựng lực lượng quốc phòng vững mạnh, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, làm thất
bại âm mưu xâm lược của nhà Tống.



Đến thế kỷ XIII, dưới sự lãnh đạo của nhà Trần, quân dân cả nước ta đã anh dũng
kháng chiến chống quân Nguyên - Mông ba lần và cả ba lần đều giành thắng lợi vang dội.
Có lúc thế giặc mạnh như chẻ tre, vua Trần băn khoăn “Nên hàng hay nên đánh”. Song
qua hai hội nghị Bình Than (1282) và Hội nghị Diên Hồng (1285): sức mạnh dân tộc, ý
chí đoàn kết toàn dân “quyết đánh” giặc, giữ nước lại được thể hiện càng củng cố thêm
quyết tâm đánh địch của vua tôi nhà Trần.
Đến thế kỷ XV, cuộc khởi nghĩa do Lê Lợi - Nguyễn Trãi lãnh đạo chống quân Minh
kéo dài suốt 10 năm trời đầy khó khăn, gian khổ “Nếm mật, nằm gai”. Song, nhờ có sự
quy tụ, đoàn kết tập hợp của đông đảo nhân dân xung quanh ngọn cờ đại nghĩa, do vậy
cuộc khởi nghĩa đã giành thắng lợi oanh liệt. Truyền thống đoàn kết dân tộc, không phân
biệt Bắc, Nam đã là cội nguồn sức mạnh giúp nhà Tây Sơn dẹp tan được sự cát cứ phân
tranh “Đàng trong, Đàng ngoài” và đánh tan mấy chục vạn quân Thanh xâm lược, thống
nhất đất nước. Truyền thống đoàn kết dân tộc đã giúp nhà Nguyễn củng cố quốc gia, bảo
vệ và mở mang bờ cõi. Cũng nhờ biết khơi dậy truyền thống đoàn kết toàn dân, dẹp bỏ
những bất đồng mà các phong trào yêu nước chống Pháp của các văn thân, sĩ phu như
phong trào Cần vương, phong trào của cụ Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Huỳnh
Thúc Kháng được đông đảo nhân dân ủng hộ và đã thu được những thắng lợi nhất định.
Phân Bội Châu đã rút ra kết luận: muốn cho đất nước ta giàu mạnh, thì chỉ cần người
nước ta một lòng, một chí, như vậy thì việc xoay trời chuyển đất đều làm được hết.
Như vậy, trong lịch sử dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam đã phải vượt qua bao
nhiêu khó khăn thử thách chiến thắng thiên tai, địch hoạ để tồn tại và phát triển. Qua khó
khăn, thử thách đã tác động sâu sắc đến tiến trình lịch sử dân tộc, xác lập cơ sở phát triển
tinh thần yêu nước, truyền thống đoàn kết dân tộc, ý chí quật cường bất khuất, niềm tự


hào tự tôn dân tộc. Truyền thống yêu nước, đoàn kết gắn bó của dân tộc qua lịch sử mấy
nghìn năm đã “hun đúc” nên tâm hồn, cốt cách con người Việt Nam. Đoàn kết không chỉ
là truyền thống mà nó còn là lẽ sống, trở thành động lực to lớn giúp dân tộc ta đứng vững

và vượt qua gian lao thử thách. Hồ Chí Minh sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu
nước, từ nhỏ đã được dạy dỗ những tri thức Nho học khá kỹ lưỡng, sớm tiếp thu truyền
thống yêu nước của quê hương, của dân tộc. Tận mắt chứng kiến những tội ác tầy trời của
thực dân Pháp và bè lũ tay sai đối với nhân dân ta, anh thanh niên Nguyễn Tất Thành đã
quyết chí ra đi tìm đường cứu nước.
Chính truyền thống dân tộc, truyền thống của quê hương và gia đình đã bồi đắp nên
lòng yêu nước, căm thù giặc trong người thanh niên Nguyễn Tất Thành. Kế thừa truyền
thống đó, trải nghiệm qua thực tiễn hoạt động cách mạng đã xây đắp nên phẩm chất, nhân
cách Hồ Chí. Minh. Lòng yêu nước, thương dân đã thấm sâu trong Hồ Chí Minh trở
thành “máu thịt” của Người.
Truyền thống đó đã góp phần bồi đắp, nuôi dưỡng làm cho tư tưởng đại đoàn kết Hồ
Chí Minh có sức nặng chiều sâu của dòng chảy lịch sử mấy nghìn năm của dân tộc. Kế
thừa truyền thống đoàn kết của dân tộc, Hồ Chí Minh luôn chăm lo xây dựng khối đại
đoàn kết toàn dân, Người khẳng định: Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của
Đảng ta và dân tộc ta. Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở: “Sử ta dạy cho ta bài học này: lúc nào
dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại, lúc nào dân ta
không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn” [21, tr.21]. Khi tổng kết kinh nghiệm lịch sử
dân tộc, Hồ Chí Minh đã thấy rõ vai trò của sự đoàn kết toàn dân có ý nghĩa quyết định
sự thành bạt của đất nước trong từng thời điểm, Người đặc biệt chú trọng tinh thần yêu
nước, đoàn kết, cố kết cộng đồng của nhân dân ta. Chính truyền thống lịch sử này đã trở


thành một cơ sở quan trọng hình thành tư tưởng đoàn kết lương giáo của Chủ tịch Hồ Chí
Minh trong quá trình hoạt động cách mạng và lãnh đạo cách mạng Việt Nam sau này.
1 1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về giải quyết vấn đề tôn giáo
Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội phản ánh một cách hoang đường, hư ảo hiện
thực khách quan. Qua sự phản ánh của tôn giáo, những sức mạnh tự phát của tự nhiên và
xã hội trở nên thần bí.
Chủ nghĩa Mác-Lê nin chỉ rõ: tôn giáo có nguồn gốc từ những nhận thức còn hạn chế,
từ sự bất lực của con người trước sức mạnh của tự nhiên và xã hội. Tôn giáo hình thành,

tồn tại và phát triển từ những điều kiện cụ thể của xã hội, trong nhận thức và trong tình
cảm tiêu cực của con người khi giải quyết mối quan hệ với tự nhiên và với xã hội... Lênin
chỉ rõ: “Tôn giáo là một trong những hình thức áp bức về tinh thần, luôn luôn và bất cứ ở
đâu cũng đè nặng lên quần chúng nhân dân khốn khổ vì phải lao động suốt đời cho người
khác hưởng, vì phải chịu cảnh bần cùng và cô độc. Sự bất lực của giai cấp bị bóc lột
trong cuộc đấu tranh chống bọn bóc lột tất nhiên đẻ ra lòng tin vào một cuộc đời tốt đẹp
hơn ở thế giới bên kia, cũng giống y như sự bất lực của người dã man trong cuộc đấu
tranh chống thiên nhiên đẻ ra lòng tin vào thần thánh, ma quỷ, vào những phép màu”[30,
tr.169-170].
Tôn giáo còn là một thực thể xã hội, một cộng đồng xã hội gắn với điều kiện lịch sử xã
hội nhất định. Trong chế độ XHCN, tôn giáo đã và đang có những chuyển biến so với xã
hội cũ, đó là do bản chất chế độ xã hội quy định. Giai cấp vô sản không sử dụng tôn giáo
như một thứ công cụ để giành lấy và duy trì sự thống trị của mình và không chủ trương
liên minh giữa thần quyền và thế quyền để Nhà nước XHCN quản lý xã hội. Vì vậy,
phạm vi ảnh hưởng và vai trò xã hội của tôn giáo chỉ tồn lại ở một giới hạn nhất định.


Đó là sự khác biệt giữa CNXH với các chế độ xã hội trước, ở dưới chế độ TBCN, Nhà
nước tư sản thống trị sử dụng tôn giáo như một thứ công cụ để duy trì sự thống trị của họ.
Lênin đã chỉ rõ: “….Tôn giáo và các giáo hội, tất cả các tổ chức tôn giáo hiện có, đều là
những cơ quan của thế lực phản động tư sản, dùng để bảo vệ chế độ bóc lột và đầu độc
GCCN” [31, tr.51l].
Sự nghiệp cách mạng XHCN do GCCN lãnh đạo không chỉ nhằm lật đổ CNTB, giải
phóng toàn thể GCCN và nhân dân lao động khỏi ách thống trị, áp bức, bóc lột bất công
của GCTS mà còn phải xoá bỏ mọi ách nô dịch tinh thần, trong đó có ảnh hưởng tiêu cực
của tôn giáo. Đó là quan điểm nhất quán của chủ nghĩa Mác- Lênin và cũng là quan điểm
nhất quán của Đảng cộng sản. Cách mạng XHCN không chỉ giải phóng GCCN mà còn
giải phóng toàn thể nhân dân lao động trong đó có cả đồng bào có đạo và đồng bào không
có đạo. Tuy nhiên, việc xoá bỏ ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo là một việc làm lâu dài,
cần có sự kiên trì, dần dần, chủ yếu bằng thuyết phục, giáo dục. Bởi vì, tôn giáo đã ra đời,

“Ăn sâu bám lễ” từ rất lâu trong một bộ phận đông đảo quần chúng, được truyền từ thế hệ
này sang thế hệ khác, do đó không thể trong một sớm một chiều có thế xoá bỏ được ảnh
hưởng tiêu cực của tôn giáo. Vì vậy, Đảng của giai cấp công nhân đề ra chính sách tôn
giáo trên nguyên tắc không chỉ tôn trọng, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng mà còn bảo
đảm quyền tự do không tín ngưỡng của công dân. Mọi công dân đều có quyền tự do theo
tôn giáo hoặc không theo tôn giáo, mọi công dân có tôn giáo hoặc không có tôn giáo đều
có quyền bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ, bình đẳng trước pháp luật. Đường lối,
chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước XHCN được thể chế hoá thành pháp luật và
được pháp luật bảo vệ.


Những quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về nguồn gốc, bản chất, nguyên nhân tồn
tại của tôn giáo và sự chuyển biến của tôn giáo dưới CNXH... có thái độ lập trường rất rõ
ràng, nhất quán. Chủ nghĩa Mác-Lênin cũng chỉ ra rằng tôn giáo sẽ còn tồn tại rất lâu dài,
tôn giáo vẫn còn là nhu cầu tinh thần của một bộ phận quần chúng nhân dân. Vì vậy, dưới
sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, khi tiến hành cách mạng XHCN dứt khoát không được
nóng vội chủ quan khi giải quyết vấn đề tôn giáo, đặc biệt không bao giờ được sử dụng
vũ lực hoặc biện pháp hành chính cưỡng chế trong giải quyết vấn đề tôn giáo. Lênin viết.
“Người vô chính phủ chủ nghĩa nào mà chủ trương cứ khai chiến cho bằng được với
thượng đế, thì thực tế sẽ giúp sức cho các giáo trưởng và giai cấp tư sản” [31 , tr.518]
Chủ nghĩa Mác-Lênin khẳng định: phải đoàn kết với đồng bào có tôn giáo trong cách
mạng XHCN, đây cũng là quan điểm nhất quán của Đảng cộng sản.
Cách mạng XHCN là cuộc cách mạng toàn diện nhất, sâu sắc nhất, triệt để nhất trong
lịch sử bởi xuất phát từ chính mục tiêu của cách mạng là giải phóng con người, giải
phóng giai cấp nói chung, trong đó có cả một bộ phận nhân dân có tôn giáo. Trong quá
trình tiến hành cách mạng XHCN, GCCN dứt khoát phải đoàn kết, liên minh với các giai
cấp, tầng lớp trung gian khác trong xã hội, không phân biệt người có tôn giáo hay không
có tôn giáo xung quanh đội tiền phong của mình để đập tan sự phản kháng của GCTS,
tiết hành cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới.
Cách mạng XHCN do GCCN lãnh đạo lật đổ sự áp bức thống trị của CNTB, mang lại

quyền lợi kinh tế và đời sống tinh thần cho GCCN và nhân dân lao động, làm cho họ có
cuộc sống kinh tế ấm no, đời sống tinh thần vui vẻ. Chính vì vậy, GCCN dưới sự lãnh
đạo của Đảng cộng sản phải quan tâm giải quyết từng bước, tiến tới xoá bỏ ảnh hưởng
tiêu cực của tôn giáo trong một bộ phận quần chúng nhân dân.


Đoàn kết quần chúng có tôn giáo và quần chúng không có tôn giáo là mục đích của
CNXH nhằm tăng cường lực lượng cách mạng, tạo nên sức mạnh đấu tranh cải tạo xã hội
cũ và xây dựng xã hội mới.
Dưới các chế độ áp bức, bóc lột giai cấp thống trị xã hội luôn lợi dụng tôn giáo, sử
dụng tôn giáo như một “công cụ” tinh thần để ru ngủ, áp bức quần chúng nhân dân lao
động. Vì vậy, quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin là: GCCN phải thức tỉnh quần chúng
nhân dân lao động khỏi “đám mây mù” tôn giáo, xoá bỏ hạnh phúc hư ảo mà tôn giáo
mang lại cho con người bị áp bức, song phải mang lại cuộc sống thực sự hạnh phúc cho
con người trong hiện tại. Lênin chỉ rõ: “Đối với chúng ta, sự thống nhất của cuộc đấu
tranh thực sự cách mạng do của giai cấp bị áp bức để sáng tạo nên một cảnh cực lạc trên
trái đất là quan trọng hơn sự thống nhất ý kiến của những người vô sản về cảnh cực lạc
nơi thiên đường [30, tr.174].
Trong xã hội còn giai cấp và đối kháng giai cấp, sự tồn tại của tôn giáo với tư cách là
một “bộ phận” của kiến trúc thượng tầng, là nhu cầu tinh thần của một bộ phận quần
chúng nhân dân lao động bị áp bức là một tất yếu. Khi tiến hành cách mạng vô sản,
GCCN không chỉ đấu tranh lật đổ sự thống trị của GCTS mà còn phải đấu tranh chống
tôn giáo. Lênin viết: “Chúng ta phải đấu tranh chống tôn giáo. Đó là điều sơ đẳng của
toàn bộ chủ nghĩa duy vật, và do đó của chủ nghĩa Mác. Nhưng chủ nghĩa Mác không
phải là thứ CNDV chỉ đứng lại ở điều sơ đẳng ấy. Chủ nghĩa Mác đi xa hơn nữa. Chủ
nghĩa Mác nói: Phải biết cách đấu tranh chống tôn giáo, nhưng muốn thế thì phải lấy
quan điểm duy vật mà giải thích nguồn gốc tín ngưỡng và nguồn gốc tôn giáo của quần
chúng” [31, tr.514]. Người chỉ rõ: cuộc đấu tranh chống tôn giáo phải phụ thuộc vào cuộc
đấu tranh chính trị và đấu tranh kinh tế: “... Việc đấu tranh chống một kẻ thù của văn hoá



và tiến bộ, một kẻ thù vốn đã gây tác hại từ mấy nghìn năm nay (tức là tôn giáo) lại phải
phục vụ cuộc đấu tranh giai cấp, nghĩa là cuộc đấu tranh cho những mục tiêu thực tiễn
nhất định trong lĩnh vực kinh tế-chính trị” [31, tr. 516].
Trên cơ sở nắm vững các quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về giải quyết vấn đề tôn
giáo, Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản Việt Nam đã kế thừa, phát triển và vận dụng sáng
tạo vào thực tiễn cách mạng và giải quyết vấn đề tôn giáo ở Việt Nam. Do vậy, đã xây
dựng và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, đoàn kết lương giáo, phấn đấu vì sự
nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc và đưa đất nước đi lên
CNXH.
1.1.3. Yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong các giai đoạn, thời kỳ cách
mạng
Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (2-1930), Đảng đã lãnh đạo nhân dân cả nước
làm cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước mang lại độc lập, tự do cho Tổ
quốc. Để đưa cách mạng giải phóng dân tộc đi tới thắng lợi, Đảng ta đã chủ trương tạo ra
sự đoàn kết nhất trí toàn dân tộc triệu người như một), ngăn chặn địch lợi dụng tôn giáo
và tiến tới giải phóng quần chúng nhân dân thoát khỏi thế giới quan tôn giáo, xây dựng
khối đoàn kết lương giáo và khối đại đoàn kết toàn dân để chiến thắng kẻ thù. Trong thời
kỳ đô hộ của chủ nghĩa thực dân tình hình tôn giáo ở nước ta khá phức tạp, có sự đan xen
của nhiều loại tôn giáo khác nhau.
Trong quá trình xâm lược và áp đặt sự thống trị đối với nước ta, thực dân Pháp đã sử
dụng tôn giáo (đặc biệt là Công giáo) như một công cụ đắc lực để chèn ép các tôn giáo
khác, gây hiềm khích chia rẽ giữa các tôn giáo, giữa đồng bào có tôn giáo với đồng bào
không theo tôn giáo... nhằm chia cắt khối đại đoàn kết toàn dân, chống phá sự nghiệp


cách mạng của nhân dân ta. Nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, đứng đầu là Hồ
Chủ tịch, đầu năm 1941 đã thành lập mặt trận Việt Minh (Việt Nam độc lập đồng minh
hội) nhằm tập hợp mọi lực lượng những người yêu nước không phân biệt đảng phái, giai
cấp, tôn giáo, xu hướng chính trị đứng lên đánh đuổi giặc ngoại xâm giành lại độc lập cho

Tổ quốc... Trong lời kêu gọi tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 Hồ Chí Minh viết:
mong Việt Minh đồng bào bắt tay nhau chặt chẽ không phân biệt trai, gái, già trẻ, lương
giáo, giàu nghèo” [21, tr.553]. Nhờ có chính sách đúng đắn, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã tập hợp khối thống nhất toàn dân, làm cuộc Cách mạng Tháng Tám thành công.
Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà non trẻ vừa ra đời ngày 2-9-l945 chưa được bao lâu
thì thực dân Pháp lại xoá bỏ hoà ước, nổ súng tấn công Nam Bộ, quyết trở lại xâm lược
nước ta một lần nữa (12- 1946). Đứng trước vận mệnh Tổ quốc lâm nguy, Hồ Chủ tịch
thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, trong đó
Người chú trọng kêu gọi đoàn kết lương giáo:
“Hỡi đồng bào! chúng ta phải đứng lên.
Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già người trẻ không phân chia tôn giáo, dân tộc.
Hễ là người Viết Năm thì đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc” [21, tr .48].
Nhờ có chủ trương đoàn kết đúng đắn nên đông đảo nhân dân; đồng bào lương cũng
như giáo tin theo Đảng, tin theo Hồ Chủ tịch, hăng hái góp phần tham gia kháng chiến,
làm nên trận Điện Biên Phủ oanh liệt “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, đánh bại
hoàn toàn chủ nghĩa thực dân kiểu cũ, chấm dứt gần một thế kỷ ách thống trị của thực
dân Pháp ở Việt Nam.
Miền Bắc hoàn toàn được giải phóng (1954), miền Nam theo hiệp định Giơ-ne-vơ
chuẩn bị sau 2 năm sẽ tổ chức hiệp thương, tổng tuyển cử và đi tới thống nhất đất nước.


Nhưng mơ ước của đồng bào miền Nam “Bắc Nam sum họp một nhà” chưa kịp thực hiện
thì đế quốc Mỹ đã nhẩy vào miền Nam hất cẳng thực dân Pháp, đặt miền Nam Việt Nam
dưới ách thống trị của chủ nghĩa thực dân kiểu mới. Trước tình hình đất nước bị chia cắt,
giang sơn chưa thu về một mối, nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân ta là nhanh chóng giải
phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất Tổ quốc. Để hoàn thành được sứ mệnh ấy. Đảng
ta đứng đầu là Hồ Chủ tịch kiên trì chính sách đại đoàn kết toàn dân, đoàn kết lương giáo
thành một khối thống nhất, tập trung “đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào” giải phóng
miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Trong lời kêu gọi nhân ngày 20-7- 1965 Chủ tịch Hồ Chí
Minh viết: Đồng bào các dân tộc, tôn giáo hãy đoàn kết chặt chẽ như anh em một nhà,

cùng nhau ra sức chống Mỹ cứu nước [25].
Như vậy, trong cách mạng DTDCND, do yêu cầu nhiệm vụ cấp bách đặt ra là phải
thống nhất Tổ quốc, Đảng ta và Hồ Chủ tịch về cơ bản đã thực hiện chính sách tôn giáo
khá thành công bảo đảm được khối đoàn kết, thống nhất giữa những người có tín ngưỡng
tôn giáo với những người không có tín ngưỡng tôn giáo, giữa tín đồ các tôn giáo khác
nhau... vì mục đích giải phóng và thống nhất dân tộc Việt Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết lương giáo và chính sách tôn giáo của Đảng ta
trong cách mạng DTDCND đã quy tụ được sức mạnh đông đảo quần chúng đoàn kết
trong một mặt trận dân tộc rộng khắp, dưới sự lãnh đạo của Đảng giành đại thắng mùa
xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
1.1.4. Từ những giá trị của tôn giáo
Trong tôn giáo nói chung và tôn giáo ở Việt Nam nói riêng ngoài những yếu tố tiêu cực
còn có những yếu tố tích cực (giá trị), nếu Đảng và Nhà nước, các đoàn thể xã hội biết
cách khuyến khích, phát huy mặt giá trị của tôn giáo thì đó sẽ là điểm đồng thuận để đoàn


kết giữa đồng bào có tôn giáo với đồng bào không theo tôn giáo, giữa tín đồ các tôn giáo
với nhau trong khối đại đoàn kết toàn dân cùng nhau xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Những
mặt giá trị cơ bản của tôn giáo ở Việt Nam thể hiện qua các nội dung cơ bản sau:
Một là, tuyên truyền khoan dung trong tôn giáo Việt Nam. ,
Thuật ngữ La-tolérence- khoan dung- xuất hiện sau những cuộc chiến tranh tôn giáo ở
Châu Âu thế kỷ XV. Chữ khoan dung ban đầu chỉ có nghĩa là những tín đồ Cơ đốc và
những tín đồ Tôn giáo (Tin lành) chịu đựng, cam chịu nhau. Trước đó, trong suốt- một
thời gian dài, giáo hội Cơ đốc chủ trương bất khoan dung, đàn áp khốc liệt những người
theo đạo Tin lành mà họ cho là dị giáo, tà giáo (Tin lành là tôn giáo tách từ Ki - tô-giáo).
Từ La tolérence trong các sách lịch sử Thiên chúa giáo nước ta được dịch là Tha cẩm,
với ý nghĩa chỉ sự “nhân nhượng” của giáo hội Rô-ma với các giáo hội phương Đông về
các mặt nghi lễ, sinh hoạt phục vụ với một tôn giáo du nhập từ phương Tây. Ở nước ta,
thuật ngữ này được chính Giám mục P.de Béhaine (Bá Đa Lộc) dùng đến khi ông ta có ý
định Việt hoá đạo Ki-tô về mặt nghi thức cho mềm dẻo và phù hợp với nước ta hơn [26,

tr.10].
Trong quá trình phát triển của nhân loại, khái niệm khoan dung cũng trở nên phổ biến
và không chỉ giới hạn ở sự khoan hoà trong thế giới quan tôn giáo. Dần dần khoan dung
trở thành một phạm trù tổng hợp với nhiều hàm nghĩa và được mở rộng theo nhiều chiều
xã hội.
Từ điển Rô bert (1964) đã định nghĩa lòng khoan dung là: “Sư chấp nhận ở người khác
một cách suy nghĩ hoặc hành động khác với cái mà người ta đã khẳng định trong bản thân
mình, là sư tôn trọng tự do của người khác về mặt tôn giáo, về các quan điểm triết học và
chính trị…” [29, tr. 10].


Như vậy về bản chất: khoan dung là thái độ tôn trọng, cách nhìn rộng lượng đối với
những giá trị khác biệt giữa các quốc gia, dân tộc (về dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, các
quan điểm chính trị, triết học...). Nói cách khác, khoan dung là thái độ hài hoà trong khác
biệt để cùng nhau tồn tại và phát triển, chấp nhận sự khác biệt của nhau để tồn tại trong
hoà bình.
Dân tộc Việt Nam ngay từ khi dựng nước đã luôn phải chống chọi với những kẻ thù
xâm lược để giữ nước, tự bảo vệ mình. Thực tiễn lịch sử đó đã tạo cho người Việt Nam
có tinh thần dân tộc, tính cộng đồng cao, có nhiều khả năng tiếp thu các tinh hoa văn hoá
từ bên ngoài vào nhưng vẫn không đánh mất bản sắc văn hoá dân tộc. Song mặt khác, do
sống trong một đất nước nông nghiệp lạc hậu, tù túng khép kín của một chế độ phong
kiến trì trệ, kéo dài làm cho con người chịu bao thiệt thòi, khó khăn trong cuộc sống như:
dân trí thấp, cuộc sống bấp bênh, kinh tế- xã hội kém phát triển, vận nước thăng trầm...
do đó làm cho người dân mang nặng nỗi lo sợ, tìm kiếm sự chở che ở những lực lượng
siêu nhiên.
Hoàn cảnh địa lý, lịch sử, văn hoá cũng như phương thức sản xuất ở Việt Nam đã quy
định tâm thức tôn giáo của người Việt Nam khác tâm thức tôn giáo phương Tây. Điều
này đã được Hồ Chí Minh đưa ra nhận xét xác đáng từ năm 1923, khi người tiếp chuyện
nhà thơ Liên Xô Ô-Man-den- xtan: “Người An Nam không có linh mục, không có tôn
giáo, theo cách nghĩ của châu Âu” [2, tr.93]. Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng, trong tác

phẩm “Văn hoá và đổi mới” cũng đồng tình: “Từ xa xưa, dân tộc Việt Nam không có tôn
giáo theo nghĩa thông thường của nhiều nước khác” [15, tr.75].
Tâm thức tôn giáo của người Việt Nam cũng khác người phương Tây và nhiều nước ở
Châu Á. Nếu nhiều nước phương Tây tâm thức tôn giáo của họ là độc thần thì tâm thức


tôn giáo của người Việt Nam là đa thần (nhiên thần và nhân thần). Thậm chí trong cùng
một gia đình người Việt Nam, mỗi cá nhân có thể theo một đạo khác nhau. Một tôn giáo
ở Việt Nam cũng dễ dàng thu nhập các thánh thần của các tôn giáo khác, thậm chí giáo lý
trái ngược nhau vào điện thầu (thí dụ: Đạo Cao Đài). Người Việt Nam với tâm thức
phiếm thần thờ các vị thần thuộc các tôn giáo khác nhau và thường chọn tinh hoa của các
tôn giáo làm mục đích tu thân “ở hiền gặp lành”, “tu nhân tích đức”, “để phúc cho con”...
Đây là biểu hiện sự tôn trọng đức tin của nhau và cùng đồng cảm với tất cả các vị thánh
thần, dù thuộc các tôn giáo khác đều là những người đem điều thiện, trừ điều ác: “Do tâm
thức phiếm thần, dân ta có lòng khoan dung, trong tôn giáo hướng theo xu thế hoà nhi bất
đồng” [49, tr.288].
Trên cơ sở điều kiện địa lý, lịch sử, văn hoá, với tâm thức tôn giáo phiếm thần của
người Việt Nam bao hàm nhiều cấp độ, sắc thái đã tạo ra cho dân tộc Việt Nam một
truyền thống khoan dung trong tôn giáo và trở thành một quan niệm ăn sâu trong nhận
thức và đạo đức xã hội. Khoan dung trong tôn giáo Việt Nam mang những đặc điểm rõ
nét, đó là sự tiếp nhận và thâu thái nhưng giá trị tích cực, phù hợp, đồng thời có sự tôn
trọng, không kỳ thị bài bác những giá trị khác với mình để cùng nhau chung sống, đoàn
kết xây dựng và bảo vệ đất nước.
Hàng nghìn năm qua, Việt Nam đã tiếp thu nhiều loại tôn giáo khác nhau du nhập từ
bên ngoài vào như Phật giáo, Nho giáo, Thiên chúa giáo, Hồi giáo, Tin lành... bên cạnh
đó có những tôn giáo nảy sinh từ một bộ phận nhân dân như Cao đài, Hoà hảo. Sự có mặt
của nhiều tôn giáo trên cùng một đất nước (thậm chí có làng xã ở Việt Nam có tới hai, ba
tôn giáo cùng tồn tại) nhưng về cơ bản ở Việt Nam không có chiến tranh tôn giáo.



Thực tế lịch sử đã chứng minh trong suốt nhiều thế kỷ Việt Nam có “tam giáo đồng
nguyên” là Nho giáo, Phật giáo, Lão giáo. Các tôn giáo này chung sống hoà bình, bổ
sung cho nhau vì một mục đích chung. “Tam giáo đồng nguyên, vạn giáo nhất lý”. Lý
chung ở đây chính là vì độc lập dân tộc, vì hạnh phúc cho con người.
Các tôn giáo lớn trên thế giới khi du nhập vào Việt Nam muốn tồn tại và phát triển
được đều phải qua lăng kính người Việt Nam. Vì vậy, cho đến nay hầu hết các tôn giáo từ
bên ngoài du nhập vào đều ít nhiều bị “Việt Nam hoá”. Các tôn giáo như: Phật giáo,
Thiên chúa giáo, Hồi giáo... ở Việt Nam hiện nay không còn nguyên nghĩa như khi mới
truyền vào.
Đó là một trong các nguyên nhân làm cho các tôn giáo ở Việt Nam có truyền thống
khoan dung khá sâu sắc.
Thực tiễn cho thấy, các tôn giáo ở Việt Nam luôn có sự khoan dung, khoan hoà về tư
tưởng, sự chung sống hoà bình giữa các tôn giáo là phương thức sinh tồn của tôn giáo
Việt Nam “tồn tại trong khác biệt”. Nhà nghiên cứu Trần Bạch Đằng viết: “Tính bao
dung tín ngưỡng, tư tưởng tự do tín ngưỡng thuộc nếp nghĩ, nếp sống bình thường của
người Việt Nam, là cơ sở của sự đoàn kết lương- giáo trong sự nghiệp dựng nước và giữ
nước” [17 tr.34].
Như vậy, truyền thống khoan dung trong tôn giáo Việt Nam được Hồ Chí Minh nghiên
cứu khá kỹ lưỡng, đó là một trong những cơ sở quan trọng hình thành nên tư tưởng đoàn
kết lương- giáo của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người đã tiếp nhận sâu sắc tư tưởng khoan
dung tôn giáo của dân tộc, vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về
giải quyết vấn đề tôn giáo, phát triển lên một tầm cao mới, luôn chủ động xử lý linh hoạt,
mềm dẻo vấn đề tôn giáo, bảo đảm đoàn kết lương giáo, thực hiện đại đoàn kết toàn dân


×