Tải bản đầy đủ (.doc) (120 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ tư TƯỞNG hồ CHÍ MINH về kết hợp KINH tế với QUỐC PHÒNG và sự vận DỤNG của ĐẢNG TA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (507.23 KB, 120 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tư tưởng kết hợp kinh tế với quốc phòng của Chủ tịch Hồ Chí Minh là
một bộ phận hữu cơ trong hệ thống quan điểm của Người về những vấn đề cơ
bản của cách mạng Việt Nam. Tư tưởng đó đã có vai trò to lớn trong cuộc cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân, cũng như trong kháng chiến chống Mỹ cứu
nước của dân tộc ta. Mặc dù khả năng đáp ứng của nền kinh tế cho chiến tranh
và quốc phòng còn có hạn chế, song Đảng, Nhà nước và nhân dân ta luôn phát
huy tinh thần tự chủ, tự lực, tự cường; đồng thời ra sức tranh thủ sự giúp đỡ to
lớn về vật chất và tinh thần của các nước XHCN, các lực lượng cách mạng tiến
bộ trên thế giới, chúng ta đã tạo nên sức mạnh tổng hợp, đánh thắng chủ nghĩa
thực dân cũ và mới, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đưa cả
nước tiến lên CNXH. Một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến thành
tựu to lớn đó của cách mạng Việt Nam là do sự thiên tài của Chủ tịch Hồ Chí
Minh và sự sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc giải quyết hài
hoà mối quan hệ giữa kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế.
Sau hơn mười lăm năm thực hiện đường lối đổi mới, Đảng ta tiếp tục vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp kinh tế với quốc phịng và đã góp phần
tạo nên những thành tựu rất đáng tự hào về phát triển kinh tế cũng như QPAN. Một số mặt còn chưa được củng cố vững chắc, nhưng nước ta đã ra khỏi
khủng hoảng, QP-AN được giữ vững và đang chuyển sang một thời kỳ mới thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Trên cơ sở tổng kết những bài học
kinh nghiệm về kết hợp kinh tế với quốc phịng của Đảng theo tư tưởng Hồ
Chí Minh, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng tiếp tục chủ trương:
"Kết hợp phát triển KT-XH với tăng cường QP-AN". Mà mục tiêu của CNH,
HĐH là QP-AN vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh. Những kết luận trong Văn kiện Đại hội IX của Đảng về tư tưởng Hồ
Chí Minh cũng như về kết hợp kinh tế với quốc phòng; một mặt khẳng định
Đảng ta tiếp tục kiên định tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp kinh tế với quốc
phòng; mặt khác tiếp tục vận dụng tư tưởng đó trong thực tiễn xây dựng


CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN trong thời kỳ đất nước đẩy mạnh CNH,


HĐH.
Do vậy, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về giải quyết mối quan hệ giữa
kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế là vấn đề có ý nghĩa lý luận và
thực tiễn to lớn, góp phần làm rõ chủ trương tiếp tục thực hiện hai nhiệm vụ
chiến lược của Đảng, đồng thời làm rõ những khả năng và những nguồn lực mà
quân đội có thể phát huy để tham gia vào nhiệm vụ xây dựng, phát triển kinh
tế. Với ý nghĩa đó, tác giả chọn vấn đề: "Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp
kinh tế với quốc phòng và sự vận dụng của Đảng ta" làm đề tài nghiên cứu
của luận văn.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Tư tưởng Hồ Chí Minh đã được nhiều nhà khoa học trong và ngồi qn
đội nghiên cứu. Một số cơng trình đã được cơng bố như: "Giáo trình tư tưởng
Hồ Chí Minh", Nxb CTQG, Hà Nội, 2003; "Tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh",
Nxb QĐND, Hà Nội, 2002; "Tư tưởng kinh tế Hồ Chí Minh trong sự nghiệp
đổi mới", Tham luận Hội thảo tại Học viện Chính trị quân sự, 1/1999...
Tuy nhiên cho đến nay chưa có cơng trình nào nghiên cứu có hệ thống, cơ
bản tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp kinh tế với quốc phòng và sự vận dụng
của Đảng ta.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
+ Mục đích nghiên cứu:
Luận giải những nội dung cơ bản tư tưởng kết hợp kinh tế với quốc phịng
của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trên cơ sở đó đề xuất một số quan điểm và giải
pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả kết hợp kinh tế với quốc phịng theo tư
tưởng Hồ Chí Minh ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
+ Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn:
- Làm rõ những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp
kinh tế với quốc phịng.
- Phân tích sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp kinh tế với
quốc phịng của Đảng ta trong các giai đoạn cách mạng.
- Đề xuất một số quan điểm, đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu

quả kết hợp kinh tế với quốc phịng theo tư tưởng Hồ Chí Minh ở nước ta
trong giai đoạn hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp luận nghiên cứu


Những nghiên cứu của luận văn được dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế chính trị XHCN, kinh tế quân
sự, học thuyết bảo vệ Tổ quốc, chiến tranh quân đội; đường lối, quan điểm của
Đảng. Đồng thời còn dựa trên sự tham khảo một số luận án tiến sĩ, thạc sĩ, bài
viết, bài phát biểu của một số tác giả trong và ngồi qn đội đã được cơng bố
trên sách, báo, tạp chí...
Các phương pháp nghiên cứu điển hình được sử dụng trong triển khai đề
tài là: phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phương pháp hệ
thống, phân tích, tổng hợp, qui nạp, diễn dịch, thống kê so sánh và phương
pháp trừu tượng hoá cùng một số phương pháp khác.
5. Ý nghĩa của luận văn
- Góp phần làm rõ những nội dung cơ bản tư tưởng kết hợp kinh tế với
quốc phòng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trên cơ sở đó thấy được tính đúng
đắn, sáng tạo của Đảng ta trong việc vận dụng những tư tưởng của Người qua
các thời kỳ cách mạng.
- Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong giảng dạy một số
nội dung thuộc các môn: kinh tế chính trị học, kinh tế quân sự, học thuyết bảo
vệ Tổ quốc trong các nhà trường quân đội.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, mục lục, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn được kết cấu làm 2 chương, 4 tiết.
Chương 1
NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
KẾT HỢP KINH TẾ VỚI QUỐC PHÒNG VÀ SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG
TA TRONG CÁC GIAI ĐOẠN CÁCH MẠNG

1.1. Những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp kinh
tế với quốc phịng
Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp kinh tế với quốc phòng là kết quả của sự
vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện thực tiễn của
cách mạng Việt Nam, kế thừa những tinh hoa văn hoá của nhân loại và truyền
thống “dựng nước đi đôi với giữ nước”, những kinh nghiệm quý báu về giải quyết
mối quan hệ giữa kinh tế với quốc phịng của ơng cha ta. Tuy không viết thành


những học thuyết đồ sộ, song tư tưởng kết hợp kinh tế với quốc phòng đã được Hồ
Chủ tịch đề cập, diễn đạt một cách hết sức sinh động, đa dạng và vơ cùng sâu sắc
trong nhiều bài nói, bài viết khác nhau, dưới dạng văn phong mộc mạc, dễ hiểu, dễ
đi vào lòng người. Tư tưởng kết hợp kinh tế với quốc phịng của Chủ tịch Hồ Chí
Minh được thể hiện trong những nội dung cơ bản sau:
1.1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa kinh tế với quốc phòng,
tiền tuyến với hậu phương
Kết hợp kinh tế với quốc phòng là một tất yếu khách quan xuất phát từ mối
quan hệ biện chứng giữa kinh tế với chiến tranh và quốc phòng. Các nhà kinh điển
của chủ nghĩa Mác – Lênin cho rằng: Kinh tế và chiến tranh có tác động qua lại lẫn
nhau. Quốc phịng là hoạt động chuẩn bị đối phó chiến tranh hoặc răn đe để đẩy lùi
chiến tranh, nên quốc phòng chịu sự chi phối của kinh tế. Sự chi phối này được
biểu hiện trên các mặt: Sử dụng nhân lực cho quốc phòng, cơ cấu tổ chức biên chế
của LLVT, trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật và đảm bảo hậu cần cho quân đội, khả
năng động viên và chuẩn bị động viên kinh tế cho chiến tranh... Quốc phòng đến
lượt nó cũng tác động trở lại q trình phát triển kinh tế thông qua bảo vệ an ninh
của Tổ quốc, bảo vệ nền kinh tế, tạo mơi trường chính trị ổn định cho sự phát triển
kinh tế. Không những thế, năng lực sản xuất quốc phịng, khả năng cơng nghệ, tri
thức khoa học kỹ thuật quân sự có thể huy động được để tham gia vào tiến trình
phát triển KT-XH. Kinh tế mạnh là điều kiện để cho quốc phòng vững mạnh và
ngược lại quốc phòng vững mạnh sẽ tạo ra những lợi thế cho sự phát triển kinh tế.

Trên cơ sở quán triệt sâu sắc tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin về kết hợp
kinh tế với quốc phịng, với nhãn quan chính trị sâu, rộng, Chủ tịch Hồ Chí Minh
ln thấy rõ vai trị quyết định của nhân tố kinh tế trong mối quan hệ thống nhất,
biện chứng giữa kinh tế với quốc phòng. Kinh tế có mạnh mới có điều kiện để xây
dựng, củng cố một nền quốc phịng tồn dân vững mạnh, mới có thể bảo đảm cho
sự thắng lợi của công cuộc kháng chiến, kiến quốc. Vai trò quyết định của kinh tế
đối với quốc phịng theo Chủ tịch Hồ Chí Minh được thể hiện rõ nét nhất ở khả
năng bảo đảm cơ sở vật chất kỹ thuật, vũ khí trang bị, lương thực, thực phẩm, quân
trang, quân dụng... cho LLVT. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng: “Cung cấp đủ
súng đạn, đủ cơm áo cho bộ đội, thì bộ đội mới đánh thắng trận, điều đó rất rõ ràng dễ


hiểu” [28, tr.295]. Bộ đội ta dù có bản lĩnh chính trị vững vàng, dũng cảm, ngoan
cường, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh thân mình vì độc lập tự do của Tổ quốc... Song
những nhu cầu thiết yếu như cơm ăn, áo mặc, súng đạn để chiến đấu... không được
cung cấp, đảm bảo đầy đủ, thì bộ đội cũng khơng thể đủ sức để chiến đấu và chiến
thắng được quân thù. Trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm
lược, mặc dù kẻ thù của chúng ta có tiềm lực kinh tế, tiềm lực quốc phòng mạnh
hơn ta gấp nhiều lần, song rút cục chúng ta vẫn giành được thắng lợi to lớn. Một
trong những lý do đưa đến thắng lợi vẻ vang ấy, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Là
do nơi chúng ta động viên kinh tế được thành cơng, vì chúng ta có biết động viên
kinh tế một cách khôn khéo, thực lực của chúng ta mới được đầy đủ và bền bỉ"
[19, tr.479]. Trong thư gửi nông dân thi đua canh tác, Hồ Chủ tịch cịn chỉ ra rằng:
"Muốn đánh thắng thì qn ta phải ăn no. Muốn ăn no thì phải có nhiều lương
thực..., thực túc thì binh cường!" [27, tr.178].
Kinh tế giữ vai trò quyết định đối với quốc phòng song đến lượt nó, quốc
phịng và chiến tranh lại có sự tác động trở lại đối với kinh tế. Sự tác động trở lại
đó được Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ trong bài "Toàn dân kháng chiến" rằng:
"Một khi chiến tranh đã bùng nổ ở nơi nào, ảnh hưởng của nó sẽ lan tràn khắp các
nơi khác. Chẳng những thế, nó cịn ảnh hưởng sâu sắc đến tất cả các hoạt động

kinh tế, chính trị, văn hố của tồn xứ... Chiến tranh không những chỉ phát động
trong địa hạt quân sự ở tiền phương mà còn phát động cả trong địa hạt ở hậu
phương" [16, tr.84].
Mối quan hệ giữa kinh tế với quốc phòng được Hồ Chủ tịch luận giải một
cách sáng tạo, nhuần nhuyễn dưới nhiều góc độ khác nhau. Trong bài "Câu hỏi và
trả lời", mối quan hệ đó được Chủ tịch Hồ Chí Minh diễn tả bằng mối quan hệ
giữa tiền tuyến và hậu phương. Hồ Chủ tịch viết: “Chiến sĩ hy sinh xương máu để
giữ nước. Bụng có no, thân có ấm mới đánh được giặc. Làm ra thóc gạo cho chiến
sĩ ăn, làm ra vải cho chiến sĩ mặc đều nhờ nơi đồng bào ở hậu phương...
Tiền phương chiến sĩ hy sinh
Đem máu xương mình giữ nước non ta
Hậu phương sản xuất tăng gia
Cũng là kháng chiến, cũng là vẻ vang" [20, tr.486].


Điều đó có nghĩa là, nhiệm vụ chiến đấu hy sinh để bảo vệ Tổ quốc là nhiệm
vụ trực tiếp của các chiến sĩ ngồi chiến trường, cịn nhiệm vụ của đồng bào ở hậu
phương là phải tích cực đẩy mạnh tăng gia, lao động xây dựng kinh tế để đáp ứng
ngày càng tốt hơn các nhu cầu, đòi hỏi của tiền tuyến, bảo đảm cho bộ đội ta "ăn
no, đánh thắng". Đồng bào ta ở hậu phương tuy không trực tiếp cầm vũ khí đối mặt
với quân thù nơi chiến trường ác liệt, song lại có vai trị hết sức quan trọng là cung
cấp sức người, sức của cho tiền tuyến, bảo đảm cho công cuộc kháng chiến của
dân tộc ta đi đến thắng lợi cuối cùng.
Thấm nhuần tư tưởng của V.I. Lênin về vai trò to lớn của hậu phương trong
chiến tranh và kế thừa những kinh nghiệm truyền thống quí báu của dân tộc ta,
Chủ tịch Hồ Chí Minh sớm nhận ra ý nghĩa quan trọng, quyết định của hậu phương
đối với kết quả hoạt động của LLVT ngồi tiền tuyến. Sẽ khơng có thắng lợi nào ở
nơi tiền tuyến nếu như khơng có sự đóng góp, chi viện thường xuyên về nhân tài,
vật lực của hậu phương cho tiền tuyến. Hồ Chủ tịch cho rằng, căn cứ địa và hậu
phương là "nơi đứng chân làm cơ sở" cho LLVT hoạt động, nơi "đội du kích tích

trữ lương thực, thuốc đạn, lâu lâu về đó nghỉ ngơi, luyện tập" [15, tr.504]. Vì vậy,
Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng việc xây dựng căn cứ địa, xây dựng hậu
phương để tạo tiềm lực và chỗ đứng chân trong khởi nghĩa và trong chiến tranh.
Năm 1941, ngay khi xây dựng những đội du kích đầu tiên, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã chỉ rõ: Khi du kích đã khá đơng thì phải có căn cứ địa... Du kích dùng nơi
đó làm chỗ đứng chân, tiến có thể đánh và phát triển lực lượng, lui có thể đứng và
giữ gìn lực lượng. Đó là nơi có địa thế hiểm trở, có dân chúng giác ngộ, ủng hộ
cách mạng, đặc biệt là lòng dân; bởi lẽ lòng dân là chỗ dựa vững chắc nhất của
kháng chiến, của cách mạng. "Nhân sơn, nhân hải" sẽ tạo nên sức mạnh vô địch.
Việc xây dựng các căn cứ du kích, các chiến khu giải phóng từ năm 1941đến năm
1945 là điều kiện rất quan trọng đảm bảo cho Tổng khởi nghĩa Tháng Tám thắng
lợi.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cùng với Đảng chỉ đạo xây dựng căn cứ địa Việt
Bắc, các khu du kích và căn cứ du kích ở vùng địch tạm chiếm, củng cố các vùng
tự do Khu Bốn, Khu Năm, xây dựng các vùng Khu Sáu, Đông Nam Bộ, Tây


Nguyên, Đồng Tháp Mười... làm hậu phương, làm căn cứ địa để cung cấp sức
người, sức của cho kháng chiến, phát triển chiến tranh nhân dân ngày càng mạnh.
Trong kháng chiến chống Mỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định miền Bắc là
hậu phương lớn của tiền tuyến lớn miền Nam, miền Bắc vững mạnh là cơ sở vững
chắc cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà. Quân và dân miền Bắc đã ra sức xây
dựng CNXH ngay trong điều kiện cả nước có chiến tranh, phát triển kinh tế, văn
hố, xây dựng qn đội, củng cố quốc phịng, đánh bại chiến tranh phá hoại của
địch, làm cho miền Bắc ngày càng vững mạnh, chi viện sức người, sức của ngày
càng nhiều cho miền Nam.
Thành công to lớn của việc xây dựng căn cứ địa, xây dựng hậu phương trong
Cách mạng Tháng Tám và hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ là thắng
lợi của tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh về tạo chỗ đứng chân, bồi dưỡng tiềm lực
cho khởi nghĩa và chiến tranh nhân dân.

Kết hợp kinh tế với quốc phịng theo Chủ tịch Hồ Chí Minh là một đòi hỏi
khách quan. Kinh tế và quốc phòng, tiền tuyến và hậu phương là những lĩnh vực,
địa bàn hoạt động hoàn toàn khác nhau, mỗi lĩnh vực có những đặc điểm riêng,
tuân theo những quy luật đặc thù nhất định, song giữa chúng lại có mối quan hệ
chặt chẽ, thống nhất biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau, cùng góp phần hướng
tới thực hiện mục tiêu chung đó là: "Kháng chiến thắng lợi, kiến quốc thành công".
Theo Hồ Chủ tịch, phải thực hiện kết hợp chặt chẽ giữa kinh tế với quốc phòng tiền tuyến với hậu phương không được coi nhẹ một lĩnh vực nào. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã chỉ ra rằng: "Hai bên công việc khác nhau, nhưng thật ra là hợp tác" [18,
tr.114], phải "hợp tác" chặt chẽ với nhau "thi đua" lẫn nhau nhằm tạo nên sức
mạnh tổng hợp, đủ sức để chiến đấu và chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược. Điều đó
đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Muốn thắng quân địch, chỉ trông vào sức
chiến đấu ở tiền phương thì chưa đủ..., muốn kháng chiến lâu dài để tới thắng lợi
cuối cùng, cần phải động viên hết thảy mọi lực lượng mới mong đi tới thắng lợi
cuối cùng" [16, tr84].
1.1.2. Vừa kháng chiến vừa kiến quốc - một nội dung căn bản trong tư
tưởng kết hợp kinh tế với quốc phịng của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp kháng chiến với kiến quốc là sự vận dụng
sáng tạo tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin về mối quan hệ giữa kinh tế với chiến


tranh và quốc phòng vào thực tiễn của cách mạng Việt Nam sau khi giành được
chính quyền, nhằm giải quyết đồng thời hai nhiệm vụ: xây dựng đất nước và kháng
chiến để bảo vệ những thành quả của cách mạng đã đạt được, giữ vững nền độc lập
dân tộc.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân ta đã tiến
hành Tổng khởi nghĩa thắng lợi, giành được chính quyền trong cả nước. Giành
được chính quyền đã khó, giữ vững được chính quyền cịn khó hơn nhiều. Điều đó
rất đúng với hồn cảnh của nước ta sau Cách mạng Tháng Tám. Vừa trở thành một
quốc gia độc lập, nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời chưa đầy một tháng đã
phải đương đầu với những thách thức cực kỳ to lớn: nạn đói hồnh hành, kinh tế

kiệt quệ, thù trong giặc ngoài hùa nhau chống phá, thực dân Pháp quay lại đánh
chiếm miền Nam, gây chiến tranh xâm lược nước ta một lần nữa. Nền độc lập và
sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta lúc này như "nghìn cân treo sợi tóc". Trước
tình thế đó, địi hỏi Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh phải chủ động, linh hoạt giải
quyết đồng thời hai nhiệm vụ: đánh bại chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp,
giữ vững nền độc lập dân tộc và củng cố, xây dựng đất nước về mọi mặt. Vận dụng
sáng tạo tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin về mối quan hệ giữa kinh tế với quốc
phòng, Đảng và Hồ Chủ tịch kính yêu đã đề ra đường lối "vừa kháng chiến vừa
kiến quốc".
Kháng chiến là để bảo vệ thành quả cách mạng, giữ vững nền độc lập, tự do
của dân tộc vừa mới giành được. Muốn kháng chiến thắng lợi phải xây dựng căn
cứ địa, hậu phương vững chắc. Trong hoàn cảnh nước ta phải tiến hành một cuộc
kháng chiến khơng cân sức với địch, thì điều đó càng bức xúc hơn bao giờ hết.
Kiến quốc, xây dựng chế độ mới về mọi mặt, thực sự đưa lại cho nhân dân quyền
lợi là phát huy thành quả của cách mạng, đồng thời cũng là tạo dựng căn cứ địa hậu phương vững mạnh, làm cơ sở để giành thắng lợi trong kháng chiến. Kháng
chiến và kiến quốc theo Chủ tịch Hồ Chí Minh ln ln đi đơi với nhau. Hồ Chủ
tịch viết: "Kháng chiến phải đi đôi với kiến quốc [17, tr.99]. Điều đó có nghĩa là
vừa kháng chiến vừa xây dựng chế độ mới về mọi mặt từ kiến trúc thượng tầng
đến cơ sở hạ tầng, vừa đánh vừa xây dựng và phát triển lực lượng cách mạng, vừa
đánh địch ở tiền tuyến, vừa củng cố mở rộng hậu phương, vừa đánh vừa bồi dưỡng


sức dân. Tư tưởng vừa kháng chiến vừa kiến quốc phản ánh qui luật của cách
mạng Việt Nam là xây dựng chế độ mới phải gắn liền với bảo vệ chế độ mới và
ngược lại, bảo vệ chế độ mới phải dựa trên cơ sở xây dựng chế độ mới. Theo Chủ
tịch Hồ Chí Minh, giữa kháng chiến và kiến quốc có mối quan hệ mật thiết với
nhau: "Kháng chiến phải đi đơi với kiến quốc. Kháng chiến có thắng lợi thì kiến
quốc mới thành cơng. Kiến quốc có chắc thành công, kháng chiến mới mau thắng
lợi" [17, tr.99]. Đây là luận điểm tiêu biểu nhất của tư tưởng Hồ Chí Minh về kết
hợp kinh tế với quốc phịng, quốc phòng với kinh tế.

Điều này cũng chứng tỏ Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thức hết sức sâu sắc về
mối quan hệ giữa kinh tế với chiến tranh và quốc phịng. Tư tưởng đó đã xun
suốt q trình tiến hành chiến tranh giải phóng và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc của
dân tộc ta. Song, trong từng giai đoạn cách mạng, kháng chiến và kiến quốc có vị
trí, vai trị khác nhau nên sự kết hợp giữa chúng được tiến hành dưới những hình
thức và mức độ khác nhau tuỳ thuộc vào tình hình cụ thể của cách mạng nước ta.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược cũng như về sau này,
Hồ Chủ tịch đã chỉ đạo toàn dân thực hiện kết hợp chặt chẽ giữa chiến đấu với sản
xuất, vừa đánh giặc vừa tăng gia sản xuất. Chủ tịch Hồ Chí Minh khơng những chỉ
ra sự cần thiết cũng như mối quan hệ giữa kháng chiến với kiến quốc mà còn chỉ
rõ những biện pháp để đảm bảo cho kháng chiến thắng lợi, kiến quốc thành công,
Hồ Chủ tịch đã viết: "Ta phải thi đua để kháng chiến thắng lợi, kiến quốc thành
công". Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh thi đua khơng phải "chỉ nhất thời" mà "thi đua
là phải trường kỳ" và thi đua trên tất cả các lĩnh vực. Hồ Chủ tịch đã chỉ ra rằng:
"Về kinh tế, thì thi đua làm cho dân và quân đủ ăn, đủ mặc, đủ dùng để đánh giặc.
Về quân sự, vệ quốc quân và dân quân du kích thì thi đua rèn luyện cán bộ, chấn
chỉnh qn đội. Các cơng xưởng thì thi đua chế tạo vũ khí cho nhiều, cho mau, cho
tốt" [24, tr.659].
Vừa kháng chiến, vừa kiến quốc là con đường đấu tranh giữ vững chính
quyền, từng bước xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, tạo nên thế và lực để đánh
bại mọi âm mưu và hành động xâm lược của bọn đế quốc và tay sai. Tư tưởng đó
đã phản ánh vấn đề có tính qui luật của cách mạng Việt Nam là dựng nước đi đôi
với giữ nước, xây dựng chế độ mới phải gắn liền với bảo vệ chế độ mới và ngược


lại, bảo vệ chế độ mới phải dựa trên cơ sở xây dựng chế độ mới. Không những thế,
tư tưởng đó cịn thể hiện rõ quyết tâm của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu
là: kiên quyết chủ trương kháng chiến, vừa ra sức lãnh đạo việc đánh giặc, vừa ra
sức bồi dưỡng lực lượng nhân dân, xây dựng chế độ mới về mọi mặt.
Xây dựng, phát triển nền kinh tế dân chủ nhân dân, kinh tế kháng chiến là

một nội dung cốt lõi của công cuộc xây dựng chế độ mới. Nước ta vốn đã nghèo
nàn, lạc hậu lại bị Pháp, Nhật vơ vét xác xơ, bị chiến tranh và thiên tai tàn phá
nặng nề. Nạn đói khủng khiếp năm 1945 đã cướp đi sinh mạng của hơn hai triệu
người, lại đe doạ hoành hành dữ dội trở lại vào đầu năm 1946. Sản xuất nông
nghiệp bị tiêu điều; sản xuất cơng nghiệp bị đình đốn; ngoại thương bế tắc; kho
bạc trống rỗng, ngân hàng còn nằm trong tay tư bản Pháp. Trước tình hình đó, việc
quan trọng nhất, cấp bách nhất ở miền Bắc lúc bấy giờ là phải nhanh chóng khắc
phục hậu quả của nạn đói khủng khiếp. Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Đảng và
Chính phủ đã chủ trương mở ngay một chiến dịch tăng gia sản xuất để cứu đói.
Người đã kêu gọi tồn dân, tồn qn từ nơng thơn đến thành thị thực hiện khẩu
hiệu: "Tất đất, tấc vàng", "Tăng gia sản xuất ngay ! Tăng gia sản xuất nữa"; kịp
thời cấy "tái giá" và trồng các loại cây lương thực ngắn ngày, rau màu, khoai sắn
để đồng bào có cái ăn chờ đến vụ sau. Theo Hồ Chủ tịch: "đó là cách thiết thực để
giữ vững nền tự do, độc lập" [18, tr.115].
Chủ tịch Hồ Chí Minh cịn kêu gọi đồng bào: "Nhường cơm sẻ áo, đùm bọc
lẫn nhau", và đích thân Hồ Chủ tịch đề xướng và gương mẫu đi đầu trong việc
thực hiện cuộc vận động: cứ 10 ngày nhịn ăn một bữa, để giành gạo cứu giúp
người nghèo. Với những biện pháp thiết thực, vừa mang ý nghĩa KT-XH, vừa thấm
nhuần tinh thần cách mạng, nhân đạo ấy, nhân dân ta đã thắng được "giặc đói",
góp phần tạo nên những tiền đề vật chất, tinh thần hết sức quan trọng cho công
cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc ta chống thực dân Pháp xâm lược.
Sau khi khắc phục được nạn đói, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Đảng ta đã đề ra
nhiều biện pháp đẩy mạnh sản xuất, tự cấp, tự túc, từng bước xây dựng nền kinh tế
độc lập, tự chủ trong vòng vây của chủ nghĩa đế quốc. Trên cơ sở đó để thốt dần
khỏi tình trạng lệ thuộc vào nền kinh tế của chủ nghĩa thực dân, để từng bước đáp
ứng nhu cầu mọi mặt, bảo đảm cho cuộc kháng chiến thắng lợi. Hồ Chủ tịch luôn


chú trọng chỉ đạo phát triển nhiều ngành kinh tế, đẩy mạnh tăng gia sản xuất, thực
hành tiết kiệm và ưu tiên hàng đầu là phát triển nông nghiệp, thực hiện "Thực túc

binh cường" nhằm đáp ứng ngày một tốt hơn nhu cầu về lương thực, thực phẩm
cho bộ đội và nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng: "Mặt trận kinh tế
gồm có cơng nghệ, bn bán, nông nghiệp. Ngành nào cũng quan trọng. Nhưng lúc
này, quan trọng nhất là nơng nghiệp, vì "có thực mới vực được đạo". Có đủ cơm
ăn, áo mặc cho bộ đội và nhân dân, thì kháng chiến mới mau thắng lợi, thống nhất
và độc lập mau thành công" [25, tr.687]. Mặt trận nông nghiệp ngay từ đầu đã
được gắn liền với việc thực hiện chính sách ruộng đất của Đảng. Ruộng công được
chia lại theo nguyên tắc dân chủ cho cả nam lẫn nữ. Ruộng đất của bọn đế quốc
Pháp và Việt gian được chia cho nông dân nghèo. Ruộng đất của tư nhân bị bỏ
hoang được tạm giao cho nông dân thiếu ruộng. Việc giảm tô, giảm tức cho nơng
dân được thực hiện.... Chính sách ruộng đất đã đem lại quyền lợi thiết thực cho
nông dân ở cả Bắc, Trung, Nam. Trong kháng chiến khoảng 2/3 nông dân trong cả
nước đã có ruộng cày. Nơng dân là người thực sự làm chủ ruộng đồng, làm chủ
nông thôn.
Những chủ trương, chính sách sáng suốt của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh
đối với nơng nghiệp đã cổ vũ mạnh mẽ giai cấp nơng dân phát huy vai trị chủ lực
của mình trong việc phát triển nơng nghiệp, bảo vệ sản xuất và bảo vệ hậu phương.
Ngoài việc đưa hàng vạn thanh niên, con em mình ra tiền tuyến, nơng dân cịn bỏ
ra hàng trăm nghìn ngày cơng để sửa chữa đê điều, kè đập, đào xẻ kênh mương, tát
nước chống hạn... Bà con đã cố gắng cải tiến kỹ thuật canh tác, thay đổi mùa vụ,
khai hoang phục hoá, tăng thêm diện tích gieo trồng. Có nơi trâu bị bị địch bắn
giết, nông dân phải kéo cày thay trâu; ban ngày máy bay địch bắn phá, phụ nữ phải
đi cấy về đêm hoặc cấy theo trăng. Mặc dù bị chiến tranh tàn phá, đồng ruộng Việt
Nam trong vùng căn cứ hậu phương vẫn xanh màu lúa, ngô, khoai, sắn, đậu, đỗ...;
vẫn giành được những mùa vụ bội thu; diện tích trồng bơng, đậu, mía, lạc được
phục hồi và phát triển. Nhờ đó, bảo đảm tạm đủ về lương thực, thực phẩm đáp ứng
cho nhu cầu của nhân dân và bộ đội. Đó là thắng lợi cực kỳ quan trọng của nền
kinh tế kháng chiến.



Cùng với việc quan tâm đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, Chủ tịch Hồ Chí
Minh cũng ln quan tâm phát triển nền công nghiệp của đất nước. Người cho
rằng công nghiệp và nông nghiệp như hai chân của con người. Hai chân có mạnh
thì đi mới vững. Nếu nơng nghiệp khơng phát triển thì cơng nghiệp cũng khơng
phát triển được. Ngược lại, khơng có cơng nghiệp thì nơng nghiệp cũng gặp khó
khăn. Hồ Chủ tịch cịn chỉ ra rằng, cơng nghiệp không chỉ sản xuất ra sản phẩm để
phục vụ cho nhu cầu của dân sinh mà còn phải sản xuất ra các loại sản phẩm phục
vụ cho quốc phòng và trong những hoàn cảnh đặc biệt (chiến tranh xảy ra) thì
nhiệm vụ sản xuất phục vụ cho nhu cầu của quốc phòng còn được đặt lên hàng
đầu. Hồ Chủ tịch chỉ rõ những yêu cầu đối với ngành công nghiệp là phải: "Chế
nhiều vũ khí, dụng cụ, sản phẩm để đánh giặc và để cung cấp cho nhân dân. Hợp
tác với chuyên môn để cải tiến kỹ thuật và điều kiện sản xuất, bảo vệ nhà máy, phá
kinh tế địch bằng mọi cách" [23, tr.591].
Để có nhiều vũ khí, trang bị kỹ thuật tốt phục vụ cho bộ đội đánh giặc, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã kêu gọi: "Các cơng xưởng phải thi đua chế tạo vũ khí cho
nhiều, cho mau, cho tốt" và "công nhân ở vùng tạm bị địch chiếm phải gắng làm
cho tê liệt nền kinh tế của quân địch" [29, tr.421]. Qua đó thúc đẩy sự phát triển
mạnh mẽ của nền cơng nghiệp quốc phịng của đất nước và góp phần phá hoại nền
kinh tế của đối phương.
Sau khi giành được chính quyền, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chú trọng
chỉ đạo thành lập các xưởng quân giới ở các địa phương. Lúc đầu chủ yếu là sản
xuất vũ khí thơ sơ để phục vụ nhu cầu vũ trang toàn dân. Về sau trong q trình
chuẩn bị kháng chiến tồn quốc, chúng ta đã tiến hành những cuộc di chuyển có
tính chất chiến lược với hàng vạn tấn máy móc, nguyên vật liệu được vận chuyển
từ thành thị lên chiến khu (tính đến cuối năm 1947 tại mặt trận Hà Nội, chúng ta
đã chuyển được 2/3 số máy móc, thiết bị lên Việt Bắc; ở khu IV chuyển được 2
triệu tấn máy móc và nguyên liệu vào căn cứ; Liên khu V và Nam Bộ cũng làm
được những việc tương tự). Tới cuối năm 1949, hầu hết các khu căn cứ cách mạng
đã sản xuất được một số loại vũ khí như mìn, lựu đạn, súng cối, ba-dô-ca; sản xuất
quân nhu, quân trang phục vụ cho nhu cầu của cuộc kháng chiến. Ở khu căn cứ địa

Việt Bắc đã hình thành một hệ thống cơng nghiệp quốc phịng, sản xuất mỗi năm


được trên 6.000 tấn vũ khí, đạn dược và bảo đảm quần áo, thuốc men cho bộ đội.
Cùng với công nghiệp quốc phịng, các cơ sở sẵn có ở trong vùng căn cứ kháng
chiến như khai thác than, khoáng sản cũng được phục hồi; đồng thời ta đã xây
dựng một số cơ sở công nghiệp mới phục vụ cho cả quốc phòng và dân sinh như:
các cơ sở sản xuất thuốc chữa bệnh, hố chất, cơ khí... Phát triển một số xí nghiệp
cơng nghiệp nhẹ qui mơ nhỏ, một số xưởng tiểu thủ công nghiệp nhằm đáp ứng
nhu cầu của nhân dân và bộ đội trong vùng tự do như vải, đường, muối, giấy, dầu
ăn, nông cụ...
Bên cạnh nông nghiệp và công nghiệp, giao thông vận tải cũng luôn được
Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm chỉ đạo việc củng cố và phát triển. Bởi vì theo Hồ
Chủ tịch, giao thông vận tải là một ngành hết sức quan trọng, nó có ảnh hưởng trực
tiếp đến các lĩnh vực kinh tế, chính trị, qn sự của đất nước. Vai trị, tác dụng của
cầu đường đối với các ngành, các lĩnh vực của đời sống xã hội đã được Bác phân
tích, chỉ rõ: "Cầu đường là mạch máu của đất nước. Cầu đường tốt thì lợi cho kinh
tế: hàng hố dễ lưu thông, sinh hoạt đỡ đắt đỏ... Cầu đường tốt thì lợi cho quân sự:
bộ đội ta chuyển vận nhanh, đánh thắng nhiều. Cầu đường tốt thì lợi cho chính trị:
ý nguyện và tình hình của nhân dân nhanh chóng lên đến Đảng và Chính phủ,
chính sách và chỉ thị của Đảng và Chính phủ mau chóng thơng đến nhân dân. Nói
tóm lại, cầu đường tốt thì nhiều việc dễ dàng và thuận lợi hơn" [31, tr.86].
Do điều kiện nền kinh tế đất nước còn nghèo, nước ta lại chưa sản xuất được
xe, xăng dầu lại hết sức khan hiếm trong khi đó kháng chiến cịn dài, chiến dịch
ngày một mở rộng, yêu cầu vận chuyển ngày càng cao cho nên trong dịp đến thăm
đoàn xe đầu tiên của quân đội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Xe, xăng là mồ
hôi, nước mắt, xương máu của nhân dân. Các chú phải chăm sóc xe, u xe như
con, q xăng như máu" [26, tr.193]. Giao thông vận tải vừa mang ý nghĩa quân sự
vừa mang ý nghĩa kinh tế; nó đảm bảo điều kiện thuận lợi cho kháng chiến và phát
triển kinh tế. Nếu giao thông bị ách tắc không thuận lợi sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến

sản xuất và phục vụ tiếp tế cho tiền tuyến. Chủ tịch Hồ Chí Minh ln xem việc
bảo đảm giao thơng vận tải cũng quan trọng như là nhiệm vụ kinh tế khác.
Cùng với việc đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, giao thơng vận
tải, một tư tưởng hết sức có ý nghĩa trong công cuộc kháng chiến kiến quốc là sản


xuất và tiết kiệm. Trong hồn cảnh khó khăn mấu chốt của kinh tế là đẩy mạnh sản
xuất, nếu không tăng gia sản xuất chẳng những nạn đói vẫn khơng được đẩy lùi,
mà khơng có lương thực để đáp ứng yêu cầu của chiến tranh. Nhưng nếu chỉ biết
tăng gia mà khơng biết tiết kiệm thì cũng khơng có hiệu quả. Tiết kiệm và tăng gia
phải gắn liền với nhau. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh tiết kiệm khơng phải là bủn
xỉn không phải là "xem đồng tiền to bằng cái nống", tiết kiệm không phải là ép bộ
đội, cán bộ và nhân dân nhịn ăn, nhịn mặc. Trái lại, theo Hồ Chủ tịch tiết kiệm là
cốt để giúp vào tăng gia sản xuất, và tăng gia sản xuất là để tăng dần mức sống của
bộ đội, cán bộ và nhân dân. Như vậy theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh tiết
kiệm khơng phải là giảm chi mà tiết kiệm là tăng chi, đúng như Hồ Chủ tịch nói:
"Tiết kiệm khơng phải là bớt ăn, mà là thêm ăn" hay "Tăng gia mà khơng tiết kiệm
thì vơ ích; tiết kiệm mà khơng tăng gia thì lấy gì mà tiết kiệm" [30, tr.513]. Muốn
tăng gia phải tiết kiệm và tiết kiệm để tăng gia, có tăng gia được nhiều thì mới có
cái mà tiết kiệm. Có tiết kiệm được sức người, sức của thì cơng cuộc kháng chiến
kiến quốc mới thành cơng. Thực hiện có hiệu quả việc tăng gia sản xuất, thực hành
tiết kiệm theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh đó là một chủ trương, biện pháp có
ý nghĩa hết sức quan trọng trong cơng cuộc vừa kháng chiến vừa kiến quốc của dân
tộc ta.
Do quán triệt sâu sắc và thực hiện tốt chủ trương đường lối "vừa kháng chiến,
vừa kiến quốc" trong việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, tự cấp, tự túc quân và dân ta đã thực hiện đồng thời và xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa kinh tế
với chiến tranh và quốc phòng; tạo nên một bước chuyển biến rất cơ bản trong
công tác quản lý kinh tế kháng chiến, thúc đẩy các ngành kinh tế phát triển với
những thành tựu đáng phấn khởi. Cụ thể là:
- Về sản xuất lương thực ở vùng tự do và vùng căn cứ du kích năm 1953 (chỉ

tính từ khu IV trở ra) đã đạt hơn 2.757.000 tấn thóc và hơn 650.000 tấn hoa màu.
Liên khu V trước đây cịn là một vùng nơng nghiệp kém phát triển, thiếu ăn, thiếu
mặc, thiếu đủ mọi thứ lại nằm giữa vòng vây của địch, đã tự sản xuất đủ lương
thực, thực phẩm để nuôi quân và cung cấp cho 2,5 triệu dân, đồng thời còn dành
một phần để tiếp tế cho các chiến trường bạn.


- Cơng nghiệp quốc phịng đạt được tốc độ phát triển cao, trong 9 năm đã tự
sản xuất hơn 7.000 tấn vũ khí và hơn 5.000 tấn nguyên liệu. Đã sản xuất được một
số loại vũ khí phức tạp như súng Ba-dô-ca, súng ĐKZ, súng cối 60 ly, 80 ly và các
nguyên liệu cơ bản như diêm tiêu, phốt phát, than, a xít-sun-fua-ríc... Sản xuất tiểu
cơng nghiệp, thủ cơng nghiệp được khôi phục và mở rộng thêm.
- Ngành mậu dịch quốc doanh được thành lập từ năm 1951 đến năm 1954
cũng có bước phát triển đáng kể; cung cấp phục vụ cho cơng nghiệp (trong đó có
cơng nghiệp quốc phịng), từ 180 triệu lên 3.000 triệu đồng (tăng 23 lần). Thu mua
hàng thủ công từ 962 triệu đồng lên 9.704 triệu đồng (tăng hơn 10 lần), bảo đảm
cung cấp những mặt hàng thiết yếu cho tiền tuyến và hậu phương như: muối, giấy,
thuốc chữa bệnh, quần áo, một số phụ tùng thay thế, công cụ sản xuất nông nghiệp
và thủ công nghiệp. Tới đầu năm 1954, tất cả những mặt hàng chủ yếu ở hậu
phương đều được ổn dịnh về giá cả.
- Các tuyến giao thông bị phá hoại trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến đã
từng bước được xây dựng lại để đáp ứng yêu cầu cơ động của các LLVT và giao lưu
hàng hoá; các vùng tự do, vùng căn cứ dần dần được nối liền thành những vùng hậu
phương liên hoàn ngày càng rộng lớn [37, tr.357].
1.1.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về sử dụng quân đội trong nhiệm vụ lao động
sản xuất tham gia xây dựng kinh tế
Quân đội nhân dân Việt Nam ra đời từ phong trào cách mạng của quần chúng,
gắn bó máu thịt với nhân dân. Dưới sự lãnh đạo dìu dắt, giáo dục của Đảng và Chủ
tịch Hồ Chí Minh kính yêu, Quân đội ta không ngừng lớn mạnh, trưởng thành và
ln mang trong mình bản chất, truyền thống là một đội quân chiến đấu, đội quân

công tác và đội quân lao động sản xuất. Sử dụng và khai thác tiềm năng của quân
đội cho mục đích xây dựng kinh tế đã được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh chú
trọng ngay từ những ngày đầu mới thành lập. Mặc dù đánh giặc cứu nước là nhiệm
vụ chủ yếu song bên cạnh đó, qn đội cịn phải tích cực tăng gia sản xuất để đáp
ứng phần nào các nhu cầu sinh hoạt của mình. Theo Hồ Chủ tịch đó là việc làm
thiết thực để khắc phục sự bao vây, phong toả của kẻ thù đối với nền kinh tế nước
ta lúc bấy giờ; đồng thời làm giảm bớt phần nào gánh nặng của nền kinh tế trong
việc đáp ứng các yêu cầu địi hỏi của cuộc chiến tranh, thơng qua việc thực hành tự


cấp, tự túc đối với mọi cấp, mọi ngành, mọi cơ quan, đơn vị trong quân đội. Trong
Hội nghị cung cấp toàn quân lần thứ nhất (năm 1952) Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ
rõ: "Các cơ quan trong quân đội phải cố sức trồng trọt chăn nuôi để tự túc phần nào,
để giảm bớt gánh nặng của nhân dân. Tuy cơng việc chun mơn vẫn là chính, nhưng
phải cố sức tăng gia" [30, tr.512].
Với tác phong sâu sát, tỉ mỉ, lời nói đi đơi với việc làm, Hồ Chủ tịch không
chỉ yêu cầu các đơn vị trong quân đội phải thực hành tự cấp, tự túc bằng cách thiết
thực tăng gia sản xuất, mà Chủ tịch Hồ Chí Minh còn chỉ rõ cách thức tiến hành
tăng gia sản xuất, thực hành tự cấp, tự túc đối với mỗi đối tượng cụ thể trên cơ sở
tính chất, đặc điểm, yêu cầu nhiệm vụ của mỗi đối tượng. Trong tác phẩm "Đời
sống mới" Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: "Bộ đội cũng phải tăng gia sản xuất. Cố
nhiên những bộ đội ở trước mặt trận phải luôn lo việc đánh giặc, khơng có thì giờ
đâu mà làm việc khác. Song những bộ đội ở hậu phương thì cần làm và quyết làm
được. Tuỳ theo hoàn cảnh mỗi bộ đội, hoặc làm vườn, ni lợn, hoặc làm giúp
dân. Có lúc bộ đội chia phiên nhau lớp đánh giặc, lớp làm ruộng, làm vườn để tự
cấp, tự túc không phiền đến dân cả mọi việc" [21, tr.103].
Đối với các đơn vị thường xuyên cơ động, nay đây mai đó cũng cần phải tích
cực tăng gia sản xuất. Điều đó được Hồ Chủ tịch luận giải rõ ràng, dễ hiểu thông
qua lời nhắc nhở của Người trong dịp đến thăm đoàn xe đầu tiên của quân đội
(3/1951): "... Các chú phải tranh thủ tăng gia để có thêm rau ăn. Dù nay đây mai

đó cũng cần tăng gia. Mình khơng ăn thì để cho đơn vị khác ăn, nhân dân ăn. Ở
đâu cũng làm như thế nhất định có thêm nhiều thức ăn cải thiện" [26, tr.193].
Những quan niệm đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh phản ánh sự kế thừa, vận dụng
linh hoạt và sáng tạo truyền thống "ngụ binh ư nông", "động vi binh, tĩnh vi dân"
của tổ tiên ta qua các triều đại.
Quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về sử dụng quân đội trong nhiệm vụ
lao động sản xuất, tham gia xây dựng kinh tế là hết sức thiết thực và cụ thể. Hoạt
động lao động sản xuất, tham gia xây dựng kinh tế của quân đội, nó không chỉ là
những hoạt động trực tiếp làm ra sản phẩm như: lúa, ngơ, khoai, sắn, rau, đậu... mà
cịn bao gồm cả việc giúp dân, đánh chiếm chiến lợi phẩm của địch, bảo vệ của
công, sử dụng tiết kiệm vũ khí đạn dược, qn trang, qn dụng, chống tham ơ


lãng phí... Chủ tịch Hồ Chí Minh cịn căn dặn: phải khơn khéo tránh điều gì có hại
cho đời sống nhân dân. Biết giúp đỡ nhân dân cũng là biết tơn trọng dân; mùa tới
phải gặt hộ dân; dạy bình dân học vụ cho dân quân và bộ đội địa phương ở đó...
Chiến lợi phẩm cũng là của cơng, của nhân dân, của quốc gia, không phải của
địch. Súng đạn, thuốc men, lương thực, dụng cụ là máu mủ của đồng bào. Phải biết
thương tiếc, giữ gìn, bảo vệ. Khơng được phung phí hoặc chiếm làm của riêng cá
nhân. Đồng thời Chủ tịch Hồ Chí Minh cịn kêu gọi tiết kiệm trong qn đội, vì
"qn đội có qn nhu, qn giới, vận tải... là những cơ quan cần phải tiết kiệm đã
đành. Các chiến sĩ cũng cần phải tiết kiệm và cũng có thể tiết kiệm" [29, tr.486].
Chủ tịch Hồ Chí Minh cịn chỉ ra rằng, lương thực, vũ khí là mồ hôi, nước
mắt của đồng bào, là xương máu của bộ đội, do vậy: phải q trọng nó, phải tiết
kiệm ngăn nắp, phải sử dụng hợp lý. Hồ Chủ tịch còn căn dặn bộ đội phải tiết kiệm
lương thực, vải vóc, chớ nghĩ rằng cơm ăn, áo mặc đã có Chính phủ lo, đã có đồng
bào giúp thì ta khơng cần tiết kiệm. Bộ đội có mấy vạn người, nếu mỗi người tiết
kiệm một chút, sản xuất một chút, góp lại sẽ thành một số rất to. Trong thư gửi lớp
chỉnh huấn cán bộ trung cao cấp của quân đội (5/1969), Hồ Chủ tịch đã căn dặn:
"Phải giáo dục bộ đội giữ gìn tốt vũ khí, trang bị, tiết kiệm từng viên đạn, hạt gạo,

khơng được để lãng phí" [34, tr.466]. Trước khi qua đời, một lần nữa Chủ tịch Hồ
Chí Minh lại căn dặn các cán bộ cao cấp của quân đội: "Phải xây dựng lực lượng
thật tốt, chất lượng thật cao. Luôn luôn cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu
giỏi, bảo vệ tốt miền Bắc XHCN. Chú ý tiết kiệm sức người và sức của, giữ gìn
thật tốt vũ khí trang bị. Bộ đội phải hết lòng giúp dân, tham gia củng cố hậu
phương ta ngày càng vững mạnh" [33, tr.456]. Những lời căn dặn đó của Hồ Chủ
tịch tuy ngắn gọn, song đã khái quát đầy đủ và sinh động tư tưởng kết hợp chặt chẽ
giữa kinh tế với quốc phòng trong hoạt động của LLVT nhân dân. Tư tưởng đó
cịn được Chủ tịch Hồ Chí Minh phân tích, chỉ rõ khi nói về tình hình và nhiệm vụ
trước mắt của quân đội: "Một là, chúng ta phải xây dựng quân đội ngày càng hùng
mạnh và sẵn sàng chiến đấu để giữ gìn hồ bình, bảo vệ đất nước.... Hai là, tích
cực tham gia sản xuất để góp phần xây dựng kinh tế... Hai nhiệm vụ ấy đều rất
quan trọng, nhất trí và kết hợp chặt chẽ với nhau.... Đảng và Chính phủ giao cho


quân đội hai nhiệm vụ đó, và quân đội phải cố gắng hoàn thành cho thắng lợi" [32,
tr.140].
Chúng ta phải xây dựng quân đội ngày càng hùng mạnh, đủ sức để đấu tranh
chống lại kẻ thù xâm lược nhằm gìn giữ hồ bình, bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời qn
đội cũng phải tích cực tham gia lao động sản xuất để góp phần xây dựng kinh tế
của đất nước. Vấn đề này ngay thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cập đến. Chủ trương xây dựng LLVT
của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã tốt lên rằng, ngay bản thân LLVT - lực lượng
làm nịng cốt cho tồn dân đánh giặc cũng không tách rời với mặt trận lao động
sản xuất. Đối với mỗi dân quân, du kích đều vừa là lực lượng sản xuất ở ruộng
đồng, bám chặt các cơ sở sản xuất để làm ra của cải vật chất, vừa là những tay
súng đánh giặc giữ làng, bảo vệ địa bàn, bảo vệ sản xuất. Đối với mỗi tự vệ đều
vừa là những công nhân sáng tạo ra của cải vật chất để đáp ứng nhu cầu của cuộc
kháng chiến, vừa là người chiến sĩ tích cực chiến đấu bảo vệ nhà máy, bảo vệ địa
bàn và là lực lượng quan trọng phối hợp với các chiến sĩ quân đội trên các hướng

chiến lược. Đối với quân đội đều phải vừa ra sức huấn luyện sẵn sàng chiến đấu,
chiến đấu và công tác, vừa hăng hái trên mặt trận lao động sản xuất giúp dân tăng
gia sản xuất, xây dựng kinh tế tạo ra của cải để tự bảo đảm một phần lương thực,
thực phẩm cho chính mình và góp phần vào sự phát triển chung của đất nước.
Nhiệm vụ lao động sản xuất của quân đội đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng
ta xác định ngay từ đầu thành lập quân đội và đã trở thành một truyền thống quí
báu của Quân đội ta.
Những nội dung trên đã thể hiện tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về sử
dụng quân đội trong nhiệm vụ lao động sản xuất, tham gia xây dựng kinh tế, kết
hợp giữa nhiệm vụ huấn luyện sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu và công tác với
nhiệm vụ lao động sản xuất, tham gia xây dựng kinh tế. Tư tưởng này đã được thể
hiện ngay từ khi chuẩn bị bước vào cuộc kháng chiến toàn quốc của quân và dân
ta.
1.2. Sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp kinh tế với quốc
phòng trong các giai đoạn cách mạng của Đảng ta


1.2.1. Sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp kinh tế với quốc
phòng của Đảng ta trong chiến tranh giải phóng dân tộc
1.2.1.1. Thời kỳ chống thực dân Pháp xâm lược
Ngay từ những ngày đầu thành lập, Đảng ta đã chủ trương gắn liền những
biện pháp kinh tế và quân sự với nhau nhằm đạt được những mục tiêu của cách
mạng ở giai đoạn chuẩn bị cho khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền (1945), chủ
trương này đã trở thành tư tưởng chỉ đạo cho việc huy động lực lượng.
Nghị quyết Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ của Đảng (họp từ 15 20/4/1945) đặt vấn đề: "Cần kíp gây dựng những căn cứ kháng Nhật" tại những
khu vực đủ điều kiện về địa hình "gây dựng những cơ sở quần chúng, lương
thực...", quyết định những vấn đề "vũ khí, quân nhu", "lập xưởng sửa chữa súng và
chế tạo súng ống, bom đạn", "ra sức thu nhặt, mua sắm vũ khí", "tích trữ lương
thực", "đặt kế hoạch mở con đường mua và vận tải muối", phát triển mạnh chiến
tranh du kích để chuẩn bị tổng khởi nghĩa. Ở các nơi, nếu có địch tiến tới thì thực

hiện kế hoạch "vườn không, nhà trống", "các phố nhỏ nên tản cư", "các chiến khu
và căn cứ địa phải hỗ trợ, tương ứng cùng nhau".
Nghị quyết về "lập khu giải phóng" (ngày 4/8/1945) đã nêu lên một cách tồn
diện các vấn đề chính trị, qn sự (trong đó có các vấn đề về vũ khí, tổ chức các
xưởng sửa chữa và lị chế tạo), giao thơng, kinh tế - tài chính, tiền tệ, văn hố, cán
bộ (trong đó có các vấn đề cụ thể như: "Khuyến khích thủ cơng nghiệp", "tổ chức
việc buôn bán", ra "phiếu cứu quốc", "khuyến khích tiết kiệm, ngăn ngừa xa xỉ...").
Cách mạng tháng Tám thành cơng, nước Việt Nam dân chủ cộng hồ ra đời,
chưa đầy một tháng, thực dân Pháp đã quay trở lại tấn công miền Nam nước ta.
Ngay sau khi thực dân Pháp gây chiến ở Sài Gòn hai ngày, ngày 25/11/1945 Ban
Chấp hành Trung ương đã ra chỉ thị "kháng chiến kiến quốc". Thực chất nội dung
của chỉ thị này là chỉ đạo sự kết hợp chặt chẽ giữa quốc phòng với kinh tế. Chỉ thị
đã vạch rõ những nhiệm vụ trước mắt của nhân dân lúc này là phải củng cố chính
quyền cách mạng vừa mới giành được, cải thiện đời sống nhân dân, sẵn sàng với
cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp xâm lược ở phía Nam, hồ hỗn với qn
Tưởng ở phía Bắc, kiên quyết bảo vệ chính quyền nhân dân và chủ quyền dân tộc.
Tiếp đó là chỉ thị "Hoà để tiến" của Ban Thường vụ Trung ương (ngày 9/3/1946),
đã vạch rõ sự "chuyển hướng về chiến thuật". Cuộc đấu tranh vũ trang về quân sự


phải chuyển thành cuộc đấu tranh về chính trị, kinh tế và văn hoá. Ở đây ta lại thấy
một sự năng động, sáng tạo về sách lược của Đảng, mà trọng tâm chiến thuật được
vạch ra một cách cụ thể là gắn chặt giữa quân sự, chính trị và kinh tế.
Ngày 19/12/1946 cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Với chỉ thị "Toàn dân
kháng chiến" (ra ngày 22/12/1946) thể hiện rõ tư tưởng kết hợp giữa quân sự và
kinh tế của Đảng. Tư tưởng ấy đã được cụ thể hoá và gắn chặt với nhau ở một mức
độ cao hơn để: "Trường kỳ kháng chiến, toàn dân kháng chiến".
Nghị quyết Hội nghị cán bộ Trung ương lần thứ II (họp ngày 5, 6 tháng
4/1947), trong phần nhiệm vụ quân sự đã vạch rõ sự cần thiết cũng như những
cách thức, biện pháp để duy trì chiến lược kháng chiến lâu dài là phải tổ chức "căn

cứ địa một cách vững chắc", "chú trọng chế tạo vũ khí chống tăng, chống ca nơ và
vũ khí thơ sơ", thực hiện "bộ đội tham gia sản xuất, tích trữ lúa gạo, muối, ký
ninh".
Hội nghị lần thứ nhất của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá II (đầu năm
1951) đã quyết định sự chuyển hướng về kinh tế và tài chính: "Muốn trường kỳ
kháng chiến phải luôn luôn bồi dưỡng kinh tế - tài chính, phải coi nhiệm vụ kinh tế
- tài chính là nhiệm vụ quan trọng. Trung ương và các cấp phải tăng cường việc
lãnh đạo kinh tế - tài chính là tăng thu, giảm chi". Căn cứ vào Nghị quyết này của
Trung ương Đảng, Chính phủ đã quyết định bốn vấn đề lớn: Nhấn mạnh cơng tác
kinh tế - tài chính, lấy tăng gia sản xuất làm cơ sở; tăng cường cơng tác tài chính,
qui định thu chi thống nhất, ban hành chính sách thuế nơng nghiệp mới; thành lập
ngân hàng quốc gia và phát hành giấy bạc mới; phát triển mậu dịch quốc doanh.
Với đường lối và chính sách đó của Đảng, Nhà nước ta đã tạo nên một bước
chuyển biến rất cơ bản trong công tác quản lý kinh tế kháng chiến, thúc đẩy các
ngành kinh tế phát triển mạnh mẽ, cho phép bảo đảm ngày một tốt hơn những nhu
cầu ngày càng tăng của công cuộc "Kháng chiến, kiến quốc".
Trong điều kiện viện trợ từ bên ngoài chỉ chiếm khoảng 16% trong ngân sách
quốc phòng, việc thực hiện những nghị quyết và những chỉ thị của Đảng, của Chủ
tịch Hồ Chí Minh về kháng chiến, kiến quốc đã phát huy được tác dụng to lớn.
Trong chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, nền kinh tế hậu
phương đã được động viên mỗi năm một tăng lên, bảo đảm đáp ứng ngày càng tốt


hơn cho yêu cầu của tiền tuyến. Cuối cuộc kháng chiến. yêu cầu của chiến tranh đã
tăng lên gấp 20 lần so với thời kỳ đầu. Thắng lợi vẻ vang của chiến dịch lịch sử
Điện Biên Phủ đã kết thúc cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm
lược của dân tộc ta.
1.2.1.2. Thời kỳ chống đế quốc Mỹ xâm lược
Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, cách mạng nước ta
đứng trước một tình thế mới: Miền Bắc được giải phóng tiến lên xây dựng CNXH,

miền Nam bị đế quốc Mỹ thế chân thực dân Pháp, thực hiện âm mưu chia cắt lâu
dài đất nước ta, làm bàn đạp tiến công ra cả nước. Cách mạng nước ta cùng một
lúc phải thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: tiến hành cuộc cách mạng XHCN ở
miền Bắc, xây dựng miền Bắc thành hậu phương vững chắc cho cách mạng cả
nước; tiếp tục thực hiện cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở miền Nam, tiến tới
thống nhất nước nhà.
Hội nghị Trung ương lần thứ 12, khoá II (1957) của Đảng đã chỉ đạo việc giải
quyết đúng đắn mối quan hệ giữa xây dựng kinh tế và củng cố quốc phòng trong
điều kiện mới. Nghị quyết nhấn mạnh: Trong mọi công tác của Nhà nước, trong
chiến lược phát triển KT-XH, cũng như kế hoạch của từng ngành phải quán triệt và
có ý thức xây dựng, củng cố hậu phương, kết hợp nhu cầu kinh tế, văn hoá với nhu
cầu củng cố quốc phòng, kết hợp các nhu cầu thời bình và nhu cầu thời chiến.
Mặc dầu lúc này nước ta đã có sự viện trợ to lớn của các nước trong phe
XHCN, song Đảng ta và Bác Hồ vẫn luôn nhấn mạnh: Cách mạng nước ta trước
hết phải do nhân dân ta, dựa vào lực lượng của đất nước ta là chính. Điều đó có
nghĩa, tự lực tự cường, chủ động sáng tạo là nguyên tắc, là cơ sở phương pháp luận
để thực hiện kết hợp kinh tế với quốc phịng. Tư tưởng đó bắt nguồn từ đường lối
độc lập, tự chủ trong hoạt động chính trị. Trong lịch sử đấu tranh, nước ta là một
nước nhỏ nhưng luôn phải đương đầu, chống lại những thế lực và kẻ thù mạnh hơn
ta gấp nhiều lần. Chính vì vậy, sự ủng hộ và giúp đỡ của quốc tế là vơ cùng q
báu. Nhưng chúng ta chỉ có thể tranh thủ sự giúp đỡ ấy trên cơ sở biết phát huy
đầy đủ sức mạnh của dân tộc. Sự tranh thủ đó giúp cho chúng ta có thêm điều kiện
để ngày càng tăng cường khả năng về mọi mặt, nhằm phát triển tiềm lực kinh tế và
quốc phịng, chứ khơng phải là sự trơng chờ, ỷ lại. Vì lẽ đó, sau gần hai năm khôi


phục kinh tế, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp Hội nghị mở rộng, ra Nghị
quyết về xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng (tháng 3/1958). Trong bản Nghị
quyết này, Đảng ta đã xác định: "Xây dựng kinh tế phải kết hợp chặt chẽ với củng
cố quốc phòng" và "xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng phải khéo sắp xếp cho

ăn khớp với xây dựng kinh tế" [3]. Thực hiện Nghị quyết của Đảng, quân đội thời
gian này được thoái ngũ với khối lượng lớn. Nhiều đơn vị được chuyển sang xây
dựng các nông trường quốc doanh, bố trí tập trung ở phía Tây tỉnh Thanh Hố và
Nghệ An. Khu vực này được coi là một trong những khu căn cứ cho cuộc chiến
tranh chống xâm lược sau này. Số đơng cán bộ qn đội cịn lại được chuyển sang
các ngành kinh tế, số chiến sĩ còn lại phục viên về vùng nông thôn tham gia lao
động sản xuất nơng nghiệp.
Trong báo cáo chính trị tại Đại hội lần thứ III của Đảng (họp tháng 9/1960),
vấn đề kết hợp kinh tế với quốc phòng tiếp tục là một nội dung quan trọng thiết
thực để xây dựng hậu phương lớn của cả nước trên tất cả các mặt. Báo cáo đã xác
định: "Để bảo vệ vững chắc miền Bắc xây dựng CNXH, kịp thời ngăn ngừa và đối
phó với âm mưu của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, phải giải quyết đúng đắn mối
quan hệ giữa xây dựng kinh tế với củng cố quốc phòng; trong xây dựng kinh tế
phải thấu suốt nhiệm vụ quốc phòng, cũng như trong củng cố quốc phòng, phải
khéo sắp xếp cho ăn khớp với công cuộc xây dựng kinh tế" [4, tr.57].
Nhằm phát triển và nâng cao khả năng của các ngành kinh tế, kết hợp nâng
cao khả năng phục vụ quốc phòng, trong các kế hoạch 5 năm từ 1961 - 1965, Nhà
nước đã có kế hoạch cụ thể và đầu tư thích hợp cho các ngành cơ khí, sửa chữa
binh khí kỹ thuật, sản xuất các loại vũ khí từ đơn giản đến phức tạp, xây dựng các
tuyến đường giao thông và các bưu điện chiến lược. Đồng thời tích cực dự trữ vật
chất các loại; có năm ta đã dự trữ được tới 50.000 tấn thóc, 40.000 tấn xăng dầu,
dự trữ thép bi-metal cho sản xuất đạn, và cũng đã dự trữ nhiều loại phương tiện,
thiết bị, vật tư khác để phục vụ cho việc đề phòng thiên tai, địch hoạ như xe cứu
hoả, máy móc thơng tin, kim loại đen và mầu, thuốc men và dụng cụ y tế.
Nắm vững quan điểm, đường lối của Đảng về kết hợp xây dựng kinh tế với
củng cố quốc phòng, thực chất là xây dựng CNXH ở miền Bắc, nhằm chi viện cao
nhất cho miền Nam, đánh bại chiến tranh xâm lược bằng không quân và hải quân


của đế quốc Mỹ, quân và dân miền Bắc đã anh dũng không sợ hy sinh, phấn đấu

không mệt mỏi, với ý chí quyết chiến, quyết thắng, bằng lịng nhiệt tình và trí
thơng minh, sáng tạo đã lập nên những chiến cơng to lớn, góp phần rất quan trọng
tạo nên sức mạnh vĩ đại của cả nước, kết thúc thắng lợi 30 năm chiến tranh giải
phóng Tổ quốc, thống nhất nước nhà. Đây cũng là thắng lợi của đường lối chiến
tranh nhân dân của Đảng ta. Trong điều kiện đất nước vừa có hồ bình, vừa có
chiến tranh, chiến tranh lại kéo dài, Đảng ta đã kiên trì thực hiện phương châm
"vừa kháng chiến, vừa kiến quốc", kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng phát triển kinh
tế với tăng cường củng cố quốc phòng, nâng cao sức mạnh chiến đấu của toàn dân,
tạo nên một hậu phương vững chắc, rộng lớn bao la khắp cả nước để tiến hành
chiến tranh giải phóng, giành thắng lợi cuối cùng.
Q trình vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp kinh tế với
quốc phòng của Đảng ta trong quá trình lãnh đạo cách mạng từ 1930 - 1975, có thể
khái quát trên một số vấn đề cơ bản như sau:
Thứ nhất, trong suốt quá trình phát triển, Đảng ta đã chú ý coi trọng kết hợp
kinh tế với quốc phịng đúng với tầm của nó. Kết hợp kinh tế với quốc phịng
khơng chỉ về mặt qn sự mà ở toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Tổ chức và sử dụng
kinh tế kết hợp với quốc phòng phục vụ cho nhu cầu của nhiệm vụ chính trị, giải
quyết nhanh vấn đề cấp bách và lâu dài của thời chiến, bảo đảm đủ sức để chiến
đấu và chiến thắng quân thù; trong thời bình nhằm vào phục vụ nhiệm vụ xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc, tuỳ theo yêu cầu cụ thể của từng giai đoạn cách mạng mà đặt
trọng tâm nhiệm vụ xây dựng hay bảo vệ lên trước.
Thứ hai, sự vận dụng của Đảng ta không chỉ dừng lại ở chủ trương, phương
hướng mà đã vạch ra những biện pháp cụ thể để thực hiện nhiệm vụ kết hợp kinh
tế với quốc phòng cho từng giai đoạn cách mạng, từng vùng chiến lược, từng căn
cứ địa, theo ngành và lãnh thổ. Để giải quyết lương thực, thực phẩm nuôi quân
phải ra sức phát triển sản xuất nông nghiệp; để đáp ứng nhu cầu về vũ khí trang bị
cho quân đội phải phát triển công nghiệp, đặc biệt là cơng nghiệp quốc phịng, đầu
tư phát triển các xưởng, trạm sửa chữa, chế tạo vũ khí từ giản đơn đến phức tạp;
chú trọng xây dựng đường sá, kết cấu hạ tầng, cơ sở nguyên liệu phục vụ cho công
nghiệp quốc phòng.



Thứ ba, Đảng ta hết sức chú trọng và quan tâm cải thiện đời sống nhân dân,
trên cơ sở đó bồi dưỡng nguồn nhân lực tăng cường sức chiến đấu và quốc phịng.
Ở đây nói lên bản chất giai cấp của kinh tế - quốc phịng của giai cấp vơ sản. Nó
khác về bản chất với kinh tế - quân sự tư bản, chạy đua vũ trang và buôn bán vũ
khí của các nước đế quốc.
Thứ tư, Đảng ta ln luôn đặt vấn đề xây dựng và củng cố hậu phương, coi đó
là một nhiệm vụ chiến lược. Tổ chức, huy động hậu phương quân đội; chăm lo hậu
cần, bảo đảm các yếu tố vật chất và kỹ thuật cũng như động viên về tinh thần cần
thiết đối với tiền tuyến nhằm đánh thắng kẻ thù, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong
mọi tình huống.
Thứ năm, trên cơ sở dựa vào sức mình là chính, chúng ta đã phối hợp, đoàn
kết tốt với các nước anh em cả về kinh tế lẫn quân sự; đồng thời tranh thủ được sự
đồng tình ủng hộ và giúp đỡ của nhân dân và các lực lượng tiến bộ trên thế giới,
tạo ra những điều kiện thuận lợi cho sự nghiệp chiến đấu, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc.
1.2.2. Sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp kinh tế với quốc
phòng của Đảng ta trong giai đoạn từ năm 1976 đến nay
1.2.2.1. Thời kỳ 1976 đến 1986
Sau khi cả nước được hoàn toàn độc lập, thống nhất cùng đi lên xây dựng
CNXH, qua thực tiễn 30 năm chiến tranh giải phóng, Đại hội lần thứ IV của Đảng
một lần nữa khẳng định vấn đề kết hợp kinh tế với quốc phòng là một trong những
nội dung cơ bản và quan trọng của đường lối xây dựng nền kinh tế XHCN trên
phạm vi cả nước. Đại hội đã chỉ rõ: "Phải kết hợp đúng đắn kinh tế với quốc
phòng. Xây dựng đất nước phải đi đôi với bảo vệ đất nước đó là u cầu sống cịn
của dân tộc ta" [5, tr.58]. Đường lối đó chỉ ra rằng, cơng cuộc xây dựng nền kinh
tế XHCN trong phạm vi cả nước trong thời bình phải đồng thời đáp ứng cùng một
lúc các nhu cầu: cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện quyền làm chủ của nhân
dân; đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá XHCN; mở rộng quan hệ kinh tế với

các nước, bảo đảm QP-AN thường xuyên vững vàng. Do đó, trong mọi hoạt động
KT-XH phải khéo léo kết hợp chặt chẽ xây dựng kinh tế với củng cố quốc phòng,
bảo đảm an ninh chính trị quốc gia.


Với quan điểm đã được xác định, ngay từ tháng 3/1976, Bộ Chính trị đã ra
Nghị quyết về việc quân đội làm nhiệm vụ xây dựng kinh tế với 5 nội dung: xây
dựng vùng kinh tế mới, kết hợp kinh tế với quốc phòng; xây dựng cơ bản; đánh cá,
khai thác hải sản, kết hợp bảo vệ vùng biển và hải đảo; sản xuất và xây dựng quốc
phòng cho quân đội và nhân dân; giúp bạn xây dựng các công trình kinh tế và quốc
phịng.
Ngày 05/4/1976 Tổng cục xây dựng kinh tế thuộc Bộ Quốc phòng được thành
lập với nhiệm vụ: Giúp Bộ Quốc phòng lập kế hoạch chỉ đạo lực lượng tham gia
xây dựng kinh tế, xây dựng các đơn vị chuyên làm kinh tế; thay mặt Bộ quan hệ
với các cơ quan ngoài quân đội; chấp hành các chế độ kinh doanh hạch tốn kinh
tế, các chính sách của Nhà nước và quân đội. Cũng trong tháng 4/1976 Quân uỷ
Trung ương và Bộ Quốc phòng tổ chức Hội nghị cán bộ trung, cao cấp toàn quân
nghiên cứu quán triệt nội dung nghị quyết về quân đội làm kinh tế. Hội nghị đi đến
thống nhất mục tiêu làm kinh tế của quân đội lúc này là: bảo đảm một phần nhu cầu
của quân đội; tham gia xây dựng một số vùng kinh tế chiến lược, xây dựng giao
thông, thuỷ lợi, một số cơng trình trọng điểm của Nhà nước, góp phần phân bố lao
động dân cư.
Với số quân 30 vạn (lực lượng làm kinh tế) được bố trí làm kinh tế ở nhiều
dạng khác nhau. Một lực lượng quan trọng được bố trí ở các khu vực phịng thủ
làm kinh tế nông nghiệp kết hợp (như ở khu vực tứ giác Long Xuyên, ở Tây
Nguyên). Một số xây dựng các cơng trình kinh tế kết hợp với quốc phịng như giao
thơng đường sá (Binh đồn 12), làm sân bay, đường ống dẫn dầu (Công binh); xây
dựng doanh trại, nhà ở, bệnh viện (Binh đoàn 11). Lực lượng bộ đội làm kinh tế ở
các quân khu, quân đoàn được bố trí sản xuất vật liệu xây dựng, xây dựng kinh tế
vùng hậu cứ; Hải quân đánh cá kết hợp với việc bảo vệ vùng biển. Các xí nghiệp

quốc phịng được bố trí làm hàng kinh tế kết hợp với việc làm hàng quân sự.
Tuy nhiên, mọi công việc mới bắt đầu được vạch ra với mục tiêu phục hồi
nền kinh tế sau chiến tranh thì chúng ta phải đương đầu với những khó khăn, phức
tạp mới. Đó là liên tiếp trong các năm 1976, 1977 ở biên giới Tây Nam bọn Pôn
Pốt - Iêng xa ri - Khiêu Xăm phon liên tục xua quân xâm phạm lãnh thổ nước ta.
Đầu năm 1979, Trung Quốc đã huy động hơn 60 vạn quân với hàng trăm xe tăng,


×