Tải bản đầy đủ (.doc) (48 trang)

BÁO CÁO TỔNG KẾT CÔNG TÁC Y TẾ NĂM 2012, NHIỆM VỤ VÀ CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN TRONG NĂM 2013

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (435.07 KB, 48 trang )

BỘ Y TẾ

BÁO CÁO TỔNG KẾT
CÔNG TÁC Y TẾ NĂM 2012,
NHIỆM VỤ VÀ CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN TRONG NĂM 2013

Hà Nội, 24 tháng 1 năm 2013


BỘ Y TẾ
Số:

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
/BC-BYT
Hà Nội, ngày 24 tháng 01 năm 2013
BÁO CÁO TỔNG KẾT
CÔNG TÁC Y TẾ NĂM 2012, NHIỆM VỤ VÀ
CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN TRONG NĂM 2013
Phần thứ nhất
TÌNH HÌNH CÔNG TÁC Y TẾ NĂM 2012

Năm 2012 ngành Y tế tiếp tục triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XI của Ban chấp hành Trung ương Đảng, Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội
2011-2020; Kế hoạch Bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân giai đoạn 20112015 và nhiệm vụ trọng tâm của nhiệm kỳ Chính phủ 2012-2016.
Thực hiện các Nghị quyết của Trung ương, Bộ Chính trị, các Nghị quyết của Quốc
hội, Nghị quyết của Chính phủ, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, năm 2012, toàn
ngành y tế đã tập trung các giải pháp quyết liệt thực hiện 4 chỉ tiêu Quốc Hội, 17 chỉ tiêu
Chính phủ giao, 5 mục tiêu thiên niên kỷ về y tế/tổng số 8 mục tiêu Thiên niên kỷ quốc
gia ; 07 nhiệm vụ trọng tâm của ngành y tế và năm 2012 đã đạt được những kết quả tích
cực trong công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân, góp phần thực hiện


mục tiêu bảo đảm an sinh xã hội.
Kết quả thực hiện nhiệm vụ năm và những khó khăn bất cập, cần có giải pháp
tích cực để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ năm 2013, Bộ Y tế báo cáo các nội dung sau:
I. TÌNH HÌNH THỰC HIỆN NHIỆM VỤ NĂM 2012
Phần đánh giá tình hình thực hiện công tác năm 2012 được tổng hợp theo 6 thành
phần (1) cung ứng dịch vụ y tế; (2) nhân lực y tế; (3) tài chính y tế; (4) thông tin y tế; (5)
dược, thuốc, vắc-xin và sinh phẩm; (6) quản lý và quản trị hệ thống y tế, gắn với việc đánh
giá các chỉ tiêu Quốc hội, Chính phủ, mục tiêu Thiên niên kỷ và các chỉ tiêu, nhiệm vụ của
Ngành y tế giao. Cụ thể :
1. Cung ứng dịch vụ y tế
a. Công tác y tế dự phòng
Trong năm 2012, công tác phòng chống dịch bệnh được triển khai kịp thời và có hiệu
quả, phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành có liên quan và các địa phương tiếp tục đẩy
mạnh công tác y tế dự phòng, kiểm soát an toàn vệ sinh thực phẩm; tích cực triển khai các
biện pháp phòng chống dịch bệnh; tăng cường giám sát tại các cửa khẩu nhằm phát hiện
các trường hợp dịch bệnh xâm nhập, giảm thiểu việc lây truyền các dịch bệnh nguy hiểm.

2


Kiểm soát tốt một số bệnh truyền nhiễm nguy hiểm, không xảy ra trường hợp mắc bệnh tả,
dịch hạch; giảm thiểu số ca mắc, tử vong do rubella, sốt rét, dại, liên cầu lợn ở người và
không có dịch xảy ra; các bệnh thương hàn, viêm não vi rút, viêm màng não do não mô
cầu, bệnh than được kiểm soát tốt với tỷ lệ mắc giảm nhiều so với cùng kỳ 2011. Hội
chứng viêm da dày sừng bàn tay, bàn chân tại Ba Tơ, Quảng Ngãi đã được kiểm soát kịp
thời, không để xảy ra lây nhiễm trong cộng đồng. Tuy nhiên bệnh tay chân miệng và sốt
xuất huyết vẫn lưu hành với số mắc cao (bệnh tay chân miệng 145.367 trường hợp; Sốt
xuất huyết 67.714 trường hợp) và diễn ra trên diện rộng cùng với sự xuất hiện một số bệnh
như: bệnh do virus Hanta và bệnh viêm não – màng não do đơn bào Naegleria fowleri
Ngành cũng đã tiếp tục bảo vệ thành quả thanh toán Bại liệt, loại trừ uốn ván sơ sinh,

các bệnh có vắc xin dự phòng thuộc chương trình tiêm chủng mở rộng quốc gia (lao, bạch
hầu, ho gà, uốn ván, bại liệt, viêm gan B, sởi), tỷ lệ mắc giảm dần hàng năm; triển khai
tiêm chủng vắc xin, tiêm chủng mở rộng luôn đạt > 90%, theo dõi phản ứng sau tiêm
chủng, hạn chế tối đa phản ứng sau tiêm.
Tình hình mắc/chết một số bệnh dịch nguy hiểm trong năm: (Mục tiêu MDG 6 C)
• Bệnh Tay chân miệng: cả năm ghi nhận 157.654 trường hợp mắc tại 63 địa phương,
trong đó đã có 45 trường hợp tử vong tại 15 tỉnh, thành phố. So với năm 2011 (113.121
trường hợp mắc, 170 trường hợp tử vong), số mắc tăng 39,4%, số tử vong giảm 73,5%
(giảm 125 trường hợp tử vong), chết/ mắc giảm (5 lần) từ 0,15% xuống còn 0,03%.
• Bệnh Sốt xuất huyết: ghi nhận 87.202 trường hợp mắc, 79 trường hợp tử vong. So với
năm 2011 (69.878 trường hợp mắc, 61 trường hợp tử vong) số mắc tăng 24,8%, tử
vong tăng 18 trường hợp, chết/ mắc giảm 0,005%. So với trung bình giai đoạn 5 năm
2006-2010 tỷ lệ mắc /100.000 dân giảm 24,1%; tỷ lệ chết/100.000 dân giảm 23,3%, tỷ
lệ chết/ mắc tăng 1,1%.
• Bệnh Cúm A (H1N1): từ tháng 5/2009 đến tháng 7/2010 tại 63 tỉnh, thành phố trên cả
nước ghi nhận 11.214 trường hợp mắc, trong đó có 58 trường hợp tử vong tại 11 tỉnh,
thành phố. Năm 2011, 2012 không ghi nhận ổ dịch cúm tại cộng đồng.
• Bệnh Cúm A (H5N1): năm 2012 ghi nhận 04 trường hợp nhiễm cúm A (H5) tại Kiên
Giang, Sóc Trăng, Bình Dương, Đắk Lắk, trong đó đã có 02 trường hợp tử vong tại
Kiên Giang và Sóc Trăng. Số mắc cúm A (H5N1) giai đoạn từ 2007-2011 dao động từ
4 - 8 trường hợp mắc, chủ yếu tập trung tại miền Bắc, tỉ lệ chết/mắc trung bình giai
đoạn cao 60% (15/25).
• Bệnh Rubella: Năm 2011 ghi nhận 43.907 trường hợp mắc, các tỉnh có số mắc cao là
Phú Thọ, Thái Bình, Yên Bái, Hà Giang, Nghệ An, Hà Nội, Hưng Yên, Bắc Ninh, Hòa
Bình, Hải Dương và Hải Phòng. Cả năm 2012 chỉ ghi nhận 100 trường hợp mắc
rubella, trong đó có 77 trường hợp mắc rubella bẩm sinh, không có tử vong.
• Bệnh Tả: Năm 2007 ghi nhận số mắc tả cao 1.907 trường hợp, năm 2008 ghi nhận 886
trường hợp mắc, năm 2011 ghi nhận 2 trường hợp mắc. Năm 2012 không ghi nhận
trường hợp mắc nào.


3


• Bệnh Sốt rét: năm 2012 ghi nhận 35.637 trường hợp mắc, 6 trường hợp tử vong, so
với năm 2011 (37.396 trường hợp mắc, 12 trường hợp tử vong) số mắc giảm 4.7%, tử
vong giảm 6 trường hợp. Ký sinh trùng sốt rét kháng thuốc đã xuất hiện tại một số địa
phương, đặc biệt tại Bình Phước.
• Bệnh Viêm não vi rút: năm 2012 ghi nhận 822 trường hợp mắc, 18 trường hợp tử vong
tại Điện Biên (6 trường hợp), Sơn La (4 trường hợp), Hà Nội (2 trường hợp), Cần Thơ (2
trường hợp), Bạc Liêu (1 trường hợp), Lào Cai (1 trường hợp), Gia Lai (1 trường hợp),
Phú Thọ (1 trường hợp). So với cùng kỳ năm 2011 (1.273 trường hợp mắc, 30 trường hợp
tử vong), số mắc giảm 35,4%, tử vong giảm 40%.
• Bệnh do não mô cầu: năm 2012 ghi nhận 125 trường hợp mắc, trong đó đã có 05 trường
hợp tử vong. So với cùng kỳ năm 2011 (247 trường hợp mắc, 6 trường hợp tử vong) số
mắc giảm 49,4%, tử vong giảm 01 trường hợp. Từ năm 2007-2011, số mắc cả nước có
xu hướng giảm đều, mỗi năm giảm từ 50-100 trường hợp/năm. Trung bình giai đoạn 5
năm tỷ lệ mắc /100.000 dân là 0,49; tỷ lệ chết/100.000 dân là 0,004. Khu vực miền
Nam và miền Bắc chiếm phần lớn các trường hợp mắc của cả nước. Các tỉnh/thành
phố có số mắc cao liên tục là: Thái Bình, Bến Tre, Sơn La.
• Thương hàn: năm 2012 ghi nhận 617 trường hợp mắc, không có tử vong. So với cùng kỳ
năm 2011 (873 trường hợp mắc, không có tử vong), số mắc giảm 29,3%. Số mắc giảm
dần trong giai đoạn 2007-2011 từ 2.148 (năm 2007) còn 873 (năm 2011), tử vong duy
trì 0-2 trường hợp/năm. Trung bình giai đoạn 5 năm tỷ lệ mắc/100.000 dân là 1,806; tỷ
lệ chết/100.000 dân là 0,001. Khu vực miền Nam chiếm đa số (>60%), tập trung tại các
tỉnh An Giang, Đồng Tháp, TP. Hồ Chí Minh, Kiên Giang.
• Các bệnh truyền nhiễm thuộc chương trình tiêm chủng mở rộng: bảo vệ thành quả
thanh toán Bại liệt, duy trì thành quả loại trừ uốn ván sơ sinh, các bệnh có vắc xin dự
phòng thuộc chương trình tiêm chủng mở rộng quốc gia (lao, bạch hầu, ho gà, uốn ván,
bại liệt, viêm gan B, sởi) tỷ lệ mắc giảm dần hàng năm.
• Bệnh lây truyền từ động vật sang người:

o

Bệnh dại: Năm 2012 ghi nhận 87 trường hợp tử vong xảy ra tại 22 tỉnh,
thành phố. Các trường hợp tử vong do bệnh dại vẫn tập trung chủ yếu tại
các tỉnh miền Bắc chiếm 86,2% số trường hợp tử vong trên cả nước. Các
tỉnh có số tử vong cao như Sơn La (21 trường hợp), Phú Thọ (14 trường
hợp), Yên Bái (10 trường hợp), Hà Giang (8 trường hợp), Tuyên Quang
(7 trường hợp), Điện Biên (5 trường hợp), Nghệ An (5 trường hợp), Cao
Bằng (2 trường hợp). So với năm 2011 (110 trường hợp tử vong), số tử
vong giảm 20,9%.

o

Bệnh than: Năm 2012 không ghi nhận trường hợp mắc, năm 2011 ghi
nhận 191 trường hợp mắc, 1 trường hợp tử vong, tập trung tại một số tỉnh
miền núi phía Bắc và Tây Bắc như Điện Biên, Sơn La, Lai Châu, Lào
Cai.

o

Bệnh liên cầu lợn ở người: ghi nhận 34 trường hợp mắc, 02 tử vong.
Năm 2011 ghi nhận 52 trường hợp với 5 trường hợp tử vong.

4


o

Bệnh do vi rút Hanta: ghi nhận 01 trường hợp mắc, không có tử vong
tại thành phố Hồ Chí Minh.


o

Các bệnh truyền nhiễm gây dịch khác: Được giám sát và kiểm soát
chặt chẽ, không có dịch bệnh xảy ra, số mắc giảm dần qua từng năm.

• Tình hình mắc, chết do lao: (Mục tiêu MDG 6 C)




Mục tiêu: Đến năm 2015, giảm 50% số bệnh nhân hiện mắc so với ước tính năm
2000 (từ 375/100.000 dân xuống 187/100.000 dân) và Khống chế tỷ lệ lây truyền
bệnh lao kháng thuốc, tăng tỷ lệ tiếp cận với điều trị lao đa kháng thuốc từ 25%
năm 2011 lên 55% vào năm 2015.
Kết quả: Trung bình mỗi năm ước tính có khoảng 18,000 ca tử vong do lao
(không tính những trường hợp lao/HIV+). Số hiện mắc lao khoảng 176.000
người; Mới mắc lao trong năm khoảng 140.000 người . Như vậy Tỷ lệ mới
mắc lao giảm 2,6%; Tỷ lệ hiện mắc lao giảm 4,6% và Tỷ lệ tử vong do lao

giảm 4,4%

b. Công tác phòng chống HIV/AIDS (Mục tiêu MDG 6 A-B)
Tính đến 30/11/2012, số trường hợp nhiễm HIV hiện còn sống là 208.866 trường
hợp, số bệnh nhân AIDS hiện còn sống là 59.839 và 62.184 trường hợp tử vong do AIDS.
Riêng 11 tháng đầu năm 2013, cả nước phát hiện 11.102 trường hợp nhiễm HIV, 3.716
bệnh nhân AIDS và 961 người tử vong do AIDS. So với cùng kỳ năm 2011, số trường hợp
nhiễm HIV phát hiện và báo cáo giảm 22%, số người tử vong giảm gần 3 lần, tuy nhiên số
liệu tử vong từ tuyến xã phường thống kê chậm nên con số tử vẫn còn chưa thống kê đầy
đủ. Về địa bàn dịch HIV/AIDS ghi nhận tăng lên 79.1% số xã/phường/thị trấn báo cáo có

người nhiễm HIV ở 98% quận/huyện trong cả nước. Về hình thái dịch HIV tiếp tục ghi
nhận có sự thay đổi, trong số người nhiễm HIV báo cáo năm 2012 có 31,5% người nhiễm
là nữ giới, cao hơn 0,5% so với năm 2011. Đường lây truyền HIV lần đầu tiên báo cáo ghi
nhận số người nhiễm HIV bị lây nhiễm qua quan hệ tình dục cao hơn lây truyền qua tiêm
chích ma túy (45,5% so với 42,1%), trong khi năm 2011 tương ứng là (41,8% so với
46,4%). Tỷ lệ nhiễm HIV trong nhóm nghiện chích ma túy theo dõi qua giám sát trọng
điểm tiếp tục giảm, tỷ lệ này năm 2012 là 11,% so với 13,4% năm 2011, tỷ lệ nhiễm HIV
trong nhóm phụ nữ bán dâm năm 2012 là 2,7% so với 2,9% năm 2011, tỷ lệ nhiễm HIV
trong nhóm MSM 2,3% so với 5% năm 2011 (tỷ lệ nhiễm HIV trong nhóm MSM chưa
phản ánh đầy đủ nhiễm HIV trong nhóm này chung cho cả nước do cỡ mẫu nhỏ).
Năm 2012, công tác chỉ đạo phòng, chống HIV/AIDS tiếp tục được đẩy mạnh trên
quy mô rộng hơn, Cục Phòng, chống HIV/AIDS tham mưu cho Bộ Y tế tổ chức 3 sự kiện
lớn cấp quốc gia bao gồm tháng hành động dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con;
tháng chiến dịch truyền thông về công tác phòng, chống HIV/AIDS hưởng ứng ngày quốc
tế phòng, chống HIV/AIDS 1/12 hằng năm; lễ phát động chương trình 100% sử dụng bao
cao su. Ngoài ra tổ chức hội nghị lớn do Phó Thủ tướng chủ trì bao gồm tổng kết thí điểm
chương trình điều nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng Methadone, hội nghị tổng kết
phong trào “Toàn dân tham gia công tác phòng, chống HIV/AIDS”, phổ biến Chiến lược
quốc gia phòng, chống HIV/AIDS đến năm 2020 và tầm nhìn 2030, phổ biến Nghị định

5


96/2012/NĐ-CP ngày 15/11/2012 của Chính phủ quy định điều trị nghiện các chất thuốc
phiện bằng các chất thay thế. Ngoài ra, Cục phòng, chống HIV/AIDS tổ chức hai hội nghị
quan trọng do Phó Thủ tướng chỉ đạo như Hội nghị phòng, chống HIV/AIDS cho các tỉnh
miền núi phía bắc và bắc trung bộ, hội nghị phòng, chống HIV/AIDS cho các tỉnh Tây
Nam bộ. Bên cạnh tổ chức các hội nghị lớn, định kỳ tổ chức giao ban về công tác phòng,
chống HIV/AIDS với các tỉnh thành phố, tổ chức các hội thảo khoa học chuyên môn với
các chuyên gia quốc tế và chuyên gia trong nước, triển khai các khóa tập huấn hướng dẫn

chuyên môn kỹ thuật cho các tuyến.
Công tác kiểm tra giám sát, đã được đẩy mạnh, tổ chức nhiều đoàn kiểm tra liên
ngành do lãnh đạo Bộ Y tế chủ trì và tham gia các đoàn công tác liên ngành do các bộ,
ngành liên quan khác chủ trì đi kiểm tra hơn 15 tỉnh, thành trong cả nước.
Công tác thông tin giáo dục truyền thông trực tiếp về thay đổi hành vi nguy cơ lây
nhiễm HIV/AIDS đã triển khai tới 11.920.734 lượt người Hoạt động truyền thông tiếp cận
nhiều nhất cho nhóm nghiện chích ma túy với tổng số 3.055.959 lượt người (chiếm tỷ lệ
25.6% lượt người được tiếp cận hoạt động truyền thông).
Công tác can thiệp giảm tác hại: chương trình phân phát bao cao su triển khai 100%
các tỉnh, thành phố, chương trình phân phát bơm kim tiêm triển khai ở 88% số tỉnh, thành
phố. Số bao cao su phân phát miễn phí hoặc bán qua chương trình tiếp thị xã hội bao cao
su đạt trên 20 triệu chiếc bao cao su, số bơm kim tiêm phát miễn phí đạt trên 30 triệu
chiếc. Chương trình điều trị methadone đã triển khai tại 14 tỉnh, vượt chỉ tiêu kế hoạch
giao 13 tỉnh vào năm 2013, tổng số người nghiện chích ma túy được điều trị methadone
đạt gần 11.000 người.
Công tác tư vấn và xét nghiệm HIV: công tác tư vấn và xét nghiệm tự nguyện đã
mở rộng 485 phòng tại 63 tỉnh, thành phố. Số phòng xét nghiệm HIV đã được khẳng định
HIV dương tính đạt 84 phòng tại 54 tỉnh thành phố, trong năm 2012 Bộ Y tế cấp phép 7
phòng xét nghiệm khẳng định HIV dương tính. Tổng số người được tư vấn và xét nghiệm
HIV miễn phí là gần 2 triệu lượt người.
Công tác giám sát dịch HIV/AIDS, theo dõi và đánh giá: năm 2012 triển khai giám
sát trọng điểm 40 tỉnh, thành phố, thêm tỉnh Sơn La so với năm 2011, các tỉnh đã triển
khai kế hoạch giám sát trọng điểm và giám sát phát hiện HIV đạt 100% cỡ mẫu theo quy
định của chương trình mục tiêu quốc gia. Công tác theo dõi và đánh giá tiếp tục được cải
thiện, năm 2012 đã triển khai phần mềm quản lý và báo cáo người nhiễm HIV/AIDS và tử
vong, phần mềm cải tiến quản lý báo cáo trực tuyến, chuyển gửi danh sách người nhiễm
HIV ngoại tỉnh trực tuyến cho các tỉnh, tuyến huyện tự động cập nhật người nhiễm HIV
trên địa bàn sau khi được đưa vào hệ thống giám sát, trung ương quản lý người nhiễm
HIV cập nhật kịp thời hơn và hệ thống đã cho phép không sử dụng báo cáo giấy, đảm bảo
tính bí mật của bệnh nhân và tiết kiệm thời gian, tài chính. Hệ thống báo cáo trực tuyến

hoạt động chương trình tiếp tục mở rộng đến tuyến huyện, đạt 40% số huyện tham gia báo
cáo trực tuyến. Chất lượng số liệu đã nâng cao, cập nhật.
Công tác điều trị ARV: Tính đến 30/9/2012, trên toàn quốc có 69.882 trong đó có
66.167 người lớn và 3.715 trẻ em, đạt 99,83% kế hoạch năm 2012. Kết quả báo cáo tại 10
tỉnh có số người được điều trị cao nhất là 48.367 bệnh nhân, chiếm 69,21% số người
nhiễm HIV đang được điều trị trên toàn quốc. Thành phố Hồ Chí Minh tiếp tục là thành

6


phố dẫn đầu cả nước về số lượng người nhiễm HIV đang điều trị. Tính đến 30/9/2012,
thành phố Hồ Chí Minh có 21.350 người nhiễm HIV đang điều trị, chiếm 30,55% số
lượng bệnh nhân đang điều trị trên toàn quốc. Tốc độ tăng trưởng bệnh nhân điều trị ARV
trung bình là 942 bệnh nhân/tháng (trung bình 3 tháng gần nhất). Phác đồ bậc 1 chiếm đa
số với tỷ lệ là 96,82%, phác đồ bậc 2 là 3,05% và có 0,13% thuộc phác đồ khác.
Công tác dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con: hiện đang được triển khai trên
địa bàn toàn quốc với những định hướng mới đối với các can thiệp về PLTMC như sau:
(1) Tư vấn xét nghiệm HIV cho phụ nữ mang thai (PNMT) sớm, (2) Thuốc ARV cho
PLTMC sớm từ tuần thai thứ 14 (thay cho từ tuần thai thứ 28 trước đây). Hiện nay toàn
quốc có 226 điểm cung cấp dịch vụ dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con. 02 điểm
tuyến TW, 92 điểm tuyến tỉnh, còn lại là tuyến huyện 132 huyện chiếm khoảng 25% số
huyện trong toàn quốc. Tính đến 30/9/2012 cả nước đã xét nghiệm HIV cho 855.439
PNMT được tư vấn và xét nghiệm HIV (chiếm50,3% trong số PNMT đến khám thai);
trong đó, 512.216 xét nghiệm trong thời gian mang thai (chiếm 60 %), 348.369 xét
nghiệm lúc chuyển dạ (chiếm 40,7 %). Trong tổng số phụ nữ mang thai tới tư vấn và xét
nghiệm có 1.275 lượt PNMT nhiễm HIV (0,15 %). Có 872 trẻ sinh ra từ mẹ nhiễm HIV,
trong đó có 613 trẻ được điều trị dự phòng bằng Cotrimoxazole trong vòng 2 tháng sau
sinh (70,3%).

c. Công tác khám bệnh, chữa bệnh

Mạng lưới khám chữa bệnh từ trung ương đến địa phương tiếp tục được tập trung
đầu tư từ các nguồn trái phiếu Chính phủ, ODA và nguồn đầu tư phát triển (tuy có bị cắt
giảm hơn so với năm 2011); cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế được nâng cấp; chất lượng
dịch vụ khám chữa bệnh từng bước được cải thiện; triển khai tốt các chính sách khám
chữa bệnh cho người nghèo, người cận nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi, đồng bào dân tộc thiểu
số, các đối tượng chính sách xã hội, người có công. Tình trạng quá tải ở các bệnh viện
tuyến trên từng bước được khắc phục; việc luân chuyển cán bộ, chuyển giao công nghệ
cho tuyến dưới đã đạt được những kết quả tích cực. Tăng cường quản lý nhà nước về giá
dịch vụ y tế, thực hiện chính sách viện phí và giá dịch vụ y tế mới tại gần 50 tỉnh.
Trong năm, Bộ Y tế đã ban hành nhiều Quyết định và thông tư, chỉ thị liên quan
đến công tác khám, chữa bệnh như: Quyết định số 92/QĐ-TTg ngày 9/1/2013 của Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt Đề án Giảm tải bệnh viện giai đoạn 2013-2020; Quyết định số
1208/QĐ-TTg QĐ của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia Y
tế giai đoạn 2012-2015 trong đó có các bệnh không lây nhiễm; Thông tư liên tịch số
18/TTLT-BYT-BGTVT ngày 05/11/2012 của liên Bộ Y tế – Bộ Giao thông vận tải Quy
định tiêu chuẩn sức khoẻ của nhân viên hàng không và cơ sở y tế giám định sức khoẻ cho
nhân viên hàng không; Thông tư số 13/2012/TT-BYT ngày 20/8/2012 của Bộ Y tế hướng
dẫn công tác gây mê - hồi sức; Thông tư số 10/2012/TT-BYT ngày 08/6/2012 sửa đổi, bổ
sung một số điều của Thông tư số 31/2011/TT-BYT hướng dẫn Danh mục thuốc chủ yếu
sử dụng tại các cơ sở khám, chữa bệnh được quỹ bảo hiểm y tế thanh toán; Chỉ thị số 05
ngày 10/9/2012 của Bộ trưởng Bộ Y tế về tăng cường thực hiện các giải pháp nâng cao
chất lượng khám bệnh, chữa bệnh sau khi điều chỉnh giá dịch vụ y tế; Quyết định số
1548/QĐ-BYT ngày 10/5/2012 hướng dẫn chẩn đoán và điều trị ngộ độc chì; Quyết định

7


số 1454/QĐ-BYT ngày 04/5/2012 Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị Hội chứng viêm da
dày sừng bàn tay, bàn chân, tại tỉnh Quảng Ngãi; và nhiều văn bản khác.
Bộ Y tế cũng đang tiến hành xây dựng một số Thông tư trong lĩnh vực khám bệnh,

chữa bệnh như: Thông tư quy định thủ tục, thời gian đình chỉ một phần hoặc toàn bộ hoạt
động chuyên môn của người hành nghề; Thông tư quy định thủ tục thu hồi giấy phép hoạt
động; thời gian đình chỉ một phần hoặc toàn bộ hoạt động chuyên môn của của cơ sở
khám bệnh, chữa bệnh; Thông tư hướng dẫn về điều kiện, hồ sơ, thủ tục đề nghị và thẩm
quyền cho phép cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước tổ chức khám bệnh, chữa bệnh nhân
đạo hoặc chuyển giao kỹ thuật chuyên môn về khám bệnh, chữa bệnh hoặc hợp tác đào tạo
về y khoa có thực hành khám bệnh, chữa bệnh; Thông tư quy định hệ thống cấp cứu chấn
thương trước viện; Thông tư quy định điều kiện, thủ tục cho phép áp dụng kỹ thuật,
phương pháp mới trong khám bệnh, chữa bệnh; Thông tư ban hành hướng dẫn phân loại
phẫu thuật, thủ thuật được hưởng phụ cấp (Thay thế Quyết định số 2390/QĐ-BYT);
Thông tư quy định danh mục bệnh cần chữa trị dài ngày và Quyết định của Bộ trưởng Bộ
Y tế phê duyệt Đề án Bệnh viện vệ tinh, Đề án Bác sĩ gia đình thực hiện Quyết định số
92/QĐ-TTg ngày 9/01/2013 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án giảm quá tải BV
giai đoạn 2013-2020.
Đặc biệt, thực hiện Thông tư liên tịch số 04/2011/TTLT-BYT-BTC ngày
29/02/2012 về giá dịch vụ y tế, Bộ Y tế đã tổ chức 2 hội nghị quan trọng hướng dẫn và chỉ
đạo các đơn vị, địa phương triển khai các giải pháp nâng cao chất lượng dịch vụ y tế gắn
với đổi mới giá dịch vụ.
Tập trung cao các giải pháp chống quá tải bệnh viện, giảm dần tình trạng nằm ghép
(Đề án giảm quá tải bệnh viện giai đoạn 2013 – 2020 được Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt tại Quyết định số 92/QĐ-TTg ngày 09/01/2013), thông qua thực hiện Đề án đầu tư
tăng giường bệnh các tuyến, xây dựng bệnh viện vệ tinh và Đề án 1816. Tình trạng quá tải
tại nhiều BV đã được cải thiện bước đầu nhờ việc đưa vào hoạt động thêm nhiều cơ sở y
tế mới. Từ đầu năm đến nay, Bộ Y tế đã đưa vào sử dụng 150 giường tại BV Bạch Mai,
300 giường tại BV K, 500 giường tại BVĐK TW Quảng Nam, mở cơ sở 2 của BV Nội
tiết, khởi công xây dựng Trung tâm Ung bướu - Bệnh viện Chợ Rẫy. Để việc điều chỉnh
giá dịch vụ y tế đi đôi với nâng cao chất lượng KCB, Bộ Y tế đã tập trung nguồn vốn ngân
sách, vốn trái phiếu Chính phủ, vốn vay, vốn xã hội hóa... đầu tư cho một số BV trọng
điểm. Đồng thời, chỉ đạo các BV khẩn trương đẩy nhanh tiến độ để hoàn thành tiếp 100
giường của BV Bạch Mai, các dự án vay vốn của BV Việt Đức, BV Tai - mũi - họng TW,

BV Phụ sản TW... Thông qua đề án đầu tư trái phiếu Chính phủ cho tuyến tỉnh, huyện, số
giường bệnh đưa vào sử dụng đã tăng đáng kể.
Đề án 1816 (cử cán bộ y tế tuyến trên về hỗ trợ tuyến dưới). Trong năm đã có 61
BV TW cử 866 lượt cán bộ luân phiên; 68 BV tỉnh cử 395 lượt hỗ trợ cho 136 BV huyện.
168 BV huyện cử 1169 lượt hỗ trợ tuyến xã với tổng số 6.676 kỹ thuật được chuyển giao.
Cán bộ y tế đã luân phiên khám, điều trị cho hơn 1,1 triệu lượt bệnh nhân, trực tiếp thực
hiện 23.365 ca phẫu thuật góp phần làm giảm tỷ lệ chuyển tuyến không phù hợp. Tiếp đến
cần xây dựng mạng lưới bệnh viện vệ tinh cho các bệnh viện lớn ở khu vực phía nam và
miền trung.

8


Nhìn chung tình trạng quá tải, nằm ghép ở các bệnh viện tuyến TW và BV Hà Nội,
Tp. Hồ Chí Minh tuy đã giảm nhiều song vẫn còn ở mức cao, đặc biệt ở các chuyên khoa
Ung bướu, Ngoại - Chấn thương, tim mạch, sản nhi. Tác động không mong muốn của một
số chính sách (xã hội hóa, tự chủ, phân bổ ngân sách, bảo hiểm y tế...) và tâm lý lựa chọn
dịch vụ khám chữa bệnh của người dân cũng góp phần gây ra quá tải tại một số bệnh viện
tuyến trên.
Tiếp tục triển khai các biện pháp nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh, chăm sóc
người bệnh toàn diện thông qua việc thực hiện Chỉ thị 06; Chương trình 527-CTr-BYT về
nâng cao chất lượng dịch vụ KCB, đáp ứng sự hài lòng của người bệnh tham gia BHYT,
đặc biệt lưu ý đến việc chống lạm dụng dịch vụ y tế và lạm dụng thuốc; Chỉ thị 05/CTBYT ngày 10/9/2012 về việc tăng cường thực hiện các giải pháp nâng cao chất lượng
khám bệnh, chữa bệnh sau khi điều chỉnh giá dịch vụ y tế. Bộ Y tế tập trung xây dựng tiêu
chuẩn, quy chuẩn quản lý chất lượng khám, chữa bệnh; Kiểm định chất lượng bệnh viện
theo hướng xây dựng đơn vị kiểm định độc lập về chất lượng khám, chữa bệnh; Tổ chức,
hướng dẫn thực hiện cấp chứng chỉ hành nghề đối với người hành nghề đang tham gia
khám bệnh, chữa bệnh ở các cơ sở KCB của Nhà nước; Mở rộng triển khai các mô hình
chăm sóc người bệnh toàn diện; Tăng cường nhân lực y tế, đảm bảo tỷ lệ điều dưỡng/bác
sỹ theo Thông tư 08; Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát hoạt động khám, chữa bệnh

của các cơ sở y tế, quản lý hành nghề y ngoài công lập. Chất lượng dịch vụ khám chữa
bệnh đã được cải thiện ở tất cả các tuyến. Ứng dụng kỹ thuật cao trong chẩn đoán và điều
trị tiếp tục được đẩy mạnh, một số lĩnh vực ngang tầm các nước tiên tiến trong khu vực
như ghép tạng, phẫu thuật tim hở, can thiệp tim mạch, tách dính, hỗ trợ sinh sản, chẩn
đoán hình ảnh.... Ca ghép gan người lớn đầu tiên đã thực hiện thành công tại BV Chợ Rãy
(Trước đó, có 2 BV Hà Nội đã ghép gan cho 6 người lớn và BV Nhi T.Ư (Hà Nội) cùng
BV Nhi đồng 2 TP.HCM đã ghép gan cho 17 bệnh nhi). Đặc biệt Viện tim mạch quốc gia
đã áp dụng phương pháp “phẫu thuật không kháng sinh“ đạt hiệu quả cao (chỉ dùng 3g
kháng sinh dự phòng và không dùng kháng sinh sau phẫu thuật), giảm được khá nhiều chi
phí cho người bệnh.
Tăng cường chỉ đạo các hoạt động phòng chống bệnh không lây nhiễm, Bộ Y tế đã
ban hành hướng dẫn chẩn đoán và điều trị bệnh hô hấp, Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị
bệnh tim mạch; Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị bệnh tâm thần; Hướng dẫn chẩn đoán và
điều trị bệnh ung thư gan nguyên phát; Nghiệm thu đề tài cấp Bộ về nghiên cứu các yếu tố
nguy cơ của một số bệnh không lây nhiễm tại Việt Nam, đã tạo được cơ sở dữ liệu về thực
trạng các hành vi nguy cơ bệnh không lây nhiễm, xác định định được tỷ lệ hiện mắc thừa
cân, béo phì, tăng huyết áp và các thông số liên quan; tỷ lệ tăng đường máu, rối loạn lipid
máu và các thông số liên quan của quốc gia, theo Vùng sinh thái.
Xây dựng và hoàn thiện Kế hoạch quốc gia tăng cường công tác Điều dưỡng - Hộ
sinh giai đoạn 2012-2020. Xây dựng các tài liệu hướng dẫn chuyên môn đối với các địa
phương: Cẩm nang chẩn đoán và điều trị bệnh tay chân miệng ở trẻ em; Phòng ngừa
nhiễm khuẩn vết mổ; Phòng ngừa viêm phổi liên quan đến thở máy; Phòng ngừa nhiễm
khuẩn máu liên quan đến đặt catheter tĩnh mạch; Tiêm an toàn; Vô khuẩn, khử khuẩn;
Phòng ngừa chuẩn…

9


Các hoạt động khác như phục hồi chức năng, giám định y khoa, giám định pháp y,
giám định pháp y tâm thần.. tiếp tục phát triển, đáp ứng nhu cầu trong tình hình mới.

Công tác khắc phục hậu quả chất độc hóa học/dioxin lên sức khỏe con người: sửa
đổi, bổ sung và hướng dẫn chẩn đoán bệnh, tật, dị dạng, dị tật có liên quan đến phơi nhiễm
với chất độc hoá học/dioxin. Bộ trưởng Bộ Y tế đã ký Quyết định số 1488/QĐ-BYT ngày
04/5/2012.
Về Quản lý hành nghề y tư nhân: Trong năm đã thẩm định cấp giấy phép hoạt động
tạm thời cho 4 bệnh viện: Bệnh viện đa khoa Vạn Phúc, Bình Dương; Bệnh viện đa khoa
Phúc Lâm, Hưng Yên; Bệnh viện chuyên khoa Mắt Quốc tế - DND; Bệnh viện đa khoa
Minh Đức, Bến Tre. Bổ sung phạm vi hoạt động chuyên môn đối với các bệnh viện: Bổ
sung phòng khám chuyên khoa mắt đối với Bệnh viện đa khoa Hồng Phúc, Hải Phòng; Bổ
sung khoa nhi, phạm vi hoạt động chuyên môn khoa ngoại - sản đối với Bệnh viện đa
khoa Hồng Đức, Hải Phòng; Bổ sung khoa lọc máu, CT - Scanner, MRI đối với Bệnh viện
đa khoa Hồng Đức, Tp. Hồ Chí Minh; Bổ sung khoa ngoại nhi đối với Bệnh viện phụ sản
quốc tế Hạnh Phúc, Bình Dương. Nhất trí chủ trương thành lập 05 bệnh viện tư nhân. Tổ
chức hội nghị, hội thảo hướng dẫn việc cấp phép, cấp chứng chỉ hành nghề theo Luật
Khám bệnh, chữa bệnh, Nghị định 87 và Thông tư số 41 và đã cấp chứng chỉ cho hơn
1000 người hành nghề.
- Chỉ đạo kịp thời các Sở Y tế tiến hành kiểm tra công tác quản lý hành nghề y tư
nhân để xử lý một số vụ việc liên quan đến hành nghề y tư nhân như: phòng khám Maria,
quản lý người nước ngoài hành nghề y tại Việt Nam và một số cơ sở y tế đã được báo chí
đưa tin.
- Để quản lý tốt việc cấp chứng chỉ hành nghề y, Bộ Y tế đã tiến hành xây dựng hệ
thống phần mềm trực tuyến về quản lý, tiến tới ứng dụng người hành nghề đăng ký cấp
chứng chỉ hành nghề qua mạng.
d. Y dược cổ truyền
Hệ thống KCB bằng YHCT đã được hình thành và phát triển ở cả 4 cấp: (TWTỉnh-Huyện và Xã). Hiện nay cả nước có 58 Bệnh viện YHCT, trong đó 2 BV TW, 2 BV
Bộ, Ngành và 01 BV thuộc học viện YDHCT Việt an và 53 BV YHCT tỉnh.
(10 tỉnh hiện nay chưa có bệnh viện: An Giang, Bà rịa - Vũng tàu, Bạc Liêu, Bắc
Cạn, Quảng Trị, Quảng Ngãi, Sóc Trăng, Hậu Giang, Đắc Nông, Cà Mau).
Ngoài ra còn có các khoa YHCT trong các bệnh viện đa khoa tuyến tỉnh
- Tuyến huyện 90% các BV YHHĐ có khoa hoặc tổ.

- Hoạt động khám chữa bệnh bằng YDCT tại trạm y tế xã đạt 85%
Hệ thống YDCT ngoài công lập đã có những đóng góp tích cực vào sự nghiệp CS,
bảo vệ SKND. Trung bình một cơ sở KCB bằng YDCT ngoài công lập mỗi năm khám
chữa bệnh cho khoảng gần 2.000 lượt người bệnh đã góp phần đáng kể làm giảm sự quá
tải cho các cơ sở YDCT công lập. hệ thống KCB ngoài công lập hiện nay chủ yếu vẫn là

10


phòng chẩn trị, số lượng bệnh viện YHCT còn ít (cả nước có 3 bệnh viện YHCT tư nhân:
Nam Á, Trường Giang, Lan Q) và hơn 10.000 cơ sở hành nghề YDCT tư nhân
Tỷ lệ khám bệnh bằng YHCT so với tổng KCB chung của từng tuyến đã có bước
cải thiện đáng kể, tuy chưa chiến tỷ trọng cao trong tổng số lượt KCB chung, cụ thể: tuyến
tỉnh là 8,8%; tuyến huyện 9,1% và tuyến xã là 24,6%. Tỷ lệ điều trị nội trú bằng YHCT
kết hợp YHCT với YHHĐ so với tổng chung cũng đạt mức 8,6% ở tuyến tỉnh và 17,1% ở
tuyến huyện. Tỷ lệ điều trị ngoại trú bằng YHCT so với tổng điều trị ngoại trú chung có
khả quan hơn ở tuyến tỉnh (12,6%) và tuyến xã (25,9%). Riêng tuyến huyện có phần hạn
chế hơn (8,1%).
Công tác nghiên cứu khoa học, kế thừa và ứng dụng những phương pháp hay, bài
thuốc tốt đã được chú trọng tăng cường. Cục QL YDCT cũng đã triển khai thực hiện xong
02 đề tài và đã được nghiệm thu: Điều tra thực trạng tình hình cung ứng - sử dụng dược
liệu, thuốc Đông y, thuốc từ Dược liệu trong bệnh viện y dược cổ truyền; Đánh giá thực
trạng và đề xuất giải pháp xử lý chất thải tại các bệnh viện YHCT
đ. Y tế cơ sở
Y tế cơ sở là nền tảng của y tế Việt Nam, góp phần quan trọng trong những thành
quả về CSSK của Việt Nam trong những năm qua do đó y tế cơ sở luôn được quan tâm
củng cố, hoàn thiện và ổn định mạng lưới YTCS; công tác đầu tư cho y tế cơ sở đã được
quan tâm một cách toàn diện về nhân lực, cơ sở, trang thiết bị và kinh phí chi thường
xuyên để đảm bảo cho YTCS có điều kiện để hoạt động nhằm góp phần để mọi người dân,
trong đó có các đối tượng chính sách và người nghèo đều được chăm sóc sức khoẻ; công

tác CSSKBĐ đã bước đầu được đổi mới, mở rộng dịch vụ y tế cho tuyến xã, thí điểm thực
hiện quản lý một số bệnh mạn tính như hen, tăng huyết áp, đái đường tại cộng đồng, góp
phần giảm tải cho tuyến trên. Bộ Y tế đã tiến hành tổng kết đánh giá 10 năm thực hiện Chỉ
thị 06-CT/TW ngày 22/01/2002 của Ban Chấp hành Trung ương về củng cố và hoàn thiện
mạng lưới y tế cơ sở. Đến nay tỷ lệ TYT xã có bác sỹ đạt 72%, tỷ lệ TYT xã có
NHS/YSSN đạt trên 95%, Tỷ lệ thôn bản có nhân viên y tế hoạt động đạt trên 86%;
khoảng 78,8% TYT xã đã thực hiện KCB bằng BHYT.
Từ nguồn vốn đầu tư trái phiếu Chính phủ và hỗ trợ có mục tiêu từ nguồn NSNN,
đến nay có trên 145 bệnh viện huyện, 46 phòng khám đa khoa khu vực đã hoàn thành đưa
vào sử dụng. Các bệnh viện huyện còn lại cũng đã hoàn thành được một số hạng mục công
trình như khu khám bệnh, nhà điều trị, khu xử lý chất thải, khu kỹ thuật…, mua sắm được
một số trang thiết bị cần thiết theo quy định của Bộ Y tế cho các bệnh viện tuyến huyện
như máy siêu âm, X-quang, máy thở, monitor, bàn mổ, các bộ dụng cụ mổ, máy xét
nghiệm sinh hóa, huyết học, giường, tủ, bàn, ghế…
Bộ Y tế đang trình Chính phủ đề án đầu tư cho y tế xã, y tế dự phòng huyện và
được lồng ghép trong chương trình Xây dựng nông thôn mới, phát triển y tế nông thôn và
chương trình kết hợp chính sách giữa Bộ Y tế và Ủy ban dân tộc (Bộ Y tế và UBDT đã ký
Thỏa thuận thực hiện), trong đó bao gồm một số chính sách ưu tiên đầu tư cho vùng khó
khăn, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số

11


Chương trình quân dân y kết hợp cũng đã đầu tư cho các cơ sở y tế quân dân y như
nâng cấp về nhà trạm, bổ sung trang thiết bị y tế cho 171 trạm y tế khu vực biên giới, vùng
sâu, vùng xa, vùng trọng điềm quốc phòng an ninh; hỗ trợ kinh phí đầu tư trang bị y tế cho
05 điểm sáng y tế KHQDY tại đảo Lý Sơn, đảo Phú Quốc, Gia Lai, Đắc Nông, khu ATK
Thái Nguyên; phối hợp với Bộ Quốc phòng thành lập 08 Bệnh viện quân dân y; một số địa
phương thành lập Phòng khám đa khoa quân dân y, bệnh viện quân dân y tuyến huyện
(Bình Tân – Vĩnh Long, Lý Sơn - Quảng Ngãi, Côn Đảo BR-VT, Phú Quý – Bình Thuận,

78- Phú Quốc); đổi tên 38 bệnh xá quân y thành bệnh xá quân dân y. Ngoài ra còn đào tạo
bổ sung kiến thức về Sản-Nhi- Y tế công cộng cho 167 quân y sỹ Biên phòng đang công
tác tại các đồn biên phòng biên và hàng trăm chiến sỹ hết hạn nghĩa vụ quân sự và trở
thành y tá thôn bản.
e. Chăm sóc sức khỏe bà mẹ-trẻ em
Công tác Chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em được đặc biệt quan tâm khi Việt nam
còn gặp nhiều khó khăn để hoàn thành Mục tiêu thiên niên kỷ vào năm 2015, đặc biệt là
giảm tỷ suất tử vong mẹ và tình hình diễn biến phức tạp về một số trường hợp tai biến sản
khoa, gây tử vong mẹ và trẻ sơ sinh trong những tháng gần đây tại một số địa phương, đơn
vị mà dư luận quan tâm. Tuy nhiên trên phương diện tổng thể, nhiều hoạt động Chăm sóc
sức khỏe bà mẹ, trẻ em trong năm 2012 đã được triển khai kịp thời, trong đó công tác xây
dựng văn bản quy phạm pháp luật được chú trọng; công tác thanh tra, kiểm tra được đẩy
mạnh. Kết quả cụ thể ngành đã đạt được trong năm 2012:
Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 226/QĐ-TTg ngày 22/2/2012 phê
duyệt Chiến lược quốc gia về Dinh dưỡng giai đoạn 2011-2020 và tầm nhìn đến năm
2030. Bộ Y tế đã xây dựng dự thảo Nghị định của Chính phủ thay thế Nghị định 21 về
kinh doanh, sử dụng các sản phẩm thay thế nuôi dưỡng trẻ nhỏ; ban hành Thông tư số
12/2012/TT-BYT ngày 05/7/2012 hướng dẫn quy trình thụ tinh nhân tạo và thụ tinh trong
ống nghiệm. Tiếp tục hoàn thiện Thông tư về sinh con theo phương pháp khoa học; Thông
tư quy định về việc ban hành và hướng dẫn ghi chép, phát hành biểu mẫu giấy chứng sinh;
Thông tư quy định danh mục chuyên môn kỹ thuật trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe sinh
sản (CSSKSS) tại các tuyến y tế; Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về chính sách hỗ
trợ chăm sóc sức khỏe phụ nữ vùng sâu, vùng xa là người dân tộc thiểu số...
Các kế hoạch, đề án quan trọng đã được xây dựng như “Kế hoạch hành động quốc
gia về CSSKSS tập trung vào làm mẹ an toàn và chăm sóc sơ sinh giai đoạn 2011-2015”;
tiếp tục hoàn thiện Đề án “Quy hoạch phát triển mạng lưới khám bệnh, chữa bệnh chuyên
ngành sản phụ khoa và nhi khoa đến năm 2020”; Kế hoạch hành động quốc gia về Nuôi
dưỡng trẻ nhỏ; phối hợp cùng Viện Dinh dưỡng hoàn thiện Kế hoạch hành động quốc gia
về Dinh dưỡng giai đoạn 2011-2015.
Về các tài liệu hướng dẫn chuyên môn: Bộ đã ban hành Quyết định số 2847/QĐBYT ngày 15/8/2012 phê duyệt chương trình và tài liệu đào tạo cô đỡ thôn bản; tiếp tục

hoàn thiện Hướng dẫn quốc gia về liên kết dịch vụ CSSKSS, chống nhiễm khuẩn lây qua
đường tình dục, HIV; tiêu chí Quốc gia đối với các Trung tâm CSSKSS; bổ sung bộ chỉ số

12


lồng ghép về dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con vào hệ thống mẫu biểu báo cáo của
hệ CSSKSS; xây dựng bộ chỉ số theo dõi, đánh giá thực hiện Chiến lược DS/SKSS; rà
soát các tài liệu và xây dựng dự thảo Hướng dẫn quốc gia về chăm sóc trẻ phơi nhiễm và
bị nhiễm HIV.
Chỉ đạo các Sở Y tế, các bệnh viện đầu ngành về sản khoa tăng cường công tác
kiểm tra, giám sát, hỗ trợ chuyên môn cho tuyến dưới kể cả các phòng khám tư nhân nhằm
nâng cao chất lượng dịch vụ, hạn chế tai biến sản khoa, giảm tử vong mẹ, tử vong sơ sinh.
Phối hợp với BVPSTU, BV Từ Dũ tổ chức đào tạo lại cho các bác sỹ làm công tác sản
khoa tại các các cơ sở có dịch vụ đỡ đẻ trong toàn quốc về hồi sức, cấp cứu sản khoa, sơ
sinh; Tăng cường công tác giám sát kiểm tra các cơ sở CSSKBMTE. Ngoài ra, Bộ Y tế và
các tỉnh cũng đã tích cực triển khai các hoạt động trong khuôn khổ Dự án mục tiêu Quốc
gia về CSSKSS.
Về công tác điều hành chỉ đạo, giám sát, năm 2012: Sau khi có các trường hợp tai
biến sản khoa dẫn tới tử vong mẹ (TVM), tử vong sơ sinh (TVSS), Bộ Y tế đã ban hành
nhiều văn bản chỉ đạo, đôn đốc các tỉnh, thành phố tăng cường công tác giám sát, chỉ đạo
tuyến các cơ sở sản khoa, nhi khoa nhằm hạn chế tai biến sản khoa, giảm TVM và TVSS.
Bộ cũng đã có báo cáo Văn phòng Chính phủ, Ủy ban Các vấn đề xã hội của Quốc hội và
Tờ trình Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân về tình hình TVM, TVSS trong thời gian gần
đây và đã nhận được ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng, Bộ Y tế đã nghiêm túc quán triệt
và đã có văn bản gửi UBND các tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương đề nghị chỉ đạo các
Sở Y tế triển khai đồng bộ các biện pháp dự phòng tai biến sản khoa, giảm TVM, TVSS.
Một số kết quả trong công tác chăm sóc sức khỏe bà mẹ:
T
T

1
2

3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13

Chỉ số
Tỷ lệ % phụ nữ có thai được quản lý
thai
Tỷ lệ % phụ nữ đẻ được khám thai ≥ 3
lần trong 3 thời kỳ
Tỷ lệ % đẻ do CBYT đỡ
Tỷ lệ % bà mẹ được khám sau đẻ
Tỷ lệ % bà mẹ được khám tuần đầu
sau đẻ
Tỷ số phá thai (trên 100 ca đẻ sống)
Số mắc tai biến sản khoa (9 tháng đầu
năm)
Tỷ suất mắc tai biến sản khoa/1000 ca
đẻ
Số ca TVM do 5 tai biến sản khoa 9

tháng đầu năm 2012 (theo báo cáo)
Tỷ lệ % SDD TE< 5 tuổi cân nặng/tuổi
Tỷ lệ % SDD TE< 5 tuổi chiều
cao/tuổi
Tỷ số TVM/ 100.000 trẻ đẻ sống
Tỷ suất tử vong TE < 1T

2010

2011

2012

Nhận
xét

95,0%

96,2%

96,4%

Tăng

81,9%

86,5%

87,4%


Tăng

95,7%
92,5%

97,4%
92,6%

97,7%
92,6%

Tăng
Tăng

81,9%

82,6%

83,1%

Tăng

0,28

0,27

0,19

Giảm


2,811

3,191

4,270

Tăng

2,8/1000

2,7/1000

2,8/1000

Tăng
nhẹ

85

69

86

Tăng

17,5%

16,8%

29,3%


27,5%

68
16%o (Tổng điều
tra DS 2009)

66
15,5%o (ĐT BĐ
DS 1/4/2011)

16,3%(ước thực
hiện)
26,5% (ước
thực hiện)
64
15.8%o
(ĐT BĐ DS

Giảm
Giảm
Giảm
Tăng
nhẹ

13


14


Tỷ suất tử vong TE < 5T

25,5%o (BYT
2008)

23,3%o (ĐT BĐ
DS 1/4/2011)

1/4/2012)
23.8%o
(ĐT BĐ DS
1/4/2012)

Tăng
nhẹ

f) Dân số-Kế hoạch hóa gia đình
Ngay từ đầu năm 2012, Bộ Y tế, Tổng cục DS-KHHGĐ đã chỉ đạo quyết liệt và
chủ động hướng dẫn Sở Y tế, Chi cục DS-KHHGĐ các tỉnh triển khai các hoạt động nhằm
đạt được các mục tiêu, chỉ tiêu kế hoạch năm 2012. Bộ Y tế có hướng dẫn số 1322/BYTTCDS ngày 14/3/201; Tổng cục DS-KHHGĐ có công văn số 254/TCDS-KHTC ngày
17/5/2012 và nhiều văn bản hướng dẫn khác.
Năm 2012, do việc giao dự toán ngân sách trung ương thực hiện Chương trình mục
tiêu quốc gia DS-KHHGĐ chậm hơn so với những năm trước đây (tháng 5 năm 2012
Chính phủ mới giao và đến tháng 8 năm 2012 dự toán mới về đến kho bạc nơi giao dịch
để triển khai giải ngân thực hiện hoạt động). Theo hướng dẫn của Bộ Y tế, các địa phương
đã chủ động tạm ứng trước kinh phí để triển khai hoạt động, nên kế hoạch tiếp tục được
triển khai, không bị gián đoạn.
Tuy nhiên, kết quả thực hiện các chỉ tiêu, nhiệm vụ kế hoạch năm 2012 về DSKHHGĐ và ở mức thấp so với các năm kể từ năm 2006 đến nay. Ước tính năm 2012, mức
giảm tỷ lệ sinh đạt 0,1‰, đạt kế hoạch đề ra. Tỉ số giới tính khi sinh là 112,3; tốc độ tăng tỷ
số giới tính khi sinh năm 2012 so với năm 2011 chỉ còn 0,4 điểm phần trăm (năm 2011 so

với năm 2010 là 0,7 điểm phần trăm). Số bà mẹ được sàng lọc trước sinh và số trẻ được
sàng lọc sơ sinh đạt 150% kế hoạch năm 2012. Tổng số người mới sử dụng các biện pháp
tránh thai đạt 100% kế hoạch, tuy nhiên so với cùng kỳ ở nhiều tỉnh các biện pháp tránh
thai lâm sàng như triệt sản, đặt vòng tránh thai, cấy thuốc tránh thai kết quả thực hiện chưa
được như mong đợi.
Năm 2012, ngành DS-KHHGĐ đã thực hiện cung cấp đầy đủ, kịp thời các phương
tiện tránh thai, dịch vụ KHHGĐ theo tiến độ kế hoạch. Tổ chức các đợt chiến dịch truyền
thông lồng ghép với cung cấp dịch vụ kế hoạch hóa gia đình đến vùng sâu vùng xa vùng
khó khăn.
Hoạt động sàng lọc trước sinh và sơ sinh để phát hiện sớm các dị tật, bệnh bẩm sinh
tiếp dục duy trì 50/63 tỉnh với sự chỉ đạo kỹ thuật của 03 Trung tâm khu vực. Các địa
phương đã chủ động bổ sung hàng tỷ đồng để mở rộng địa bàn, và đối tượng tham gia như
Long An, Hà Nội, Bà rịa Vũng tàu…
Hoạt động Tư vấn và khám sức khỏe tiền hôn nhân, can thiệp làm giảm tỷ lệ mắc
bệnh tan máu bẩm sinh, can thiệp làm giảm tỷ lệ tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống của
đồng bào dân tộc tiếp tục được duy trì. Thí điểm tư vấn và chăm sóc người cao tuổi dựa
vào cộng đồng tại một số tỉnh. Triển khai can thiệp các hoạt động kiểm soát mất cân bằng
giới tính khi sinh trên toàn quốc, nhất là tại 10 tỉnh trọng điểm.
Các hoạt động truyền thông tiếp tục duy trì trên các phương tiện thông tin đại chúng
và trực tiếp tại cộng đồng với nhiều nội dung, hình thức phong phú, tập trung vào các vấn
đề ưu tiên của Chiến lược DS-SKSS Việt Nam giai đoạn 2011-2020. Triển khai Chương
trình phối hợp giai đoạn 2012-2015 với 10 ngành, đoàn thể và 03 cơ quan truyền thông
Trung ương. Báo Gia đình & Xã hội

14


Rà soát số liệu thống kê chuyên ngành DS-KHHGĐ của các tỉnh/thành phố, phục vụ
việc tổng hợp số liệu tại cấp TW. Tổng hợp, phân tích và lập báo cáo thống kê chuyên
ngành phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành. Hỗ trợ kỹ thuật trực tiếp và từ xa cho cấp tỉnh,

cấp huyện trong việc rà soát, kiểm tra CSDL và đồng bộ CSDL tại Kho dữ liệu điện tử các
cấp.
Cấp tỉnh, có 63/63 tỉnh đã kiện toàn và từng bước ổn định Chi cục DS-KHHGĐ cấp
tỉnh theo đúng hướng dẫn tại Thông tư số 05/2008/TT-BYT. Có 7 tỉnh thành lập và duy trì
hoạt động của Trung tâm Tư vấn, dịch vụ DS-KHHGĐ là đơn vị sự nghiệp trực thuộc Chi
cục DS-KHHGĐ với 45 biên chế.
Cấp huyện, có 62/63 tỉnh thành lập Trung tâm DS-KHHGĐ cấp huyện. Các Trung
tâm đã từng bước triển khai chức năng, nhiệm vụ được giao. Một số tỉnh, có mô hình tổ
chức khác với hướng dẫn tại Thông tư số 05/2008/TT-BYT.
Cấp xã, đa số làm việc tại Trạm Y tế xã theo hướng dẫn của Bộ Y tế. Cán bộ DSKHHGĐ xã là viên chức của Trung tâm DS-KHHGĐ cấp huyện, làm việc tại UBND xã
gồm Hà Nội, Hà Nam, Hưng Yên, Thái Bình, Bạc Liêu, Gia Lai, Đắk Nông, Đà Nẵng..
Có 46/63 tỉnh đã giao 7176 chỉ tiêu biên chế sự nghiệp làm công tác DS-KHHĐ
cấp xã trong đó số đã được tuyển dụng là 4.429 người; có 3.255 viên chức đã được hưởng
chế độ phụ cấp ưu đãi nghề theo Nghị định số 56/2011/NĐ-CP, Thông tư liên tịch số
02/2012/TTLT-BYT-BTC-BNV.
Cả nước có 174.208 cộng tác viên DS-KHHGĐ đang tham gia công tác DSKHHGĐ tại tổ dân phố, thôn, ấp, phum, sóc, bản làng.
g. An toàn vệ sinh thực phẩm
Trước những diễn biến phức tạp của vấn đề an toàn thực phẩm (ATTP), nguy cơ
dẫn đến ngộ độc thực phẩm (NĐTP), ngay từ đầu năm 2012, Bộ Y tế đã sớm ban hành văn
bản hướng dẫn các địa phương trong toàn quốc tăng cường công tác phòng chống NĐTP,
bệnh truyền qua thực phẩm mùa Xuân - Hè, đảm bảo an toàn trong Lễ hội. Đã xây dựng
một chương trình giám sát chủ động nhằm phát hiện các mối nguy từ các nhóm thực phẩm
khác nhau; tổ chức các đoàn công tác tăng cường kiểm tra, giám sát hoạt động phòng
chống NĐTP của các địa phương trọng điểm như thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai,
Tuyên Quang, Hà Nam, Bắc Ninh, Hưng Yên, Nam Định, Bắc Kạn, rà soát, bổ sung các
hoạt động quản lý chỉ đạo và chuyên môn trong phòng chống NĐTP của các địa phương;
tổ chức truyền thông, giáo dục và các lớp tập huấn nâng cao kỹ năng giám sát và điều tra
NĐTP cho các tuyến; tổ chức các hội thảo chuyên đề đề xuất các giải pháp của từng địa
phương nhằm ngăn chặn những nguy cơ gây ngộ độc như Hội thảo phòng chống ngộ độc
thực phẩm tại khu công nghiệp và khu chế xuất (tại Bình Dương với 105 đại biểu tham

dự); Hội thảo phòng chống ngộ độc rượu và tác hại do lạm dụng rượu (tại Quảng Bình với
124 đại biểu tham dự)...
Việc chủ động giám sát mối nguy ô nhiễm thực phẩm được tiến hành thường
xuyên. Theo kết quả giám sát của các Bộ, ngành Trung ương tại 31 tỉnh, thành phố cho
thấy 503/2284 (22,0%) mẫu rượu, ô mai, xí muội, thịt lợn, rau quả tươi, ớt bột, thực phẩm

15


chức năng, sữa bột bổ sung vi chất không đạt yêu cầu về ATTP. Các mẫu giám sát có kết
quả vi phạm các chỉ tiêu an toàn thực phẩm đã được Cục An toàn thực phẩm cảnh báo và
xử lý: thực hiện lấy mẫu thanh tra, kiểm nghiệm an toàn sản phẩm đã được chỉ điểm từ
giám sát và xử lý đối với sản phẩm thuộc Bộ Y tế quản lý; ban hành công văn cảnh báo
đối với Bộ Nông Nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công Thương và các địa phương liên
quan đề nghị thanh tra, kiểm tra xử lý đối với các sản phẩm thuộc Bộ ngành quản lý nhằm
bảo đảm an toàn thực phẩm cho cộng đồng; phối hợp với các Bộ ngành chức năng thực
hiện mở rộng giám sát đề đánh giá mức độ ảnh hưởng của sản phẩm trên thị trường và
phối hợp xử lý.
Tại địa phương, theo số liệu báo cáo của 48 tỉnh/thành phố, đã giám sát được
12.295 mẫu, kết quả cho thấy thực phẩm ô nhiễm vi sinh vật chủ yếu là tổng số bào tử
nấm mốc men (40%), Coliforms (30,8%), E.Coli (20,2%). Về ô nhiễm hóa học, ngoài các
mẫu phát hiện có hàn the, độ ôi khét, vẫn còn có mẫu dương tính với DEHP. Tổ chức giám
sát, lấy mẫu kiểm nghiệm đối với thực phẩm có nguy cơ cao gây mất an toàn được vận
chuyển, nhập khẩu qua biên giới phía Bắc kể cả đường chính ngạch, tiểu ngạch tại Quảng
Ninh, Lạng Sơn, Hà Giang, Lào Cai. Kết quả: đã giám sát sự biến động loại thực phẩm có
nguy cơ trên thị trường biên giới, lấy và thử test nhanh tại 4 tỉnh là 2.694 mẫu, số mẫu
không đạt đã phát hiện là 26 mẫu (chiếm 0,7 %).
Từ kết quả giám sát này, ngành y tế đã kịp thời tham mưu cho lãnh đạo Ban chỉ đạo
liên ngành thành lập các đoàn thanh tra tiến hành thanh tra, kiểm tra các mặt hàng khi
giám sát sàng lọc có dấu hiệu bất thường hoặc không đảm bảo ATTP để xử lý vi phạm

(nếu có), yêu cầu cơ sở khắc phục và sớm đưa ra cảnh báo cho cộng đồng nhằm góp phần
tích cực trong công tác phòng ngừa nguy cơ tiềm ẩn gây ngộ độc thực phẩm, đồng thời
công khai thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Với những giải pháp đã tiến hành trên, tình hình ATTP tại bếp ăn tập thể bước đầu
đã có chuyển tiến tích cực. So với năm 2011, ngộ độc thực phẩm tại bếp ăn tập thể có xu
hướng giảm rõ rệt cả về số vụ, số mắc, số đi viện và số tử vong: số vụ NĐTP giảm 6 vụ
(20,7%), số mắc giảm 338 người (12,7%), số đi viện giảm 556 người (22,3%) và không
ghi nhận trường hợp tử vong. Tuy nhiên, nguy cơ vụ NĐTP có xu hướng diễn biến khá
phức tạp do NĐTP tại bếp ăn gia đình gia đình gia tăng cả về số vụ, số mắc, số tử vong số
vụ tăng 15 vụ (18,8%), số mắc tăng 643 người, số đi viện tăng 308 người và số tử vong
tăng 3 trường hợp. Số vụ NĐTP tại gia đình được ghi chép tăng do hệ thống giám sát về
NĐTP từ tuyến xã tới tuyến tỉnh/thành phố đã hoạt động có hiệu quả, giám sát và báo cáo
đầy đủ, kịp thời hơn kể cả vụ NĐTP có số mắc 2 – 3 người, không có tử vong. Tử vong do
rượu không có nguồn gốc, do nấm độc, do độc tố tự nhiên và độc tố bánh trôi ngô vẫn
chưa kiểm soát được triệt để, người tiêu dùng vẫn tiếp tục sử dụng thực phẩm không đảm
bảo an toàn.
Về Công tác kiểm nghiệm ATVSTP: Năm 2012, Bộ Y tế đã hỗ trợ xây dựng tiêu
chuẩn ISO 17025 cho 04 phòng thử nghiệm của TTYTDP Thái Bình, Bắc Giang, Hà Nam,
Hoà Bình. Như vậy đến hết năm 2012, tổng số phòng thử nghiệm cấp tỉnh đạt chuẩn ISO
17025 là 16 đơn vị. Ngoài ra còn hỗ trợ thêm về xây dựng tiêu chuẩn ISO 17025 cho một
số phòng thử nghiệm thuộc các tỉnh biên giới phía Bắc: Lào Cai, Lai Châu, Hà Giang,

16


Lạng Sơn, Cao Bằng. Xây dựng hệ thống chứng nhận hợp quy cho 02 đơn vị: Trung tâm
Ứng dụng khoa học kỹ thuật an toàn thực phẩm, Viện Kiểm nghiệm VSATTP quốc gia.
Song song với việc tăng cường công tác truyền thông, giáo dục, hoạt động thanh
tra, kiểm tra, hậu kiểm năm 2012 tiếp tục được đẩy mạnh. Ngay từ đầu năm, Ban Chỉ đạo
đã có Kế hoạch số 01/KH-BCĐTƯVSATTP ngày 06/01/2012 về triển công tác thanh tra,

hậu kiểm ATTP năm 2012.
Nhờ đẩy mạnh công tác thông tin, giáo dục, truyền thông đã tạo được sự chuyển
biến tích cực về kiến thức ATTP của các nhóm đối tượng, vượt chỉ tiêu đề ra trong năm
2012. Kết quả điều tra cho thấy: 76% người sản xuất, 73% người kinh doanh, 65,8% người
tiêu dùng thực phẩm, 94,8% nhóm đối tượng lãnh đạo quản lý nhà nước, 85,6% nhóm đối
tượng lãnh đạo quản lý doanh nghiệp hiểu biết đúng về ATTP và 65,9% người sản xuất,
63,3% người kinh doanh, 64,5% người tiêu dùng thực phẩm, 77% nhóm đối tượng lãnh đạo
quản lý nhà nước thực hành đúng về ATTP.
Theo số liệu báo cáo chưa đầy đủ của Trung ương và các địa phương, năm 2012 tính
đến tháng 11, cả nước có 23.805 Đoàn thanh tra, kiểm tra ATTP được tổ chức, trong đó:
Trung ương đã thành lập 18 đoàn thanh tra, kiểm tra, tiến hành thanh tra, kiểm tra tại các
tỉnh, thành phố trọng điểm có sự phối hợp của các ngành chức năng như Y tế, NNPTNT,
Công thương, Công An, Khoa học và Công nghệ... Các địa phương: Theo báo cáo chưa đầy
đủ của các địa phương, trong 11 tháng đầu năm 2012 tại các địa phương có 23.787 Đoàn
thanh tra, kiểm tra ATTP được thành lập từ tuyến tỉnh đến tuyến xã có sự phối hợp của các
ngành liên quan.
Kết quả: Tính đến tháng 11 năm 2012, đoàn thanh, kiểm tra của Trung ương và địa
phương đã tiến hành kiểm tra 563.171 cơ sở thực phẩm, phát hiện 119.489 cơ sở vi phạm
về ATTP chiếm 21,2 % (năm 2011 là 22,3%). So với cùng kỳ 2011, các đoàn kiểm tra đã
đã xử lý rất nghiêm đối với các cơ sở cố tình vi phạm đến ATTP như yêu cầu các cơ sở
tiêu hủy sản phẩm không bảo đảm ATTP (tăng từ 1,09% lên 1,39%), yêu cầu khắc phục về
nhãn sản phẩm (tăng từ 428 cơ sở lên 1.313 cơ sở), chuyển hồ sơ sang cơ quan chức năng
quản lý (tăng từ 348 trường hợp lên 608 trường hợp). Số mẫu được kiểm nghiệm tại labo
về các chỉ tiêu hóa lý, vi sinh là 38.441 mẫu, trong đó có 6.799 mẫu không đạt chiếm
17.69%, tỷ lệ mẫu thực phẩm không đạt thấp hơn so với 11 tháng đầu năm 2011 (năm
2011 tỷ lệ mẫu không đạt khi xét nghiệm tại labo là 20,69%).
Về Quản lý ATTP trong chế biến, kinh doanh thực phẩm, Bộ đã cấp giấy chứng
nhận công bố hợp quy và công bố phù hợp quy định an toàn thực phẩm cho 19.401 sản
phẩm, đình chỉ lưu hành 313 sản phẩm trong đó có 01 sản phẩm TPCN viên nang mềm
PINE OIL EXTRACT của Công ty TNHH một thành viên và Tâm Lan; 01 sản phẩm

TPCN ZINC-KID của Công ty TNHH Đầu tư và phát triển y tế. Thu hồi: 01 lô sản phẩm
mỳ ăn liền Neoguri (Hot) của Công ty TNHH một thành viên Khải An sinh Vina, 01 lô sản
phẩm mỳ ăn liên Neoguri (Mild) của Công ty TNHH TM Minh Hàn. Số loại sản phẩm bị
tiêu hủy: 7.934 loại.
- Tính đến 7/1/2013, đã cấp 1.040 giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện ATTP bao
gồm: 183 hồ sơ cấp ủy quyền, 576 hồ sơ Bộ thẩm định. Đồng thời Bộ Y tế đã cấp được
1747 Giấy tiếp nhận hồ sơ đăng ký quảng cáo và đến nay chưa có trường hợp nào bị đình
chỉ, thu hồi giấy chứng nhận và giấy tiếp nhận.

17


- Công tác quản lý, kiểm tra thực phẩm nhập khẩu: theo báo cáo của các cơ quan
kiểm tra nhà nước về thực phẩm nhập khẩu tính đến hết tháng 11/2012 tổng số lô hàng
nhập khẩu: 21.262 lô với tổng khối lượng là 481.209 tấn; tổng số lô hàng không đạt là 41
lô.
Về Hoạt động phối hợp liên ngành: Ban Chỉ đạo liên ngành các cấp được kiện toàn,
trong năm đã tổ chức 03 cuộc họp giao ban trực tuyến với 63 tỉnh, thành phố về công tác
bảo đảm an toàn thực phẩm. Theo báo cáo của các địa phương, tính đến nay, về cơ bản toàn
quốc đã kiện toàn xong Ban Chỉ đạo ở các cấp. 100% số tỉnh, thành phố và 693/696 số
huyện (99,6%) đã củng cố lại Ban Chỉ đạo. Tại tuyến xã, 11.072/11.143 xã (99,4%) đã
thành lập Ban chỉ đạo, trong đó 58/63 đã có Ban Chỉ đạo tại 100% các xã, phường. Tuy
nhiên, vẫn còn khoảng một số xã của các tỉnh: Bắc Ninh, Quảng Trị, Quảng Bình chưa kiện
toàn Ban chỉ đạo.
h) Công tác quản lý môi trường y tế
Bộ Y tế đã ban hành Thông tư số 08/2012/TT-BYT ngày 17/5/2012 của Bộ trưởng
Bộ Y tế hướng dẫn cấp phép vận chuyển hàng hóa nguy hiểm là hóa chất diệt côn trùng,
diệt khuẩn dùng trong lĩnh vực gia dụng và y tế bằng phương tiện giao thông cơ giới
đường bộ. Đang xây dựng một số văn bản quy phạm pháp luật về lĩnh vực môi trường
thuộc phạm vi quản lý của ngành y tế như: Thông tư hướng dẫn kiểm tra, giám sát chất

lượng nước ăn uống và sinh hoạt; Thông tư hướng dẫn kiểm tra, giám sát nhà tiêu hộ gia
đình; Thông tư hướng dẫn quan trắc môi trường trong các cơ sở khám, chữa bệnh...
Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện dự thảo các văn bản chỉ đạo và hoạt động quản lý
môi trường y tế như: Kế hoạch truyền thông cho Chương trình Mục tiêu quốc gia về Nước
sạch và Vệ sinh môi trường nông thôn giai đoạn 2012-2015 và dự thảo Dự án vệ sinh
nông thôn thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia Nước sạch và Vệ sinh môi trường nông
thôn giai đoạn 2012 – 2015; Kế hoạch chương trình quốc gia về an toàn lao động, vệ sinh
lao động giai đoạn 2011-2015; Kế hoạch công tác quản lý hóa chất gia dụng; hóa chất diệt
côn trùng, diệt khuẩn dùng trong lĩnh vực gia dụng và y tế giai đoạn 2012 – 2015...
Tổ chức một số hoạt động như Lễ phát động Phong trào Vệ sinh yêu nước nâng cao
sức khỏe nhân dân tại Nam Sách-Hải Dương; ngày 2/7 hàng năm được chọn là Ngày Vệ
sinh yêu nước; Lễ phát động Tuần lễ quốc gia an toàn vệ sinh lao động, phòng chống cháy
nổ lần thứ 14 năm 2012 tại tỉnh Đồng Nai. Giám sát chỉ đạo công tác y tế lao động tại
10/63 tỉnh/thành phố đồng thời kiểm tra công tác an toàn vệ sinh lao động, bảo hộ lao
động của 20 đơn vị trực thuộc Bộ Y tế.
Bộ y tế đã phối hợp với các Bộ, ngành xây dựng và trình ban hành: 01 Chiến lược;
01 văn bản phối hợp với UBTWMT Tổ quốc Việt Nam về Phong trào Vệ sinh yêu nước
nâng cao sức khỏe nhân dân; 04 Thông tư Liên Bộ, cụ thể: Chiến lược Bảo vệ môi trường
quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn 2030; Văn bản hướng dẫn UBMTTQ các cấp triển khai
Phong trào Vệ sinh yêu nước nâng cao sức khỏe nhân dân; Thông tư số
12/2012/TTLT/BLĐTBXH-BYT ngày 21/5/2012 về việc hướng dẫn việc khai báo, điều
tra, thống kê và báo cáo tai nạn lao động; Thông tư số 13/2012/TTLT/BLĐTBXH-BYT
ngày 30/5/2012 về việc hướng dẫn thực hiện chế độ bồi dưỡng bằng hiện vật đối với
người lao động làm việc trong điều kiện có yếu tố nguy hiểm, độc hại.

18


Ngoài ra Bộ Y tế đã phối hợp với các Bộ, ngành liên quan xây dựng Nghị định của
Chính phủ quy định điều kiện tham gia hoạt động quan trắc môi trường; Thông tư Hướng

dẫn nội dung chi cho Chương trình MTQG NS&VSMTNT; Thông tư liên tịch giữa Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Y tế, Bộ GD&ĐT về việc phân công phối hợp
thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về Nước sạch và Vệ sinh môi trường nông thôn;
Thông tư quy định Danh mục các loại phế liệu được phép nhập khẩu để làm nguyên liệu
sản xuất; Đề án tổng thể tăng cường kiểm soát ô nhiễm môi trường do sử dụng bao bì
nilon khó phân hủy trong sinh hoạt đến năm 2020;
Một số kết quả hoạt động quản lý chất thải – môi trường y tế.
i) Tại các cơ sở y tế tuyến Trung ương: Theo số liệu báo cáo tổng hợp của 72/72
đơn vị thì tổng lượng chất thải rắn là 7.333kg/ngày, nước thải là 30.159m 3/ngày, cụ thể:
- Tại các Bệnh viện tuyến Trung ương: Theo báo cáo của 34/34 bệnh viện trung
ương và khu vực: 100% lượng chất thải rắn y tế nguy hại và 94,4% nước thải y tế phát
sinh từ các bệnh viện được xử lý.
- Tại các viện/cơ sở đào tạo/trung tâm tuyến trung ương và khu vực: Theo báo cáo
của 38/38 đơn vị thì 98.6% lượng chất thải rắn y tế nguy hại và 61.5% nước thải y tế phát
sinh từ các viện/cơ sở đào tạo được xử lý.
ii) Tại các cơ sở y tế tuyến tỉnh, huyện: Theo báo cáo của 63/63 tỉnh/thành phố, tổng
lượng chất thải rắn y tế nguy hại phát sinh 38,8 tấn/ngày và tổng lượng nước thải y tế phát
sinh 90.752 m3/ngày. Trong đó 92,4% lượng chất thải rắn y tế nguy hại và 66,6% nước thải y
tế được xử lý.
Kết quả thực hiện Quyết định số 64/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về
giải quyết triệt để tình trạng ô nhiễm môi trường tại các cơ sở gây ô nhiễm môi trường
nghiêm trọng như sau: Tính đến hết tháng 12 năm 2012, đã có 49/84 cơ sở (chiếm 58,3%)
được công nhận xử lý triệt để ô nhiễm môi trường, 23/84 cơ sở (chiếm 27,4%) đang làm
các thủ tục trình chứng nhận hoàn thành việc xử lý ô nhiễm môi trường triệt để, 12 cơ sở
(chiếm 14,3%) đang chuẩn bị đầu tư xây dựng các hệ thống xử lý chất thải y tế. 06 bệnh
viện do Bộ Y tế trực tiếp quản lý hiện nay đã có 05 cơ sở có quyết định công nhận đã hoàn
thành xử lý triệt để ô nhiễm môi trương, 01 bệnh viện đang xây dựng hệ thống xử lý chất
thải (Bệnh viện đa khoa TW Thái Nguyên).
Về Sức khỏe môi trường cộng đồng - Biến đổi khí hậu đã được triển khai và hoàn
thành 100% các hoạt động theo kế hoạch được giao.

Về Phong trào “Vệ sinh yêu nước nâng cao sức khỏe nhân dân”: Tổ chức thành
công Lễ phát động phong trào “Vệ sinh yêu nước nâng cao sức khỏe nhân dân” do Chủ
tịch nước Trương Tấn Sang chủ trì và phát động tại xã Nam Chính, huyện Nam Sách, tỉnh
Hải Dương và tổ chức thành công Lễ phát động hưởng ứng phong trào “Vệ sinh yêu nước
nâng cao sức khỏe nhân” dân tại tỉnh Hà Nam, Thừa Thiên Huế và TP Cần Thơ;
Bộ Y tế đã xây dựng Kế hoạch triển khai Phong trào “Vệ sinh yêu nước nâng cao
sức khỏe nhân dân” làm cơ sở hướng dẫn Bộ, ngành và địa phương thực hiện; Phối hợp

19


triển khai Dự án Làng văn hóa sức khỏe gắn với phong trào “Vệ sinh yêu nước nâng cao
sức khỏe nhân dân” tại các tỉnh Hòa Bình, Hải Dương; Phối hợp với Hội người cao tuổi
triển khai Dự án Làng văn hóa sức khỏe gắn với phong trào “Vệ sinh yêu nước nâng cao
sức khỏe nhân dân”cho các Hội viên tuyến tỉnh và huyện thuộc tỉnh Hải Dương và Xây
dựng tài liệu, in ấn phát hành tài liệu truyền thông về xây dựng Làng văn hóa sức khỏe
gắn với phong trào “Vệ sinh yêu nước nâng cao sức khỏe nhân dân”.
2. Đào tạo, phát triển nhân lực và khoa học công nghệ
Bộ Y tế đã ban hành Quyết định số 816/QĐ-BYT ngày 16/3/2012 phê duyệt Quy
hoạch phát triển nhân lực y tế giai đoạn 2012-2020; Thông tư số 03/2012/TT-BYT ngày
02/02/2012 về Hướng dẫn thử thuốc trên lâm sàng; xây dựng Thông tư Hướng dẫn đào tạo
thực hành trước khi cấp chứng chỉ hành nghề trong lĩnh vực khám bệnh, chữa bệnh; xây
dựng Đề án thu hút học sinh theo học tại các chuyên khoa: Lao, phong, tâm thần, pháp ý,
giải phẫu bệnh; xây dựng Quyết định sửa đổi, bổ sung một số nội dung của Quyết định số
1544/QĐ-TTg ngày 14/11/2007 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Đề án đào tạo nhân
lực y tế cho vùng khó khăn, vùng núi của các tỉnh thuộc miền Bắc và miền Trung, vùng
đồng bằng sông Cửu Long”; nghiên cứu sửa đổi Thông tư thử lâm sàng trang thiết bị y tế,
thông tư về quản lý đề tài nghiên cứu khoa học và dự án sản xuất thử nghiệm cấp Bộ Y tế,
Thông tư hướng dẫn công tác đào tạo liên tục đối với cán bộ y tế, Thông tư Hướng dẫn
tuyển sinh đào tạo liên thông trình độ đại học, cao đẳng y, dược.

Tổ chức thành công Hội nghị Hội đồng Hiệu trưởng các trường đại học y dược kỳ
họp lần thứ X; Hội nghị Khoa học tuổi trẻ các trường đại học, cao đẳng y, dược Việt Nam
lần thứ 16; Hội nghị Quốc gia về ứng dụng công nghệ thông tin ngành y tế lần 6; Hội nghị
khoa học về Vườn bảo tồn và phát triển cây thuốc Quốc gia Yên Tử; Hội nghị tổng kết
giám sát đào tạo năm 2011; Hội nghị giao ban trực tuyến về công tác tuyển sinh nhân lực
y tế năm 2012
Thực hiện quy trình tuyển chọn phê duyệt 37 đề tài, dự án KH&CN bắt đầu thực hiện
năm 2012;Thực hiện quy trình tư vấn xác định danh mục 59 đề tài, dự án sản xuất thử
nghiệm cấp Bộ đưa vào kế hoạch thực hiện năm 2013;
Tiếp tục hoạt động giám sát hỗ trợ các đơn vị nghiên cứu triển khai; giám sát hoạt
động nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng; tổ chức các lớp tập huấn thực hành lâm sàng tốt
cho các đơn vị nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng, tập huấn phương pháp giáo dục y học
cho giáo viên các trường cao đẳng, trung cấp y dược.
Triển khai việc kiểm tra và công nhận thành thạo tiếng Việt đối với người nước ngoài
hành nghề khám chữa bệnh tại Việt Nam; Triển khai xây dựng chuẩn năng lực hộ sinh,
chuẩn giáo dục điều dưỡng, chuẩn năng lực cơ bản của bác sỹ đa khoa; Tổ chức giám sát
tuyển sinh cao đẳng và đại học y dược năm học 2012-2013.

20


3. Dược, trang thiết bị và cơ sở hạ tầng y tế
a. Quản lý Dược
Năm 2012 Cục QLD tiếp tục triển khai công tác xây dựng hệ thống Quản lý chất
lượng của Cục theo tiêu chuẩn TCVN 9001: 2008 và mời tổ chức GICS tiến hành rà soát
đánh giá nội bộ định kỳ.
Công tác tiếp nhận và trả hồ sơ theo cơ chế “một cửa” tại Cục QLD được thực hiện
theo quy trình rõ ràng kết hợp việc công khai các thủ tục hành chính trong bộ cơ sở dữ liệu
về thủ tục hành chính trên website của Cục đã tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp.
Tính đến ngày 28/12/2012, Cục QLD đã tiếp nhận:

+ Hồ sơ đăng ký thuốc trong nước: 3666
+ Hồ sơ đăng ký thuốc nước ngoài: 3088
+ Hồ sơ thay đổi, bổ sung đăng ký thuốc: 11.990
+ Hồ sơ công bố mỹ phẩm: 15.262 (không kể hồ sơ online)
+ Hồ sơ đăng ký thông tin quảng cáo: 1224
+ Hồ sơ đăng ký hoạt động công ty nước ngoài: 233
Đối với công tác thực hiện đơn giản hóa các thủ tục hành chính theo Đề án 30 của
Chính phủ, năm 2011 và 2012 Cục tham gia xây dựng 09 văn bản QPPL trong đó có 06
văn bản đã được ban hành chính thức,01 Văn bản sắp được ban hành và 02 văn bản đang
hoàn thiện sau khi lấy ý kiến của Chính phủ, các Bộ, ngành.
Đặc biệt, trong năm 2012 Cục QLD đã tổ chức thành công diễn đàn “Người Việt
Nam ưu tiên dùng thuốc Việt Nam”. Đây là một trong những giải pháp quan trọng hỗ trợ
cho ngành dược Việt Nam phát triển bền vững, bảo đảm nguồn cung ứng thuốc phòng,
chữa bệnh cho nhân dân và không lệ thuộc vào nguồn nhập khẩu từ nước ngoài.
Năm 2012 Cục Quản lý dược tiếp tục xây dựng bảng điểm và công văn hướng dẫn
kiểm tra đánh giá việc thực hiện các quy định về dược và mỹ phẩm tại các tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương.
Về công tác đảm bảo chất lượng thuốc và mỹ phẩm, số doanh nghiệp đạt GPs ngày
càng tăng, đến cuối năm 2012 có 110 cơ sở sản xuất thuốc và 4 cơ sở sản xuất vắc xin đạt
tiêu chuẩn GMP; 114 cơ sở đạt GLP trong đó có 2 Viện kiểm nghiệm thuốc Trung ương
và Viện Kiểm nghiệm thuốc Tp. Hồ Chí Minh và 112 phòng kiểm nghiệm của các cơ sở
sản xuất.
Về Kết quả triển khai GPP: Thực hiện quản lý theo quy định tại Thông tư số
46/2011/TT-BYT ban hành Nguyên tắc, tiêu chuẩn thực hành tốt nhà thuốc. Hiện nay, về
cơ bản các nhà thuốc đã đạt GPP theo đúng lộ trình quy định của Bộ Y tế. Tỷ lệ các nhà
thuốc đạt GPP tính đến tháng 8/2012 là 94%. Ngoài ra, đến thời điểm này đã có 7 doanh
nghiệp được cấp Giấy chứng nhận tổ chức chuỗi nhà thuốc đạt chuẩn GPP (2011: 03
doanh nghiệp).
Tổng giá trị tiền thuốc ước sử dụng năm 2012 là 2.600 triệu USD tăng 9,1% so với
năm 2011. Giá trị thuốc sản xuất trong nước năm 2012 ước tính đạt khoảng 1.200 triệu

USD, tăng 5,26% so với năm 2011. Trị giá thuốc nhập khẩu năm 2012 là 1.750 triệu USD
và bình quân tiền thuốc đầu người là 29,5 USD

21


Doanh thu thuốc từ dược liệu sản xuất trong nước trong hai năm gần đây tăng
trưởng cao, năm 2011 tăng 33%, năm 2010 tăng 25% so với năm trước. Dự báo năm 2012
doanh thu thuốc từ dược liệu sản xuất trong nước sẽ đạt trên 3.500 tỷ đồng tăng 35% so
với năm 2011.
Thị trường thuốc cơ bản được duy trì bình ổn, đáp ứng đủ thuốc phục vụ công tác
điều trị, không để xảy ra tăng giá đồng loạt, đột biến. Theo số liệu của Tổng cục Thống
kê- Bộ Kế hoạch Đầu tư, trong năm 2012, mức độ tăng giá nhóm hàng dược phẩm là
5,27%, thấp hơn mức độ tăng giá của CPI (6,81%).
b. Trang thiết bị y tế và đầu tư cơ sở hạ tầng :
- Hoàn thiện dự thảo Thông tư quy định việc cấp giấy phép lưu hành và giấy chứng
nhận lưu hành tự do (CFS) đối sản phẩm trang thiết bị y tế sản xuất tại Việt Nam. Phối hợp
với Bộ Tài chính kiểm tra và nghiên cứu đề xuất giải pháp hỗ trợ chính sách thuế đối với
các doanh nghiệp sản xuất TTBYT trong nước. Phối hợp làm việc với Cục Giám quản Tổng Cục Hải quan và các đơn vị liên quan thống nhất giải quyết các vướng mắc về sản phẩm
giáp ranh trong nhập khẩu TTBYT. Tổ chức tập huấn, hướng dẫn các thủ tục văn bản quy
phạm pháp luật trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, xuất nhập khẩu trang thiết bị y tế.
- Chỉ đạo các đơn vị khẩn trương hoàn thành các công trình đang thi công, giải
quyết tháo gỡ những khó khăn, đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án để sớm đưa các công
trình vào hoạt động. Tiến hành thẩm tra quyết toán các dự án hoàn thành cho các đơn vị
trực thuộc Bộ. Tổ chức thẩm định cấu hình kỹ thuật về trang thiết bị y tế cho các đơn vị
trực thuộc Bộ.
Về đầu tư cho y tế địa phương từ nguồn trái phiếu Chính phủ (Đề án 47 và 930),
ngành y tế phối hợp với các Bộ, Ngành và địa phương triển khai thực hiện, đến nay đề án
930 đã đầu tư cho 168 bệnh viện (được cấp vốn theo các Nghị quyết số 881 của UBTV
QH và QĐ 184/QĐ-TTg), gồm: 51 bệnh viện đa khoa tỉnh, 46 bệnh viện chuyên khoa lao,

33 bệnh viện chuyên khoa tâm thần, 24 bệnh viện chuyên khoa nhi/sản nhi, 3 bệnh viện,
trung tâm ung bướu thuộc các địa phương và 10 bệnh viện thuộc Bộ Y tế và Trường ĐH Y
dược Cần Thơ thuộc Bộ Y tế
Giai đoạn 2008-2012 Chính phủ đã bố trí cho 2 đề án 47 và 930 là 23.473 tỷ đồng
(trong đó năm 2012 đã giao: 4.293 tỷ đồng). Về kết quả đầu tư:
+ Tại tuyến tỉnh, một số bệnh viện xây dựng mới đã hoàn thành, đưa vào sử dụng
như BVĐK tỉnh Ninh Bình, BV Tâm thần Ninh bình, BV Tâm thần Hà Nam, Bệnh viện
Lao và bệnh phổi Điện Biên…; Cải tạo mở rộng như BVĐK tỉnh Hòa Bình. Một số bệnh
viện xây dựng mới sắp hoàn thành đưa vào sử dụng nhưng với điều kiện phải có đủ vốn để
thực hiện như: BV đa khoa tỉnh Ninh Thuận, BV ĐK tỉnh Nghệ An, BV Lao và bệnh phổi
tỉnh Thái Bình, Hậu Giang, …
+ Tại tuyến huyện: Có 145 bệnh viện huyện và 46 phòng khám đa khoa đã hoàn
thành, đưa vào sử dụng trước 31/12/2012. Dự kiến trong đầu năm 2013 sẽ hoàn thành tổng
số 261 bệnh viện và 68 phòng khám đa khoa khu vực.

22


+ Đối với các bệnh viện Trung ương, Bộ Y tế đã triển khai quyết liệt các giải pháp
chống quá tải bệnh viện, ưu tiên đầu tư cho các bệnh viện quá tải cao: Bệnh viện K, bệnh
viện Bạch Mai, bệnh viện Nhi, Bệnh viện Chợ Rẫy, Phụ Sản Trung ương, Bệnh việt Việt
Đức. Các bệnh viện đã chủ động vay vốn ngân hàng phát triển cùng với vốn đầu tư phát
triển Ngân sách Nhà nước để đầu tư mở rộng cơ sở như: Viện Huyết học truyền máu TW,
bệnh viện RHM TW TPHCM, bệnh viện đại học y dược Tp HCM, bệnh viện Phụ Sản
TW, BV Việt Đức. Cơ sở III bệnh viện K đã được đưa vào hoạt động với 300 giường bệnh
nội trú.
Bên cạnh nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước, Bộ Y tế và các địa phương đã tích cực
huy động nguồn vốn ODA để xây mới, nâng cấp trang thiết bị cho bệnh viện như: hoàn
thành dự án xây dựng bệnh viện đa khoa Trung ương Quảng Nam 500 giường bệnh do
KOICA (Hàn Quốc) viện trợ; dự án trang thiết bị cho Viện Tim Mạch bệnh viện Bạch

Mai, dự án TTB cho trung tâm ung bướu bệnh viện Trung ương Huế đang thực hiện; dự
án TTB cho bệnh viện Phụ Sản trung ương do JICA viện trợ; các dự án vốn vay của Ngân
hàng thế giới... đã góp phần nâng cao chất lượng chuyên môn kỹ thuật của các bệnh viện
trong cả nước.
4. Tài chính y tế và Bảo hiểm y tế
Bộ Y tế đã trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 14/2012/QĐ-TTg về
việc sửa đổi, bổ sung Quyết định 139/2002/QĐ-TTg về khám chữa bệnh người nghèo.
Đồng thời phối hợp với Bộ Tài chính trình và được Thủ tướng ban hành Quyết định số
797/QĐ-TTg ngày 26/6/2012 nâng mức hỗ trợ mua thẻ BHYT cho người thuộc hộ cận
nghèo lên 70% và cho phép các địa phương có điều kiện về ngân sách nâng mức hỗ trợ để
người cận nghèo tham gia BHYT. Đến nay một số địa phương như Quảng Nam, Tây
Ninh, Kiên Giang… đã quyết định dùng ngân sách địa phương hỗ trợ 30%, Cà Mau, Vĩnh
Long, Bạc Liêu… hỗ trợ 20% còn lại. Bộ Y tế cũng đang nghiên cứu, trình Thủ tướng cho
phép hỗ trợ 30% còn lại cho người cận nghèo mới thoát nghèo, người cận nghèo ở các tỉnh
miền núi, khó khăn, cho phép sử dụng một phần nguồn hỗ trợ ngân sách của EU để hỗ trợ
người cận nghèo ở một số tỉnh có tỷ lệ ban phủ BHYT thấp tham gia BHYT
- Thực hiện Thông tư liên tịch số 04/2012/TTLT-BYT-BTC của Bộ Y tế - Bộ Tài
chính về Ban hành mức tối đa khung giá một số dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh trong các
cơ sở khám bệnh, chữa bệnh của Nhà nước. Bộ Y tế đã phối hợp với BHXH Việt Nam, Bộ
Tài chính tổ chức 2 hội nghị triển khai với các bệnh viện, các Sở y tế để gắn việc điều
chỉnh giá dịch vụ với việc nâng cao chất lượng khám bệnh, chữa bệnh. Đồng thời Bộ
trưởng Bộ Y tế đã ban hành Chỉ thị số 05/CT-BYT về việc tăng cường thực hiện các giải
pháp nâng cao chất lượng khám bệnh, chữa bệnh sau khi điều chỉnh giá dịch vụ y tế, có
văn bản số 5034 /BYT-KH-TC ngày 03/8/2012 gửi Bí thư và Chủ tịch các tỉnh/ thành phố
về việc triển khai thực hiện Thông tư. Tổ chức họp với một số bệnh viện khu vực Hà Nội
để quán triệt việc điều chỉnh giá gắn với nâng cao chất lượng dịch vụ y tế.
Đến nay đã có 48 tỉnh được Ủy ban nhân dân trình Hội đồng nhân dân cấp tỉnh phê
duyệt giá. Còn 15 tỉnh mới hoàn thành việc xây dựng và thẩm định. Bộ Y tế, Bộ Tài chính,
Bảo hiểm xã hội Việt Nam đã thẩm định và phê duyệt giá cho 35/38 bệnh viện TW. Thực
hiện chỉ đạo của Chính phủ và của Ngành, một số tỉnh và đơn vị trực thuộc đã thực hiện


23


giãn tiến độ áp dụng giá viện phí mới để không làm ảnh hưởng đến tăng chỉ số giá tiêu
dùng trong cùng thời điểm.
Việc triển khai Thông tư liên tịch số Thông tư 04/2012/TTLT ngày 29/02/2012 của
Liên bộ Y tế - Tài chính ban hành giá tối đa của 447 dịch vụ kỹ thuật còn chậm. Thời hạn
có hiệu lực của Thông tư là 15/4/2012, đến đầu tháng 8/2012 mới thực hiện nên cơ bản giá
dịch vụ y tế mới bắt đầu thực hiện từ tháng 9/2012.
Về đổi mới phương thức thanh toán giá dịch vụ bệnh viện thông qua thí điểm thu
trọn gói theo trường hợp bệnh, theo định suất để nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực,
kiểm soát chi phi khám chữa bệnh. Theo kết quả sơ bộ, 60/63 địa phương trên cả nước áp
dụng phương thức thanh toán theo định suất, với 778 cơ sở KCB (chủ yếu là tuyến huyện),
đạt tỷ lệ 33,8%, tăng hơn 2 lần so với năm 2011.
Bộ Y tế cũng đã hoàn thành tốt việc phân bổ và giao dự toán thu, chi ngân sách
năm 2012 cho các đơn vị trực thuộc và Bộ Tài chính cũng đã thẩm định, xét chuyển số dư
dự toán ngân sách năm 2011 sang năm 2012. Bộ Y tế đã hướng dẫn các đơn vị trực thuộc
về công tác tổ chức, thực hiện và điều hành dự toán ngân sách năm 2012, định kỳ duyệt
đăng ký Quỹ tiền lương, đăng ký học bổng, duyệt dự toán các khóa đào tạo lại, bồi dưỡng
cán bộ viên chức cho các đơn vị trực thuộc.
Về viện trợ nước ngoài cho y tế: Bộ Y tế quản lý 56 chương trình, dự án ODA và 61
dự án viện trợ NGO. Trong đó có 33 dự án viện trợ không hoàn lại, 10 dự án vốn vay, còn
lại là các dự án hỗn hợp. Tổng kinh phí của các chương trình, dự án là: 26.452.670 triệu
đồng (tương đương 1.443.406.638 USD), trong đó nguồn ODA là: 24.562.501 triệu đồng,
chiếm 92,9% tổng kinh phí chương trình, dự án. Trong tổng vốn ODA của các chương
trình/dự án, thì vốn ODA viện trợ không hoàn lại là: 11.513.671 triệu đồng (chiếm
46,9%). Các dự án viện trợ nhìn chung triển khai tốt, đạt các mục tiêu, chỉ tiêu đề ra, góp
phần quan trọng vào các hoạt động của ngành y tế.
Về Bảo hiểm y tế: Bộ Y tế đã trình Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết của Bộ Chính

trị về phát triển Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm y tế, trình Chính phủ đề án thực hiện lộ trình
Bảo hiểm y tế toàn dân giai đoạn 2012-2015 và 2020; đã ban hành thông tư hướng dẫn
Danh mục vật tư y tế tiêu hao được quỹ BHYT thanh toán; Thông tư hướng dẫn khám
sàng lọc, chẩn đoán sớm một số bệnh thuộc phạm vi thanh toán của quỹ BHYT; Thông tư
ban hành danh mục vật tư y tế được Quỹ BHYT thanh toán. Hiện tại đang xây dựng dự án
Luật sửa đổi, bổ sung Luật BHYT để xin ý kiến các đơn vị, địa phương. Phối hợp với Bảo
hiểm xã hội Việt Nam và các cơ quan truyền thông xây dựng Kế hoạch truyền thông chính
sách, pháp luật BHYT năm. Tổ chức Hội nghị phổ biến Nghị định số 92/2011/NĐ-CP
ngày 17/10/2011 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
bảo hiểm y tế cho Sở Y tế, BHXH các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; phối hợp với
BHXH Việt Nam triển khai Đề án giám định theo tỷ lệ được Thủ tướng phê duyệt tại các
địa phương. Ước tính đến cuối năm 2012, tỷ lệ bao phủ BHYT đạt khoảng 68%.
Về triển khai chương trình mục tiêu quốc gia về y tế: Ngày 18/12/2011 Thủ tướng
Chính phủ có Quyết định số 2406/QĐ-TTg về việc ban hành danh mục các chương trình
mục tiêu quốc gia giai đoạn 2012-2015, bao gồm 4 chương trình: (i) CTMTQG y tế; (ii)
CTMTQG phòng, chống HIV/AIDS; (iii) CTMTQG DS và KHHGĐ và (iv) CTMTQG
Vệ sinh an toàn thực phẩm. Trong đó có bổ sung Dự án 5 về nâng cao năng lực, truyền

24


thông và giám sát đánh giá thực hiện chương trình (từ năm 2012) và 2 nội dung trong Dự
án 5 (Phục hồi chức năng người khuyết tật, Nâng cao sức khỏe người cao tuổi).
Ngày 3/5/2012 Bộ KHĐT giao Mục tiêu, nhiệm vụ và vốn CTMT; ngày 17/5 Bộ tài
chính giao dự toán NS CTMT; ngày 22/6 Bộ Y tế giao dự toán CTMT cho các chương
trình, đơn vị, địa phương, tuy có chậm nhưng các đơn vị cũng đã rất nỗ lực để đẩy nhanh
tiến độ thực hiện hoạt động Dự án/Chương trình, chủ động phòng chống dịch bệnh, tăng
cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát nên cơ bản đã khống chế được dịch bệnh. Các
dự án phòng chống bệnh không lây nhiễm đã bước đầu phát huy hiệu quả, đặc biệt đã triển
khai mở rộng tới nhiều địa bàn trong cộng đồng dân cư.


5. Thông tin y tế
Triển khai Quyết định số 312/QĐ-TTg ngày 2/3/2010 của Thủ tướng Chính phủ về
việc phê duyệt đề án đổi mới đồng bộ các hệ thống chỉ tiêu, trong đó nhiệm vụ cụ thể là
xây dựng bộ chỉ tiêu thống kê Ngành Y tế; chuẩn hóa các khái niệm, phuơng pháp tính
toán…, đồng thời rà soát, hoàn chỉnh biểu mẫu ban đầu và hệ thống báo cáo tại các tuyến.
Thử nghiệm tại ba tỉnh do EC tài trợ. Chuẩn bị hoàn thiện bản kế hoạch tổng thể phát triển
Hệ thống thông tin Y tế giai đoạn 2011-2015 và tầm nhìn 2020; Bộ Y tế đã phê duyệt đề
án kiện toàn hệ thống tổ chức CNTT trong các đơn vị sự nghiệp của ngành y tế giai đoạn
từ năm 2010 đến năm 2015 với mục tiêu nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động công nghệ
thông tin trong ngành y tế. Bộ Y tế cũng đã thành lập Cục Công nghệ thông tin y tế nhằm
đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý y tế.
- Tổ chức thành công Hội nghị quốc gia về ứng dụng công nghệ thông tin trong
ngành y tế lần VI, thu hút được những báo cáo có chất lượng, những tổ chức trong và
ngoài nước tham gia đóng góp cho Hội nghị, và là cơ sở xây dựng và hoạch định chính
sách cho công nghệ thông tin trong thời gian tới.
- Bộ trưởng ký Quyết định số 04/QĐ-BYT ngày 02/01/2013, Ban hành Quy chế
thẩm định, kiểm tra và nghiệm thu dự án ứng dụng công nghệ thông tin trong ngành y tế
nhằm thống nhất quản lý các dự án đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin sử dụng nguồn
vốn ngân sách nhà nước, nguồn vốn viện trợ và các nguồn vốn huy động hợp pháp khác.
- Tổ chức các đợt giám sát, kiểm tra tình hình ứng dụng CNTT tại cơ quan Bộ Y tế,
một số Sở Y tế và đơn vị trực thuộc Bộ; Tổ chức thẩm định các dự án CNTT cho 11 đơn
vị thuộc và trực thuộc.
Kết quả chung: Năng lực thu thập, xử lý và tổng hợp báo cáo được cải thiện; các
lớp đào tạo đã được tổ chức ở các địa phương. Ứng dụng công nghệ tin học trong xử lý,
quản lý, chuyển tải thông tin y tế được đẩy mạnh với việc cải thiện và nâng cấp phần mềm
hiện có. Quy chế phổ biến các nguồn số liệu trong hệ thống y tế được dự thảo. Niên giám
TKYT hàng năm đã được cải tiến.
Tuy nhiên, việc phát triển hệ thống thông tin y tế vẫn còn những khó khăn, bất cập.
Việc tăng cường phối hợp, chia sẻ thông tin trong ngành y tế và với các bộ/ ngành liên

quan vẫn chưa được xây dựng. Thiếu các văn bản quy định nghĩa vụ và trách nhiệm cập
nhật, báo cáo số liệu về hoạt động cung cấp dịch vụ y tế của các cơ sở hành nghề y, dược

25


×