Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

Giải đáp 1 số câu hỏi ôn tập quy hoạch đô thị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (254.52 KB, 29 trang )

Câu 1: Phân biệt các loại quy hoạch đô thị
Tiêu chí QUY HOẠCH CHUNG
Khái
Quy hoạch chung là việc tổ chức không
niệm
gian, hệ thống các công trình hạ tầng kỹ
(Luật
thuật, công trình hạ tầng xã hội và nhà ở
quy
cho một đô thị phù hợp với sự phát triển
hoạch đô kinh tế - xã hội của đô thị, bảo đảm
thị 2009 quốc phòng, an ninh và phát triển bền
vững
Đối
+ 1 đô thị
tượng
3. Nhiệm +Định hướng phát triển
vụ
+ Là cơ sở triển khai QHPK và QHCT

QUY HOẠCH PHÂN KHU
Quy hoạch phân khu là việc phân chia và
xác định chức năng, chỉ tiêu sử dụng đất quy
hoạch đô thị của các khu đất, mạng lưới
công trình hạ tầng kỹ thuật, công trình hạ
tầng xã hội trong một khu vực đô thị nhằm
cụ thể hoá nội dung quy hoạch chung.

4. Sản
phẩm


- Bản vẽ tỷ lệ
+1/25000
+1/10000
-Thuyếtminh
- Quy định quản lý theo đồ án quy
hoạch chung

QUY HOẠCH CHI TIẾT
Quy hoạch chi tiết là việc phân chia và xác
định chỉ tiêu sử dụng đất quy hoạch đô thị,
yêu cầu quản lý kiến trúc, cảnh quan của
từng lô đất; bố trí công trình hạ tầng kỹ
thuật, công trình hạ tầng xã hội nhằm cụ thể
hoá nội dung của quy hoạch phân khu hoặc
quy hoạch chung.
+ 1 khu vực đô thị cho triển khai dự án.
+ 1 khu vực đô thị có nhu cầu triển khai
công trình.
+ Nguyên tắc quản lý không gian, mạng lưới + Xác định các chỉ tiêu
CSHT đến từng ô phố.
+ Là cơ sở triển khai xây dựng công trình
+ Là cơ sở triển khai quy hoạch chi tiết
- Bản vẽ tỷ lệ
- Bản vẽ tỷ lệ
+ 1/5000
+ 1/500
+ 1/2000
- Thuyết minh
- Thuyết minh
- Quy định quản lý theo đồ án quy hoạch

- Quy định quản lý theo đồ án quy hoạch chi
phân khu
tiết

5. Nội
dung

- Phân tích đánh giá các điều kiện tự
nhiên và hiện trạng
- Xác đinh tính chất, mục tiêu động lực
phát triển ( Tầm nhìn – Vision)
- Xác định quy mô dân số đất đai
- Chỉ tiêu cơ bản về hạn tầng kỹ thuật
và hạ tầng xã hội
- Mô hình phát triển cấu trúc phát triển
không gian nội thị , ngoại thị.
- Định hướng các hạ tầng kỹ thuật
khung
- Đánh giá mội trường chiện lược

- Phân tích đánh giá thực trạng.
- Xác định chức năng sử dụng cho từng khu
đất
- Xác định nguyên tắc tổ chức không gian,
cảnh quan kiến trúc
- Xác định chỉ tiêu dân số, sử dụng đất, hạ
tầng kỹ thuật vơi từng ô phố.
- Bố trí các công trình hạ tầng xã hội
- Bố trí mạng lưới các công trình hạ tầng ký
thuật đến trục đường phố.

+ Xác đinh cốt xây dựng vơi từng ô phố.
+ Xác định mạng lưới giao thông, cấp nước,

- Phân tích đánh giá hiện trạng.
- Xác định chỉ tiêu sử dụng đất cho toàn khu
vực quy hoạch
- Quy hoạch tổng thể mặt bằng sử dụng đất.
+ Xác định chỉ tiêu sử dụng đất: mật độ xây
dựng, hệ số sử dụng đất, khoản lùi công
trình,vị trí, quy mô các công trình.
- Tổ chức không gian quy hoạch kiến trúc.
+ Xác định chiều cao, cốt sàn và trần tầng,
hình thức kiến trúc hàng rào,mầu sắc, vật
liệu chủ đạo của các công trình. Các vật thể
kiến trúc khác cho từng lô đất, tổ chức cây

1


- Chương trình ưu tiên đầu tư và nguồn
lực thực hiện

Lưu ý

năng lượng.
- Đánh giá môi trường chiến lược.

xanh công cộng, sân vườn, cây xanh đường
phố và mặt nước trong khu vực quy hoạch.
- Quy hoạch hệ thống công trình hạ tầng kỹ

thuật đô thị
- Xác định cốt xây dựng với từng lô đất.
- Giao thông, cấp nước, cấp điện…
+ xác định vị trí, quy mô các công trình
phân phối

QHPK là cơ sở cho việc xác định các dự án đầu tư xây dựng và lập quy hoạch chi tiết.
Quy hoạch phân khu được hiểu là quy hoạch theo chức năng, mang tính cấu trúc và nguyên tắc, không nên cứng nhắc

2


Câu 2: Nhà nước làm thế nào để nâng cao chất lượng các đồ án quy hoạch
- Về chính sách, pháp luật
+ Ban hành các chính sách, tiêu chuẩn cụ thể về chất lượng các đồ án quy họach.
+ Ban hành các quy chế kiểm tra, giám sát chặt chẽ trong lập đồ án
+ Ban hành các biện pháp xử lý nghiêm những người làm sai các đồ án quy hoạch.
+ Phối hợp giữa các cấp, các ngành có liên quan trong xây dựng đồ án quy hoạch
- Về cán bộ quản lý
+ Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ của cán bộ quản lý công tác quy hoạch
+ Nhà quản lý phải nắm vững các yếu tố kỹ thuật trong quy hoạch; chính sách pháp luật của nhà
nước về quy hoạch để thẩm định được các dự án quy hoạch
+ Có thể mới các chuyên gia trong từng lĩnh vực để thẩm định các đồ án quy haochj
- Về lực chọn tư vấn xây dựng đồ án quy hoạch
+ Xây dựng được các tiêu chí lựa chọn các nhà tư vấn xây dựng đồ án
+ Đảm bảo lụa chọn phù hợp với nguồn lực tài chính nhưng vẫn phải đảm bảo nhà tư vấn có uy
tín và chất lượng
- Về phía người dân, tổ chức ngoài Nhà nước
+ Thực hiện xã hội hóa công tác lập đồ án quy hoạch
+ Tham gia giám sát, đóng góp ý kiến vào các đồ án quy hoạch

Câu 3: Đánh giá thực trạng xây dựng không phép, sai phép tại đô thị
Thực trạng: Vấn đề XD không phep, trái phép ở đô thị đang diễn ra một cách tràn lan, xảy ra
trong nhiều năm và khó kiểm soát được tại các đô thị
+ Xây vượt quá số tầng, diện tích cho phép
Ví dụ: Tại khu đô thị mới Dịch Vọng trên đường Trần Đăng Ninh kéo dài thuộc phường Dịch
Vọng, nhà số 6 xây vút cao vượt nhiều tầng so với quy định, nằm ngay sát mặt đường nhưng đến
nay đã hoàn thiện.
+ Xây dựng không phù hợp với thiết kế làm diễn ra tình trạng nhà siêu mỏng, siêu méo.
Ví dụ: Tuyến đường Vành đai I đoạn Ô Chợ Dừa - Hoàng Cầu (Hà Nội) được mệnh danh là “con
đường đắt nhất hành tinh” vừa được thông xe ngày 31/12/2013. Tuy nhiên trên tuyến đường này,
những căn nhà đã và đang xây với đủ mọi hình thù, siêu mỏng, siêu méo mọc lên, có những căn
nhà mặt tiền chỉ 1,2m hay mặt tiền 4m -5 m nhưng chiều sâu chỉ hơn 1m.
+ Xây dựng vi phạm vào hành lang an toàn lưới điện
+ Xây dựng lấn chiếm đất công
Ví dụ: Đường Kim Liên kéo dài (đường Xã Đàn), đoạn gần chùa Kim Liên, đối diện phía Khách
sạn Kim Liên và trụ sở VCCI, có một dãy nhà kiến trúc tạm bợ, xấu xí là nơi bán quần áo, garage
ôtô, rửa xe, quán ăn… của một số hộ dân ngang nhiên lấn chiếm cả hàng vài trăm mét mặt
đường, tạo thành nút cổ chai, thường xuyên gây ách tắc giao thông, nhất là trong các giờ cao
điểm
+ Xây dựng làm ảnh hưởng tới mỹ quan đô thị, phá vỡ quy hoạch đô thị, ảnh hưởng tới các công
trình văn hóa lịch sử
Ví dụ: Việc xây dựng trái phép ồ ạt tại khu vực phố Cổ (Hà Nội) như xây nhà quá cao bên cạnh
các ngôi nhà cổ,... sẽ gây ra những hệ lụy vô cùng nguy hại. Tình trạng này không những sẽ phá
nát quy hoạch phố Cổ mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến không gian văn hóa và du lịch tại
đây.
Câu 4: Cho ý kiến cá nhân về quy hoạch treo
Quy hoạc treo là hiện tượng mà diện tích đất ghi trong kế hoạch sử dụng đất đã được công bố thu
hồi để thực hiện các công trình, dự án mà sau một khoảng thời gian không thực hiện kế hoạch đã
định và kế hoạch đó không bị các cơ qua có thẩm quyền công bố hủy bỏ.
Các dạng quy hoạch treo

Một là dự án đã được địa phương công bố quy hoạch nhưng sau đó không làm gì để thực hiện
quy hoạch.

3


Hai là dự án đã có quyết định thu hồi đất nhưng việc thu hồi không dứt điểm, kéo dài từ năm này
sang năm khác, có khi chỉ vướng một vài thửa.
Ba là tình trạng đất đã giao nhưng lại gặp phải chủ đầu tư muốn xí phần để sau đó sang nhượng
lại kiếm lời nên không đầu tư gì hoặc đầu tư một ít rồi bỏ đó gây ra nhiều bức xúc.
Bốn là quy hoạch chồng lên quy hoạch và các trục trặc về mặt điều chỉnh pháp lý và do lực
lượng ban bồi thường quá mỏng so với số dự án triển khai.
Thực trạng quy hoạch treo
Các dự án quy hoạch treo vẫn tồn tại ở các đô thị, đặc biệt xuất hiện nhiều ở hai thành phố lớn là
Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Quy hoạch “treo” đang thực sự là một vấn đề nhức nhối
trong một lĩnh vực được xem là phức tạp là đất đai và chiếm đến 70% tổng số vụ khiếu kiện.
Điều đáng nói ở chỗ, người dân nằm trong vùng quy hoạch “treo” phải chịu muôn vàn khó khăn,
thậm chí thiệt thòi thì hàng nghìn hecta đất bị bỏ hoang, gây lãng phí.
Số liệu từ Tổng cục Quản lý đất đai của Bộ Tài nguyên- Môi trường cho thấy, đến đầu năm 2013
cả nước có khoảng 1.200 dự án “treo” với trên 130.000ha đất bỏ hoang.
Ví dụ trên địa bàn TP Hà Nội, trong những năm gần đây, hàng loạt dự án “treo” tồn tại khiến đất
“vàng” bị bỏ hoang hóa. Bên cạnh đó là nhiều khu đất cấp cho các dự án khác bị sử dụng sai
mục đích vừa gây lãng phí nguồn tài nguyên, vừa mất mỹ quan đô thị khiến dư luận không khỏi
xót xa. Thực trạng này đang tồn tại giữa Thủ đô đòi hỏi các cơ quan quản lý nhà nước khẩn
trương rà soát và chấn chỉnh ngay những bất hợp lý.
Dự án cải tạo hạ tầng kỹ thuật hồ Ba Mẫu, quận Đống Đa, Hà Nội là một trong những dự án
“đắp chiếu” lâu nhất trong khu vực nội thành Hà Nội. Được khởi động từ những năm 90 của thế
kỷ trước, thế nhưng cho đến nay đã 20 năm mà công tác giải phóng mặt bằng nhiều điểm quanh
khu vực hồ còn giậm chân tại chỗ..
Trước hiện trạng đó, UBND TP Hà Nội đã kiểm tra và phát hiện 32 khu đất có sai phạm trên địa

bàn bốn quận, huyện gồm: Thanh Xuân, Cầu Giấy, Tây Hồ và Từ Liêm với diện tích khoảng
488.545m2. Trong đó, có 19 khu đất trống chưa sử dụng, 10 khu đất sử dụng sai mục đích. Liên
quan đến việc để đất bỏ hoang có một số doanh nghiệp như: Ngân hàng cổ phần Ngoại thương
Việt Nam, Tổng Công ty cổ phần Xuất nhập khẩu xây dựng Việt Nam, Tập đoàn Phát triển nhà
và đô thị, Công ty cổ phần Hacinco, Tổng Công ty Xây dựng Hà Nội…
Dự án “treo”, đất sử dụng sai mục đích từ lâu nay đang khiến dư luận bức xúc. Trong khi người
dân sinh sống trên địa bàn đang thiếu các điểm vui chơi, công trình công cộng như: nhà văn hóa,
chợ dân sinh, sân vui chơi thiếu nhi… thì một phần diện tích lớn đang bị sử dụng sai mục đích,
vi phạm pháp luật về đất đai.
Nguyên nhân
Thứ nhất, thiếu nguồn tài chính để lập quy hoạch và thực hiện theo quy hoạch.
Thứ hai là quy hoạch thiếu tính khả thi do chủ quan trong khi lập, xét duyệt quy hoạch và tác
động khách quan từ các biến động về kinh tế - xã hội.
Thứ ba là do thiếu sự kiểm soát và quản lý thực hiện; sự chồng chéo giữa các quy hoạch chuyên
ngành khác nhau và tác động của các chính sách pháp luật về nhà ở, đất đai. Đặc biệt, trong thời
kỳ bao cấp, quy hoạch làm theo kế hoạch nhà nước với một nguồn vốn duy nhất, nay nguồn vốn
rất đa dạng, sự thay đổi của kinh tế-xã hội nhanh và mạnh, nên quy hoạch phải có tính mềm dẻo.
Thứ tư việc kiểm soát và quản lý thực hiện còn yếu kém do cán bộ làm công tác này tại các địa
phương thiếu về số lượng, yếu về chuyên môn
GIẢI PHÁP
- Thứ nhất: Quy hoạch phải tuân thủ quy trình Toàn diện, có sự tham gia của nhiều bên và mang
tính chiến lược, đặc biệt là sự tham gia của cộng đồng dân cư ở đó (khu vực tư nhân), hướng đến
cụ thể hóa những ước muốn của người dân ở đó bằng tất cả nguồn lực xã hội.
- Thứ hai: Chính quyền chỉ quản lý những gì cần quản lý (ví dụ như: Hạ tầng khung đô thị, công
viên, mặt nước, các khu vực dịch vụ công cộng, khu vực văn hóa, lịch sử). Không quản lý quá
sâu đến từng lô đất, không cần thiết, làm cản trở sự phát triển.

4



- Thứ ba: Tạo cơ chế đối chất bình đẳng giữa nhà đầu tư và nhà nước trong việc tăng mật
độ/không gian sử dụng làm ảnh hưởng đến gánh nặng hạ tầng để có sự linh hoạt trong kiểm soát
phát triển đô thị (ví dụ như: theo quy hoạch thì khu vực chỉ được xây dựng 7 tầng.
Câu 5: Nguyên nhân ách tắc trong giải phóng mặt bằng thu hồi đất
- Khái niệm: Giải phóng mặt bằng là một loại nhiệm vụ, hoạt động có tổ chức của nhà nước để
thực hiện việc thu hồi đất đai và bồi thường, hỗ trợ cho các tổ chức, cá nhân bị thu hồi đất theo
quy định của pháp luật và bàn giao mặt bằng cho các chủ đầu tư, chủ dự án để triển khai các dự
án đầu tư xây dựng.
- Những nguyên nhân trong ách tắc giải phóng mặt bằng thu hồi đất tại đô thị:
Thứ nhất là: Hệ thống thể chế hành chính còn nhiều bất cập,
các chế độ chính sách liên quan đến giải phóng mặt bằng theo quy định của nhà nước chưa bao
quát hết được các vấn đề nảy sinh trong thực tiễn thực hiện, lại hay thay đổi. do vậy dẫn đến sự
bất cập trong việc thực hiện các chính sách ở cùng một dự án, trên cùng một địa bàn. Cụ thể như
sau:
Thứ hai là: kinh phí giải phóng mặt bằng, quỹ nhà, đất tái định cư còn thiếu.
Thứ hai là: kinh phí giải phóng mặt bằng, quỹ nhà, đất tái định cư còn thiếu.
Thứ tư là: nhận thức của người dân còn kém
Thứ năm là: công tác tiếp dân, giải quyết đơn thư khiếu nại tố cáo chưa triệt để.
Thứ sáu là: không công khai minh bạch chính sách của nhà nước
- Các chính sách không được công khai minh bạch khiến người dân mất niềm tin và khó thỏa
thuận. trong luật đất đai quy định ( trước khi thu hồi phải thông báo cho người sư dụng đất lý
do thu hồi, thời gian, kế hoạch di chuyển và phương án bồi thường thiệt hại) nhưng thực tế lại
không thực hiện được việc này nên khi có quyết định thu hồi thì người dân sẽ chống đối -> dẫn
đến ách tắc trong giải phóng mặt bằng.
Thứ bảy là: việc chỉ đạo của cấp chính quyền địa phương chưa quyết liệt, đồng bộ nhất là cấp cơ
sở nên chưa tạo thuận lợi cho chủ dầu tư trong giải phóng mặt bằng
Thứ tám là: chưa có sự tham vấn của chính người dân bị ảnh hưởng cũng như những người
được hưởng lợi từ dự án,
Sự tham gia của người dân là nhân tố quyết định thành công của công tác giải phóng mặt bằng.
tạo cho người dân cảm giác được tôn trọng từ đó ho sẽ ủng hộ hết mình cho các dự án.

Câu 6: thực trạng nhà ở tại các đô thị?
( t72-76 giáo trình)
Nhà ở xã hội là một loại hình nhà ở thuộc sở hữu của cơ quan nhà nước (có thể trung ương hoặc
địa phương) hoặc các loại hình nhà được sở hữu và quản lý bởi nhà nước, các tổ chức phi lợi
nhuận được xây dựng với mục đích cung cấp nhà ở giá rẻ cho một số đối tượng được ưu tiên
trong xã hội như công chức của nhà nước chưa có nhà ở ổn định, người có thu nhập thấp... và
được cho thuê hoặc cho ở với giá rẻ so với giá thị trường.
Ở Việt Nam, nhà ở xã hội được định nghĩa là nhà ở do Nhà nước hoặc tổ chức, cá nhân thuộc các
thành phần kinh tế đầu tư xây dựng cho các đối tượng được quy định của Luật Nhà ở thuê hoặc
thuê mua (người thuê nhà ở sau một thời gian quy định thì được mua và được công nhận sở hữu
đối với nhà ở đó) theo quy chế do Nhà nước quy định.[1][2] Đây là chính sách có ý nghĩa xã hội
lớn[3].
CÁC GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NHÀ Ở XÃ HỘI VÀ NHÀ Ở CHO NGƯỜI THU NHẬP
THẤP
1. Giải pháp về chính sách
Theo tổng kết của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) thì có 7 trụ cột cho chính sách nhà ở: Cải
thiện quyền sở hữu; Phát triển tín dụng bất động sản; Triển khai hệ thống hỗ trợ có định hướng
tốt; Mở rộng nguồn cung cấp đất đô thị; Cung cấp khung pháp lý cho việc phát triển đất và bất

5


động sản; Làm nổi bật tính cạnh tranh của ngành kinh doanh bất động sản; Phát triển khung thể
chế cho chính sách nhà ở cấp Quốc gia.
Về mặt chính sách, nước ta đã có “Chiến lược phát triển nhà ở đến năm 2020 và tầm nhìn tới
năm 2030” đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 30/11/2011. Luật đất đai 2003, Luật
nhà ở 2005 và Luật kinh doanh BĐS 2006 và các nghị định hướng dẫn thi hành.
Nghị định 71/NĐ - CP ngày 23/6/2010 quy định hướng dẫn thi hành Luật Nhà ở, thay thế cho
NĐ/2006/NĐ-CP đã thống nhất:
- Nhà ở xã hội cũng là nhà ở cho người thu nhập thấp chứ không tách ra như trước đây.

- Nhà đầu tư xây dựng nhà ở xã hội được miễn tiền sử dụng đất, hưởng thuế suất ưu đãi VAT,
giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, được vay kích cầu, tăng hệ số sử dụng đất.
Tuy nhiên vẫn cần quan tâm bổ sung một số chính sách như: Bổ sung tiền nhà vào lương đủ để
CB CN VC có khả năng giải quyết chỗ ở của mình. Đa sở hữu đất đai để cải thiện quyền sở hữu.
2. Giải pháp về quy hoạch sử dụng đất
Hội nghị toàn cầu trù bị cho Habitat II tại New Delhi Ấn Độ 1996 về “Tiếp cận đất đai và an
toàn cho người hưởng dụng là điều kiện cho chỗ ở và phát triển bền vững” đã chỉ rõ vai trò của
quy hoạch sử dụng đất đô thị. Quy hoạch sử dụng đất cần đáp ứng nhu cầu không gian để “phân
bố dân cư”.
Đối với nhà ở xã hội rất cần có quỹ đất để gắn kết với nơi làm việc và dịch vụ công cộng tạo
thành các khu liên hợp: Khu công nghiệp - nhà ở công nhân - dịch vụ công cộng, Trường đại học
- ký túc xá sinh viên - dịch vụ công cộng.
Như vậy, một bước đi quan trọng để thực hiện Chiến lược nhà ở Quốc gia trong đó có nhà ở xã
hội và nhà ở cho người thu nhập thấp là phải hoàn thành quy hoạch xây dựng có tính chiến lược
dài hạn và rộng khắp nhằm cung cấp một khung liên kết chính sách về đô thị và không gian sao
cho quy hoạch và đầu tư về nhà ở, toàn bộ cơ sở hạ tầng xã hội - không gian đô thị được phát
trển cơ bản là theo quy hoạch đô thị. Trên thực tế, công cụ chủ chốt để giải quyết và tạo điều
kiện hiện thực hóa quy hoạch đô thị không gì khác hơn là thực hiện theo Chiến lược nhà ở quốc
gia.
3. Giải pháp phát triển giao thông và cơ sở hạ tầng đồng bộ
Mục tiêu chủ yếu của quy hoạch đô thị là phải tăng cường quản lý sử dụng đất đồng thời với việc
kiểm soát tăng trưởng gắn kết với phát triển giao thông và cơ sở hạ tầng hạt nhân của việc sử
dụng đất hỗn hợp là đã kiểm soát được cả trên thực tế và có khả năng thực tiễn để không hạn chế
đến giao thông trong tương lai, đặc biệt là giữa chỗ ở và làm việc cần được tương thích với nhau.
Từ sự khởi đầu của chương trình nhà ở xã hội và nhà ở người thu nhập thấp là yếu tố quyết định
nhịp độ, theo đó các hệ thống giao thông, cơ sở thương mại, công nghiệp và tất cả các công trình
cơ sở hạ tầng khác được phát triển. Nó giúp xác định các lô đất và dịch vụ hạ tầng của chúng,
cho các tuyến đường nhà ga, các tuyến xe buýt và hệ thống giao thông công cộng. Nó cũng tạo ra
bước đi cho việc lắp đặt hầu như toàn bộ mạng lưới nước sạch, điện, liên lạc viễn thông và thoát
nước thải.


6


Cần thực hiện điều tiết chênh lệch địa tô do Nhà nước đầu tư kỹ thuật hạ tầng mà có để cân bằng
giữa phát triển nhà ở và phát triển hạ tầng đô thị.
Như vậy, Chiến lược nhà ở đã trực tiếp và gián tiếp đóng góp vào sự phát triển nhanh chóng cấu
trúc xã hội và không gian, tạo ra hạ tầng xương sống cho sự thịnh vượng kinh tế và ổn định
chính trị.
4. Giải pháp hợp tác nhà nước và tư nhân
Hợp tác Nhà nước - tư nhân (Public Private Parnership - PPP) là liên doanh hợp tác giữa Nhà
nước và tư nhân, được xây dựng trên cơ sở kỹ thuật chuyên môn của mỗi đối tác nằm đáp ứng
yêu cầu của người dân đã được xác định một cách rõ ràng thông qua việc phân bổ thích hợp các
nguồn lực, rủi ro và chế độ khen thưởng (Theo nguồn của chính phủ Canada 2001).
Các mô hình hợp tác giữa Nhà nước và tư nhân rất đa dạng về hình thái và quy mô. Tùy thuộc
vào mức độ kiểm soát của khối nhà nước mà sự tham gia của tư nhân có thể khác nhau từ việc
cung ứng các dịch vụ cho đến sở hữu hoàn toàn như: Công ty liên doanh; Sáng kiến công (khối
nhà nước ký hợp đồng dài hạn mua các dịch vụ chất lượng cao, trong đó nêu rõ các kết quả đầu
ra cần đạt được của phía tư nhân; Góp vốn chung; Hợp tác đầu tư; Đồng thực hiện chính sách
(việc bố trí các cá nhân trong lĩnh vực tư nhân hoặc các bên tư nhân tham gia vào việc xây dựng
hoặc triển khai thực hiện một số chính sách công nào đó); Chuyển nhượng; Ký hợp đồng hợp
tác.
Giải pháp hợp tác Nhà nước - tư nhân cũng có thể ứng dụng để phát triển nhà ở xã hội. Tuy
nhiên hiện nay nước ta chưa có cơ chế đầy đủ để vận hành mô hình “Hợp tác Công - Tư”.
5. Giải pháp về tài chính
Cần có một hệ thống tài chính đúng đắn để bảo đảm cung cấp đầy đủ vốn cho sản xuất và bảo
dưỡng quỹ nhà ở và các tiện nghi, đồng thời tạo điều kiện cho người mua nhà ở có thể trả dần
trong một thời gian dài.
Hiện ở nước ta nhiều thành phố đã có ngân hàng phát triển nhà, quỹ tín dụng cho người nghèo và
người thu nhập thấp (tham khảo mô hình tín dụng nhà ở cho người thu nhập thấp của Grameen

Bank - Bangladesh).
Theo luật pháp Singapore, tất cả các công dân làm việc phải trích vào quỹ này 20% lương của
mình, các doanh nghiệp, các chủ kinh doanh hàng tháng cũng phải nộp vào quỹ một số tiền nhất
định. Do vậy số tiền trong quỹ rất lớn, bằng 40% quỹ lương cả nước. Phần tiền lương trích vào
quỹ không bị đánh thuế thu nhập, nó vẫn thuộc vào quyền sở hữu của người gửi và xem như tiết
kiệm hàng năm được cộng vào lãi theo quy định và chỉ được rút ra khi về hưu hoặc các khoản
chi cần thiết như mua nhà hay chữa bệnh. Quỹ này hỗ trợ cho dân có tiền gửi tiết kiệm để mua
nhà, tiền trả góp hàng tháng cho nhà nước.
Cần sớm thành lập “quỹ tiết kiệm nhà ở” (quỹ này hình thành trên cơ sở tái cơ cấu quỹ phát triển
nhà tại các địa phương). Quỹ tiết kiệm nhà ở hỗ trợ cho người có nhu cầu nhà ở nhưng thu nhập
hạn chế. Nguồn vốn được hình thành từ sự đóng góp của người lao động từ tiền lương theo tỷ lệ
quy định (có quốc gia quy định mức 10 - 15%, mức thấp nhất từ 3 - 5%). Mục đích của quỹ tiết
kiệm nhà ở để đầu tư xây dựng nhà ở và cho người mua vay ưu đãi. Người gửi tiền sau 10 - 15
năm sẽ được mua nhà bằng tiền tiết kiệm. Nếu người gửi không xóa yêu cầu mua nhà thì khi
nghỉ hưu sẽ được trả cả gốc lẫn lãi. Đây là mô hình được hầu hết các nền kinh tế đang phát triển
áp dụng.

7


Mặt khác, đối với hộ gia đình cá nhân tham gia chương trình tiết kiệm nhà ở, tiền đóng góp hàng
tháng có thể không tính theo tỷ lệ tiền lương mà tính theo nhu cầu của khoản vay dự kiến. Khi
tiền đóng góp vào quỹ bằng khoảng 30% giá trị nhà ở cần mua hoặc cần thuê mua và thời gian
đóng góp quỹ tối thiểu từ 5 năm trở lên thì hộ gia đình, cá nhân sẽ được vay tiền từ Quỹ tiết kiệm
nhà ở. Việc cho vay được tính trên nguyên tắc, ai gửi tiết kiệm nhiều hoặc thời gian dài hơn thì
được ưu tiên vay trước. Người vay phải trả đều hàng tháng trong thời hạn tối thiểu 15 năm, tính
từ ngày được vay để mua nhà ở xã hội.
Tuy nhiên nguồn vốn hình thành quỹ tiết kiệm nhà ở cần được huy động từ nhiều nguồn: nguồn
vốn của quỹ tiết kiệm nhà ở, 10% tiền sử dụng đất thu được từ các dự án phát triển thương mại,
dự án khu đô thị mới, nguồn vốn từ ngân sách Trung ương cấp 1 lần ban đầu cho quỹ, ngân sách

địa phương hỗ trợ hàng năm, 30% lợi nhuận thu được từ phát hành sổ số kiến thiết hoặc phát
hành xổ số nhà ở. Nguồn vốn từ việc phát hành trái phiếu nhà ở bắt buộc đối với các đối tượng
tham gia một số hoạt động liên quan đến bất động sản. Đặc biệt, vì là quỹ tiết kiệm nên còn có
nguồn đóng tiết kiệm và trả nợ của các đố tượng có nhu cầu tham gia đóng vào quỹ.
Người vay là doanh nghiệp, theo đề án, quỹ sẽ thực hiện cho vay đối với doanh nghiệp có dự án
đầu tư xây dựng nhà ở xã hội. Số tiền cho vay tối đa bằng 70% tổng vốn đầu tư xây dựng và lắp
đặt thiết bị của dự án nhà ở xã hội. Lãi suất cho vay từ quỹ bằng lãi suất trung hạn của ngân hàng
thương mại trừ (--) lãi xuất không kỳ hạn, cộng (+) 1%.
6. Giải pháp về tổ chức
Theo kinh nghiệm của các nước châu Á thì cần có một cơ quan có đủ quyền lực làm đầu mối đề
xuất chính sách để quản lý vào phát triển nhà ở xã hội nhằm đảm bảo giải quyết các nhiệm vụ
quan trọng về đất đai, tái thiết và phát triển các khu vực đô thị, xây dựng và quản lý nhà ở xã hội.
Do vậy có thể thành lập Tổng cục Phát triển nhà. Mặt khác cũng có thể thành lập Tổng công ty
Phát triển nhà nhà nước để thực hiện nhiệm vụ chủ yếu là phát triển nhà ở xã hội.
Giải pháp từ nước Mỹ:Chương trình nhà ở quốc gia chú trọng đáp ứng nhu cầu nhà ở đối với
những gia đình có thu nhập thấp với 3 chương trình như: Hỗ trợ nhà ở; Khuyến khích chính
quyền địa phương nâng cao chất lượng nhà ở và các khu dân cư ngoại thành; Chính sách giảm
giá thuê căn hộ.
Có 4 biện pháp cụ thể là: Hỗ trợ tài chính thông qua phát hành tín phiếu; Hỗ trợ bù lỗ cho các
đơn vị kinh doanh nhà phần chênh lệch giữa giá cho thuê thực tế, giá thị trường và giá ưu đãi,
sao cho gia đình nghèo chỉ trả tiền thuê nhà không lớn hơn 30% thu nhập; Hỗ trợ sửa chữa, cải
tạo nhà; Lựa chọn gia đình đủ điều kiện ở nhà xã hội thuộc sở hữu của Nhà nước.
Chung cư cho người thu nhập thấp thường cao từ 10 đến 16 tầng, trong một nhóm nhà có 5-10
công trình với chiều cao khác nhau. Những tầng đầu tiên là các không gian công cộng. Khu dân
cư này thường do các công ty lớn xây dựng và hàng năm Nhà nước thanh toán các khoản hỗ trợ
đã cam kết
Ý nghĩa và các biện pháp phát triển NOXH
- Thực hiện thành công mục tiêu an sinh xã hội của nhà nước
- Giúp những người thu nhập thấp ở đô thị được hưởng nhu cầu tối thiểu của con người đó là nhà
ở trong điều kiện dân số đô thị ngày càng tăng cao; nâng cao chất lượng sống cho nguời dân đô

thị.
- Khắc phục những mặt trái của cơ chế thị trường
- Phát triển NOXH giúp giải quyết các vấn đề xã hội của đô thi, thay đổi bộ mặt của các đô thị

8


- Tạo tâm lý an tâm, ổn định của người dân, có an cư mới lạc nghiệp để tập trung cho các hoạt
động khác
- Phù hợp với quỹ tài chính của những người có thu nhập thấp sống tại các đô thị
- Phát triển NOXH kéo theo sự phát triển cơ sở hạ tầng của đô thị, giúp đưa các hoạt động quy
hoạch ở đô thị vào quy củ, trật tự
- Phát triển NOXH giúp bình ổn thị trường nhà đất ở các đô thị, làm ấm lên thị trường bất động
sản đang trầm lắng
- Giúp giảm bớt gánh nặng cho NSNN để phát triển NOXH thông qua việc thu hút, khuyến khích
tổ chức, cá nhân thuộc các thành phần kinh tế trong nước và nước ngoài đầu tư phát triển quỹ
nhà ở xã hội
GIAI PHÁP
1, Về chính sách, pháp luật
Chính sách đất đai, quy hoạch xây dựng NOXH
Chính sách về thu hút, khuyến khích các thành phần ngoài Nước tham gia phát triển NOXH
Chính sách về đối tượng được thuê, mua NOXH
Chính sách đảm bảo nguồn lực tài chính cho phát triển NOXH
2, Về tổ chức bộ máy quản lý công tác phát triển NOXH
Câu 7: Đô thị Việt Nam có những đặc điểm gì khác đô thị phương Tây? Và làm gì để các đô
thị Việt Nam là "đầu tàu" của sự phát triển đất nước?
I. Khái niệm đô thị:
Đô thị là một hình thức tồn tại của xã hôi loài người trong phạm vi không gian - xã hội mang
tính cụ thể về mặt lịch sử, là hình thức tổ chức cư trú của con người, được đặc trưng bởi các chỉ
báo sau:

_ Số lượng dân cư tập trung trên một phạm vi lãnh thổ hạn chế (mật độ dân số cao).
_ Đại bộ phận dân cư làm các hoạt động sản xuất phi nông nghiệp.
_ Là môi trường sống trực tiếp, tạo ra những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của xã hội và
cá nhân
. _ Giữ vai trò chủ đạo đối với các vùng nông thôn xung quanh và với toàn xã hội nói chung.
II. Sự khác nhau giữa đô thị Việt Nam với đô thị phương Tây:
Có ba đặc điểm khiến cho đô thị Việt Nam có diện mạo trái ngược hẳn so với đô thị phương Tây:
(1). Trong khi đô thị ở Việt Nam không nảy sinh bằng con đường phát triển tự nhiên, tức không
phải là hệ quả của sự phát triển tiểu thủ công nghiệp và thương mại, mà trái lại là do Nhà nước
khai sinh ra.
Còn hầu hết đô thị phương Tây đều hình thành một cách tự phát nếu có một trong ba đội hình
sau:
(a)là nơi tập trung đông dân;
(b)có sản xuất công nghiệp;
(c)là nơi tập trung buôn bán (ba nguyên nhân này liên quan chặt chẽ với nhau). Cũng có trường
hợp đô thị phương Tây do nhà nước sinh ra (như Peterburg), nhưng đã có tính đến yếu tố giao
thông và kinh tế, vì vậy, đã phát triển rất tốt sau khi hình thành.
(2). Về chức năng, trong khi đô thị của ta thực hiện chức năng hành chính là chủ yếu thì đô thị
phương Tây thực hiện chức năng kinh tế là chủ yếu. Khi nhà nước có nhu cầu mở trung tâm hành
chính thì họ thường chọn một trong những đô thị có sẵn.
(3). Về mặt quản lí, trong khi đô thị của ta do Nhà nước quản lí thì đô thị phương Tây là tổ chức
tự trị. Đó là một truyền thống rất lâu đời ở phương Tây. Từ thời Hi Lạp cổ đại đã tồn tại các thị
quốc (đô thị - quốc gia) với những hoạt động chủ nghĩa hoàn toàn độc lập, nằm ngoài quyền lực
của các lãnh chúa phong kiến và có hiến chương riêng; các thị dân tự bầu ra Hội đồng thành phố
và thị trưởng cho mình.
Như vậy, trong khi ở phương Tây, làng xã là cái "bao tải khoai tây" rời rạc, còn đô thị là một tổ
chức tự trị vững mạnh thì, ngược lại, ở Việt Nam làng xã nông nghiệp là một tổ chức tự trị vững
mạnh, còn đô thị lại yếu ớt, lệ thuộc. Đó là một bức tranh mang tính quy luật tất yếu do sự khac

9



biệt của hai loại hình văn hóa quy định: ở nền văn hóa Việt Nam nông nghiệp trọng tĩnh, làng xã
trung tâm, là sức mạnh, là tất cả cho nên làng xã có quyền tự trị. Còn ở các nền văn hóa châu Âu
sớm phát triển thương mại và công nghiệp, thì hiển nhiên là đô thị tự trị và có uy quyền.
III. Làm gì để các đô thị Việt Nam là "đầu tàu" của sự phát triển đất nước?
1. Tình hình phát triển của đô thị Việt Nam trong giai đoạn hiện nay:
Phát triển và tăng trưởng đô thị ở Việt Nam nhìn chung là muộn và chậm hơn so với một số nước
ở khu vực.
Phát triển không đồng đều giữa các vùng và chênh lệch nhiều giữa các khu vực khác nhau về đặc
điểm, địa lý.
Đồng bằng, duyên hải phát triển nhanh, vùng núi, vùng cao phát triển chậm. Mức sống của đô thị
và nông thôn chênh lệch lớn.
Đô thị bị quá tải dồn ép ở tất cả các mặt từ hạ tầng kỹ thuật và cả hạ tầng xã hội. Trong 20 năm
đổi mới hệ thống đô thị Việt Nam đã có những thành tựu nhất định, cho đến nay diện tích đất
toàn đô thị là 48.965 km2 chiếm 14,78% tổng diện tích đất tự nhiên của cả nước;
trong đó đất nội thị là 14.104 km2 (chiếm 4,26%) đất ngoại thị là 34.861 km2 (chiếm 10,52%).
Dân số toàn đô thị là 31,695 triệu người chiếm 37,0% dân số cả nước, dân số nội thị là 25,990
triệu người chiếm 30,5%; dân số ngoại thị là 5,602 triệu người chiếm 6,5%.
Mạng lưới đô thị quốc gia đã đang được mở rộng và phát triển tại các vùng, dọc theo các trục
hành lang kinh tế - kỹ thuật quốc gia, quốc tế quan trọng.
Đến tháng 6/2009 cả nước có 747 đô thị, trong đó: loại đặc biệt là 2 (Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh);
loại I là 7; loại II là 13; loại III là 44; loại IV là 44 và loại V là 637. Có một sự mất cân đối lớn
trong sự phân bố các đô thị loại IV và loại V Các khu đô thị mới cũng phát triển mạnh mẽ đóng
góp không nhỏ cho quỹ nhà của đô thị, và tạo cảnh quan, nâng cao chất lượng sống của người
dân đô thị. Tổng số khu đô thị mới có quy mô 20ha đến trên 1.000ha là 486 khu với diện tích
theo quy hoạch dự kiến là 74.057 ha. Trung bình một tỉnh có khoảng 7-8 khu đô thị mới với diện
tích khoảng 1.175,5 ha. Trung bình một khu đô thị mới có diện tích khoảng 152ha Điều đáng nói
ở đây là đô thị hoá vừa là bạn đồng hành vừa là bà đỡ cho mọi quốc gia trong thời kỳ công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Vì vậy chúng ta phải biết kiên nhẫn, biết đón đợi các thách

thức và vận hội mới trong quá trình vận động tăng trưởng kinh tế đất nước và phát triển đô thị. 2.
Các biện pháp để đô thị Việt Nam trở thành "đầu tàu" của sự phát triển đất nước:
Việc nhận dạng quy luật phát triển đô thị là bài toán tổng hợp, bài toán cực kỳ khó khăn phức
tạp. Vì vậy đòi hỏi có những nghiên cứu cẩn trọng, nghiêm túc và khoa học, từ phía Nhà nước,
các Bộ, ngành. ở đây cũng cần phải nói rằng: trước đây khi nhận thức chưa đầy đủ về sự vật (mà
sự vật vốn khách quan trong mọi lí lẽ), do chủ quan, duy ý chí mà dẫn tới có những dự báo kém
chính xác. Đồng thời chúng ta cũng chưa coi trọng việc nghiên cứu, học hỏi cách làm của các
nước khác, đặc biệt là các nước không giống ta về thể chế chính trị. Bài toán đặt ra là không
được phép chủ quan, duy ý chí mà nên cố gắng hiểu rõ các đòi hỏi thực tế của nền kinh tế đang
vận động, đang thay thế, đổi chỗ khá linh hoạt của đất nước chúng ta hiện nay.
Giải pháp được đặt lên hàng đầu có thể kể đến trong công cuộc quản lí, điều tiết phát triển đô thị,
đó là:
Thứ nhất, Đường lối chung trong việc quản lí và phát triển các đô thị trên thế giới hiện nay là
hạn chế sự phát triển quá mức các đô thị lớn, khuyến khích sự phát triển các đô thị vừa và nhỏ.
Điều này cũng rất phù hợp với thực tiễn Việt Nam hiện nay, vì mạng lưới đô thị của ta phát triển
không đồng đều trong cả nước. Các đô thị của ta tập trung chủ yếu ở phía Bắc với thủ đô Hà Nội
là trung tâm và phía Nam với thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm. Điều đó đòi hỏi Đảng và Nhà
nước ta trong chính sách quản lý, xây dựng và phát triển đô thị cần khuyến khích và đầu tư phát
triển các đô thị nhỏ và vừa, đặc biệt ở miền Trung, Tây Nguyên, các vùng trung du và miền núi
phía Bắc nhằm khắc phục tình trạng không đồng đều trong phân bố đô thị. Điều đó cũng góp
phần mở mang dân trí, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân các vùng xa xôi, hẻo
lánh, phù hợp với chiến lược của Đảng và nhà nước ta là đưa nông thôn và đô thị xích lại gần
nhau.

10


Thứ hai, Nhà nước cần có những chính sách phát triển cơ sở hạ tầng kĩ thuật và xã hội nhằm cải
thiện các điều kiện sống, sinh hoạt và lao động cho dân cư đô thị. Bên cạnh đó, các chính sách
cần dựa theo quan điểm phát triển về chất, theo chiều sâu chứ không phải chỉ là mở rộng và

phình to về qui mô dân cư và lãnh thổ. Về mặt xã hội, khía cạnh này chủ yếu có liên quan tới vấn
đề nhà ở, quy hoạch và quản lí đô thị.
Thứ ba, tiếp tục đẩy mạnh tiến trình cải cách trong công tác quản lý phát triển đô thị thông qua
việc phân cấp mạnh hơn, sâu hơn. Phân định trách nhiệm quản lý đô thị và kiểm soát phát triển
cho địa phương. Đồng thời với việc hướng dẫn cụ thể là công tác chỉ đạo tổ chức thực hiện theo
phân cấp. Vấn đề này đang bị coi nhẹ.
Thứ tư, tăng cường hơn, ráo riết hơn về yêu cầu đào tạo đội ngũ chuyên môn có đủ trình độ quản
lí phát triển đô thị theo phân cấp đến tận đô thị loại 4 và 5.
Thứ năm, cơ quan quản lí cấp trên phải tự giác hoàn thiện tri thức, tiến hành việc nắm bắt thông
tin về phát triển đô thị của cả nước để kịp thời có cách chính sách chuẩn bị phù hợp.
Cuối cùng, nội dung quan trọng là tạo điều kiện để các đô thị theo vùng phối hợp, liên kết.
Nghiên cứu quy hoạch xây dựng Vùng nhằm giải quyết cơ bản và sát đúng các bài toán Vùng về
các mặt: Kinh tế thực lập; Xã hội ôn bình; Văn hoá đa sắc; Môi trường cận sinh; Định cư sinh
lợi; An ninh quốc gia.
Lộ trình này phải chú trọng đến các bước:
Thảo luận, thương thuyết, phối hợp, ra quy chế Vùng, phối hợp, điều hành chính sách, hợp tác
Vùng theo giai đoạn. Việt Nam sẽ có những đô thị xứng tầm, đủ sức cạnh tranh quốc tế; có vai
trò quan trọng trong mạng lưới đô thị chủ chốt toàn cầu.
Cụ thể:
- Xây dựng Việt Nam thành một cửa ngõ chiến lược cho thị trường du lịch dịch vụ của khu vực
và thế giới. Phát triển đô thị gắn với chiến lược phát triển kinh tế biển - đảo, biên giới và cửa
khẩu;
- Tạo các trục mở thúc đẩy phát triển lãnh thổ, các trục hành lang biên giới; trục ven biển và trục
hành lang Bắc Nam, Đông Tây;
- Đẩy mạnh tính cạnh tranh của vùng, từng đô thị bằng cách phân chức năng quản lý Vùng. Tăng
cường phát triển vùng, hạn chế phát triển theo kiểu lan toả. Dần từng bước hiện đại hóa kết cấu
hạ tầng khu vực nông thôn (đô thị hóa nông thôn). Phát triển các khu công nghiệp, cảng, các khu
vực dịch vụ tại các vùng chiến lược. Đẩy mạnh phát triển văn hóa địa phương và du lịch;
- Tạo môi trường sống tốt, an toàn bằng việc xây dựng một hệ thống quản lý môi trường và phát
triển đô thị trong cả nước. Tăng cường quản lý đất đai quốc gia. Tạo một môi trường sống thoải

mái cho người dân. Lập các kế hoạch làm giảm nhẹ và đối phó với thiên tai. Đảm bảo việc cung
cấp nước sạch đầy đủ cả với các đô thị loại V và các khu vực nông thôn;
- Thúc đẩy mạng lưới thông tin liên lạc và giao thông của quốc gia. Xây dựng hệ thống giao
thông liên kết trong vùng và tiến tới hoà với mạng lưới cả nước. Xây dựng Việt Nam thành một
điểm trung chuyển chiến lược của Đông Nam á và Châu á với các khu vực cảng biển quốc tế, với
các khu kinh tế tư do. Xây dựng hệ thông giao thông an toàn, hiệu quả và thân thiện với môi
trường. Kiểm soát chi phí và chất lượng xây dựng giao thông công cộng. Xây dựng một “quốc
gia có hạ tầng cơ sở được quản lý bằng hệ thống công nghệ thông tin thông minh”;
Hệ thống đô thị Việt Nam phát triển theo 3 giai đoan:
đến 2015 phát triển theo mô hình vùng đô thị lớn,
đến 2025 vùng đô thị hóa tậo trung
và ngoài 2025 là mạng lưới đô thị;
có cơ cở hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội phù hợp, đồng bộ, hiện đại; có môi trường và chất
lượng sống đô thị tốt; có nền kiến trúc đô thị tiên tiến, giàu bản sắc; có vị thế xứng đáng, có tính
cạnh tranh cao trong phát triển kinh tế - xã hội quốc gia, khu vực và quốc tế.
Dự báo năm 2015 tổng số đô thị cả nước đạt trên 870 đô thị, đến 2025 tổng số đô thị cả nước đạt
khoảng trên 1000 đô thị.

11


Dân số đô thị năm 2015 đạt khoảng 35 triệu người, tỉ lệ đô thị hóa đạt khoảng 38%; năm 2025
khoảng 52 triệu người, tỉ lệ đô thị hóa đạt khoảng 50%.
Câu 8: Mục đích QLNN về đất ở đô thị? (T92 giáo trình).
Tại sao NN lại cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất?
- Quản lý hiệu quả quỹ đất.
- Hiệu quả trong quy hoạch đô thị.
- Tiết kiệm, thống kê đầy đủ quỹ đất.
- Phát hiện, xử lí các trường hợp vi phạm.
Câu 8: nguyên nhân gây ùn tắc giao thông?

1. Nguyên nhân của ùn tắc :
a. Nguyên nhân khách quan :
Thứ nhất : do cơ sở hạ tầng giao thông
+ Quá lạc hậu một phần do kinh tế yếu kém và do không thật sự chú
trọng đến hạ tầng giao thông hay là chưa tính toán đến lâu dài. Hạ tầng xây dựng
thiếu khao học, bố cục giao thông thành phố lại được tổ chức theo mạng xuyên
tâm với nhiều trục chính kết nối bởi nhiều nhánh ngang và hướng vào trung tâm,
mật độ giao thông trên các trục chính này rất lớn và giầy đặc quá tải vào các giờ
cao điểm là điều khó tránh .
Hơn nữa hạ tầng giao thông lại không an toàn bởi cắt xén nguyên liệu
trong quá trình thi công trước kia .
+ Không đáp ứng đủ con đường để đi lại nghĩa là thiếu đường (mặc dù đã
có cầu vượt và hầm chui nhưng vẫn còn thiếu nghiêm trọng. Theo thống kê ở
Thành phố Hồ Chí Minh lượng phương tiện cơ giới bằng 1/4 nhưng tổng số
chiều dài đường bộ chưa bằng 1% so với cả nước (1685 km/210.000km ) và mật
độ mạng lưới giao thông mới đạt 0,8 km/km . Đặc biệt là những nhánh đường
giáp giữa nội thành và ngoại thành thì hẹp và xấu nhưng lại là nơi có nhiều
người đi lại nên dễ dàng bị ùn tắc .
Thứ hai : do xe cơ giới
+ Nguyên nhân chủ yếu của loại xe gây ra ùn tắc là xe máy :
* Xe máy tập trung quá nhiều trên đường phố . Ước tính hiện nay ở Hà
Nội có 1,3 triệu xe trung bình 1,9 người/ 1 xe, còn ở Thành phố Hồ Chí Minh có
2,2 triệu xe trung bình 2,5 người/ 1 xe . Mật độ xe dày đặc này có lẽ là cao nhất
trên thế giới.
Nhưng nguyên nhân bên trong của việc có quá nhiều xe là trên thị
trường, xe máy
Trung Quốc nhiều và giá rẻ hơn khoảng 5 lần so với xe Nhật .
Do đó có nhiều người có khả năng mua được xe hơn so với trước . Cũng chỉ vì
chạy theo kinh tế mà vô hình trung gây ra tác hại cho đô thị, nhưng trên thực tế
xe máy lại là phương đắc lực, phù hợp với nhiều địa hình.

* Xe máy gây ra chủ yếu các vụ tai nạn . Năm 2001 do xe máy gây ra
chiếm tới 71,16% tổng số vụ, 67,92%( 880 người ) số người chết, 77,45( 2204
người ) số người bị trương, còn đến giữa tháng 11/2002 con số tương ứng là
75,76%, 75,34% và 82,71% . Nhưng cái quan trọng hơn cả là nó gây tác haịo

12


đến con người, đến của cải vật chất . Tuy nhiên cũng không thể đổ hết tội cho xe
máy được vì mặc dù tai nạn do xe máy có tăng nhưng so với sự gia tăng nhanh
chóng gấp bội của số lượng xe máy thì tai nạn giao thông lại giảm . Cụ thể ở
Thành phố Hồ Chí Minh sè tai nạn năm 2001 so với năm 2000 chỉ tăng 9,56%
trong khi sè xe mới năm 2001 (396.903 xe ) so với năm 2000( 225.682 xe ) tăng
75,86% . Chưa kể còn các xe lậu , xe chưa đăng ký, xe ở nơi khác .
* Xe bus cũng đóng góp 1 phần vào nguyên nhân gây ùn tắc vì xe bus ở
đô thị hiện vẫn chưa tốt : xe cò, xe không an toàn, không đủ tuyến, không đúng
giờ, không cơ động . Mặc dù đã có các xe bus mới nhưng có vẻ như những xe
mới này kồng kềnh, nặng nề, chiếm nhiều diện tích, không phù hợp với đô thị và
đôi khi số người trên xe quá đông vào giờ vào giờ cao điểm nên gặp khó khăn
khi nên xuống làm chậm tiến độ đi lại của xe dẫn đến dễ ùn tắc .
Thứ ba : do con người
+ Dân số quá đông, cả nước có gần 80 triệu người trong khi diện tích
hẹp. Đặc biệt là ở đô thị mật độ còn đông hơn vì có nhiều dân cư nơi khác đến.
Được thể hiện ngay trên đường phố là ùn tắc .
+ ý thức thực hiện nội quy giao thông còn kém, vẫn còn các trường hợp
vượt đèn đỏ, đi ngược chiều, vượt Èu, không giấy phép đặc biệt là những lúc tắc
đường thì nhiều người muốn chen ngang lấn đường và không tuân theo hiệu lệnh
điều chỉnh của cảnh sát giao thông : VD như ở ngã Tư Sở, ngã tư chợ Mơ.
b. Nguyên nhân chủ quan :
Là do tổ chức quản lý giao thông đô thị Việt Nam chưa chặt chẽ :

Mặc dù trong thời gian gần đây ngành giao thông đã có sự tăng cường về
lực lượng nhưng vẫn còn có nhiều ở ngã ba, ngã tư không có cảnh sát giao thông
( CSGT ), không có đèn đỏ, lực lượng CSGT máng, trang bị kỹ thuận lạc hậu.
Vẫn còn nhiều tuyến đường hai chiều, xe cộ đi đan xen, Ýt tuyến đường
một chiều.
Vẫn chưa sử phạt nghiêm khắc đối với những người phạm quy, xây dụng
trái phép, vẫn để các loại xe không đủ tiêu chuẩn an toàn kỹ thuật.
Do đào đường, đào hố, sữa chữa công trình chưa đồng bộ, chưa rứt
khoát, thực hiện chưa nhanh chóng , thường kéo dài .Hơn nữa còn có những con
đường để sửa lại thiết bị cấp thoát nước và đường ống dẫn nước thải…
2. Kết quả của nạn ùn tắc giao thông ảnh hưởng tới nền kinh tế xã hội :
Ùn tắc gây ra nhiều hậu quả đáng tiếc nhưng có lẽ hậu quả dưới đây là
đáng chú ý hơn cả :
Thiệt hại về kinh tế do ùn tắc giao thông gây ra :
+ Riêng chỉ tiêu hao nhiên liệu thôi do ùn tắc giao thông mỗi ngày vào
các giờ cao điểm do xe máy gây ra cũng phải tốn đến vài tỉ đồng. Ước tính ở
Thành phố Hồ Chí Minh tốn hết hơn 1 triệu lít, tức khoảng 5,5 tỉ đồng .
+ Thiệt hại lớn hơn cả là làm chậm tiến độ công việc, lưu thông, vận
chuyển khó khăn hơn, đặc biệt đối với những nhà kinh doanh, buôn bán thì thời
gian còn quý hơn vàng . Hơn nữa chậm giao hàng, lỡ hẹn ...sẽ làm giảm uy tín
khi đó thiệt hại về kinh tế còn là khó có thể mà tính được, là vô cùng dẫn đến
kìm hãm sự phát triển kinh tế đô thị .

13


3. Các phương pháp khăc phục làm giảm ùn tắc giao thông :
Ngoài giải pháp khắc phục xe cơ giới ra, còn 2 giải pháp khắc phục chủ
yếu hiện nay nữa là xây dựng hạ tầng và quản lý giao thông đô thị :
Giải pháp về xe cơ giới : thay thế dần xe máy và xe bus bằng 1 xe bus

khác, cơ động hơn, an toàn hơn, gọn nhẹ hơn,... Có thể là xe bus 2 tầng, cơ động,
an toàn, chứa được nhiều người, nhỏ nhẹ cũng có nghĩa là làm giảm tỉ trọng của
xe là giải pháp hữu hiệu để giảm công suất xe, giảm nhiên liệu, dẫn tới giảm
lượng khí thải độc hại . Bởi vì sao lại thay thế dần xe máy và xe bus bằng 1 xe
bus khác là vì chúng ta không thể đưa ra những chính sách bất lợi cho xe máy
bởi lẽ xe máy là phương hữu hiệu, sự lựa chọn của người dân luôn đúng . Hơn
nữa hiện nay có nhiều xe máy và xe bus không an toàn,...
Giải pháp về xây dựng hạ tầng giao thông : đã có đầu tư lớn để sửa chữa,
thay thế cầu, đường, lắp đặt hệ thống chiếu sáng, chống ngập úng, mở rộng
đường ,... Tuy nhiên nhiều công trình giao thông còn ách tắc và chậm vì phải chờ
giải toả, đấu thầu hoặc là chờ vốn . Mà 1 phần chính lý do đó khiến ùn tắc vẫn
kéo dài trong nhiêù năm . Do đó giải pháp tiếp theo là phải đẩy nhanh tiến độ thi
công nhưng vẫn phải đảm bảo chất lượng và phải cung cấp vốn, nguyên liệu đến
tận công trình chứ khong qua nhiều trung gian .
Giải pháp về quản lý giao thông : Phải biết làm thế nào để trong đầu mỗi
người dân luôn có ý thức thái độ tôn trọng pháp luật và luân chấp hành luật lệ
giao thông. Muốn làm được như thế thì ngành giao thông cần phải nghiêm khắc
xử phạt những người vi phạm nội quy giao thông, xây dựng trái phép, lấn chiếm
vẻ hè ; thay thế dần các tuyến đường 2 chiều bằng các tuyến đường 1 chiều ; cấm
các loại xe ba bánh, xe bán hàng dong, xe chở kồng kềnh và những xe không đủ
tiêu chuẩn kỹ thuật ; tăng cường lực lượng CSGT, trang bị các thiết bị cần thiết
cho CSGT ; ... Tuy nhiên cần phải có giải pháp tiếp theo là lập ra các tổ chức
thanh tra, giám sát công việc một cách chặt chẽ đối với CSGT, đối với quản lý
giao thông, ví dụ : âm thầm giám sát xem CSGT có bắt những người vi phạm
không như là vượt đèn đỏ,...và nếu phát hiện ra CSGT nào không thực việc bắt
những người vi phạm thì người sẽ bị kỷ luật hay đình chỉ công việc . Khi đó việc
quản lý giao thông mới có hiệu quả hơn .
Câu 9:THỰC TRẠNG CẤP NƯỚC ĐÔ THỊ VIỆT NAM CHƯƠNG TRÌNH, KẾ HOẠCH
XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN
Trong những năm qua, nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng một cách nhanh chóng. Tỷ lệ

GDP của nền kinh tế quốc doanh ngày càng cao. Tốc độ phát triển đô thị ngày càng nhanh, theo
số liệu thống kê năm 2000 dân số đô thị cả nước là 17 triệu, đến năm 2005 sẽ là 22 triệu người.
Xu hướng đô thị hoá trên cả nước ngày càng phát triển cả về số lượng và quy mô dân số, thu hút
nhiều dân cư và các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ…Song cơ sở hạ tầng các
đô thị còn yếu kém nhất là giao thông, cấp thoát nước và vệ sinh môi trường, chưa đáp ứng được
yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của các đô thị trong giai đoạn hiện nay.
I.

THỰC TRẠNG VỀ TÌNH HÌNH CẤP NƯỚC TẠI CÁC ĐÔ THỊ - NHỮNG
TỒN TẠI VÀ THÁCH THỨC

Trong thời gian qua, hệ thống cấp nước các đô thị Việt Nam đã được Đảng, Chính phủ
quan tâm ưu tiên đầu tư cải tạo và xây dựng, nhờ vậy tình hình cấp nước đã được cải thiện một
cách đáng kể. Nhiêù dự án với vốn đầu tư trong nước, vốn tài trợ của các Chính phủ, các tổ chức
Quốc tế đã và đang được triển khai.
Hiện nay toàn bộ 64 thành phố, thị xã tỉnh lỵ trong cả nước đã có các dự án cấp nước ở các

14


mức độ khác nhau. Tổng công suất thiết kế đạt 3,42 triệu m3/ngđ. Nhiều nhà máy được xây dựng
trong thời gian gần đây có dây truyền công nghệ xử lý và thiết bị khá hiện đại. Trong 670 đô thị
vừa và nhỏ (loại IV và loại V) đã có khoảng 200 thị xã, thị tứ có hệ thống cấp nước tập trung quy
mô từ 500 đến 2000, 3000 m3/ngđ được xây dựng từ nhiều nguồn vốn và do nhiều cơ quan,
doanh nghiệp quản lý.
Tuy nhiên tình hình cấp nước đô thị còn nhiều bất cập:
1.
Tỷ lệ cấp nước còn rất thấp: trung bình đạt 45% tổng dân số đô thị được cấp nước,
trong đó đô thị loại I và loại II đạt tỷ lệ 67%, các đô thị loại IV và loại V chỉ đạt 10-15%.
2.

Công suất thiết kế của một số nơi chưa phù hợp với thực tế: Nhiều nơi thiếu nước,
nhưng cũng có đô thị thừa nước, không khai thác hết công suất, cá biệt tại một số thị xã chỉ khai
thác khoảng 15-20% công suất thiết kế.
3.
Tỷ lệ thất thoát thất thu nước còn cao: Sau Hội nghị cấp nước toàn quốc lần thứ III,
các công ty cấp nước địa phương đã có nhiều cố gắng giảm tỷ lệ thất thoát thất thu nước đã được
Bộ Xây dựng đề ra. Nhiều địa phương như Hải Phòng, Huế, Đà Lạt, Vũng Tàu, Tiền Giang, đạt
được kết quả tốt, nhưng tại nhiều đô thị tỷ lệ thất thoát thất thu vẫn còn cao như Thái Nguyên,
Hà Nội, Nam Định, Hà Tĩnh, Vinh…
Tỷ lệ thất thu cao không chỉ chứng tỏ sự yếu kém về mặt năng lực quản lý (cả tài chính
và kỹ thuật) mà nó còn thể hiện kết quả của quá trình đầu tư không đồng bộ giữa việc tăng công
suất với công tác phát triển mạng lưới đường ống. Bộ Xây dựng đã đề ra chỉ tiêu đến năm 2005:
Đối với các đô thị có hệ thống cấp nước cũ tỷ lệ thất thoát thất thu dưới 40%, các đô thị có hệ
thống cấp nước mới là nhỏ hơn 30%.
4.
Chất lượng nước: tại nhiều nhà máy chưa đạt tiêu chuẩn quy định, tình trạng nguồn
nước ngầm, nước mặt bị ô nhiễm nặng nề ảnh hưởng đến sức khoẻ của nhân dân. Theo số liệu
thống kê, tổng công suất khai thác hiện nay là 2,9 triệu m3/ngđ (trong đó 66% là nước mặt, 34%
là nước ngầm). Công tác khảo sát và quản lý nguồn nước nói chung do Bộ Tài nguyên - Môi
trường và địa phương quản lý. Việc chất lượng nguồn nước có những biến động trong quá trình
khai thác do nhiều nghuyên nhân:
-

-

-

-

Tình hình khí tượng thuỷ văn trong những năm gần đây có nhiều biến động phức

tạp, tình hình, hạn hán, lũ lụt ngày càng nghiêm trọng do hậu quả của hiện tượng phá
rừng kết hợp với ENNINO. Do ảnh hưởng của thuỷ triều, nhiều nguồn nước của các đô
thị duyên hải (Đà nẵng, Nha Trang, Huế, Mỹ Tho, Cà Mau, Kiên Giang…) bị nhiễm
mặn với thời gian kéo dài cả trên diện rộng và chiều sâu trên đất liền.
Công tác khảo sát nguồn nước chưa sát với tình hình thực tế, chưa dự báo được
những biến động về mặt trữ lượng cũng như về mặt thuỷ địa hoá.
Công nghệ xử lý nước tại một số nhà máy nước chưa đồng bộ và hoàn chỉnh. Một
số dự án công nghệ do tư vấn nước ngoài thiết kế chưa phù hợp với điều kiện thực tế
của Việt Nam.
Vấn đề ô nhiễm nguồn nước do tác động của con người đang diễn ra ngày càng trầm
trọng. Tình hình xả nước thải không qua xử lý ra sông hồ nơi cũng là nguồn cung cấp
nước không được kiểm soát. Tại nhiều địa phương hàng ngàn, hàng vạn lỗ khoan mạch
nông đang là nguồn gây ô nhiễm cho tầng chứa nước đang khai thác.
Công tác quản lý khai thác nguồn nước mặt và nước ngầm chưa được các cấp, các
ngành quan tâm thích đáng. Tư duy “Nước trời cho” đã dẫn đến tình trạng buông lỏng
quản lý, tác động xấu đến chất lượng nguồn nước mặt và nước ngầm.

5.
Cơ chế chính sách ngành nước còn nhiều bất cập, đặc biệt là cơ chế tài chính (giá
nước) chưa phù hợp với tinh thần Chỉ thị số 40/1998/CT-TTg về việc tăng cường công tác quản
lý và phát triển cấp nước đô thị, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu “phải xây dựng giá nước theo

15


nguyên tắc tính đúng, tính đủ, phù hợp với khả năng chi trả của khách hàng và trả nợ vốn
vay”. Hiện nay giá nước sinh hoạt tại các địa phương còn nhiêù bất cập, tạo ra sự thiếu hợp lý,
không công bằng giữa người dân ở các đô thị lớn(Hà Nội, Đà Nằng. TP Hồ Chí Minh) và người
dân ở các đô thị nhỏ kinh tế khó khăn nhưng lại thiếu nước trầm trọng. Điều quan trọng nhất
phải đề cập đến là: giá nước sinh hoạt ở các đô thị hiện nay không thể hiện được nguyên tắc

"nước cần được xem là hàng hoá kinh tế". Các Công ty cấp nước chưa thực sự chuyển đổi từ loại
hình doanh nghiệp công ích sang hoạt động kinh doanh
Theo các chuyên gia cấp nước, nếu mức bình quân của gia nước sinh hoạt trên toàn quuốc
hiện nay là 2.100 đ/m3 thì chi phí này mới chiếm 1,4%^ thu nhập thực tế của người dân, trong
khi đó tại các nước ở khu vực phát triển tỷ lệ này là 3%. Nguyên nhân của tình trạng trên là do:
Nhận thức của Lãnh đạo địa phương còn hạn chế, tư duy "nước trời cho", nước là
dịch vụ công ích, Chính phủ phải có trách nhiệm đầu tư và cung cấp nước "miễn phí"
cho dân vẫn còn tồn tại phổ biến.
Cơ chế, chính sách tài chính trong cấp nước đô thị vẫn còn thiếu hoàn chỉnh và
không đồng bộ. Tỷ lệ khấu hao tài sản cố định là vấn đề khó khăn lớn nhất trong quá
trình tính giá thành. Một số doanh nghiệp còn rất lúng túng không biết tính khấu hao
như thế nào vì chưa có hướng dẫn cụ thể .
Nhiều dự án vay của nước ngoài phải trả nợ theo lộ trình tăng giá nước nhưng điều
kiện trả nợ lại không khả thi và khó thực hiện.
6.
Mô hình tổ chức, quản lý vận hành, đào tạo, nâng cao năng lực ngành nước cũng còn
nhiều vấn đề cần phải giải quyết. Nhằm thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 và Quyết định số
58/2002 ngày 26/4/2002 của Thủ tướng Chính phủ các Công ty cấp nước sẽ chuyển sang hoạt
động kinh doanh. Nhưng nước sạch là là sản phẩm tiêu dùng phục vụ sản xuất và dân sinh, vì
vậy đòi hỏi khách quan về cơ chế, chính sách đối với kinh doanh nước sạch cũng cần có những
thay đổi phù hợp, nhằm đảm bảo hoạt động sản xuất ổn định và phát triển lâu dài. Để khắc phục
tình trạng trên, tháng 11 năm 2004 Bộ Xây dựng đã trình Thủ tướng Chính phủ Đề án cải tiến mô
hình tổ chức Ngành nước Việt Nam.
II.

CHƯƠNG TRÌNH HÀNH ĐỘNG

Để giải quyết khó khăn cho các đô thị, thúc đẩy phát triển kinh tế, nâng cao mức sống cho
nhân dân, vừa qua Chính phủ đã phê duyệt các Định hướng phát triển cấp nước, thoát nước đô
thị đến năm 2020, Bộ Xây dựng đã cụ thể hoá trong Chương trình khung nhằm hướng dẫn các

đại phương thực hiện. Mục tiêu của Định hướng phát triển cấp nước đô thị Việt Nam là đến năm
2020 có 100% dân số đô thị được cấp nước sạch với tiêu chuẩn 180 -200 l/người/ngày đối với
các đô thị lớn và 120 -150 l/người/ ngày đối với các đô thị vừa và nhỏ.
Thực hiện Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ, nhằm đáp ứng yêu cầu cấp bách về cấp nước
cho các đô thị, Bộ Xây dựng, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cùng các Bộ, Ban Ngành Trung ương đã
tiến hành tiếp xúc với các tổ chức tài chính Quốc tế như WB, ADB cùng các nhà tài trợ khác tìm
kiếm nguồn vốn đầu tư xây dựng và cải tạo mở rộng hệ thống cấp nước cho các đô thị. Trong
những năm qua, Bộ Xây dựng đã và đang triển khai:
-

Chương trình cấp nước cho các thành phố, thị xã tỉnh lỵ.
Chương trình cấp nước cho các thị xã, thị trấn huyện lỵ.
Chương trình chống thất thoát thất thu nước.

Đối với các đô thị nhỏ từ năm 1996 đến năm 2000 Bộ Xây dựng đã triển khai chương trình
cải tạo cấp bách hệ thống cấp nước cho 77 thị trấn bằng nguồn tài trợ của OECF (nay là JBIC)
Nhật Bản với tổng vốn đầu tư khoảng 28 triệu USD. Chương trình này tuy đơn giản (xây bể
chứa, thay thế máy bơm, đường ống) nhưng đã cải thiện đáng kể tình hình cấp nước cho các đô
thị có dự án.

16


Để tiếp tục đầu tư xây dựng hệ thống cấp nước cho các đô thị vừa và nhỏ giai đoạn 20012010, Bộ Xây dựng đã có văn bản đề nghị và được Thủ tướng Chính phủ cho phép triển khai
chương trình đầu tư xây dựng hệ thống cấp nước cho 180 thị xã, thị trấn là huyện lỵ trên cả nước
(công suất các trạm cấp nước từ 500 đến 3000 m3/ngđ) với tổng kinh phí dự kiến khoảng 200
triệu USD. Các tiêu chí để địa phương lựa chọn các đô thị ưu tiên cấp nước trong giai đoạn 1 là:
-

Các đô thị là trung tâm văn hoá, xã hội, là hạt nhân cho phát triển kinh tế tại địa

phương.
Chưa có hệ thống cấp nước hoặc đã có nhưng chưa hoàn chỉnh.
Các đô thị nằm ở khu vực khó khăn thường xuyên bị ảnh hưởng của thiên tai (hạn
hán, lũ lụt).

Để giải quyết nguồn lực tài chính, Bộ Xây dựng đã tiếp cận với các nhà tài trợ WB, ADB,
Nhật, Pháp…đồng thời tổ chức các hội thảo để tìm kiếm sự giúp đỡ về tài chính. Bộ Xây dựng
cũng quan tâm đến việc huy động các nguồn nội lực thông qua sự đóng góp của các doanh
nghiệp Nhà nước, chính quyền địa phương và cộng đồng xã hội.
III.

NHỮNG ĐỀ XUẤT VÀ KIẾN NGHỊ

Để thực hiện có hiệu quả các dự án cấp nước đô thị, tránh lặp lại các thiếu sót trong đầu tư,
quản lý, vận hành, chúng ta phải đưa ra các phương thức quản lý đầu tư, vận hành mới phù hợp
với tình hình thực tế của địa phương. Trong Hội thảo này có nhiều vấn đề cần nghiên cứu giải
quyết như các vấn đề về tư vấn thiết kế, mô hình đầu tư, đặc biệt là vấn đề quản lý, vận hành và
kế hoạch tài chính nhằm đảm bảo cho công trình đầu tư phát huy hiệu quả và phát triển bền
vững.
1.
Công tác tư vấn thiết kế: Cần lựa chọn các cơ quan tư vấn chuyên ngành có kinh
nghiệm và năng lực trong công tác thiết kế các hệ thống cấp nước để có thể xác định phương án
chọn dây chuyền công nghệ xử lý nước phù hợp, đảm bảo chất lượng nhưng đơn giản trong vận
hành, vật tư thiết bị có giá thành thấp, có thể cung cấp tại chỗ; Lựa chọn được nguồn nước hợp
lý, ổn định; Bố trí trạm xử lý, mạng lưới đường ống phù hợp với mặt bằng địa hình và đặc thù
phân bố dân cư của địa phương. Các đơn vị tư vấn phải chịu trách nhiệm về chất lượng hồ sơ
thiết kế (bao gồm cả kinh tế và kỹ thuật).
2.
Quản lý đầu tư: Thực hiện chủ trương xã hội hóa ngành cấp nước của Chính phủ, nhiều
thành phần kinh tế đã tham gia tích cực công tác xây dựng và quản lý các hệ thống cấp nước với

mức độ và quy mô khác nhau. Hiện nay có nhiều mô hình quản lý đầu tư như chính quyền địa
phương, doanh nghiệp Nhà nước, hợp tác xã, tư nhân…Qua thực tế chúng tôi nhận thấy rằng:
trong giai đoạn hiện nay, các Công ty cấp nước địa phương có vai trò quan trọng vì hội đủ các
điều kiện như năng lực về tài chính, khả năng quản lý quá trình đầu tư xây dựng cũng như quản
lý vận hành hệ thống cấp nước, đảm bảo công trình làm việc ổn định, cấp nước an toàn, liên tục;
Công ty cấp nước có trách nhiệm thu hồi vốn đầu tư đồng thời có kế hoạch phát triển hệ thống
cấp nước cho tương lai. Để đáp ứng được nhiệm vụ trên, Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố
cần thống nhất giao công tác quản lý, vận hành hệ thống cấp nước đô thị cho một đầu mối đó là
Công ty cấp nước Tỉnh. Trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư, Công ty cấp nước cần đề xuất các đô
thị ưu tiên, xác định nhu cầu cấp nước, chuẩn bị cán bộ kỹ thuật và công nhân vận hành, đề xuất
các phương án quản lý, phát triển hệ thống cấp nước cũng như kế hoạch hoàn trả vốn đầu tư.
Trong quá trình thực hiện, chủ đầu tư được lựa chọn các nhà thầu là doanh nghiệp, HTX, tư nhân
tham gia đấu thầu theo quy định hiện hành.
3.
Cơ chế tài chính: Tổ chức thực hiện các dự án đầu tư theo các quy định hiện hành. Cơ
quan Tài chính và Ngân hàng có trách nhiệm quản lý, hướng dẫn giải ngân và thanh toán trả nợ
cho các nhà tài trợ. Công ty cấp nước là đơn vị chủ đầu tư có trách nhiệm quản lý vận hành hệ
thống cấp nước, kinh doanh đủ thu hồi vốn đầu tư và hoàn trả nợ. Để đảm bảo khả năng thu hồi
vốn và trả nợ, giá nước phải đảm bảo bù đắp chi phí đầu tư, vận hành có lãi. Các hộ tiêu thụ ở

17


các đô thị nhỏ thường có thu nhập thấp do đó Nhà nước cần có các chính sách ưu tiên trong quá
trình đầu tư và quản lý như hỗ trợ về giải phóng mặt bằng, giảm các loại thuế như tài nguyên,
thuế doanh nghiệp... Các địa phương cần có các chính sách huy động các nguồn vốn trong nhân
dân, trong các doanh nghiệp để hỗ trợ đầu tư theo phương châm xã hội hoá ngành cấp nước đã
được đề cập trong Định hướng phát triển cấp nước đô thị Việt Nam đến năm 2020. Hiện nay các
Công ty cấp nước được xác định là doanh nghiệp kinh doanh, do vậy cần nghiên cứu sắp xếp tổ
chức quản lý phù hợp, đặc biệt là cơ chế tài chính, đảm bảo lấy thu bù chi và tái đầu tư cho sản

xuất. Vừa qua, nhằm sửa đổi Thông tư 03/1999 Bộ Xây dựng và Bộ Tài chính đã ban hành
Thông tư liên tịch số 04/2004 ngày 08/11/2004 vê: "Hướng dẫn phương pháp xác định giá tiêu
thụ nước sạch". Bộ Tài chính cũng đa dự thảo "Khung giá tiêu thụ nước sạch sinh hoạt" để lấy ý
kiến tham gia của các Bộ, Ban. Ngành Trung uơng-địa phương, dự kiến cuối quý I/2005 sẽ ban
hành.
Mặc dù trong nội dung còn chưa hoàn chỉnh nhưng các văn bản này thực sự có ý nghĩa
quan trọng đối với các công ty cấp nước; đây là những cơ sở pháp lý giúp các doanh nghiệp tự
chủ về tài chính, chuyển đổi hoàn toàn từ cơ chế "bao cấp, xin- cho" sang kinh doanh.
4.

Chương trình sản xuất máy thiết bị, vật tư ngành nước
Nội dung của chương trình này đã được khẳng định trong:
-

5.

Định hướng cấp nước đô thị đến năm 2020 đã được Chính phủ phê duyệt;
Chỉ thị số 40/1998/CT-TTg ngày 14/12/1998 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng
cường công tác quản lý và phát triển cấp nước đô thị
Chiến lược môi trường ngành Xây dựng đến năm 2020 xác định: xây dựng công
nghệ ngành nước hiện đại đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội.
Đào tạo và nâng cao năng lực:

6.

Tăng cường công tác đào tạo, nâng cao tay nghề cho đội ngũ cán bộ, công nhân kỹ
thuật.
Xây dựng các công ty tư vấn dủ đội ngũ những nhà khoa học có khả năng áp dụng
công nghệ mới, tiên tiến trong các dự án cấp thoát nước.
Tổ chức thực hiện:


-

-

Chương trình cấp nước cho các đô thị được triển khai trên quy mô toàn quốc, vì vậy
cần tổ chức điều hành tốt công tác quản lý. Uỷ ban nhân dân các tỉnh chỉ đạo Công ty
cấp nước thực hiện trách nhiệm quản lý, vận hành, duy tu bảo dưỡng với yêu cầu an
toàn và bền vững hệ thống cấp nước. Chính quyền địa phương cần quan tâm chỉ đạo
công tác quản lý, xây dựng kế hoạch phát triển hệ thống cấp nước, điều hành mạng lưới
đường ống.
Địa phương cần có chính sách phù hợp để xã hội hoá ngành cấp nước đặc biệt là
công tác ghi thu và phân phối nước cho các hộ tiêu dùng. Cần tổ chức, huy động sự
tham gia của mọi thành phần kinh tế và các tổ chức xã hội.
Làm tốt công tác khen thưởng và xử phạt hành chính để động viên, khuyến khích,
lập lại kỷ cương trong quản lý cấp nước.

Toàn bộ các đề xuất trên nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mà Định hướng cấp nước đô thị
Việt Nam đến năm 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và Chương trình khung đã
được ban hành để Ngành nước đô thị Việt Nam thực hiện.
Câu 10: THẤT THOÁT NƯỚC Ở VIỆT NAM VÀ BIỆN PHÁP GIẢM TỶ LỆ THẤT
THOÁT NƯỚC( bổ sung thêm trong giáo trình T111-115)
*Hiện trạng thất thoát nước ở Việt Nam và nguyên nhân chủ yếu

18


Chống thất thoát nước đã được cơ quan chức năng hô hào trong nhiều năm qua những tỉ lệ thất
thoát nước vẫn còn ở mức khá cao.
Chỉ tính riêng sản lượng nước của thành phố Hồ Chí Minh đã chiếm khoảng 1/3 so với toàn

quốc, còn nếu gộp cả Hà nội vào thì sản lượng nước của 2 thành phố lớn này chiếm gần phân
nữa sản lượng nước toàn quốc.
Cả 2 thành phố đều có mức thất thoát nước trên dươi 40%, nên đã kéo mức thất thoát toàn quốc
lên khá cao: Trên thế giới, các nước tiên tiến có tỷ lệ thất thoát nước sạch trung bình khoảng
15%, các nước trong khu vực Đông Nam Á cũng dao động trong khoảng 20 – 30%, thất thoát
cao nhất là Philippin tới 60%.
Nguyên nhân đầu tiên của việc thất thoát nước sạch là do đường ống cũ. Hiện tại ở thành phố
HCM còn có đến 10% các đường ống 30 – 40 năm tuổi, tại Hà Nội số đường ống cũ này nằm ở
khu vực phố cổ. Việc cải tạo đường ống này rất phức tạp, tốn kém. Hầu như không thể cải tạo
toàn tuyến mà chỉ sửa được từng điểm đường ống bị rò rỉ.
Nguyên nhân thứ hai là do đào đường tràn lan, thi công các công trình xây dựng cũng gây
vỡ đường ống cấp nước.
Nguyên nhân thứ ba là nạn ăn cắp nước sạch cũng làm tăng tỷ lệ thất thoát nước, hiện
nay cách ăn cắp phổ biến là khoan thẳng vào mạng đường ống, lắp đặt ống riêng để sử dụng
không qua đồng hồ đo nước. Tình trạng này không chỉ gây thất thoát nước mà còn gây hại cho
đường ống chính, có thể vỡ rò rỉ…
Nguyên nhân 4: bộ máy quản lý kém, cấp nước thoe hình thức khoán.
* Biện pháp giảm tỷ lệ thất thoát nước
“Chỉ cần giảm 1% tỷ lệ thất thoát nước là xem như có thêm một lượng nước đủ cung cấp
cho một phường” (Bùi Sỹ Hoàng – Phó Giám đốc Công ty cấp nước TPHCM). Điều này cho
thấy lợi ích lớn lao của việc hạ thấp tỷ lệ thất thoát nước.
Công tác chống thất thoát cần nhất vào sự giúp đỡ của đông đảo người dân, trong đó vận
động nhân dân cung cấp thông tin báo bể qua đường dây nóng là phương pháp hữu hiệu nhất.
Ngoài ra công tác áp dụng các biện pháp kỹ thuật như lắp đặt đồng hồ tổng ở từng khu vực trong
địa bàn công ty cấp nước quản lý cũng làm giảm bớt tỷ lệ thất thoát nước
Có nhiều biện pháp để giảm tỷ lệ nước thất thoát trong bài viết này tôi xin trình bày một số mô
hình quản lý thất thoát rất có hiệu quả mà ở Việt Nam nói chung và các tỉnh đồng bằng sông cửu
long nói riêng đang tiến hành thực hiện và cho kết quả tương đối khả quan là phải quản lý chặt
chẽ về mặt áp lực trên đường ống cấp nước, tiến hành bảo dưỡng toàn bộ hệ thống mạng lưới cấp
nước trong khu vực mà đơn vị mình phụ trách, công tác tay nghề sửa chữa của công nhân cần

phải được nâng cao trên cơ sở đào tạo thường xuyên những khóa tập huấn về việc nâng cao tay
nghề, nâng cao bậc thợ, giảm thất thoát chủ động trong công tác quản lý
Nếu làm tốt công tác trên thì thất thoát nước có thể giảm được trừ trường hợp thất thoát nước
không tránh được
Thực hiện hệ thống SCADA là kiểm soát, điều hòa áp lực, lưu lượng mạng lưới và điều
chỉnh chế độ chạy bơm tại các trạm cấp nước nhất là bơm biến tần của trạm bơm cấp II
Tiến hành phân vùng tách mạng hệ thống cấp nước, kiểm soát lượng nước thất thoát theo vùng,
theo khu vực
Hệ thống lại mạng lưới theo cấp đường ống, Cải tạo, thay thế, nâng cấp đường ống cho phù hợp
với nhu cầu cấp nước, Phân quyền quản lý cho từng khu vực nhỏ, kiểm soát nước thất thoát theo
vùng, theo khu vực, xác định tỷ lệ thất thoát nhanh, chính xác
Để thực hiện được việc phân vùng tách mạng cần phải thực hiện các bước sau:
Thứ nhất là lập kế hoạch chung - cần thiết lập hệ thống máy tính và các phần mềm ứng dụng,
nghiên cứu bản vẽ mạng lưới cấp nước hiện trạng, thống kê số liệu đấu nối khách hàng của vùng,

19


khu vực và xác định nội dung công việc chính dự kiến thời gian thực hiện, phân công trách
nhiệm công việc, cuối cùng là lập khái toán kinh phí
Thứ hai triển khai thực hiện - tiến hành lập kế hoạch chi tiết, phân tích, đánh giá tình trạng mạng
lưới đường ống, hệ thống van khóa và các thiết bị khác; Chạy thủy lực hệ thống hiện trạng (phần
mềm epanet); thực hiện phân vùng tách mạng cho mạng lưới đường ống; kiểm tra thủy lực theo
hệ thống phân vùng và khu vực; đánh giá kết quả và lập hồ sơ thiết kế thi công
Thực hiện phương pháp vừa trình bày có những thuận lợi là có sẵn nguồn kinh phí để thực hiện
(mua sắm thiết bị, triển khai các vùng thí điểm), được làm việc cùng các chuyên gia về quản lý
mạng lưới (Dự án hổ trợ kỹ thuật USP), sự hổ trợ rất lớn từ ban lãnh đạo đơn vị.
Song cũng gặp không ít khó khăn là mạng lưới cấp nước phức tạp, đầu nối chồng chéo, nhiều
chủng loại vật tư; việc cập nhật mạng lưới đường ống chưa được đầy đủ; các thủ tục liên quan
đến các đơn vị khác còn khó khăn (xin phép đào đường, đào mương đặt ống gây nên tiến độ thực

hiện chậm)
Mong rằng với những biện pháp vừa nêu trên có thể hạ thấp tỷ lệ thất thoát nước ở Việt Nam nói
chung và các tỉnh đồng bằng sông Cửu long nói riêng nhằm kéo giảm tỷ lệ thất thoát nước, kéo
theo không phải tăng giá nước ảnh hưởng trực tiếp đến người tiêu dùng, phục vụ tốt cộng đồng
và khu dân cư , xây dựng thành công chiến lược cấp nước cho người dân đến năm 2020 ./
QUYẾT ĐỊNH của TTg năm 2010 về Phê duyệt Chương trình quốc gia chống thất thoát,
thất thu nước sạch đến năm 2025
Điều 1. Phê duyệt Chương trình quốc gia chống thất thoát, thất thu nước sạch đến năm 2025 với
các nội dung sau:
1. Mục tiêu
Huy động và tập trung các nguồn lực cho hoạt động chống thất thoát, thất thu nước sạch, giảm tỷ
lệ thất thoát, thất thu nước sạch bình quân từ 30% năm 2009 xuống dưới 15% vào năm 2025,
mục tiêu cụ thể cho từng giai đoạn như sau:
- Đến năm 2015: tỷ lệ thất thoát, thất thu nước sạch bình quân là 25%.
- Đến năm 2020: tỷ lệ thất thoát, thất thu nước sạch bình quân là 18%.
- Đến năm 2025: tỷ lệ thất thoát, thất thu nước sạch bình quân là 15%.
2. Các hoạt động chính của Chương trình.
a) Hoạt động nâng cao nhận thức cộng đồng:
Nâng cao nhận thức các tầng lớp nhân dân hiểu rõ tầm quan trọng của việc cấp nước phục vụ đời
sống và sản xuất kinh doanh. Trên cơ sở đó, xác định vai trò trách nhiệm của mình trong việc sử
dụng nước tiết kiệm, hiệu quả và bảo vệ hệ thống cấp nước vì lợi ích chung của toàn xã hội.
b) Hoạt động nâng cao năng lực chính quyền địa phương:
Nâng cao vai trò và trách nhiệm của chính quyền các cấp đối với công tác phát triển cấp nước, sử
dụng nước và bảo vệ hệ thống cấp nước, nguồn nước. Phối hợp tổ chức triển khai các hoạt động
chống thất thoát, thất thu nước sạch để sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên nước trên địa bàn.
c) Nâng cao năng lực quản lý cho đơn vị cấp nước:
- Về tổ chức quản lý:
+ Sắp xếp, tổ chức bộ máy quản lý, giám sát, bảo trì và giao trách nhiệm cụ thể của từng bộ phận
trong đơn vị cấp nước. Thành lập bộ phận chuyên trách chống thất thoát, thất thu nước sạch tại
các đơn vị cấp nước, đặc biệt tại các đô thị có tỷ lệ thất thoát, thất thu nước sạch cao.

+ Xây dựng và quản lý hệ thống ghi thu khoa học, phù hợp và bảo đảm chính xác, nhằm hạn chế
gian lận trong hoạt động sản xuất, kinh doanh nước sạch.

20


+ Lập lý lịch mạng lưới đường ống, đồng hồ đo nước, sử dụng việc quản lý mạng và đồng hồ
nước bằng hệ thống định vị toàn cầu (GPS), hệ thống thông tin địa lý (GIS).
+ Lập kế hoạch năm năm và hàng năm cho hoạt động kiểm tra, thay thế các tuyến ống và thiết bị
trên mạng đường ống cấp nước.
- Về đào tạo nâng cao năng lực:
+ Tập huấn, đào tạo cán bộ, công nhân của đơn vị cấp nước các kiến thức mới về quản lý hệ
thống cấp nước, hoạt động chống thất thoát, thất thu nước sạch; sử dụng chương trình phần mềm
phù hợp để quản lý hệ thống cấp nước.
+ Tổ chức hội thảo, hội nghị về trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm hoạt động chống thất thoát, thất thu
nước sạch của các đơn vị cấp nước.
d) Xây dựng, hoàn thiện cơ chế chính sách về chống thất thoát, thất thu nước bao gồm:
- Xây dựng hệ thống chỉ tiêu đánh giá ngành nước và chế độ báo cáo phục vụ công tác quản lý,
giám sát các hoạt động cấp nước.
- Xây dựng cơ chế khoán cho đơn vị cấp nước giảm tỷ lệ thất thoát, thất thu nước sạch và hưởng
lợi nhuận từ kết quả này.
- Xây dựng cơ chế khuyến khích đơn vị cấp nước và các thành phần kinh tế tham gia đầu tư cải
tạo mạng lưới đường ống, quản lý mạng và chống thất thoát, thất thu nước sạch.
- Xây dựng cơ chế ưu đãi, hỗ trợ về tài chính đối với các dự án chống thất thoát, thất thu nước
sạch.
- Xây dựng chế độ khen thưởng các cá nhân phát hiện và thông báo về các sự cố, điểm rò rỉ
nước. Chế tài đối với các tổ chức, cá nhân sử dụng nước gian lận, không trả tiền, làm hư hỏng
tuyến ống.
đ) Công tác chống thất thoát, thất thu nước sạch do kỹ thuật:
- Đáng giá thực trạng mạng lưới đường ống cũ, có kế hoạch đầu tư thay thế mạng lưới đường

ống cũ không đảm bảo yêu cầu kỹ thuật. Đối với các đô thị lớn (đặc biệt đô thị từ loại II trở lên)
có mạng lưới đường ống phức tạp cần tiến hành công tác phân vùng cấp nước nhằm kiểm soát
thất thoát nước sạch.
- Giám sát chặt chẽ công tác lắp đặt các tuyến ống mới, thay thế các tuyến ống cũ, đặc biệt là các
điểm đấu nối giữa ống cũ và ống mới, các điểm khởi thủy cấp nước cho các đối tượng tiêu thụ
mới.
- Lắp đặt đồng hồ đạt tiêu chuẩn về chất lượng và đầy đủ về số lượng cho các đối tượng tiêu thụ.
Đầu tư thay thế các đồng hồ cũ, định kỳ bảo dưỡng và kiểm định đồng hồ theo quy định.
- Đầu tư thiết bị phát hiện rò rỉ, các trang thiết bị máy móc cho công tác sửa chữa đường ống.
Câu hỏi: giải pháp phát triển đô thị 10 nguyên lý phát triển đô thị của Singapore
Trong các cuộc điều tra khác nhau từ nhỏ đến lớn, Singapore đã liên tục được các chuyên
gia hàng đầu thế giới xếp hạng là đô thị năng động, phát triển bền vững và sống tốt trên
toàn cầu. Ông Khaw Boon Wan - Bộ trưởng Bộ Phát triển Quốc gia Singapore đã từng
khẳng định: Xây dựng đô thị bền vững phải tập trung vào yếu tố con người - người dân
phải xem Singapore là một môi trường tốt mà họ không tìm thấy ở bất cứ nơi nào
10 nguyên lý phát triển đô thị của Singapore
THỨ TƯ, 29 THÁNG 5 2013 03:31 BÁO XÂY DỰNG
Trong các cuộc điều tra khác nhau từ nhỏ đến lớn, Singapore đã liên tục được các chuyên gia
hàng đầu thế giới xếp hạng là đô thị năng động, phát triển bền vững và sống tốt trên toàn cầu.
Ông Khaw Boon Wan - Bộ trưởng Bộ Phát triển Quốc gia Singapore đã từng khẳng định: Xây
dựng đô thị bền vững phải tập trung vào yếu tố con người - người dân phải xem Singapore là
một môi trường tốt mà họ không tìm thấy ở bất cứ nơi nào.

21


Các nhà quản lý đô thị Singapore quan niệm "đô thị hóa là quá trình tất yếu, chúng ta không nên
lảng tránh mà phải xem đó là những thách thức cho các doanh nghiệp tạo dựng nên hình ảnh đô
thị thịnh vượng, sống tốt nhưng vẫn phải đảm bảo yếu tố bền vững với thời gian". Quy hoạch
sáng tạo, thiết kế thông minh và phát triển bền vững là bài học thực tiễn quý giá của Singapore

muốn gửi thông điệp đến các nhà quản lý đô thị trên toàn thế giới.
Đó là bài học về một quốc gia có tốc độ đô thị hóa đến “chóng mặt” nhưng lại mang lại cho
người dân một cuộc sống chất lượng cao trong khi vẫn bảo toàn việc phát triển bền vững. Để có
được kết quả tốt đẹp như vậy, các chuyên gia, các nhà quản lý vừa qua đã đúc kết ra 10 nguyên
lý cơ bản nhất mà Singapore đã ứng dụng như sau:
1. Quy hoạch dài hạn và đổi mới - Một đô thị có mật độ dân số cao thường không có nhiều sự
lựa chọn cho một quy hoạch hoàn hảo nhưng cũng chính vì thế mà các nhà quy hoạch cần phải
tính toán kỹ lưỡng sao cho sử dụng hiệu quả cao nhất của từng tấc đất khan hiếm. Đó chính là sự
kết hợp của quy hoạch dài hạn, chính sách đất đai phù hợp, có sự kiểm soát trong phát triển và
thiết kế thông minh đã giúp Singapore phát huy tối ưu tính năng đô thị hóa trong khi vẫn mang
tính thẩm mỹ và bảo tồn.
2. Khuyến khích sự đa dạng, phát triển toàn diện - Không nên “từ chối” sự đa dạng bởi đó
chính là yếu tố đặc biệt tạo nên sự khác biệt và phong phú của một đô thị đông dân cư. Chính sự
đa dạng làm nên cá tính của đô thị và làm cho mọi người sống gần gũi và tương tác lẫn nhau.
3. Đưa thiên nhiên gần gũi với con người – Cần phải tôn trọng thiên nhiên, hòa quyện thiên
nhiên vào đô thị để giúp đô thị được “mềm hóa” các khía cạnh “thô cứng” của một khung cảnh
đô thị đầy dẫy hàng loạt các cao ốc. Bằng cách áp dụng một loạt các chiến lược “vườn trong
phố”, “vườn tường”, “vườn mái”, “vườn ở bất cứ đâu”…. Singapore hiện đang được che phủ mật
độ cây xanh thuộc hạng cao nhất thế giới.
4. Tạo nên khu dân cư có mức sống giá cả phải chăng – Yếu tố này rất quan trọng bởi một đô
thị nén phải thỏa mãn tính năng về giá cả phải chăng để người dân có thể có niềm tin về một
cuộc sống của thành phố sống tốt. Các khu dân cư trong đô thị mới của Singapore luôn có sự kết
hợp của phát triển công cộng và tư nhân với đầy đủ các cơ sở vật chất giá cả phải chăng.
5. Tối ưu hóa không gian công cộng - Singapore đã tìm cách phát huy triệt để tiềm năng của
không gian công cộng bằng cách kết hợp hiệu quả giữa các hoạt động thương mại và giải trí để
mang lại sự hài lòng cho người dân của mình.
6. Ứng dụng giao thông xanh và kiến trúc xanh – Singapore đã ứng dụng chiến lược năng
lượng thấp trong các tòa nhà, đồng thời phát triển hệ thống giao thông công cộng hiệu quả. Đây
chính là chiến lược tổng thể nhằm giảm tiêu thụ năng lượng và đảm bảo phát triển bền vững.
7. Tạo cảm giác bớt đông đúc - Singapore có sự kết hợp rải rác giữa các tòa nhà cao tầng với

các tòa nhà thấp tầng, tạo ra một dải chân trời nhấp nhô nhưng không lộn xộn để tạo cảm giác
bớt đông đúc trong một không gian chật hẹp.
8. Tạo cảm giác an toàn - Cảm giác an toàn và bảo mật là yếu tố làm nên chất lượng của cuộc
sống bởi vậy Singapore luôn ứng dụng thiết kế đô thị tiện lợi, dễ dàng tiếp cận và an ninh đô thị
để người dân có cảm giác bình an và không phải lo lắng ngay cả khi “đi sớm về hôm”.
9. Ứng dụng giải pháp/công nghệ sáng tạo - Là một đô thị đông dân và mật độ xây dựng dày
đặc, Singapore luôn phải phải đối mặt với khó khăn về tài nguyên, vì thế buộc các nhà quản lý
phải ứng dụng các giải pháp và công nghệ sáng tạo để đảm bảo cuộc sống tốt cho người dân (ví
dụ ứng dụng giải pháp cấp nước sạch mang tên NEWater).
10. Kết hợp chặt chẽ giữa các đối tác – Do khan hiếm đất đai, cộng đồng phải sống gần nhau,
sự phát triển của một khu vực có thể sẽ ảnh hưởng đến khu vực bên cạnh. Vì thế, tất cả các bên
liên quan cần phải hợp lực cùng nhau để tìm ra giải pháp sao cho không có những hậu quả đáng
tiếc làm giảm chất lượng cuộc sống của các bên liên quan.
Trên đây là bài học quý giá từ mô hình phát triển đô thị của Singapore mà các nhà quản lý đô thị
Việt Nam có thể tham khảo để có cái nhìn thiện cảm hơn về quá trình đô thị hóa – một quá trình
tất yếu trước khi tiến tới là một quốc gia phát triển./

22


Câu hỏi: thực trạng quy hoạch đô thị hiện nay.
Hạn chế:
Việc xây dựng tự phát của một số bộ phận dân cư, hay các cơ quan, xí nghiệp tại đô thị vẫn tiếp
diễn không theo quy hoạch đã duyệt. Việc chuẩn bị mặt bằng xây dựng, cơ sở vật chất, cơ sở hạ
tầng kỹ thuật xây dựng như giao thông, điện, nước, cống rãnh, thông tin liên lạc... không được
thực hiện đầy đủ, đồng bộ đã làm cho công tác xây dựng vốn đã chắp vá lại càng lộn xộn theo
kiểu tùy tiện, mạnh ai người nấy chạy, bất kể đúng sai.
Mặc dù phát triển khá mạnh song các đô thị Việt Nam hiện vẫn chưa thực sự đáp ứng được nhu
cầu xã hội hóa nhà ở cho mọi đối tượng. Hệ thống các đô thị - trung tâm chưa hình thành đều
khắp các vùng. Đa phần dân số đô thị sống ở Hà Nội và TP.HCM. Các đô thị lớn có sức hút

mạnh đang tạo ra sự tập trung dân cư, công nghiệp quá tải nhưng chưa có biện pháp hữu hiệu
điều hòa quá trình tăng trưởng đó, trong khi các đô thị nhỏ và vừa thì kém sức hấp dẫn, không có
khả năng đảm nhiệm nổi vị trí và vai trò trung tâm của mình trong mạng lưới đô thị quốc gia.
Thêm vào đó, chúng ta vẫn chưa kiểm soát được các hoạt động phát triển, nhất là đối với lĩnh
vực đầu tư tư nhân (nhà ở, khách sạn công trình thương mại, du lịch...). Hơn nữa, công tác quy
hoạch cũng còn nhiều bất cập. Việc quy hoạch tiến hành chậm so với thực tế xây dựng đô thị,
quy hoạch chi tiết đô thị còn thiếu và chất lượng còn hạn chế do thiếu cơ sở tài liệu điều tra cơ
bản. Kiến trúc đô thị phát triển chưa có định hướng, nhiều di sản, kiến trúc văn hóa có giá trị của
dân tộc đang bị vi phạm và biến dạng nghiêm trọng.
Trong các khu đô thị mới, phần lớn đất đai dành phát triển quỹ nhà ở, xây dựng các công trình
dịch vụ để bán và cho thuê, diện tích cây xanh, các khu vui chơi công cộng bị thu hẹp tối đa để
giảm bớt suất đầu tư hạ tầng cơ sở. Xét về lợi ích kinh tế trước mắt, cách đầu tư xây dựng này sẽ
giúp chủ đầu tư thu hồi vốn và có lãi nhanh nhất nhưng về lâu dài nó lại ảnh hưởng xấu đến chất
lượng môi trường cũng như chất lượng dịch vụ xã hội của khu vực (khu nhà ở ngày càng bị thiếu
diện tích vườn hoa, cây xanh, nhà trẻ, các tuyến đi bộ...). Tuy nhiên đến nay, nhà nước vẫn chưa
có bất cứ công cụ hữu hiệu nào để kiểm tra, đánh giá phản hồi hoặc chất vấn những hoạt động
quy hoạch như vậy.
Thiếu sự đồng bộ thống nhất giữa nhà quản lý, nhà tư vấn quy hoạch, nhà kiến trúc, nhà xây
dựng trong quá trình quản lý quy hoạch và kiểm soát phát triển đô thị đã làm cho cảnh quan đô
thị trở nên xấu xí, hỗn tạp, đe dọa sự phát triển bền vững của đô thị. Cơ sở hạ tầng xã hội và kỹ
thuật tại các khu dân cư đô thị nhìn chung không đồng bộ, mạng lưới giao thông trong và ngoài
đô thị chưa phát triển, gây trở ngại cho các mối liên thông giữa đô thị với các vùng lân cận cũng
như với hoạt động: làm việc - nghỉ ngơi - sinh hoạt của người dân trong đô thị.
Các chính sách, biện pháp, cơ chế tạo vốn, tạo điều kiện phát huy sức mạnh của cộng đồng vào
mục đích xây dựng đô thị còn thiếu, các thủ tục hành chính trong giao đất, cấp phép xây dựng và
thẩm định các dự án đầu tư còn nhiều phiền hà. Việc phân công, phân cấp trong quản lý xây
dựng đô thị còn chồng chéo, năng lực của chính quyền đô thị chưa tốt, các tồn tại trong quản lý
nhà và đất đô thị chậm được giải quyết cũng đang là những trở ngại lớn trong việc thiết lập lại
trật tự kỷ cương và tạo nguồn lực phát triển đô thị Việt Nam.
Biện pháp

Theo định hướng quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống đô thị Việt Nam đến năm 2020, quy mô
đô thị từ mức 19 triệu người, diện tích 1.140km2 năm 2000 sẽ tăng lên 30,4 triệu người và diện
tích 2.432km2 vào năm 2010, 40 triệu người và diện tích 4.600km2 (chiếm 45% dân số và 1,4%

23


diện tích cả nước) vào năm 2020. Để công tác quy hoạch xây dựng và phát triển đô thị đi vào nề
nếp, có hiệu quả, có giá trị thực tiễn cao, đòi hỏi phải xây dựng được một hệ thống quản lý với
những quy chế và thể chế luật lệ thích hợp với tình hình thực tế phát triển kinh tế xã hội mới ở
nước ta.
Trong đó cần chú trọng tới sự phối hợp chặt chẽ và tuân thủ nghiêm ngặt của tất cả các bộ phận
có liên quan, đặc biệt là lĩnh vực quản lý đất đai đô thị, xây dựng hạ tầng kỹ thuật đô thị, giao
thông công chính, đầu tư xây dựng, quản lý công trình xây dựng... Chính quyền đô thị phải có
chế độ chính sách thích hợp để đảm bảo tốt được vấn đề phát triển đô thị hài hòa, hiện thực và
hợp lý nhất trong phân công trách nhiệm, tránh sự chống chéo không cần thiết trong xây dựng đô
thị.
Câu hỏi: thực trạng và giải pháp phát triển đô thị hóa ở VN Thực trạng đô thị hóa tại Việt
Nam
Tại Việt Nam quá trình đô thị hóa được gắn liền với công cuộc công nghiệp hóa đất nước. Do
chú trọng quá nhiều vào việc “công nghiệp hóa” cộng với chất lượng quy hoạch không cao, nên
quá trình này đang bộc lộ nhiều bất cập đáng lo ngại. Cụ thể là:
- Số lượng các đô thị tăng lên nhanh chóng: Trong những năm gần đây, số lượng đô thị ở nước ta
tăng nhanh, nhất là ở các thành phố thuộc tỉnh. Năm 1986 cả nước có 480 đô thị, năm 1990 là
500 đô thị, đến năm 2007 là 729 đô thị và đến năm 2012 cả nước đã có 755 đô thị. Trong đó, có
2 đô thị loại đặc biệt (Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh), 13 đô thị loại I trong đó có 03 thành
phố trực thuộc Trung ương (Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ) và 10 thành phố trực thuộc tỉnh, 10
đô thị loại II còn lại là các đô thị loại III, IV và V. Tuy vậy, việc xếp loại đô thị vẫn còn nhiều
tiêu chí chưa đáp ứng như quy mô đô thị, kinh tế - xã hội, cơ cấu kinh tế, hệ thống kết cấu hạ
tầng kỹ thuật...

- Sự gia tăng dân số đô thị: Quy mô dân số đô thị ở nước ta liên tục tăng, đặc biệt là từ sau năm
2000. Tính đến năm 2010, dân số đô thị tại Việt Nam là 25.584,7 nghìn người, chiếm 29,6% dân
số cả nước. Sự gia tăng dân số đô thị cả nước do 3 nguồn chính đó là: (i) Gia tăng tự nhiên ở khu
vực đô thị; (ii) Di cư từ khu vực nông thôn ra thành thị; (iii) Quá trình mở rộng địa giới của các
đô thị. Khi các đô thị của Việt Nam ngày càng phát triển mở rộng, thì dân số càng tăng, dòng
dịch cư càng lớn (nhóm di dân có 80% thời gian sống ở đô thị cũng đang tăng nhanh tại các
thành phố lớn như Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh) dẫn đến sự quá tải trong sử dụng hệ thống hạ
tầng cơ sở sẵn có. Bên cạnh đó là việc hình thành các khu dân cư nghèo quanh đô thị gây ô
nhiễm môi trường và nguy an mất an toàn lương thực không ngừng tăng cao.
- Kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị: Hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông đô thị trong những năm
qua được cải thiện rõ rệt, thể hiện qua các mặt, như: nhiều tuyến đường, cây cầu được xây dựng;
chất lượng đường đô thị dần được cải thiện; các đô thị loại III trở lên hầu hết đã có các tuyến
đường chính được nhựa hoá và xây dựng đồng bộ với hệ thống thoát nước, vỉa hè, chiếu sáng và
cây xanh. Các thành phố lớn trực thuộc Trung ương có nhiều dự án về giao thông đô thị được
triển khai, cụ thể là: cải tạo, nâng cấp và xây mới các trục giao thông đối ngoại, cửa ô, trục giao
thông hướng tâm, các nút giao đồng mức, khác mức, các đường vành đai, tuyến tránh, cầu vượt
trong đô thị… Nhờ vậy, bước đầu đã nâng cao năng lực thông qua tại các đô thị này. Tuy nhiên,
tình trạng ách tắc và tai nạn giao thông vẫn còn diễn ra rất phổ biến.
Hệ thống chiếu sáng đã có ở hầu hết các đô thị mặc dù mức độ có khác nhau. Tại các đô thị đặc
biệt, như: Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng… có 95-100% các tuyến đường chính
đã được lắp đặt hệ thống chiếu sáng; các đô thị loại II, III tỷ lệ này đạt gần 90%.
Hệ thống thoát nước đã được quan tâm đầu tư xây dựng ở hầu hết các đô thị. Hiện đã có 35/63
đô thị tỉnh, thành trong cả nước có các dự án về thoát nước và vệ sinh môi trường sử dụng kinh
phí từ nguồn vốn ODA. Các dự án bước đầu đã phát huy hiệu quả, góp phần làm giảm mức độ
ngập úng tại các đô thị này. Tuy nhiên, do hầu hết đô thị chỉ có một hệ thống cống dùng chung
cho cả nước mưa và nước thải, thậm chí, nhiều tuyến cống được xây dựng trong các thời kỳ khác

24



nhau, nên không hoàn chỉnh, thiếu đồng bộ và đã xuống cấp nghiêm trọng làm ảnh hưởng đến
khả năng tiêu thoát nước. Tình trạng ngập úng đang là mối quan tâm hàng ngày của các đô thị
lớn, nhất là ở TP. Hồ Chí Minh và Hà Nội, nhưng đến nay, vẫn chưa có giải pháp có tính khả thi
để giải quyết. Nước thải, đặc biệt nước thải từ các khu công nghiệp lại chưa được thu gom, xử lý
triệt để, gây ô nhiễm nặng nề cho các dòng sông lớn, như: sông Đồng Nai, Sài Gòn, Thị Vải,
sông Đáy, sông Nhuệ, sông Tô Lịch…
Đánh giá về thực trạng trên, có thể chỉ ra các nguyên nhân chủ yếu sau: (i) Công tác quy hoạch
và quản lý quy hoạch chưa được quan tâm, đầu tư đúng mức; (ii) Kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị
chưa đồng bộ, sự phát triển nhanh của các khu công nghiệp trong đô thị kéo theo nhiều hệ quả về
môi trường… dẫn đến các đô thị đứng trước nguy cơ phát triển không bền vững.
Một số giải pháp
Thứ nhất, Nhà nước cần rà soát, bổ sung và ban hành hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật
về quản lý quy hoạch, xây dựng và phát triển đô thị; hoàn thiện hệ thống các tiêu chuẩn, quy
chuẩn về xây dựng kết cấu hạ tầng đô thị và bảo vệ môi trường, an toàn xã hội. Bên cạnh đó, cần
nghiên cứu ban hành các chính sách đặc thù để quản lý và phát triển các đô thị thuộc các thành
phố lớn, thành phố du lịch trọng điểm nhằm phát huy tối đa lợi thế của chúng. Ban hành đầy đủ
hệ thống khung pháp lý về công tác đền bù, giải phóng mặt bằng và tái định cư trong việc thực
hiện các dự án xây dựng đô thị đảm bảo tiến độ, hiệu quả.
Thứ hai, cần có chiến lược, lộ trình quy hoạch đô thị, rà soát lại quy hoạch tổng thể nhằm bảo
đảm phát triển các đô thị bền vững. Điều chỉnh, bổ sung các quy hoạch xây dựng đô thị, quy
hoạch các vùng kinh tế trọng điểm, các khu công nghiệp, các điểm dân cư nông thôn, đảm bảo
công tác quy hoạch phải luôn đi trước một bước. Đô thị hoá tự phát, thiếu khoa học, thiếu định
hướng… sẽ làm nảy sinh và để lại nhiều hậu quả tiêu cực, lâu dài, cản trở sự phát triển của đất
nước.
Công tác quản lý quy hoạch cần đặc biệt coi trọng, thực hiện tốt quy định về công bố, công khai
rộng rãi các đồ án quy hoạch xây dựng đô thị để các tổ chức, cá nhân biết, thực hiện; đồng thời,
làm căn cứ để kêu gọi đầu tư xây dựng đô thị. Tăng cường công tác quản lý đất đai theo quy
hoạch được duyệt, hạn chế điều chỉnh quy hoạch. Nâng cao chất lượng quản lý, điều hành của
chính quyền các cấp trong quản lý quy hoạch, xây dựng đô thị, trật tự đô thị.
Chú trọng các nội dung quy hoạch gắn với bảo vệ môi trường, khai thác và sử dụng hợp lý nguồn

tài nguyên thiên nhiên.
Thứ ba, cần quan tâm đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng đô thị hiện đại, nhất là ưu tiên phát triển
giao thông công cộng, đặc biệt là các phương tiện giao thông tiên tiến, không gây ô nhiễn môi
trường. Bên cạnh đó, cũng cần có chính sách phát triển và xem việc phát triển phương tiện vận
tải công cộng là giải pháp trọng tâm để giảm nguy cơ ùn tắc giao thông đô thị.
Vấn đề đầu tư xây dựng các công trình cấp thoát nước, xử lý nước thải và vệ sinh môi trường
cũng cần phải được đặc biệt coi trọng. Bởi, hiện tượng ngập úng tại một số đô thị cũng là nguyên
nhân gây ách tắc giao thông và gây mất vệ sinh môi trường, ảnh hưởng đến cuộc sống của nhân
dân, văn minh đô thị.
Thứ tư, xây dựng cơ chế, các giải pháp để huy động nguồn lực đầu tư phát triển đô thị, tạo môi
trường thuận lợi để thu hút các nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài (vốn ODA, FDI...); tranh thủ tối
đa các nguồn vốn của Chính phủ và các bộ, ngành Trung ương, tập trung nguồn vốn ngân sách
nhà nước địa phương; Đa dạng hóa các hình thức đầu tư từ các doanh nghiệp thuộc các thành
phần kinh tế khác nhau theo các hình thức, như: BOT, BT, PPP... Điều này đặc biệt quan trọng
trong bối cảnh Chính phủ đã quyết định giảm tổng mức đầu tư từ hơn 40% GDP trước đây xuống
còn 34% năm 2012 và 30% năm 2013. Trong tương lai, vốn đầu tư vào kết cấu hạ tầng cũng sẽ
phải giảm xuống còn 8-9% GDP.
Thứ năm, các cấp chính quyền, đoàn thể cần tuyên truyền, phổ biến nâng cao nhận thức, trình độ
dân trí trong việc thực hiện các quy định về đô thị, trật tự đô thị, thực hiện nếp sống văn minh đô

25


×