Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Phân tích các hình thức sở hữu của chế độ kinh tế nước ta theo Hiến pháp 1992

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (189.14 KB, 30 trang )

Bài Tập Nhóm
Môn: Hiến pháp và luật tổ chức bộ máy nhà nước Việt
Nam
Đề tài: Phân tích các hình thức sở hữu của chế độ kinh tế
nước ta theo Hiến pháp 1992.


A .PHẦN MỞ ĐẦU
Con người - với tư cách là một thực thể xã hội chỉ có thể tồn tại và phát
triển khi có những cơ sở vật chất nhất định. Ngay từ thời kỳ sơ khai của xã hội
loài người, ý thức về xã hội, về cộng đồng người còn hạn chế nhưng người
nguyên thuỷ đã biết chiếm giữ hao quả tự nhiên, chim thú săn bắt được, những
công cụ lao động giản đơn để phục vụ cho nhu cầu của mình. Hay nói cách
khác, con người sinh ra từ tự nhiên, để tồn tại và phát triển con người phải dựa
vào tự nhiên, chiếm hữu tự nhiên để thoả mãn nhu cầu nhất định. Sở hữu được
hiểu là việc chiếm giữ những sản vật tự nhiên, những thành quả lao động (Ngày
nay còn bao gồm cả tư liệu sản xuất) của xã hội loài người. Sở hữu là phạm trù
cơ bản, phức tạp và hàm xúc của kinh tế - chính trị học, thường được bàn nhiều
và cũng đang tồn tại không ít ý kiến khác nhau và đối lập nhau nhưng tựu trung


đều dựa trên nguyên tắc phương pháp luận coi sở hữu như quá trình chiếm hữu
và nhấn mạnh mặt pháp lý khi giải thích nội dung kinh tế của sở hữu khao học
kinh tế tư sản chỉ thấy trong sở hữu các quyền tài sản và sự phân biệt đang tăng
lên của các quyền này; còn kinh tế - chính trị học truyền thống của CNXH coi
sở hữu như quan hệ "Chủ - khách thể bị chiếm hữu bởi chủ thể" hay "Quan hệ
giữa con người về việc chiếm hữu các yếu tố và kết quả sản xuất" do đó thường
các quan niệm trên quy sở hữu tư bản chủ nghĩa thành sự chiếm hữu tư
nhân(chế độ tư hữu) và sở hữu XHCN thành sự chiếm hữu toàn dân về các điều
kiện và kết quả sản xuất (chế độ công hữu). Những quan niệm này bộc lộ chỗ
yếu là đồng nhất các quan hệ pháp lý của kiến trúc thượng tầng với các cơ sở


kinh tế của xã hội. Lẫn lộn các hiện tượng kinh tế với các quan hệ bên trong, ổn
định, đang quy định tính chất và xu thế vận động của các hiện tượng và quá
trình này xoá nhoà ranh giới khác nhau giữa các chế độ kinh tế và các hình thức
sở hữu, do đó đã hiển nhiên hạ thấp vai trò lịch sử, đặc biệt của sở hữu trong hệ
thống sở hữu xã hội. Cách tiếp cận trên về sở hữu đã tỏ ra không để để giải
thích sở hữu tư sản hiện đại hơn nữa "Nó trở thành công cụ biện hộ cho việc
Nhà nước hoá toàn bộ nền kinh tế và nảy sinh hệ thống hành chính chỉ huy của
kinh doanh trong CNXH Nhà nước". Do vậy, việc tìm hiểu nội dung kinh tế của
sở hữu là cần thiết chẳng những đối với lý luận kinh tế học nói chung mà còn để
có thể đánh giá được các đổi mới và thực chất của sở hữu tư sản hiện đại, về
thực chất của mô hình XHCN kiểu cũ dựa trên chế độ công hữu thuần nhất, và
về con đường tất yếu chuyển đổi nó sang thị trường.
Đương nhiên sở hữu như một phạm trù kinh tế, khác sở hữu như một phạm
trù của luật học và các khoa học xã hội khác, không phải là quan hệ chủ thể khách thể, tuy rằng quan hệ chủ thể - khách thể "Vật liệu xây dựng" cho sở hữu
kinh tế và là xuất phát điểm cho mọi quá trình kinh tế. Hơn nữa, đã có sự
chuyển hoá sở hữu thực tế thành sở hữu kinh tế được gây ra bởi quá trình phản
ứng kinh tế - xã hội, trong điều kiện phân công lao động xã hội và có sự trao đổi


sản phẩm lao động (Mà điều kiện trao đổi là: chiếm hữu tư nhân về các sản
phẩm khác nhau và sự trao đổi là tương đương).
Vậy các quan hệ kinh tế trong những điều kiện lịch sử nhất định đã bắt
buộc sự chiếm hữu riêng rẽ của những người khác nhau về các điều kiện và kết
quả sản xuất khác nhau, nói cách khác, bắt buộc xuất hiện hình thái đối kháng
của sự thống nhất xã hội, xuất hiện mâu thuẫn kinh tế giữa những đại diện các
yếu tố sản xuất tức là các quan hệ sở hữu. Từ đây, có thể rút ra các kết luận
chính về vấn đề sở hữu, trước khi chúng ta đi phân tích cụ thể sự tồn tại, vận
hành của nó trong "Nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở Việt
Nam":
Thứ nhất, Bản chất sở hữu như một phạm trù kinh tế bộc lộ ra ở chỗ nó

chứa đựng các chất lượng xã hội đặc biệt, gây ra bởi sự phân cực kinh tế giữa
các vật khác nhau và những người khác đại diện cho vật, do đó bắt buộc phải
cần đến nhau.
Thứ hai, sở hữu luôn giả định (bắt buộc) các cơ sở tư nhân của mình, nó
đảm bảo sự quan tâm kinh tế của người sản xuất hàng hoá - động lực thực sự
của sản xuất, đảm bảo hoạt động bình thường và hiệu quả của phân công lao
động xã hội. D. Ricado nói đại ý: Sở hữu tư nhân như là kết quả của phân công
lao động xã hội.
Thứ ba, nhưng sở hữu tư nhân như là hình thái lịch sử chung, là điều kiện
xã hội chung của sản xuất, luôn tồn tại dưới những hình thái cụ thể, đặc thù của
sở hữu.
Thứ tư, quan hệ sở hữu là quan hệ xã hội trìu tượng, chỉ bộc lộ khi ta phân
tích các chất lượng kinh tế.
Thứ năm, bộc lộc các cơ sở chung thống nhất giữa sở hữu và giá trị. Đó là
nhờ giá trị phát triển trên cơ sở quan hệ sở hữu; Nói cách khác sở hữu là quan
hệ định tính của quan hệ kinh tế, còn giá trị là quan hệ định lượng của các quan
hệ này.


Với lý luận trên, nhiều công trình khoa học nghiên cứu lịch sử, xã hội, triết
học... đều thống nhất rằng: sở hữu - một phạm trù kinh tế mang yếu tố khách
quan - xuất hiện, phát triển song sung trung với sự xuất hiện, tồn tại và phát
triển của xã hội loài người. Mặt khác, quan hệ sở hữu và chế độ sở hữu còn
mang bản chất giai cấp. Chúng ta đứng trên lập trường tư tưởng là chủ nghĩa
Mác - Lênin để nghiên cứu vấn đề sở hữu qua các hình thái kinh tế - xã hội và
đặc biệt quan trọng là "Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường

định

hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay".

Hơn thế nữa, ngày nay "Vấn đề sở hữu" còn là đối tượng nghiên cứu của
nhiều môn khoa học xã hội khác với các góc độ tiếp cận khác nhau, như: Lý
luận chung về nhà nước và pháp luật; Luật dân sự; Luật hôn nhân và gia đình;
Luật doanh nghiệp; Luật đất đai; Kinh tế môi trường vv...
Đây còn là vấn đề quan tâm có tính chất sống còn của mọi giai cấp, mọi tổ
chức và cá nhân: Sở hữu về tư liệu sản xuất là cơ sở kinh tế đầu tiên quyết định
địa vị thống trị xã hội của giai cấp cầm quyền; Sở hữu là cơ sở kinh tế và là cơ
sở pháp lý để các chủ thể thực hiện các quyền năng pháp lý trên đó.
Đối với nước ta hiện nay, thực hiện việc quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội
không qua giai đoạn phát triển TBCN là một mô thức không có tiền lệ thì việc
đòi hỏi phải củng cố và hoàn thiện một hệ thống lý luận khoa học sắc bén, trong
đó có lý luận về vấn đề sở hữu" là tất yếu khách quan. Nó không chỉ là kim chỉ
nam cho hành động kinh tế của đất nước, mà còn góp phần giải quyết, tháo gỡ
vướng mắc, khắc phục sai lầm lệch lạc của thực tiễn quản lý điều hành phát sinh
vì sự hoàn thiện của chế độ sở hữu XHCN, từ đây tạo ra cái nền vật chất pháp lý
cho công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, phấn đấu cho mục tiêu
dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.


B. PHẦN NỘI DUNG
I. Một số khái niệm liên quan đến phạm trù sở hữu
1. Chiếm hữu là gì?
Để tồn tại và phát triển con người phải dựa vào tự nhiên, chiếm hữu là
phạm trù khách quan, tất yếu, vĩnh viễn, là điều kiện trước tiên của hoạt động
lao động sản xuất. Chủ thể chiếm hữu là cá nhân, tập thể và xã hội. Đối tượng
của chiếm hữu từ buổi ban đầu của loài người là cái có sẵn trong tự nhiên cùng
với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Các chủ thể chiếm hữu không chỉ
chiếm hữu tự nhiên mà cả xã hội, tư duy, thân thể, cả các vô hình và cái hữu
hình. Trong kinh tế, chiếm hữu cả sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng.
2. Sở hữu là gì?



Theo quan điểm của Mác xít khái niệm gốc của sở hữu là "Sự chiếm hữu".
Theo đó: Sở hữu là hình thức xã hội - lịch sử nhất định của sự chiếm hữu, cho
nên có thể nói: Sở hữu là phương thức chiếm hữu mang tính chất lịch sử cụ thể
của con người, những đối tượng dùng vào mục đích sản xuất và phi sản xuất. Sở
hữu luôn luôn gắn liền với vật dụng - đối tượng của sự chiếm hữu. Đồng thời sở
hữu không chỉ đơn thuần là vật dụng, nó còn là quan hệ giữa con người với
nhau về vật dụng.
Quan hệ sở hữu có thể là những quan hệ về kinh tế và pháp lý. Nói cách
khác, quan hệ sở hữu về kinh tế là hiện diện của bộ mặt pháp lý, theo nghĩa rộng
quan hệ sở hữu kinh tế là tổng hoà các quan hệ sản xuất - xã hội, tức là các
quan hệ của các giai đoạn tái sản xuất xã hội. Những phương tiện sống, bao
gồm những quan hệ sản xuất trực tiếp, phân phối, trao đổi, lưu thông và tiêu
dụng được xét trong tổng thể của chúng. Quan hệ sở hữu pháp lý là tổng hoà
các quan hệ sở hữu, sử dụng và quản lý. Những quan hệ này tạo ra và ghi nhận
các quan hệ kinh tế qua các nguyên tắc và chuẩn mực pháp lý. Để nêu bật sự
thống nhất của các quan hệ sở hữu cả phương diện kinh tế và pháp lý.
Sở hữu về mặt pháp lý được xem là quan hệ giữa người với người về đối
tượng sở hữu. Thông thường về mặt pháp lý, sở hữu được ghi trong hiến pháp,
luật của nhà nước, nó khẳng định ai là chủ thể của đối tượng sở hữu.
Sở hữu về mặt kinh tế biểu hiện thông qua thu nhập, thu nhập ngày càng
cao, sở hữu về mặt kinh tế ngày càng được thực hiện. Sở hữu luôn hướng tới lợi
ích kinh tế, chính nó là động lực cho hoạt động kinh tế.
Sự vận động, phát triển của quan hệ sở hữu về hình thức, phạm vi mức độ
không phải là sản phẩm của chủ quan mà là do yêu cầu của quy luật quan hệ sản
xuất phù hợp với tính chấtl trình độ của lực lượng sản xuất. Haylà sự vận động
của quan hệ sở hữu là quá trình lịch sử tự nhiên. Sự biến động của quan hệ sở
hữu xét cả về mặt chủ thể và đối tượng sở hữu.



Đối tượng sở hữu: Trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ là cái sẵn có trong
tự nhiên (hiện vật). Đến xã hội nô lệ, cùng với sở hữu vật là sở hữu người nô lệ.
Xã hội phong kiến đối tượng sở hữu là tư liệu sản xuất (đất đai, công cụ lao
động...) trong xã hội tư bản đối tượng sở hữu không chỉ về mặt hiện vật mà
quan trọng hơn về mặt giá trị, mặt tiền tệ.Ngày nay, cùng với sở hữu về mặt
hiện vật và giá trị của tư liệu sản xuất, người ta chú trọng nhiều đến sở hữu công
nghiệp, sở hữu trí tuệ, giáo dục...
3. Quan hệ sở hữu là gì?
Mối quan hệ giữa người với người trong quá trình chiếm hữu và sản xuất
ra của cải vật chất trong xã hội là quan hệ sở hữu. Quan hệ sở hữu phản ánh sự
chiếm giữ tư liệu sản xuất và các sản phẩm tiêu dùng, nó biểu hiện qua mối
quan hệ vật - vật. Quan hệ sở hữu là một loại quan hệ xã hội phát sinh, tồn tại và
phát triển trong quá trình chiếm hữu, mà khi xem xét dưới góc độ

pháp lý

nó bao gồm 3 bộ phận cấu thành chủ thể, khách thể và nội dung.
4. Các hình thức sở hữu: Hình thức đầu tiên, là công hữu, sau đó do sự
phát triển của lực lượng sản xuất, có sản phẩm dư thừa, có kẻ chiếm làm của
riêng xuất hiện tư hữu. Đó là hai hình thức sở hữu cơ bản thể hiện ở nước đó,
quy mô và phạm vi sở hữu khác nhau, phụ thuộc vào trình độ lực lượng sản xuất
và lợi ích của chủ sở hữu chi phối. Chẳng hạn, công hữu thể hiện thông qua sở
hữu nhà nước, sở hữu toàn dân. Ngoài ra còn có hình thức sở hữu hỗn hợp. Nó
xuất hiện tất yếu do yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất và quy trình xã hội
hoá nói chung đòi hỏi. Sở hữu hỗn hợp hình thành thông qua hợp tác liên
doanh liên kết tự nguyện phát hành mua bán cổ phiếu v.v...
Tựu trung lại, khái quát lại thì có hai hình thức cơ bản: Công hữu và tư
hữu. Còn lại là kết quả của sự kết hợp giữa chúng với nhau.
5. Quyền sở hữu là gì?

Vì cơ sở kinh tế đảm bảo cho sự thống trị về chính trị - tư tưởng là các
quan hệ sở hữu có lợi cho giai cấp thống trị. Giai cấp thống trị dùng từ một bộ


phận của công cụ pháp luật quy định về chế độ sở hữu để thể chế hoá ý chí của
giai cấp hình thành hệ thống các quy phạm pháp luật các quy phạm pháp luật
này quy định, củng cố và duy trì dự tính và địa vị thống trị giai cấp. Vì vậy
quyền sở hữu là một phạm trù pháp lý. Nó có nhiệm vụ xác lập và bảo vệ quyền
của chủ sở hữu trong việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt đối tượng tài sản
thuộc quyền sở hữu của mình. Với tư cách là một chế định pháp luật, quyền sở
hữu chỉ ra đời khi xã hội có phân chia giai cấp và có Nhà nước. Còn theo nghĩa
hẹp, quyền sở hữu được hiểu là mức độ xử sự mà pháp luật cho phép một chủ
thể được thực hiện các quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt trong những điều
kiện nhất định (quyền năng dân sự). Ngoài ra theo một phương diện khác quyền
sở hữu là một quan hệ pháp luật dân sự về sở hữu (có ba yếu tố: Chủ thể, khách
thể, nội dung).
6. Chế độ sở hữu là gì?
Phạm trù sở hữu khi được thể chế hoá thành quyền sở hữu (như trình bày ở
trên), được thực hiện thông qua cơ chế nhất định gọi là chế độ sở hữu. Chế độ
sở hữu được Nhà nước xác lập và được ghi nhận trong hiến pháp. Nó chứa đựng
hệ thống các quy phạm pháp luật về sở hữu và cơ chế, kiều kiện, thủ tục pháp lý
để áp dụng, thực hiện các quy phạm đó.
II. Cơ cấu sở hữu trong qúa trình hình thành và phát triển kinh tế thị
trường ở Việt Nam.
1. Cơ cấu sở hữu của Việt Nam trước khi tiến hành đổi mới (trước 1986)
a. Giai đoạn 1945 - 1959
Cách mạn4g tháng tám thành công ngày 02/9/1945 nước Việt Nam dân
chủ cộng hoà, một nhà nước công - nông đầu tiên ở khu vực Đông Nam á ra đời
với mục tiêu xây dựng một chế độ xã hội mới theo con đường phát triển của chủ
nghĩa cộng sản. Hiến pháp 1946 đã tạo cơ sở pháp lý và từ đây quyền sở hữu tài

sản riêng của công dân trở thành quyền hiến định. Nhiệm vụ cấp bách của cách
mạng Việt Nam lúc đó phải xoá bỏ quyền sở hữu đối với tư liệu sản xuất quan


trọng của thực dân Pháp, của các đế quốc khác, các thế lực phản động và thù
nghịch, của giai cấp địa chủ phong kiến Pháp luật giai đoạn 1945 - 1959 đã tạo
ra những tiền đề quan trọng trong việc xác lập quan hệ sở hữu mới dưới chính
quyền dân chủ nhân dân. Từ đó xây dựng cơ sở vật chất bảo đảm cho sự tồn tại
và phát triển của chế độ mới. Trong giai đoạn này ta đã dùng chính quyền vô
sản làm công cụ cải tạo xã hội thiết lập quan hệ sản xuất XHCN, chúng ta coi
công hữu là mục tiêu.
b. Giai đoạn 1959 - 1960
Miền Bắc tiến lên CNXH, còn miền nam tiếp tục tiến hành cuộc cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong điều kiện mới để đi đến cuộc tổng tiến
công và nổi dậy ngày 30/4/1975 giải phóng miền Nam, thống nhất tổ quốc, cả
nước đi lên CNXH.
Miền Bắc về cơ bản hoàn thành cải tạo XHCN đối với các thành phần
kinh tế phi XHCN. Nhiệm vụ chủ yếu thời kỳ này ta xác lập và hoàn thiện chế
độ sở hữu XHCN ở miền Bắc. Điều 12, hiến pháp 1959 khẳng định "Kinh tế
quốc doanh thuộc sở hữu toàn dân giữ vai trò lãnh đạo nền kinh tế quốc dân".
Trong đó tồn tại các hình thức sở hữu là: Sở hữu nhà nước, sở hữu của các nhà
tư sản dân tộc, sở hữu của tiểu thương, thợ thủ công, hộ nông dân cá thể; sở hữu
tập thể của các HTX, được quy định tại điều 11 Hiến pháp 1959... thực hiền các
Nghị quyết Đại hội Đảng, lần thứ III, IV, là vừa xây dựng vừa cải tạo, trong cải
tạo có xây dựng sở hữu thời kỳ này tạo tiền đề quan trọng có ý nghĩa to lớn cho
thời kỳ tiếp theo.
c. Giai đoạn 1980 - 1986
Hiến pháp 1980 thay thế hiến pháp 1959 đã ghi nhận phạm vi và bản chất
của sở hữu toàn dân. Trong đó tại các điều 18, 19, 23, 24, 27 của hiến pháp
1980 đã quy định các hình thức sở hữu cơ bản sau: Sở hữu toàn dân đối với đất

đai, hầm mỏ, rừng núi sông hồ... (Điều 19); Sở hữu tập thể; sở hữu của công
dân. Trong đó ưu tiên sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể tại điều 18 hiến pháp


1980 quy định:"Thiết lâp và củng cố chế độ sở hữu XHCN về tư liệu sản xuất
nhằm thực hiện một nền KTQD chủ yếu có hai thành phần: Thành phần kinh tế
quốc doanh thuộc sở hữu toàn dân và thành phần kinh tế HTX thuộc "sở hữu tập
thể của nông dân lao động".
Tóm lại, trước khi tiến hành đổi mới Đảng và Nhà nước ta chủ trương xây
dựng và hoàn thiện chế độ sở hữu XHCN với hai hình thức sở hữu toàn dân và
sở hữu tập thể, hơn nữa còn cho rằng sở hữu tập thể chỉ là một bước quá độ để
đi đến sở hữu toàn dân. Đánh giá một cách khách quan thì với hình thức sở hữu
toàn dân và tập thể đã đóng góp và phát huy vai trò to lớn nhằm phát huy sức
mạnh tổng hợp kinh tế - xã hội để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta chiến thắng
trong đấu tranh giành chính quyền (1945) và trong kháng chiến chống đế quốc
Pháp, và Mỹ... Tuy nhiên, xét về thực tế nước ta quá độ lên CNXH từ một nước
nông nghiệp lạc hậu, trình độ lực lượng sản xuất thấp kém, năng suất lao động
thấp, dân trí thấp vv... Còn về chủ quan, do quá nhiệt tình, cộng với sự thiếu
hiểu biết nhận thức không đúng nhiều luận điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin,
nên đã tuyệt đối hoá tính hơn hẳn của sở hữu XHCN. Một thời gian dài chúng ta
đã định kiến với sở hữu cá nhân của người lao động, thậm chí coi nó là hình
thức đối lập với XHCN, là mầm mống khôi phục chế độ bóc lột. Thật ra, sở hữu
cá nhân không biến thành tư bản, không biến thành công cụ để bóc lột người lao
động. Sở hữu cá nhân chủ yếu đối với các vật phẩm tiêu dùng, nhằm thỏa mãn
các nhu cầu của người lao động phụ thuộc vào trình độ của sở hữu xã hội.
Trong "tuyên ngôn Đảng cộng sản" đã chỉ ra "Chúng tôi cần gì phải xoá bỏ sở
hữu ấy, sự tiến bộ của công nghiệp đã xoá bỏ và hàng ngày vẫn tiếp tục xoá bỏ
cái đó rồi".
Do nhấn mạnh đề cao, tuyệt đối hoá vai trò và tính ưu việt của kinh tế quốc
doanh và kinh tế tập thể (HTX) nên đến một thực tế: Năng suất lao động thấp

kém, hàng hoá khan hiếm thiếu lương thực, khủng hoảng kinh tế - xã hội.


Trước tình hình đó Đảng ta đã nhìn nhận lại, nhận thức lại và thừa nhận sai
lầm khuyết điểm do chủ quan nóng vội muốn có ngay CNXH và vận dụng quy
luật kinh tế sai (đặc biệt là quy luật quan hệ sản xuất - lực lượng sản xuất). Từ
đây, đường lối đổi mới toàn diện của Đảng cộng sản Việt Nam được tập trung
trong văn kiện Đại hội VI (1986) và tiếp tục sau này được các Đại hội VII, VIII
khẳng định là: Chúng ta xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận
động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng
XHCN.
2. Cơ cấu sở hữu trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay:
Chúng ta tiến hành công cuộc đổi mới, tiến hành hoàn thiện quan hệ sản
xuất XHCN, trước hết là điều chỉnh các hình thức sở hữu vốn có, là kết hợp
một cách tối ưu các lợi ích: Lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể với lợi ích của nhà
nước. Sự đa dạng hoá các hình thức sở hữu việc phát triển nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần không phải là"thụt lùi" không làm "Mất CNXH" như một số
người lầm tưởng mà chính là một chủ trương lớn để khai thác, phát huy mọi
tiềm năng của toàn xã hội cũng như tranh thủ các nước và các tổ chức quốc tế.
Cơ sở lý luận của việc xác lập tính đa dạng các hình thức sở hữu thể hiện ở luận
điểm của C.Mác và Ănghen cho rằng các hình thức sở hữu đựơc xác lập bởi
trình độ xã hội hoá sản xuất. Vì vậy, chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần, đa dạng hoá sở hữu là một thành tựu lớn cả về lý luận và thực
tiễn của công cuộc đổi mới.
Với những thành tựu đáng mừng về kinh tế - xã hội của đất nước ta sau
hơn 10 năm đổi mới đã chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng là hoàn toàn đúng
đắn, hợp lý. Thực tế cũng cho thấy một nền kinh tế nhiều thành phần đương
nhiên phải bao gồm nhiều hình thức sở hữu để phù hợp với tính chất đặc điểm
của từng thành phần kinh tế và phù hợp cũng như khai thác, thúc đẩy được các
yếu tố của lực lượng sản xuất ở các trình độ khác nhau phát triển. Khi thực hiện

chính sách đổi mới của Đảng, Nhà nứơc ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật


thể chế hoá về sở hữu phản ánh trình độ xã hội hoá của lực lượng sản xuất nước
ta còn thấp không đồng đều. Vì thế ứng vói nó là các hình thức sở hữu đa dạng.
Bởi vì: phát triển nền kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện
dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh là mục đích cuối cùng của chế
độ xã hội ta. Trong phạm vi hẹp có thể coi sở hữu là một trong những phương
tiện để đạt mục tiêu này và bước đầu thực hiện CNH, HĐH đất nước (văn kiện
hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ khoá VII 1/1994) vai trò của mỗi hình thức sở
hữu trong một chế độ sở hữu có ý nghĩa và tác dụng khác nhau trong nền kinh tế
quốc dân. Điều 15, hiến pháp 1992, quy định"cơ cấu kinh tế nhiều thành phần
với các hình thức tổ chức sản xuất - kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu
toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu ta nhân trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập
thể là nền tảng". Ta lần lượt xem xét xu hướng vận động và biến đổi của các
hình thức sở hữu, ở nước ta hiện nay.
Chế độ sở hữu của Nhà nước ta.
Chế độ sở hữu là yếu tố căn bản trong chế độ kinh tế của nhà nước. hiến
pháp của tất cả các quốc gia trên thế giới đều quy định về chế độ sở hữu. tuy
nhiên, xuất phát từ bản chất Nhà nước cũng như đặc điểm cụ thể của từng giai
đoạn phát triển của Nhà nước, Hiến pháp quy định về chế độ sở hữu có những
đặc điểm khác nhau.
Ở Việt Nam, trong Hiến pháp 1946, Nhà nước ta chưa xác định các hình
thức sở hữu trong nền kinh tế quốc dân, mà mới chỉ quy định chung là “quyền
sở hữu tài sản của công dân Việt Nam được bảo đảm” (điều 12).
Điều 11 – hiến pháp 1959: ở nước Việt Nam dân chủ cộng hòa trong thời kỳ
quá độ, các hình thức sỡ hữu chủ yếu về tư liệu sản suất hiện nay là: hình thức
sỡ hữu của Nhà nước tức là sỡ hữu toàn dân , hình thức sỡ hữu của hợp tác xã
tức là hình thức sỡ hữu tập thể của nhận dân lao động, hình thức sở hữu của
người lao động riêng lẻ, và hình thức sở hữu của nhà tư sản dân tộc.



Điều 18 – hiến pháp 1980: nhà nước tiến hành cách mạng về quan hệ sản
xuất, hướng dẫn, sư dụng và cải tạo các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa,
thiêt lập và củng cố chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất nhằm
thực hiện một nền kinh tế quốc dân chủ yếu có hai thành phần: thành phần kinh
tế quốc doanh thuộc sở hữu toàn dân và thành phần kinh tế hợp tác xã thuộc sở
hữu tập thể của nhân dân lao động. Trong đó kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ
đạo trong nền kinh tế quốc dân và được ưu tiên phát triển.
Điều 15 – hiến pháp 1992 (sửa đổi 2001): nhà nước phát triển nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước,
theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình
thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng dựa trên sỡ hữu toàn dân, sỡ hữu tập
thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn dân và tập thể là nền tảng.
2.1Sở hữu toàn dân
Trước hết, sở hữu toàn dân là sở hữu trong đó toàn thể nhân dân là chủ sở
hữu đối với tài sản. Tuy nhiên, Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam
là người đại diện cho nhân dân nên sở hữu ở đây còn được hiểu là sở hữu nhà
nước. Vì bản chất giai cấp của Nhà nước ta là Nhà nước của nhân dân lao động
nên những gì thuộc sở hữu nhà nước đều được sử dụng vào mục đích phục vụ
lợi ích của nhân dân lao động.
 cơ cở pháp lý
Cơ sở pháp lý để hình thành sở hữu nhà nước là:
Những tài sản sở hữu nhà nước được hình thành bằng nhiều cách, trên cơ sở
pháp lý khác nhau:
• Thứ nhất, bằng con đường tiếp thu những tài sản của Nhà nước chế độ cũ
để lại.


• Thứ hai: bằng con đườn tịch thu, trưng thu những tài sản của bọn Việt

gian, tư bản mại bản, của bọn làm ăn phi pháp hoặc những tài sản mà Nhà
nước quy định thuộc về quyền sỡ hữu của Nhà nước.
• Thứ ba: bằng con đường thu thuế. Nhà nước ban hành ra những luật thuế
để quy định các loại thuế, nghĩa vụ phải nộp thuế và mức độ cụ thể đối
với từng đối tượng. Thuế là nguồn thu thường xuyên và lớn nhất vào
ngân sách hàng năm.
• Thứ tư: bằng con đường quốc hữu hóa những cơ sở kinh tế của địa chủ,
phong kiến, tư sản mại bản và những tư liệu sản xuất chủ yếu.
• Thứ năm: trong công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, các hình thức sở hữu
tư nhân, sở hữu tạp thể có thể chuyển hóa thành sở hữu nhà nước thong
qua các hình thức: công ty hợp doanh, công ty lien doanh,…
• Thứ sáu: bằng con đường tích lũy trên cơ sở bảo toàn vốn, nâng cao nawg
suất lao động, chất lượng lao động, làm ăn có lãi, bảo đảm đời sống của
công nhân và có tích lũy cho nhà nước dối với các đơn vị kinh tế nhà
nước.
• Thứ bảy: bằng sự giúp đỡ không hoàn lại của các nước, các tổ chức, cá
nhân trong và ngoài nước…
 Chủ thể của sở hữu Nhà nước là:
Vì Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là đại diện chủ sở hữu đối
với tài sản thuộc sở hữu toàn dân nên Nhà nước là chủ thể duy nhất của sở hữu
toàn dân. Ở đây, nhà nước thực sự là nhà nước của dân, do dân, vì dân bao
nhiêu thì thẩm quyền đại diện cho toàn dân thực hiện quyền sở hữu toàn dân
càng lớn bấy nhiêu. Với tư cách như vậy, chỉ có nhà nước mới có thẩm quyền
định đoạt các tài sản của sở hữu toàn dân và phải chịu trách nhiệm trước nhân
dân về tài sản đó.


Nhà nước giao vốn, các tư liệu sản xuất, các phương tiện làm việc,… cho các cơ
quan Nhà nước, các tổ chức xã hội và công dân (chủ thể) để quản lý, sử dụng.
Nhà nước chỉ giao quyền sử dụng chứ không giao quyền sở hữu cho các chủ

thể. Khi không sử dụng đúng mục đích hoặc trái pháp luật thì Nhà nước có thể
thu hồi hoặc chuyển giao quyền sử dụng từ chủ thể này cho chủ thể khác. Nhà
nước quy định những quyền và nghĩa vụ cụ thể cho các chủ thể trong việc sử
dụng tài sản để tài sản thuộc sở hữu nhà nước được bảo tồn và sử dụng có hiệu
quả.
 Khách thể của chủ sở hữu Nhà nước là:
Khách thể của sở hữu nhà nước rất đa dạng. Theo Điều 17 – Hiến pháp 1992
thì:
“Đất đai, rừng núi, sông hồ, nguồn nước, tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi ở
vùng biển, thềm lục địa và vùng trời, phần vốn và tài sản do Nhà nước đầu tư
vào các xí nghiệp, công trình thuộc các ngành và lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã
hội, khoa học, kĩ thuật, ngoại giao, quốc phòng, an ninh cùng các tài sản khác
mà pháp luật quy định là của Nhà nước, đều thuộc sở hữu toàn dân”.
Như vậy, phạm vi khách thể của sở hữu nhà nước rất đa dạng, có trong tất cả
các lĩnh vực: công nghiệp, nông-lâm-ngư nghiệp, giao thông vận tải,… Do nắm
trong tay phần lớn những tư liệu sản xuất chủ yếu trên tất cả các lĩnh vực của
nền kinh tế, Nhà nước có ưu thế đặc biệt để điều hành nền kinh tế. Ngoài ra,
Nhà nước còn có các tài sản khác mà pháp luật quy định là của Nhà nước. So
với Hiến pháp năm 1980, khách thể của sở hữu toàn dân có sự thay đổi, ngày
càng hoàn thiện hơn.
 Một số vấn đề về sở hữu nhà nước:
Nhà nước ta đã có những quy định cụ thể để bảo vệ sở hữu nhà nước. Song,
trong những năm qua do chưa phân công trách nhiệm, phân cấp quản lý rõ rang
nên tài sản thuộc sở hữu nhà nước bị xâm phạm nghiêm trọng dưới nhiều hình


thức như: Tham ô, lãng phí, trộm cắp,…Để khắc phục tình trạng đó Nhà nước
phải tăng cường giáo dục, thuyết phục và kiên quyết áp dụng những biện pháp
cưỡng chế, tăng cường các biện pháp pháp luật, khác phục những sơ hở trong
việc ban hành các văn bản pháp luật và trong quản lý kinh tế.

Trước đây, các doanh nghiệp và các tổ chức thuộc sở hữu toàn dân được Nhà
nước bảo hộ đến cùng, không bị phá sản, giải thể hay bị chuyển hình thức sở
hữu. Vì đó là nền tảng, là tiêu chí đấn giá mức độ chín muồi của Chủ nghĩa xã
hội. Nhưng ngày nay, hiệu quả kinh tế quyết định sự tồn tại và hoạt động của
các doanh nghiệp Nhà nước. Nếu doanh nghiệp Nhà nước nào làm ăn thua lỗ
kéo dài có thể bị chuyển sang hình thức sở hữu khác hiệu quả hơn hoặc bị giải
thể, phá sản.
Hiện nay đầu tư của Nhà nước vào khu vực kinh doanh tuy đã hạn chế, (có
xu hướng huy động vốn xã hội vào xây dựng các công trình hạ tầng và một số
doanh nghiệp công ích...), nhưng tỷ trọng sở hữu nhà nước vào khu vực kinh
doanh vẫn còn cao; trong đó một số ngành cạnh tranh không cần thiết sở hữu
nhà nước, cổ phần hóa chậm và không đạt mục tiêu đề ra. Tuy không trực tiếp
đầu tư vào doanh nghiệp nhà nước, nhưng lại tăng quy mô đầu tư vào các
chương trình dự án có nguồn gốc ngân sách nhà nước và cơ sở hạ tầng dưới sự
chỉ đạo trực tiếp của các bộ, thông qua ban quản lý dự án. Một số ngành cạnh
tranh nhưng không có đối trọng nên vẫn duy trì thế độc quyền, đặc quyền, chi
phối giá cả, làm phương hại đến lợi ích người tiêu dùng và những người kinh
doanh chân chính…
 Giải pháp cho những vấn đề về sở hữu nhà nước là:
Hiện nay trong công cuộc đổi mới, sở hữu nhà nước đang được điều chỉnh
theo hai hướng:
- Một là: xác định những khu vực, đơn vị được coi là then chốt, chủ yếu
như các cơ sở công nghiệp nặng, công nghiệp chế tạo máy, công


nghiệp hoá chất, giao thông, vận tải…phải củng cố và mở rộng sở hữu
nhà nước. Mặt khác, thu hẹp sở hữu nhà nước ở những ngành, lĩnh
vực, đơn vị kinh tế làm ăn kém hiệu quả hoặc chưa thực sự cần thiết
dưới nhiều hình thức: Chuyển quyền sở hữu, bán đấu thầu đất, chuyển
thành công ty cổ phần,…

- Hai là: thực hiện phân cấp quản lý tài sản thuộc sở hữu nhà nước
nhằm mục đích bảo toàn và phát triển số tài sản này. Trong những
năm qua chúng ta đã tiến hành rộng rãi việc giao vốn cho các đơn vị
kinh tế quốc doanh, trên cơ sở tăng cường trách nhiệm sử dụng vốn
của các đơn vị kinh tế quốc doanh (cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà
nước là một giải pháp mang tính chất như những chiếc "van" an toàn
để bảo đảm tính hiệu quả không những cho các doanh nghiệp nhà
nước, mà còn cho cả nền kinh tế). Đối với việc sử dụng ruộng đất là
sở hữu nhà nước cũng được quy định quyền sử dụng ổn định, lâu dài
đối với chủ thể được giao. Từ đó sẽ loại bỏ dần tình trạng vô trách
nhiệm đối với sử dụng nhà nước, bảo đảm hiệu quả kinh tế.

2.2 Hình thức sở hữu tư nhân
Sở hữu tư nhân là hình thức sở hữu của cá nhân đối với tài sản hợp pháp của
mình trong đó có vốn, tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng. Sở hữu tư nhân bao
gồm sở hữu của hộ cá thể, tiểu chủ, sở hữu tư nhân tư bản.
 Cơ sở pháp lý của sở hữu tư nhân là:
Trước hết, sở hữu tư nhân được hình thành bằng con đường thu nhập hợp
pháp, bằng sưc lao động của cá nhân, các hộ cá thể, xí nghiệp tư doanh có
quyền được hưởng thành quả lao động của mình làm ra.


Ngoài ra, sở hữu tư nhân còn được hình thành bằng con đường kế thừa, tiết
kiệm để dành của cá nhân, hộ cá thể, xí nghiệp tư doanh.
 Chủ thể của sở hữu tư nhân là:
Chủ sở hữu của sở hữu tư nhân là từng cá nhân công dân. Như vậy phạm vi
chủ thể của hình thức sở hữu này cũng rất rộng.
 Khách thể của sở hữu tư nhân là:
Tại Điều 58 Hiến pháp năm 1992 quy định về phạm vi khách thể của sở hữu
tư nhân: “ Công dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành,

nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn và tài sản khác trong doanh nghiệp
hoặc các tổ chức kinh tế khác; đối với đất được Nhà nước giao sử dụng theo quy
định tại Điều 17 và Điều 18”.
Cũng giống như sở hữu tập thể, khách thể của sở hữu tư nhân bao gồm: Vốn,
những tư liệu sản xuất dùng trong sản xuất và sinh hoạt như nông cụ, máy móc,
nhà ở, phương tiện đi lại... Còn những tư liệu sản xuất chủ yếu như ruộng đất,
hầm mỏ, sông hồ, tài nguyên trong lòng đất…không thể là khách thể của sở hữu
tư nhân. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế nước ta trong công cuộc đổi
mới, phạm vi khách thể của hình thức sở hữu tư nhân ngày càng được mở rộng
và phát triển. Tài sản hợp pháp thuộc sở hữu tư nhân không bị hạn chế về số
lượng và giá trị.
 Một số vấn đề về sở hữu tư nhân:
Sở hữu tư nhân là một vấn đề mới so với Hiến pháp năm 1980. Nếu Hiến
pháp 1980 chỉ ghi nhận hai hình thức sở hữu là sở hữu toàn dân và sở hữu tập
thể của nhân dân lao động. Trong điều kiện thấp kém của lực lượng sản xuất và
tổ chức quản lý, quy định này của Hiến pháp năm 1980 đã triệt tiêu động lực và
trách nhiệm của người lao động.


Sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể đã không phát huy được tính ưu việt của
nó như chúng ta mong muốn mà làm phát sinh nhiều hiện tượng tiêu cực, gây
lãng phí, thất thoát, tham ô tài sản của nhà nước và tài sản của tập thể. Với nhận
thức giáo điều khi cho rằng cứ có sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, xoá bỏ sở
hữu tư nhân là có nền kinh tế xã hôi chủ nghĩa và nhanh chóng đi lên Chủ nghĩa
xã hội. Trải qua một thời gian dài áp dụng chế độ sở hữu đó đã để lại hậu quả
vô cùng nặng nề, kinh tế trì trệ, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn.
Thực tế đó yêu cầu Nhà nước xem xét lại những sai lầm, đổi mới nền kinh tế,
phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa,
thừa nhận và bảo hộ sự tồn tại của chế độ sở hữu tư nhân.
Một đặc điểm quan trọng của sở hữu tư nhân là có sự thống nhất giữa quyền

chiếm hữu và quyền sử dụng. Sự thống nhất đó thể hiện ở sự tự do kinh doanh,
song quyền tự do đó không phải vô hạn mà phải phù hợp với lợi ích chung của
xã hội. Ở đây, không nên hiểu những quy định của nhà nước mang tính pháp lý
nhằm hạn chế các doanh nghiệp tư nhân, mà nên hiểu đó là hành lang pháp lý
cần thiết để vừa đảm bảo quyền tự do phát triển của doanh nghiệp tư nhân vừa
bảo đảm trật tự chung của nền kinh tế.
Hiện nay, sự tồn tại của sở hữu tư nhân đối với tư liệu sản xuất là tất yếu
khách quan. Vì lực lượng sản xuất tương ứng với nó còn đầy sức sống thể hiện
ở chỗ: nguồn vốn nhân dân còn rất lớn chưa được khai thác hết, nhu cầu sản
xuất và tiêu dùng trong xã hội còn rất bức bách, số lao động chưa có việc làm
trong xã hội còn nhiều và ngày càng tăng. Thực tiễn những năm gần đây với sự
thừa nhận sự tồn tại của sở hữu tư nhân đối với tư liệu sản xuất và bảo đảm cho
nó phát triển không những tận dụng tiềm năng to lớn mà còn có tác dụng hỗ trợ
và kích thích khu vực công hữu phát triển.
Bản chất của sở hữu tư nhân đối với các tư liệu sản xuất về cơ bản vẫn là sự
chuyển hoá từ quyền sở hữu tài sản thành quyền chiếm hữu về lợi ích kinh tế,
vẫn là nguồn gốc của những bất công trong xã hội. Nghĩa là bên cạnh những


mặt tích cực (đặc biệt là vai trò thúc đẩy sự tăng trưởng nền kinh tế) của sở hữu
tư nhân vẫn còn tiềm ẩn trong nó những vấn đề xã hội phức tạp như bóc lột sức
lao động, đầu cơ, phân hoá giàu nghèo,…
 Giải pháp để giải quyết các vấn đề về sở hữu tư nhân:
Vì vậy, nếu chúng ta muốn giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa của nền
kinh tế thị trường thì trước hết phải lấy sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể làm
nền tảng vì:
• Một là: nhiều năm nay thực hiện cuộc cách mạng, các quan hệ sở hữu đã
xác lập nên một nền kinh tế chủ yếu dự trên cơ sở sở hữu toàn dân và sở
hữu tập thể. Kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể chiếm tỉ trọng cao,
nắm giữ những lĩnh vực then chốt trong nền kinh tế. Đây là một thành

quả cần được kế thừa và phát triển.
• Hai là: mặt tiêu cực của sở hữu tư nhân không thể bị hạn chế bởi những
mệnh lệnh hành chính, những sự cấm đoán phi kinh tế mà phải bằng đòn
bẩy kinh tế, phát huy ưu thế của các thành phần kinh tế quốc doanh và tập
thể thông qua cạnh tranh lành mạnh với sức mạnh của sở hữu toàn dân và
sở hữu tập thể.
Do đó, sở hữu tư nhân sẽ bị cuốn theo sự phát triển với định hướng xã hội
chủ nghĩa của nền kinh tế quốc dân. Và chỉ với sở hữu toàn dân và sở hữu
tập thể thì nhà nước mới nắm trong tay các thế mạnh kinh tế để dựa vào đó
mà quản lý và định hướng nền kinh tế theo hướng đã chọn. Hiện nay, sở hữu
toàn dân và sở hữu tập thể chưa đạt được hiệu quả kinh tế cao nên chưa thực
sự đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân.
Nguyên nhân chính là do hình thức và phương pháp quản lý của chúng.
Vì vậy, hướng khắc phục những khiếm khuyết trên là khắc phục tình trạng


vô chủ, bảo đảm kinh doanh có hiệu quả, đứng vững cạnh tranh và làm
gương cho các thành phần kinh tế khác.
• Một điều kiện không kém phần quan trọng khác trong việc phát triển sở
hữu tư nhân mang tính định hướng xã hội chủ nghĩa là phải xây dựng
chính quyền nhân dân thực sự có hiệu lực thông qua việc đổi mới từng
bước hệ thống chính trị nhằm đề cao quyền lực nhân dân, thực hiện cuộc
cải cách hành chính, cải cách tư pháp. Do đó, Nhà nước sẽ có đủ khả
năng để quản lý tốt nền kinh tế , xử lý nghiêm minh những hoạt động sở
hữu, kinh doanh bất hợp pháp, bảo vệ lợi ích hợp pháp của người lao
động và người tiêu dùng.
Hình thức sở hữu tư nhân hiện nay còn khá phổ biến và còn tồn tai lâu dài
trong nền kinh tế quốc dân. Thông qua cách mạng trong quan hệ sản xuất,
sở hữu tư nhân cũng dần dần được chuyển hoá thành các hình thức sở
hữu khác (sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể).

2.3Hình thức sở hữu tập thể
Sở hữu tập thể là sở hữu của các hợp tác xã hoặc các hình thức kinh tế tập
thể ổn định khác trong cá nhân, hộ gia đình góp vốn, góp sức cùng hợp tác sản
xuất kinh doanh theo nguyên tắc tự nguyện, dân chủ, cùng có lợi để thực hiện
mục đích chung được quy định trong điều lệ.
 Cơ sở pháp lý của sở hữu tập thể là:
Sở hữu tập thể được hình thành bằng nhiều cách, dựa trên những cơ sở pháp
lý khác nhau.
- Thứ nhất: sở hữu tập thể được hình thành bằng cách đóng góp tự
nguyện của các thành viên trong tổ chức như vốn, trâu bò, nông cụ,
nhà xưởng, máy móc,…


- Thứ hai: sở hữu tập thể được hình thành bằng cách nâng cao hiệu quả
kinh tế trong quá trình sản xuất, kinh doanh, để có tích luỹ, mở rộng
sản xuất.
- Thứ ba: sở hữu tập thể được hình thành bổ sung nhờ sự giúp đỡ của
nhà nước cũng như các tổ chức khác, cá nhân trong và ngoài nước.
Nhà nước ta ngày càng chú trọng giúp đỡ cơ sở vật chất, tạo điều kiện
thuận lợi cho các tổ chức xã hội hoạt động có hiệu quả.
 Chủ thể của sở hữu tập thể là:
Chủ thể của sở hữu tập thể là các hợp tác xã như hợp tác xã nông nghiệp,
hợp tác xã mua bán, hợp tác xã thủ công nghiệp, tập đoàn sản xuất…
Phạm vi chủ thể của sở hữu tập thể rộng hơn chủ thể của sở hữu nhà nước và
có xu hướng ngày càng tăng. Các tổ chức kinh tế đặc biệt là các hợp tác xã
không còn là một tập thể được thành lập theo mệnh lệnh để thực hiện mệnh lệnh
ngay trong nội bộ đối với các thành viên mà là một đơn vị hợp doanh của của
các cá thể theo tinh thần tự nguyện, dân chủ và cùng có lợi.
Điều 20 Hiến pháp năm 1992 quy định: “ kinh tế tập thể do công dân góp
vốn, góp sức hợp tác sản xuất, kinh doanh được tổ chức dưới nhiều hình thức

trên nguyên tắc tự nguyện, dân chủ và cùng có lợi; Nhà nước tạo điều kiện để
củng cố và mở rộng các hợp tác xã hoạt động có hiệu quả”.
 Khách thể của sở hữu tập thể là:
Gồm có vốn, những tư liệu sản xuất và những tư liệu dùng để sinh hoạt. So
với sở hữu nhà nước, phạm vi khách thể của sở hữu tập thể bị hạn chế. Những
tập thể chú trọng vào việc đầu tư để mua sắm các trang thiết bị cần thiết cho
hoạt động của mình. Do vậy, ngoài tư liệu sản xuất chủ yếu là khách thể của sở
hữu nhà nước, phạm vi khách thể của sở hữu tập thể ngày càng được mở rộng.
 Một số vấn đề về sở hữu tập thể:


Trước đây, Hiến pháp năm 1959 quy định “kinh tế hợp tác xã thuộc sở hữu
tập thể của nhân dân lao động” (Điều 13) và Hiến pháp 1980 quy định “ Nhà
nước hướng dẫn và giúp đỡ kinh tế hợp tác xã phát triển” (Điều 23).
Trong quá trình hình thành sở hữu tập thể chúng ta đã chưa quan tâm
đúng mức đến nguyên tắc tự nguyện, dân chủ và cùng có lợi, do đó, sở hữu tập
thể không phát triển được. Đổi mới đã giúp chúng ta có những nhìn nhận mới
về sở hữu tập thể, không còn đồng nhất hợp tác hoá với tập thể hoá nữa. Hình
thức tập thể hoá tư liệu sản xuất và sức lao động theo mô hình hợp tác xã kiểu
cũ dần dần bị xoá bỏ. Hình thức hợp tác xã theo mô hình mới nhằm mục đích
đạt hiệu quả kinh tế cao hơn, mọi thành viên được hưởng lợi ích kinh tế nhiều
hơn trước.
Nghĩa là nhu cầu sản xuất là lợi ích kinh tế, là động lực trực tiếp thôi thúc
nhiều người sản xuất nhỏ tự nguyện hợp tác với nhau trong lĩnh vực mà họ thấy
cần thiết và ở quy mô có hiệu quả nhất. Chính người tham gia hợp tác xã sẽ
cùng nhau quyết định sự đóng góp của mọi người và sự phân chia các lợi ích,
cùng nhau lựa chọn người quản lý có kinh nghiệm và đủ tín nhiệm. Đã là sở hữu
tập thể thì việc thực hiện quyền sở hữu tập thể phải thực sự thuộc về tập thể.
Muốn vậy, trong quá trình thực hiện sở hữu tập thể cũng phải tuân thủ nghiêm
ngặt các nguyên tắc tự nguyện, dân chủ và cùng có lợi.

 Giải pháp cho các vấn đề về sở hữu tập thể
Đối với tổ chức kinh tế tập thể, đại hội xã viên hay đại hội công nhân viên chức
phải là cơ quan cao nhất thực hiện quyền định đoạt đối với tài sản của tập thể.
Giảm dần và đi đến xoá bỏ những khâu trung gian trong việc thực hiện quyền sở
hữu tập thể của các ban đại diện (ban quản lý) dưới sự giám sát của cả tập thể
nhằm tránh tình trạng “vô chủ hoá” và “tư nhân hoá” tư liệu sản xuất thuộc sở
hữu tập thể.
3

Các hình thức sở hữu khác.


3.1 Sở hữu hợp tác:
ở nước ta trước đây, hình thức này chủ yếu tồn tại

dưới hình

thức HTX, với nội dung là cả giá trị và giá trị sử dụng của đối tượng sở
hữu đều là của chung mà các xã viên là chủ sở hữu. Chính vì vậy mà với
hình thức này quyền mua bán hoặc chuyển nhượng TLSX diễn ra rất
phức tạp. Quyền của các tập thể sản xuất thường hạn chế, song lại có tình
trạng lạm quyền. Sự không xác định, sự "nhập nhằng" với quyền sở hữu
nhà nước và với sở hữu tư nhân trá hình cũng phổ biến. Để hoạt động ra
khỏi tình trạng đó, trong bối cảnh nền kinh tế thị trường hiện nay thì phải
định rõ quyền mua bán chuyển nhượng tư liệu sản xuất đối với các tập
thể sản xuất - kinh doanh. Chỉ như vậy, sở hữu tập thể mới trở thành hình
thức sở hữu có hiệu quả.
Hình thức sở hữu hợp tác là một hình thức tiến bộ trong thời kỳ quá độ
lên CNXH. Vì vậy, cần phải duy trì và phát triển hơn nữa hình thức này khi
xây dựng CNXH, như Lênin nói "chế độ của những xã viên HTX văn minh

là chế độ XHCN".
Hợp tác xã là nhu cầu thiết thân của kinh tế hộ gia đình, của nền sản xuất
hàng hoá. Khi lực lượng sản xuất trong nông nghiệp và nông thôn, công
nghiệp nhỏ phát triển tới một trình tự nhất định nó sẽ thúc đẩy quá trình hợp
tác. Nhu cầu về vốn, cung ứng vật tư, tiêu thụ sản phẩm... đòi hỏi các hộ sản
xuất phải hợp tác với nhau mới có khả năng cạnh tranh và phát triển. Chính
điều đó đã làm liên kết những người lao động lại với nhau và làm nảy sinh
quan hệ sở hữu tập thể.Thực tiễn cho thấy đã có những hình thức HTX kiểu
mới rađời do nhu cầu tồn tại và phát triển trong thị trường. Điều này cho
thấy kết cấu bên trong của tập thể đã thay đổi phù hợp với nước ta hiện nay.
3.2 Sở hữu cá thể:
ở nước ta hình thức này tồn tại chủ yếu dưới hình thức kinh tế cá thể,
tiểu chủ. trước đây kinh tế cá thể, tiểu chủ ở nước ta có tính chất tự cấp, tự
túc, lại bị trói buộc bởi cơ chế quản lý. Hiện náy nó đang được khuyến khích
phát triển và đang có xu hướng phát triển thuận lợi . kinh tế cá thể có mối


quan hệ chặt chẽ với kinh tế hợp tác xã, vì thế hình thức sỡ hữu cá thể cũng
có quan hệ khăng khít với hình thức sở hữu hợp tác. kinh tế cá thể, tiểu chủ
có điều kiện phát huy nhanh và có hiệu quả tiềm năng về vốn, Sức lao động,
tay nghề của từng nhóm, từng người dân. Tại đai hội VIII , Đảng ta đã nêu
rõ: Kinh tế cá thể ,tiểu chủ có vị trí quan trọng, lâu dầi. Giúp đỡ kinh tế
chính trị, tiểu chủ giải quyết các khó khăn về vốn, khoa học và công nghệ, về
thương trường tiêu thụ sản phẩm. Hoặc làm vệ tinh cho các doanh nghiệp
nhà nước hay hợp tác xã.
Chúng ta đều biết kinh tế cá thể, tiểu chủ về thực chất là thành phần kinh
tế sản xuất nhỏ. Nó dựa trên sở hữu nhỏ về tư liệu sản xuất và về lao động
của bản thân và cho đén nay nó vẫn được coi là sở hữu cá nhân. Thứ sở hữu
có nhân đó không phải là một chế độ sở hữu độc lập. Bởi thế, nó không thể
tạo ra quan hệ sản xuất, hoặc đại diện cho 1 quan hệ sản xuất mà chỉ là kết

quả tất yếu của quan hệ sản xuất đâng tồn tại thành phần kinh tế này cũng
luôn chịu sự tác động trên nhưng quy luật kinh doanh và luôn bị phân tán vì
thế cần phải có biện pháp kinh tế để tại đây phóng dần và các biến nó theo
dịnh hướng xã hội chủ nghĩa.

Ngoài ra còn có các hình thức sở hữu khác như sở hữu của các tổ chức
chính trị, chính trị-xã hội, xã hội-nghề nghiệp, sở hữu chung,…
Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần của nước ta hiênh nay,
các thành phần kinh tế không chỉ tồn tại đối lập nhau, cạnh tranh với nhau
mà nhiều khi chúng còn đan xen với nhau để phát triển. Điều 22 đoạn 2
của Hiến pháp năm 1992 quy định: doanh nghiệp thuộc mọi thành phần
kinh tế được liên doanh, liên kết với cá nhân, tổ chức kinh tế trong và
ngoài nước theo quy định của pháp luật. Do vậy mà nền kinh tế của nước
ta hiện nay còn tồn tại thêm một hình thức sở hữu nữa tuy chưa được
Hiến pháp 1992 đề cập đến nhưng Điều 103 dự thảo bộ luật dân sự lần


×