Tải bản đầy đủ (.docx) (97 trang)

Nâng cao hiệu quả Văn hóa công sở tại Viện Thông tin khoa học – Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.85 MB, 97 trang )

Khóa luận tốt nghiệp

Trường Đại học Nội Vụ Hà Nội

LỜI CẢM ƠN
Khóa luận tốt nghiệp được hoàn thành nhờ sự nỗ lực của cá nhân cũng
như nhận được nhiều sự giúp đỡ, hỗ trợ quý báu của nhà trường. Thông qua
quá trình nghiên cứu, em có điều kiện để vận dụng và trau dồi những kiến
thức đã được học trong suốt quá trình học tập ngồi trên ghế nhà trường. Đó là
nền tảng vững chắc giúp cho em có cái nhìn khái quát nhất về lĩnh vực mà mình
đang nghiên cứu.
Em xin được gửi lời cảm ơn chân thành đến TS.GVCC Vũ Thị Kim
Xuyến đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo và giúp đỡ em trong suốt quá trình
nghiên cứu và hoàn thành khóa luận này. Qua bài khóa luận của mình, em
cũng xin được bày tỏ lòng biết ơn tới các Thầy, cô giáo của trường Đại học
Nội Vụ Hà Nội nói chung và các Thầy, cô giáo trong Khoa Quản trị văn
phòng nói riêng, những người đã dạy dỗ và truyền đạt cho em những kiến
thức bổ ích trong suốt quá trình học tập tại trường, đặc biệt là những kiến thức
cơ bản và chuyên sâu về ngành Quản trị văn phòng. Đồng thời, em xin được
gửi lời cảm ơn chân thành đến các cán bộ, công chức và viên chức của Viện
Thông tin Khoa học – Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh đã tạo điều
kiện thuận lợi cho em nghiên cứu, tìm kiến và sử dụng tài liệu trong suốt quá
trình thực hiện đề tài.
Tuy nhiên, do bản thân em chưa có nhiều kinh nghiệm tiếp xúc và giải
quyết công việc thực tế nên không tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót. Vì
vậy, em rất mong các Thầy, cô giáo tham gia đóng góp ý kiến giúp em bổ
sung những thiếu sót để bài khóa luận được hoàn thiện tốt hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 15 tháng 1 năm 2016
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Thị Kim Chi



Nguyễn Thị Kim Chi

Lớp: ĐH. Quản trị Văn phòng K12D


Khóa luận tốt nghiệp

Trường Đại học Nội Vụ Hà Nội

LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan Khóa luận tốt nghiệp này là công trình nghiên cứu
của riêng em. Mọi số liệu, kết luận trong Khóa luận đều là trung thực và chưa
từng được công bố trong bất kì công trình nghiên cứu nào khác.
Hà Nội, ngày 15 tháng 1 năm 2016
Sinh viên

Nguyễn Thị Kim Chi

Nguyễn Thị Kim Chi

Lớp: ĐH. Quản trị Văn phòng K12D


Khóa luận tốt nghiệp

Trường Đại học Nội Vụ Hà Nội
MỤC LỤC

Nguyễn Thị Kim Chi


Lớp: ĐH. Quản trị Văn phòng K12D


Khóa luận tốt nghiệp

Trường Đại học Nội Vụ Hà Nội

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT

Chữ viết tắt

Thuật ngữ

1

CBCC

Cán bộ, công chức

2

CBCC,VC

Cán bộ, công chức và viên chức

3

CCHC


Cải cách hành chính

4

HCNN

Hành chính nhà nước

5

HC – TH

Hành chính – Tổng hợp

6
7
8
9
10
11

HVCTQG
TTKH
TW
QLNN
VBQPPL
VHCS

Học viện Chính trị Quốc gia

Thông tin Khoa học
Trung ương
Quản lý nhà nước
Văn bản quy phạm pháp luật
Văn hóa công sở

Nguyễn Thị Kim Chi

Lớp: ĐH. Quản trị Văn phòng K12D


Khóa luận tốt nghiệp

Trường Đại học Nội Vụ Hà Nội

DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1: Cách bài trí, sắp xếp các phòng ban làm việc tại Viện
TTKH – HVCTQG Hồ Chí Minh
Biểu đồ 2.2: Trang thiết bị phục vụ cho hoạt động tại Viện TTKH –
HVCTQG Hồ Chí Minh
Biểu đồ 2.3: Hiện tượng mất đoàn kết trong nội bộ
Biểu đồ 2.4: Sự quan tâm, lắng nghe ý kiến của lãnh đạo với cấp dưới
Biểu đồ 2.5: Trong công việc không chấp hành quyết định của cấp trên
Biểu đồ 2.6: Đánh giá thái độ, cách thức làm việc của CBCC,VC
Biểu đồ 2.7: Khảo sát ý kiến của CBCC về việc mặc đồng phục công sở
Biểu đồ 2.8: Đánh giá cách ăn mặc của đội ngũ CBCC

Nguyễn Thị Kim Chi

Lớp: ĐH. Quản trị Văn phòng K12D



Khóa luận tốt nghiệp

Trường Đại học Nội Vụ Hà Nội

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong xã hội Việt Nam hiện nay, Văn hóa công sở (VHCS) đang là vấn
đề được nhiều nhà văn hóa, học giả quan tâm, thảo luận trên các diễn đàn.
Nhiều ý kiến phàn nàn về văn hóa ứng xử trong một bộ phận không nhỏ công
dân và cán bộ, công chức, viên chức (CBCC,VC) hiện nay. Trong những năm
gần đây, rất nhiều học giả đã được Nhà nước đầu tư kinh phí và thời gian để
nghiên cứu xây dựng chuẩn mực VHCS. Vấn đề VHCS hiện nay đã trở thành
cấp bách trong nền hành chính Việt Nam. Chính vì vậy, ngày 02 tháng 8 năm
2007 Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 129/2007/QĐ-TTg ban hành
Quy chế Văn hóa công sở tại các cơ quan hành chính nhà nước (HCNN).
Nhiều địa phương, bộ, ngành trên cả nước cũng đã ban hành quy chế VHCS
để góp phần thực hiện mục tiêu xây dựng một nền hành chính trong sạch,
minh bạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại, hoạt động có hiệu lực, hiệu
quả nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn mới.
Viện Thông tin Khoa học – Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
(HVCTQG Hồ Chí Minh) là một đơn vị hành chính sự nghiệp đã xây dựng và
triển khai thực hiện VHCS rất nghiêm túc để góp phần đáp ứng các yêu cầu,
mục tiêu, nhiệm vụ của Đảng. Trong công cuộc đổi mới đất nước ta hiện nay,
VHCS giữ vai trò vô cùng quan trọng trong việc tổ chức và điều hành bộ máy
lãnh đạo quản lý và còn là một hệ thống giá trị được hình thành trong quá
trình hoạt động của cơ quan, tạo niềm tin và thái độ làm việc cho đội ngũ
CBCC,VC tại Viện Thông tin Khoa học (Viện TTKH), bởi nó ảnh hưởng trực
tiếp đến phương pháp làm việc và hiệu quả hoạt động của đơn vị.

Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện VHCS, bên cạnh những
kết quả đã đạt được vẫn còn tồn tại những hạn chế, bất cập chưa thống nhất
cần phải có sự nhìn nhận khách quan. Do đó, em đã quyết định lựa chọn đề
tài: “ Nâng cao hiệu quả Văn hóa công sở tại Viện Thông tin khoa học –
Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh” làm đề tài nghiên cứu cho khóa
Nguyễn Thị Kim Chi

6

Lớp: ĐH. Quản trị Văn phòng K12D


Khóa luận tốt nghiệp

Trường Đại học Nội Vụ Hà Nội

luận tốt nghiệp chuyên ngành Quản trị văn phòng.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Văn hóa công sở là đề tài thu hút được sự quan tâm và nghiên cứu của
các nhà văn hóa, các nhà lãnh đạo quản lý, các cấp ngành, các nhà khoa học.
Xin đề cập một số công trình tiêu biểu như sau:
-

Nguyễn Văn Thâm (2001), Tổ chức và điều hành hoạt động của các công sở,

-

NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Thu Uyên (2006), Nghệ thuật giao tiếp và ứng xử nơi công sở, NXB Văn hóa


-

Thông tin, Hà Nội.
Lê Như Hoa (2007), Quản lý Văn hóa nơi công sở, NXB Lao động, Hà Nội.
Gần đây, khi công cuộc cải cách HCNN được đẩy mạnh, những bài viết
về VHCS đã được đăng rải rác trên các tạp chí, bài báo như : Năm 2009 có
bài báo Đôi điều suy ngẫm về việc thực hiện quy chế Văn hóa công sở của
Trương Thị Hiền; Năm 2012 có bài viết Văn hóa công sở đôi điều suy ngẫm
của Mai Hồng; hay Hồ Sĩ Vinh với bài viết Văn hóa ứng xử nói thêm những
điều cần nói, Tạp chí VHNT số 332; Thực hiện Văn hóa công sở tại các cơ
quan Hành chính Nhà nước của Hà Quang Thanh, Tạp chí QLNN, số 1 –
2015; Nâng cao hiệu quả thực hiện Văn hóa công sở hiện nay của Nguyễn
Thị La, Tạp chí QLNN, số 4 – 2015;…
Văn hóa công sở nói một cách khái quát là các hành vi và quy ước mà
con người dựa vào đó để điều khiển các mối quan hệ của mình với người
khác. VHCS bao gồm những quy định chính thức được ghi nhận thành một
văn bản của một cơ quan đơn vị hành chính và những quy định bất thành văn.
Do vậy chuyên đề “ Văn hóa công sở” đã được đưa vào giảng dạy ở một số
trường Đại học và cũng được đề cập trong các luận văn thạc sĩ, luận văn cử
nhân và khóa luận tốt nghiệp. Nhưng mục đích và cách tiếp cận khác nhau với
nhiều nội dung khác nhau về VHCS. Cụ thể:
Luận văn Thạc sĩ :

-

Năm 2010, Nguyễn Thị Ngân có Luận văn với đề tài Văn hóa công sở ở

Nguyễn Thị Kim Chi

7


Lớp: ĐH. Quản trị Văn phòng K12D


Khóa luận tốt nghiệp

-

Trường Đại học Nội Vụ Hà Nội

Quận Tây Hồ hiện nay.
Năm 2015, Nguyễn Thị Thanh Hà có Luận văn với đề tài Văn hóa công sở
trong các cơ quan Hành chính cấp tỉnh ở Bắc Ninh hiện nay.
Luận văn cử nhân:

-

Năm 2007, Vũ Thị Phụng có Luận văn với đề tài Một số giải pháp nâng cao

-

Văn hóa công sở trong các cơ quan Hành chính Nhà nước.
Năm 2009, Hoàng Thị Chi có Luận văn với đề tài Xây dựng Văn hóa công sở
ở Viễn thông Lạng Sơn trong giai đoạn hiện nay.
Khóa luận tốt nghiệp:
Năm 2015, có 02 Khóa luận tốt nghiệp của Đặng Trần Nha Trang về đề
tài Thực trạng và giải pháp xây dựng Văn hóa công sở tại Ngân hàng TMCP
An Bình và Cao Thị Thùy Linh về đề tài Vai trò của văn phòng trong việc xây
dựng Văn hóa ứng xử tại một số doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Nhìn chung, những đề tài nghiên cứu trên đã cung cấp nhiều thông tin

quan trọng về lý luận và thực tiễn về VHCS. Nhưng cho đến nay chưa có
công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống và đánh giá một cách tổng thể
về “ Nâng cao hiệu quả Văn hóa công sở tại Viện Thông tin khoa học – Học
viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh”.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn
VHCS. Từ đó đưa ra phương hướng và những giải pháp để nâng cáo hiệu quả
VHCS tại Viện TTKH – HVCTQG Hồ Chí Minh đáp ứng yêu cầu cải cách
hành chính nhà nước ta hiện nay.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu trên, khóa luận có các nhiệm vụ sau đây:

-

Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về VHCS để thấy được sự cần thiết phải

-

nâng cao hiệu quả VHCS tại Viện TTKH – HVCTQG Hồ Chí Minh.
Khảo sát và đánh giá thực trạng VHCS tại Viện TTKH – HVCTQG Hồ Chí

-

Minh hiện nay.
Đề xuất phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả VHCS tại Viện TTKH
Nguyễn Thị Kim Chi

8

Lớp: ĐH. Quản trị Văn phòng K12D



Khóa luận tốt nghiệp

Trường Đại học Nội Vụ Hà Nội

– HVCTQG Hồ Chí Minh.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là VHCS tại Viện TTKH – HVCTQG Hồ Chí Minh.
Phạm vi nghiên cứu: Quá trình triển khai thực hiện VHCS tại Viện
TTKH – HVCTQG Hồ Chí Minh từ năm 2009 đến năm 2016.
6. Giả thuyết nghiên cứu
Nâng cao hiệu quả VHCS tại Viện TTKH – HVCTQG Hồ Chí Minh là
góp phần đánh giá việc thực hiện VHCS, tạo thêm nguồn dữ liệu thực tiễn
làm cơ sở cho việc hoạch định những chính sách, giải pháp phù hợp nhằm
khắc phục những hạn chế về VHCS tại Viện TTKH. Và cũng là góp phần
thực hiện mục tiêu xây dựng một nền hành chính trong sạch, minh bạch, vững
mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại hoạt động có hiệu lực nhằm đáp ứng yêu cầu
phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn mới.
7. Phương pháp nghiên cứu
+
+
+
+
+
+
+
+
+


Phương pháp nghiên cứu lý luận.
Phương pháp nghiên cứu thực tiễn gồm:
Phương pháp thu thập thông tin.
Phương pháp so sánh, đối chiếu.
Phương pháp phân tích, tổng hợp.
Phương pháp sưu tầm.
Phương pháp đánh giá.
Phương pháp phỏng vấn.
Phương pháp điều tra bằng phiếu khảo sát.
Phương pháp thống kê toán lược.
Phương pháp ghi chép, chụp ảnh.
8. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ
lục, khóa luận được kết cấu thành 03 chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn về Văn hóa công sở.
Chương 2: Thực trạng Văn hóa công sở hiện nay tại Viện thông tin
khoa học – Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả Văn hóa
Nguyễn Thị Kim Chi

9

Lớp: ĐH. Quản trị Văn phòng K12D


Khóa luận tốt nghiệp

Trường Đại học Nội Vụ Hà Nội

công sở tại Viện thông tin khoa học – Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí

Minh.

Nguyễn Thị Kim Chi

10

Lớp: ĐH. Quản trị Văn phòng K12D


Khóa luận tốt nghiệp

Trường Đại học Nội Vụ Hà Nội

NỘI DUNG
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ VĂN HÓA CÔNG SỞ
1.1 Một số quan niệm
1.1.1 Quan niệm về văn hóa
Văn hóa là một lĩnh vực thuộc đời sống tinh thần, một lĩnh vực phong
phú, độc đáo. Tuy vậy trong quá trình phát sinh và phát triển, đời sống văn
hóa của con người vẫn chịu sự quy định của những quy luật chung và đều
hướng tới những những chuẩn mực cụ thể. Quy luật bao giờ cũng có tính
khách quan, nhưng quy luật xã hội không tách rời hoạt động có ý thức của
con người, các chuẩn mực xã hội về lối sống, nếp sống đều do con người đặt
ra, nhưng chịu sự quy định chặt chẽ của các điều kiện khách quan và khi đã
hình thành, các chuẩn mực đó lại có tính khách quan, quy định các hoạt động
của con người.
Nghiên cứu các quy luật, các chuẩn mực của sự hình thành và phát triển
đời sống văn hóa tinh thần của xã hội và của con người cho thấy sự phát triển
của văn hóa xã hội là không có điểm dừng, nó không phát triển theo vòng

khép kín mà nó phát triển theo hình xoáy trôn ốc cứ vươn cao, vươn cao mãi.
Chính vì vậy, từ xa xưa đến nay khi nói đến khái niệm văn hóa thì có hàng
trăm định nghĩa văn hóa khác nhau. Các học giả ở mỗi đất nước, dân tộc trong
mỗi thời kỳ lịch sử, ngành nghề khác nhau đều có những cách lý giải không
hoàn toàn giống nhau về văn hóa.
Văn hóa là một thuật ngữ đa nghĩa, thường được xem xét nhiều khía
cạnh bình diện khác nhau. Không nên coi văn hóa như một hoạt động riêng
biệt mà phải coi đó là một hoạt động nhằm phát huy những năng lực mang
tính bản chất con người, vươn tới Chân – Thiện – Mỹ. Là hoạt động nhằm tạo
ra những giá trị, những chuẩn mực xã hội, là môi trường thứ hai, cái nôi nuôi
dưỡng sự hình thành nhân cách của con người.
Văn hóa được ví như một thứ men giúp cho cuộc sống con người tốt

Nguyễn Thị Kim Chi

11

Lớp: ĐH. Quản trị Văn phòng K12D


Khóa luận tốt nghiệp

Trường Đại học Nội Vụ Hà Nội

đẹp hơn. Văn hóa được hiểu là “Văn trị giáo hóa” nghĩa là đem cái giáo hóa
cho con người, đưa họ vào trật tự kỉ cương, lễ nghĩa mà tổ chức, quản lý và
cai trị.
Ông Federico Mayor – Nguyên Tổng thư ký UNESCO đã từng viết
trong Thập kỷ quốc tế phát triển văn hóa năm 1987 – 1988:
“ Văn hóa là tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo của các cá

nhân và cộng đồng trong quá khứ và hiện tại. Qua các thế kỉ, hoạt động sáng
tạo ấy đã hình thành nên hệ thống các giá trị các truyền thống và thị hiếu –
những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc”.[10;3]
Với ý nghĩa đó, văn hóa có mặt trong bất cứ hoạt động nào của con
người, dù đó là hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động sản xuất tinh thần hay
trong quan hệ giao tiếp ứng xử xã hội, trong thái độ đối với thiên nhiên… Văn
hóa sinh ra cùng con người, song song tồn tại và phát triển cùng con người.
Khi nói về đặc trưng của văn hóa, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng: văn
hóa bao gồm tất cả những gì làm cho dân tộc này khác với dân tộc khác. Sự
khác biệt ấy tạo nên hệ thống các biểu tượng mang tính đa dạng. Song bản
thân cái khác biệt của hệ thống biểu tượng chưa phản ánh toàn diện bản chất
nội hàm văn hóa mà nó phải được thống nhất trong một chỉnh thể nền văn hóa
chung tạo nên hệ thống các giá trị. Điều đó cũng có thể xem như vấn đề mang
tính quy luật của sự hình thành và phát triển của bất kỳ nền văn hóa nào trên
thế giới.
Tháng 8-1943, khi đang bị giam cầm trong nhà tù của Tưởng Giới
Thạch, Hồ Chí Minh đã đưa ra quan niệm về văn hóa trong mục đọc sách
(Khán báo lan) của tập Nhật ký trong tù (Ngục trung nhật ký) viết năm 1942-1943:
“ Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng
tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn
giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc,
ăn, ở và các phương thức sử dụng. Tòa bộ những sáng tạo và phát minh đó
tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng
với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu
Nguyễn Thị Kim Chi

12

Lớp: ĐH. Quản trị Văn phòng K12D



Khóa luận tốt nghiệp

Trường Đại học Nội Vụ Hà Nội

cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”.[35;28]
Với quan niệm trên Hồ Chí Minh đã chỉ ra: nguồn gốc của văn hóa;cấu
trúc của văn hóa và mục tiêu của văn hóa. Và chính Người với tầm nhìn xa đã
thực sự coi trọng và khẳng định vai trò to lớn của Văn hóa đối với sự nghiệp
con người, sự phát triển của con người với xã hội. Ngày 24/11/1946, trong bài
diễn văn khai mạc “Hội nghị Văn hóa toàn quốc” với lời lẽ đã đi vào lịch sử
như một hàng chữ vàng, Người từng nói rằng: “văn hóa soi đường quốc dân
đi”[1;1]; sau này UNESCO đã xác nhận: “Văn hóa là hệ điều tiết xã hội”. Vai
trò “soi đường” hay “hệ điều tiết” của văn hóa đã nói lên vai trò định hướng
của văn hóa trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Văn hóa
chính là ngọn hải đăng soi sáng cho dân tộc ta đi tới tương lai tốt đẹp.
1.1.2 Quan niệm về công sở - Văn hóa công sở
Quan niệm về công sở
Trước hết, công sở được hiểu chung thì “công” là chung, “sở” là cơ
quan, công sở, là chỗ làm việc của cơ quan công quyền (trụ sở làm việc).
Công sở là một tổ chức đặt dưới sự quản lý trực tiếp của Nhà nước để tiến
hành công việc chuyên ngành của Nhà nước.
Xét về nội dung công việc: hoạt động công sở nhằm thỏa mãn các lợi
ích chung của cộng đồng, do vậy cần được sự bảo vệ và kiểm tra của Nhà
nước và chỉ có Nhà nước mới thỏa mãn các nhu cầu này[23;4]
Xét về hình thức tổ chức: công sở là một tập hợp có cơ cấu tổ chức,
phương tiện vật chất và con người được Nhà nước bảo trợ để thực hiện nhiệm
vụ của mình. Hình thức tổ chức công sở do Nhà nước quy định và lệ thuộc
vào phương thức điều hành của bộ máy Nhà nước. Hiện nay ở nước ta có các
loại công sở như công sở hành chính, công sở sự nghiệp[23;4]

Xét về ý nghĩa tổ chức Nhà nước: công sở là trụ sở làm việc của cơ
quan Nhà nước, do Nhà nước lập ra để giải quyết công vụ[23;4]
Tóm lại, có thể hiểu công sở là các tổ chức mang tính chất công ích
được Nhà nước công nhận thành lập chịu sự điều chỉnh của luật hành chính và
Nguyễn Thị Kim Chi

13

Lớp: ĐH. Quản trị Văn phòng K12D


Khóa luận tốt nghiệp

Trường Đại học Nội Vụ Hà Nội

các luật khác. Công sở là nơi để tổ chức các hoạt động và kiểm soát công việc
hành chính, quản lý các mặt của đời sống xã hội; là nơi soạn thảo và xử lý các
văn bản để phục vụ cho công việc chung, bảo đảm các thông tin hoạt động
của bộ máy quản lý nhà nước, nơi phối hợp các bộ phận cán bộ, công chức
theo một cơ chế nhất định để thực hiện nhiệm vụ được giao. Do đó, công sở là
một bộ phận hợp thành tất yếu của thiết chế bộ máy nhà nước.
Trong cuốn Thuật ngữ hành chính của Viện Nghiên cứu hành chính
thuộc Học viện Hành chính Quốc gia có đưa ra quan niệm về công sở như sau:
Nghĩa rộng, công sở chỉ các cơ quan Nhà nước nói chung, bao gồm
các cơ quan trong hệ thống quyền lực Nhà nước (Quốc hội, Hội đồng nhân
dân các cấp); các cơ quan trong hệ thống quyền lực Nhà nước ( Chính phủ,
các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan trực thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân
các cấp); các cơ quan tòa án và viện kiểm sát nhân dân các cấp.
Nghĩa hẹp, công sở được hiểu là các cơ quan hành chính nhà nước
( bao gồm Chính phủ, UBND các cấp và các cơ quan trực thuộc). Còn trong

một phạm vi hẹp nữa, công sở được dùng đồng nghĩa với trụ sở - địa điểm
làm việc của một cơ quan [26;21].
Từ những quan niệm đã nêu trên, chúng ta có thể thấy công sở hành
chính có vai trò rất quan trọng đối với tổ chức, cụ thể như sau:
Có vị trí pháp lý nhất định:
Những công sở thẩm quyền chung đều được sử dụng quyền lực Nhà
nước để quản lý lãnh thổ, được hình thành theo luật định. Đặc điểm công sở
hành chính này là làm việc theo chế độ tập thể, biểu quyết theo đa số, chịu
trách nhiệm tập thể trước các quyết định hành chính và ký thay mặt khi ban
hành các văn bản quản lý quan trọng.
Thực hiện chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể do Nhà nước quy
định và chịu sự kiểm soát của các cơ quan có thẩm quyền.
Đặc điểm này, thể hiện sự thống nhất quản lý của hệ thống tổ chức Nhà
nước, đồng thời cũng phân cấp thẩm quyền của từng loại công sở trong hoạt
Nguyễn Thị Kim Chi

14

Lớp: ĐH. Quản trị Văn phòng K12D


Khóa luận tốt nghiệp

Trường Đại học Nội Vụ Hà Nội

động. Nằm trong quan hệ theo hệ thống thứ bậc để đảm bảo sự lãnh đạo tập
trung thống nhất và quan hệ ngang theo chức năng để đảm bảo sự phối hợp
giữa ngành, lĩnh vực với địa phương, vùng lãnh thổ.
Phục vụ lợi ích công, lợi ích Nhà nước và nhân dân, không vụ lợi.
Đây là đặc điểm rất cơ bản để phân biệt giữa các công sở Nhà nước với

các đơn vị kinh doanh. Đặc điểm riêng của các công ở hành chính là hoạt
động vì lợi ích chung không mang tính vụ lợi cho cá nhân từng người hoặc
một nhóm người trong tổ chức.
Có các điều kiện và phương tiện cần thiết để thực hiện công vụ
Các điều kiện, phương tiện cần thiết để đảm bảo cho công sở hoạt động
có hiệu quả là: tổ chức, nhân sự, tài sản, tài chính và thẩm quyền. Thiếu một
trong năm điều kiện trên, công sở hành chính không thể hoàn thành được
nhiệm vụ của mình. Trong số các thiết bị cần có, thì các thiết bị để thu thập và
xử lý thông tin phục vụ cho hoạt động của công sở có vai trò quan trọng.
Từ những tìm hiểu trên, công sở mà em đề cập trong Khóa luận tốt
nghiệp này gọi là công sở hành chính – là nơi CBCC hàng ngày tiếp xúc và
giải quyết những công việc liên quan đến người dân. Vì vậy, từ nề nếp đến
phong cách làm việc và thái độ tiếp cận của đội ngũ CBCC đều ảnh hưởng
đến hiệu quả công việc và hiệu lực quản lý nhà nước. Môi trường làm việc,
thái độ phục vụ cũng như cách thức giao tiếp, ứng xử đối với người dân của
đội ngũ CBCC sẽ tạo nên bầu không khí bình đẳng thể hiện mối quan hệ thân
thiện giữa cơ quan hành chính với công dân, tạo nên nét đẹp văn hóa của một
nền hành chính hiện đại.
Quan niệm về Văn hóa công sở
“Văn hóa công sở” là cụm từ được sử dụng khá nhiều trong cuộc sống
cũng như trong một số văn bản quản lý nhà nước hiện nay. Quan niệm “Văn
hóa công sở” được các nhà nghiên cứu hiểu theo nhiều nghĩa rộng, hẹp khác nhau.
Theo nghĩa rộng, VHCS là tổng thể các giá trị tài sản tinh thần và vật
chất do công sở sáng tạo ra. Theo quan niệm của PGS.TS Vũ Thị Phụng: “
Nguyễn Thị Kim Chi

15

Lớp: ĐH. Quản trị Văn phòng K12D



Khóa luận tốt nghiệp

Trường Đại học Nội Vụ Hà Nội

Văn hóa công sở là tổng hòa những giá trị hữu hình và vô hình, bao gồm
trình độ nhận thức, phương pháp tổ chức, quản lý, môi trường – cảnh quan,
phương tiện làm việc, đạo đức nghề nghiệp và phong cách giao tiếp ứng xử
của cán bộ công chức nhằm xây dựng một công sở văn minh, lịch sự, hoạt
động đúng pháp luật và hiệu quả cao.”[12]
Tác giả Trần Hoàng đưa ra quan niệm về VHCS như sau: “ Văn hóa
công sở được hiểu là những quy tắc, các chuẩn mực ứng xử của cán bộ, công
chức nhà nước với nhau và với đối tượng giao tiếp là công dân, nhằm phát
huy tối đa năng lực của những người tham gia giao tiếp để đạt được hiệu quả
cao nhất trong công việc tại công sở”[4]
Còn theo PGS.TS Nguyễn Đăng Dung – khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội thì VHCS được hiểu như sau: “ toàn bộ những giá trị tạo nên nề nếp,
hiệu quả hoạt động của cơ quan, bao gồm những giá trị văn hóa vật thể (cơ
sở vật chất, môi trường làm việc ở công sở, quần áo, trang phục, phù hiệu
của công chức làm việc tại công sở…) và văn hóa phi vật thể (văn hóa ứng
xử, giao tiếp, văn hóa lãnh đạo, văn hóa nghe và trả lời điện thoại…)”[3]
Trên thế giới hiện nay, người ta nhắc nhiều đến “Văn hóa tổ chức”.
Văn hóa tổ chức được thể hiện dưới các hệ thống giá trị, niềm tin, sự mong
đợi của các thành viên trong tổ chức, trong đó mọi hoạt động tuân theo những
chuẩn mực mang tính truyền thống và những thói quen có khả năng mang bản
sắc riêng mà mọi thành viên trong tổ chức tuân theo một cách tự nguyện. Văn
hóa tổ chức giúp chúng ta nhìn thấy được sự khác nhau giữa tổ chức này với
tổ chức khác. VHCS được tìm hiểu và giải thích trên những nghĩa tương đồng
với văn hóa tổ chức, có tính đến đặc thù riêng của công sở.
Trong Cuốn Từ điển tra cứu về Quản lý nhà nước và quản lý địa

phương của Học viện công vụ Liên Bang Nga quan niệm: “ Tập hợp các định
hướng và giá trị, chuẩn mực do truyền thống hay thói quen tạo nên đặc trưng
riêng của công vụ tại các cơ quan nhà nước, thể hiện ở mục tiêu của tổ chức,
quan điểm thái độ của con người đối với công việc, cách xử lý các xung
Nguyễn Thị Kim Chi

16

Lớp: ĐH. Quản trị Văn phòng K12D


Khóa luận tốt nghiệp

Trường Đại học Nội Vụ Hà Nội

đột…”[21]. Từ đó, có thể hiểu Văn hóa tổ chức công sở là một hệ thống được
hình thành trong quá trình hoạt động của công sở, tạo nên niềm tin, giá trị về
thái độ của các cán bộ làm việc trong công sở, ảnh hưởng đến cách làm việc
trong công sở và hiệu quả hoạt động của nó.
Theo nghĩa hẹp hơn, tác giả Nguyễn Thị Thu Vân quan niệm VHCS
bao gồm: “ hệ thống các giá trị , các quy tắc giao tiếp ứng xử, chuẩn mực
đạo đức của CBCC, các phương thức, cách thức quản lý gắn với viện tìm
kiếm các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động công sở…”[32;23-30].
Hay theo TS.Đào Thị Ái Thi cho rằng: “Văn hóa công sở là một dạng
đặc thù của văn hóa xã hội bao gồm các giá trị, chuẩn mực, vẻ đẹp và cách
hành xử trong hoạt động công sở, mà các thành viên trong công sở cùng tiếp
nhận để ứng xử với nhau trong nội bộ công sở và phục vụ cộng đồng với sự
tác động của hệ thống quan hệ thứ bậc mang tính quyền lực và tính xã
hội”[25;22].



Có rất nhiều quan niệm khác nhau về VHCS. Nhìn chung, khi đề cập đến
VHCS chúng ta thường nhìn nhận các góc độ như trình độ, phương
pháp quản lý điều hành hoạt động của cơ quan, phong cách giao tiếp ứng xử
của CBCC,VC, cảnh quan và môi trường làm việc. Như vậy, chúng ta có thể
hiểu: VHCS là những giá trị vật chất tinh thần thể hiện qua nhận thức, qua
phương thức tổ chức quản lý các hoạt động công vụ nhằm mục đích hoàn
thành các chức năng, nhiệm vụ được giao để đạt được mục tiêu và hiệu quả
cao. VHCS còn được hiểu là những quy tắc, chuẩn mực ứng xử giữa CBCC người đại diện cho cơ quan HCNN với công dân và giữa CBCC với nhau
nhằm phát huy tối đa năng lực để đạt hiệu quả cao nhất trong hoạt động công
vụ. Khi VHCS của CBCC được nâng cao thì nấc thang văn hóa ứng xử của
công dân đến công sở làm việc chắc chắn cũng sẽ được nâng cao. VHCS còn
là biểu hiện nổi bật của một xã hội văn minh, mọi hoạt động công vụ đều có
nền nếp, kỷ cương; mỗi người công chức đều thấy rõ trách nhiệm của mình và
luôn tự nguyện làm tròn nhiệm vụ, hoàn thành tốt phần việc được giao.
Nguyễn Thị Kim Chi

17

Lớp: ĐH. Quản trị Văn phòng K12D


Khóa luận tốt nghiệp

Trường Đại học Nội Vụ Hà Nội

Bản chất của VHCS là hệ thống những quy ước, giá trị mà con người
đưa vào đó để điều chỉnh các mối quan hệ tương tác giữa con người trong các
hoạt động công sở, nhằm đạt được mục đích cao nhất của các cơ quan công
quyền. Theo ý kiến của nhiều nhà nghiên cứu, VHCS được cấu thành bởi các

yếu tố như: hệ thống các giá trị; kỹ năng giao tiếp, ứng xử; đạo đức, lối sống;
tác phong, lề lối làm việc; cơ sở vật chất; các yếu tố ngoại hiện của công sở…
1.2 Khái quát về Viện Thông tin khoa học – Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh
1.2.1 Lịch sử hình thành và quá trình phát triển của Viện TTKH –
HVCTQG Hồ Chí Minh
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh là đơn vị sự nghiệp trực
thuộc Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Chính phủ Việt Nam; là đơn vị tài
chính cấp I; là trung tâm quốc gia đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý
chủ chốt, trung, cao cấp, công chức hành chính, công chức trong bộ máy lãnh
đạo, quản lý của các đơn vị sự nghiệp công lập, thành viên hội đồng quản trị,
tổng giám đốc, phó tổng giám đốc, giám đốc, phó giám đốc doanh nghiệp nhà
nước, cán bộ khoa học chính trị và hành chính của Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nhà nước Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội; là trung tâm
quốc gia nghiên cứu khoa họclý luận Marx-Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh,
nghiên cứu đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước,
nghiên cứu về các khoa học chính trị nằm ở 135 Nguyễn Phong Sắc, phường
Nghĩa Tân, quận Cầu Giấy, Thành phố Hà Nội với số điện thoại văn phòng
043.8361.021 và Emai là
HVCTQG Hồ Chí Minh có tên giao dịch quốc tế bằng Tiếng Anh là Ho
Chi Minh National Academy of Politics and Public Administration( Viết tắt là
HCMA)[19].
Viện TTKH là một trong những đơn vị trực thuộc – một bộ phận không
thể thiếu của HVCTQG Hồ Chí Minh được thành lập từ năm 1962 với tên gọi
ban đầu là Phòng Tư liệu. Địa điểm làm việc của Viện TTKH được đặt tại
Nguyễn Thị Kim Chi

18

Lớp: ĐH. Quản trị Văn phòng K12D



Khóa luận tốt nghiệp

Trường Đại học Nội Vụ Hà Nội

Nhà A8 của Học viện. Tháng 01/ 1962, Phòng Tư liệu được thành lập trên cơ
sở tách bộ phận Tài liệu – Thư viện ra khỏi Ban Giáo vụ nhà trường. Phòng
Tư liệu là một đơn vị độc lập, trực thuộc Ban Hiệu ủy có chức năng trực tiếp
quản lý và cung cấp các loại tài liệu phục vụ cho hoạt động giảng dạy và
nghiên cứu của Nhà trường. Nhiệm vụ của giai đoạn này là bổ sung, bảo
quản, in ấn tài liệu phục vụ cho việc học tập và nghiên cứu. Ngoài ra, phòng
Tư liệu còn có nhiệm vụ biên dịch bài giảng, các tài liệu học tập, sách, báo,
tạp chí nước ngoài. Đây là giai đoạn có ý nghĩa đặc biệt với công tác tư liệu,
thư viện của Nhà trường nói chung và đối với hoạt động của Phòng Tư liệu
nói riêng; là giai đoạn hình thành và phát triển những cơ sở ban đầu của hoạt
động thông tin, tư liệu thư viện, tạo tiền đề phát triển cho những năm về sau.
Ở giai đoạn từ năm 1978 đến năm 1988, đất nước hòa bình, thống nhất,
bước vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước. Công
tác thông tin tư liệu của Nhà trường cũng bước sang giai đoạn mới với những
nhiệm vụ mới, đòi hỏi nâng cao chất lượng phục vụ công tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ nghiên cứu khoa học. Để đáp ứng những yêu cầu mới, Phòng
Tư liệu

đã được chuẩn bị để tổ chức thành một đơn vị cấp vụ. Ngày

15/4/1978, Ban Giám đốc đã ký quyết định số 48 NQ/TĐ về việc thành lập
Vụ Tư liệu trực thuộc Ban giám đốc Nhà trường. Vụ thực hiện chức năng
chính là tham mưu, tổng hợp, tổ chức thông tin kịp thời, giúp lãnh đạo cấp bộ
thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước; chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Ban

Giám đốc. Giai đoạn này đánh dấu một bước trưởng thành mới trong hoạt
động thông tin – thư viện, đáp ứng được sự tin cậy của Giám đốc Nhà trường
và các khoa, ban, vụ trong Học viện.
Tiếp đó, giai đoạn từ năm 1988 đến năm 1997, trong Báo cáo chính trị
của Ban chấp hành TW Đảng tại Đại hội VI đã nhấn mạnh yêu cầu phải “ cải
cách toàn diện công tác của Trường Đảng, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý các cấp”. Quán triệt tinh thần đó
của Đại hội, Trường Đảng cao cấp Nguyễn Ái Quốc đã tiến hành đổi mới toàn
Nguyễn Thị Kim Chi

19

Lớp: ĐH. Quản trị Văn phòng K12D


Khóa luận tốt nghiệp

Trường Đại học Nội Vụ Hà Nội

diện về cả tổ chức bộ máy và nội dung hoạt động, trong đó có sự đổi mới
nhận thức về công tác thông tin – tư liệu. Học viện đã giao cho Vụ Tư liệu
xây dựng Đề án cải tiến công tác thông tin, xây dựng bộ máy làm công tác
thông tin. Đề án khẳng định tầm quan trọng của công tác thông tin trong Học
viện, phân tích thực trạng, những thành tựu và yếu kém của công tác thông tin
và kiến nghị cải tiến họat động và tổ chức cho phù hợp với yêu cầu của nhiệm
vụ mới. Sau một thời gian xem xét, Ban Giám đốc Học viện Nguyễn Ái
Quốc đã ra quyết định số 06 – QĐ ngày 5/7/1998, chuyển Vụ Tư liệu thành
Trung tâm Thông tin – Tư liệu trực thuộc Ban Giám đốc Học viện Nguyễn Ái
Quốc. Việc chuyển Vụ Tư liệu thành Trung tâm Thông tin – Tư liệu không
phải là sự đổi tên đơn thuần. Thực chất Trung tâm Thông tin – Tư liệu là một

“đơn vị mới”, được thành lập trên cơ sở Vụ Tư liệu. Do vậy, Vụ Tư liệu
không còn là một đơn vị chủ yếu cung cấp thông tin, tư liệu, thư viện mà đã
trưởng thành và phát triển thành Trung tâm Thông tin – Tư liệu một cơ quan
thông tin quan trọng về lý luận Mác – Lênin, các khoa học xã hội và là một
thành viên của hệ thống các cơ quan thông tin khoa học trong cả nước. Từ
đây, bắt đầu một giai đoạn lịch sử mới trong quá trình phát triển của Viện
Thông tin khoa học ngày nay.
Giai đoạn từ năm 1997 đến năm 2008, một sự kiện quan trọng đã diễn
ra, đó là việc Bộ Chính trị đã ra Quyết định số 07-QĐ/TW ngày 30-10-1966
về việc “ Hợp nhất Viện Nghiên cứu Chủ nghĩa Mác – Lên nin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh lấy tên là Học viện
chính trị quốc gia Hồ Chí Minh” việc hợp nhất này nhằm tăng cường và nâng
cao chất lượng công tác nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, gắn công tác nghiên cứu khoa học với công tác đào tạo, bồi dưỡng lý
luận chính trị cho cán bộ. Trong điều kiện mới này, Bộ Chính trị đã có quyết
định số 07-QĐ/TW và công văn số 17-CVNS/TW ngày 4-2-1997 về việc sắp
xếp, ổn định tổ chức bộ máy trong đó có việc hợp nhất Trung tâmThông tin –
tư liệu của Học viện và Viện TTKH của Viện Mác – Lênin - Hồ Chí Minh
Nguyễn Thị Kim Chi

20

Lớp: ĐH. Quản trị Văn phòng K12D


Khóa luận tốt nghiệp

Trường Đại học Nội Vụ Hà Nội

thành Viện TTKH thuộc HVCTQG Hồ Chí Minh. Việc hợp nhất này đã làm

tăng thêm sức mạnh của đơn vị hợp nhất, hoạt động thông tin khoa học của
Viện được chú trọng đặc biệt, các sản phẩm, loại hình thông tin đa dạng,
phong phú. Có thể nói, đây là sự trưởng thành thêm một bước về chất trong
hoạt động thông tin của Viện, cũng là lần đầu tiên công tác thông tin khoa học
được định hình trong chức năng, nhiệm vụ của một Viện với tên gọi Viện
Thông tin khoa học.
Giai đoạn từ năm 2008 đến năm 2014, Viên TTKH chính thức đổi tên
thành Trung tâm Thông tin khoa học từ 01 tháng 10 năm 2008 theo Quyết định
Số 2248/QĐ ngày 29 tháng 9 năm 2008 của Giám đốc HVCTQG Hồ Chí Minh.
Trong giai đoạn này Trung tâm đã đa dạng hóa các nguồn bổ sung và hình thức
thông tin, đặc biệt tập trung bổ sung những thông tin phục vụ trực tiếp công tác
lãnh đạo, quản lý, công tác học tập, giảng dạy và nghiên cứu khoa học của Học viện.
Giai đoạn từ năm 2014 cho đến nay, Trung tâm TTKH được đổi tên
thành Viện TTKH theo Quyết đinh số 541/QĐ-HVCTQG ngày 18-02-2014
của Giám đốc Học viên. Chức năng, nhiệm vụ của Viện TTKH cũng được bổ
sung và thay đổi theo Quyết định số 2947/QĐ-HVCTQG Hồ Chí Minh ngày
27 tháng 6 năm 2014 của Giám đốc Học viện. Giai đoạn này Viện TTKH phát
triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng. Đội ngũ CBCC,VC được đào tạo
bài bản có trình độ công tác cao, công tác nghiên cứu khoa học đã có nhiều
bước trưởng thành, các sản phẩm và dịch vụ thông tin đa dạng, đáp ứng nhu
cầu nghiên cứu, đào tạo và giảng dạy trong và ngoài hệ thống học viện.
Như vậy sự phát triển của Viện TTKH vừa là kết quả của sự kế thừa
những thành tựu của HVCTQG Hồ Chí Minh, đồng thời là sự cố gắng của
mỗi CBCC,VC của Viện qua các thời kỳ để hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị
được giao.

Nguyễn Thị Kim Chi

21


Lớp: ĐH. Quản trị Văn phòng K12D


Khóa luận tốt nghiệp

Trường Đại học Nội Vụ Hà Nội

1.2.2 Cơ cấu tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của Viện TTKH HVCTQG Hồ Chí Minh
Về cơ cấu tổ chức:
Viện TTKH có 01 Viện trưởng và 02 Phó Viện trưởng do Giám đốc
Học viện bổ nhiệm. Viện trưởng là người đứng đầu và lãnh đạo Viện chịu
trách nhiệm trước Giám đốc Học viện và trước pháp luật về toàn bộ hoạt động
của Viện.
Các phó Viện trưởng chịu trách nhiệm trước Viện trưởng về nhiệm vụ
được phân công.
Cụ thể, Ban lãnh đạo Viện TTKH gồm có các đồng chí:
-

TS Nguyễn Thái Bình – Viện trưởng viện TTKH
TS Nguyễn Phương Thảo – Phó Viện trưởng
PGS.TS Nguyễn Hữu Thắng – Phó Viện trưởng
Viện TTKH có 59 CBCC,VC trong đó: PGS.TS có 02 đồng chí; TS có
03 đồng chí; ThS có 28 đồng chí; Cử nhân có 24 đồng chí; trình độ khác có
02 đồng chí. Hiện tại, có 01 đồng chí PGS.TS kéo dài thời gian công tác tại
Viện cùng 04 đồng chí sinh hoạt Đảng, đoàn thể cùng Viện nhưng thực hiện
nhiệm vụ chuyên môn tại Trung tâm Nghiên cứu Ấn Độ.
Biên chế của Viện TTKH được xác định theo quy định chức danh, tiêu
chuẩn CBCC,VC được Giám đốc Học viện giao hằng năm. Ngoài số biên chế
được giao, Viện TTKH được thực hiện chế độ cộng tác viên.
Các phòng/đơn vị trực thuộc Viện TTKH gồm 06 đơn vị, cụ thể như sau:


1.
2.
3.
4.
5.
6.

Phòng Thư viện.
Phòng Khai thác và phổ biến thông tin.
Phòng quản trị mạng.
Tạp chí Thông tin khoa học lý luận chính trị.
Bản tin Những vấn đề lý luận. (Phục vụ lãnh đạo cao cấp).
Phòng hành chính – tổng hợp.
Sơ đồ tổ chức bộ máy của Viện TTKH (Xem phụ lục 01).
Hiện nay, Viện TTKH có 06 chi bộ trực thuộc Đảng bộ Viện với 46

Nguyễn Thị Kim Chi

22

Lớp: ĐH. Quản trị Văn phòng K12D


Khóa luận tốt nghiệp

Trường Đại học Nội Vụ Hà Nội

Đảng viên; 06 công đoàn bộ phận; 06 tổ nữ công; 01 tổ chức Đoàn Thanh niên.
Đội ngũ cán bộ của Viện nhìn chung đều được đào tạo chính quy, có trình độ

chuyên môn nghiệp vụ cao. Đây là điều kiện cơ bản để thực hiện tốt nhiệm vụ
chính trị được giao của Viện.
Về chức năng, nhiệm vụ: Tháng 6/2014, Giám đốc HVCTQG Hồ Chí
Minh đã ký quyết định số 2947/QĐ – HVCTQG quy định về chức năng,
nhiệm vụ của Viện TTKH – HVCTQG Hồ Chí Minh.
Viện TTKH thực hiện các chức năng xây dựng và phát triển hệ thống
thông tin khoa học, tư liệu, thư viện phục vụ cho công tác lãnh đạo, quản lý,
đào tạo, bồi dưỡng và công tác nghiên cứu khoa học của Học viện; đồng thời
làm đầu mối nghiệp vụ thông tin tư liệu, thư viện của toàn học viện; dịch vụ
thông tin khoa học.
Viện TTKH thực hiện các nhiệm vụ sau:
1. Nghiên cứu, xây dựng và phát triển, ứng dụng các sản phẩm thông
tin khoa học phục vụ công tác lãnh đạo, quản lý; đào tạo, bồi dưỡng và nghiên
cứu khoa học của Học viện:
a.

Nghiên cứu, biên soạn, biên tập, xuất bản, phát hành các ấn phẩm định
kỳ: Bản tin Thông tin những vấn đề lý luận (phục vụ lãnh đạo); Tạp chí
Thông tin khoa học lý luận chính trị; các bản tin chuyên ngành thông tin - thư viện.

b.

Nghiên cứu, biên soạn, biên tập, xuất bản, phát hành các loại ấn phẩm
khác: Sách chuyên đề, sách tham khảo phục vụ công tác lãnh đạo, quản lý;
đào tạo, bồi dưỡng và nghiên cứu khoa học của Học viện.
2. Tổ chức bổ sung, phân loại, xử lý, quản lý nguồn tài nguyên thông
tin tiếng Việt và tiếng nước ngoài, với các loại hình khác nhau (dạng giấy,
dạng số, microfilm, băng ghi âm, băng ghi hình,....) theo quy định của Nhà nước
và Học viện.
3. Tổ chức ứng dụng công nghệ thông tin trong các quy trình nghiệp

vụ; tổ chức, quản lý thư viện điện tử; xây dựng và phát triển thư viện số; xây

Nguyễn Thị Kim Chi

23

Lớp: ĐH. Quản trị Văn phòng K12D


Khóa luận tốt nghiệp

Trường Đại học Nội Vụ Hà Nội

dựng, quản lý cổng thông tin thư viện của Học viện.
4. Tổ chức bổ sung, xử lý phát hành các loại sách, báo, tạp chí, bản tin,
tài liệu học tập, nghiên cứu, giảng dạy.
5. Lựa chọn, thẩm định, biên dịch, xuất bản các tài liệu nước ngoài
phục vụ yêu cầu công tác của Học viện.
6. Nghiên cứu khoa học về thông tin, thư viện, công nghệ thông tin, báo
chí, xuất bản; khoa học lý luận chính trị và các khoa học xã hội nhân văn phục
vụ cho việc tổ chức, quản lý, xây dựng và phát triển hệ thống thông tin khoa
học của Học viện.
7. Hợp tác với các tổ chức trong nước và ngoài nước trên lĩnh vực
thông tin khoa học theo quy định của pháp luật và của Giám đốc Học viện.
8. Tổ chức các dịch vụ thông tin theo quy định của Nhà nước, của Học
viện, của ngành.
9. Phối hợp tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn cho cán
bộ làm công tác thông tin thư viện trong Học viện, các trường chính trị tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương; hướng dẫn các đối tượng dùng tin.
10. Quản lý, xây dựng đội ngũ CBCC,VC của Viện về mọi mặt; thực

hiện chế độ, chính sách, công tác thi đua - khen thưởng và kỷ luật đối với
CBCC,VC, người lao động của Viện theo thẩm quyền; thực hiện phòng và
chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí trong đơn vị theo quy định của pháp
luật; quản lý tài chính và tài sản theo phân cấp của Giám đốc Học viện.
11.Thực hiện các nhiệm vụ khác do Giám đốc Học viện giao.
1.3 Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả VHCS tại Viện TTKH –
HVCTQG Hồ Chí Minh
Mặc dù VHCS hiện nay đã được hình thành về cơ bản nhưng thực hiện
hay không còn tùy thuộc vào ý thức của mỗi CBCC,VC cũng như phụ thuộc
vào nhận thức đúng đắn về phương thức để có ứng xử văn minh tại công sở.
Công sở là nơi thường xuyên tiếp xúc với nhân dân, với các cơ quan hữu quan
đồng cấp và cấp trên. Cơ sở hạ tầng, trang thiết bị hiện đại nơi công sở chỉ
Nguyễn Thị Kim Chi

24

Lớp: ĐH. Quản trị Văn phòng K12D


Khóa luận tốt nghiệp

Trường Đại học Nội Vụ Hà Nội

đóng vai trò hỗ trợ trong quá trình làm việc và giao tiếp. Yếu tố quan trọng
hơn cả chính là yếu tố con người. Con người sẽ quyết định đến VHCS, quyết
định sự thành bại cũng như dấu ấn ghi lại của tổ chức trong quá trình hoạt
động. Bởi vậy, trong môi trường làm việc năng động và chuyên nghiệp như
hiện nay đòi hỏi sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả VHCS tại Viện TTKH –
HVCTQG Hồ Chí Minh.
1.3.1 Văn hóa công sở góp phần nâng cao ý thức con người

Văn hóa công sở là điều kiện phát triển tinh thần và nhân cách con
người. Khả năng gây ảnh hưởng, để người khác chấp nhận giá trị của mình là
một nghệ thuật. Nhờ có văn hóa con người có thể hưởng thụ những giá trị vật
chất và tinh thần như ý thức, trách nhiệm, nghĩa vụ, lòng tự trọng…Từ đó
phát triển tinh thần và nhân cách của mỗi CBCC,VC góp phần vào sự phát
triển của Viện TTKH.
Văn hóa công sở cũng có sự kế thừa và tiếp thu có chọn lọc những tinh
hoa văn hóa từ bên trong và bên ngoài công sở, từ quá khứ đến tương lai cho
nên trong một chừng mực nào đó sẽ giúp công sở tạo nên những chuẩn mực,
hướng các cán bộ,công chức, viên chức đến một giá trị chung, tôn trọng
những nguyên tắc, quy tắc và chuẩn mực VHCS.
Văn hóa công sở là một trong những yếu tố phản ánh trình độ văn hóa
của một cơ quan, tổ chức, cá nhân. Viện TTKH là nơi thường xuyên tiếp đón,
phục vụ các học viên tới học tập, nghiên cứu khoa học cũng như việc tiếp xúc,
giao lưu với rất nhiều cơ quan, đơn vị khác. Vì thế, văn hóa ứng xử của các
CBCC,VC chính là thước đo sự văn minh hay nói khác đi nó phản ánh sự
nhận thức cũng như ý thức của mỗi cá nhân trong môi trường làm việc nơi
công sở.
Văn hóa công sở nhằm tạo ra môi trường làm việc mang tính chuyên
nghiệp, có kỷ cương đồng thời xây dựng phong cách ứng xử chuẩn mực của
CBCC,VC trong hoạt động công vụ, hướng tới mục tiêu xây dựng đội ngũ
CBCC,VC có phẩm chất tốt; rèn luyện ý thức mỗi cá nhân từ tâm lý thực hiện
Nguyễn Thị Kim Chi

25

Lớp: ĐH. Quản trị Văn phòng K12D



×