Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

Đặc tính dân tộc trong việc giáo dục giới tính cho trẻ vị thành niên trong gia đình (nghiên cứu dân tộc h’mông xã mồ dề huyện mù cang chải tỉnh yên bái)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.3 MB, 72 trang )

Lời cảm ơn
Đầu tiên tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến các thầy cô giáo trong khoa
Lí luận Chính trị đã động viên, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian làm khóa luận.
Đặc biệt tôi xin chân thành cảm ơn cô giáo, TS. Phạm Thu Hà đã tận tình chỉ
bảo và đóng góp những ý kiến khoa học vô cùng quý báu giúp tôi hoàn thành
khóa luận này.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới ông Mùa A Dờ, Bí thư xã Mồ Dề; ông
Sùng A Lù, Chủ tịch xã Mồ Dề; ông Sùng A Ninh, Phó Bí thư xã Mồ Dề; bà Sùng Thị
Công, Chủ tịch Hội phụ nữ xã Mồ Dề và đặc biệt cảm ơn người dân tại xã Mồ Dề đã
hỗ trợ, giúp đỡ để tôi thu thập các thông tin cần thiết cho khóa luận.
Cuối cùng tôi xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè đã cổ vũ, khích lệ giúp
tôi có thể hoàn thiện được khóa luận này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

Sinh viên
Sùng Thị Của


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
GDGT

Giáo dục giới tính

VTN

Vị thành niên

QHTD

Quan hệ tình dục


Nxb

Nhà xuất bản

BS

Bác sỹ

PVS

Phỏng vấn sâu

SKSS

Sức khỏe sinh sản

XHH

Xã hội học


DANH MỤC CÁC BẢNG, HÌNH

Bảng 2.1. Hiểu biết của cha mẹ về tuổi dậy thì của con. .................................... 24
Bảng 2.2. Hiểu biết của cha mẹ về sự thay đổi cơ thể ở con trai và con gái khi
dậy thì. ................................................................................................................. 27
Bảng 2.3. Nhận xét của cha mẹ về sự thay đổi tâm lý khi trẻ dậy thì................. 28
Hình 2.1. Hiểu biết của cha mẹ về vệ sinh cơ quan sinh dục ............................. 30
Hình 2.2. Hiểu biết của cha mẹ về số lần thay băng vệ sinh .............................. 31
Hình 2.3. Đánh giá của người dân trong thôn bản về việc một cô gái đi chơi qua

đêm ...................................................................................................................... 34
Hình 2.4. Thái độ của dân trong thôn bản khi biết một cô gái có quan hệ tình dục
với bạn trai/người yêu ......................................................................................... 35
Hình 2.5. Thái độ của cha mẹ khi biết con mình có thai mà chưa chồng ........... 37
Hình 2.6. Hành động của cha mẹ khi con có thai mà chưa chồng ...................... 38
Hình 2.7. Ý kiến của cha mẹ về việc trao đổi với con cái về những biến đổi trong
tuổi dậy thì ........................................................................................................... 40
Hình 2.8. Các vấn đề trong tuổi dậy thì cha mẹ trao đổi với con cái.................. 41
Hình 2.9. Sự phân chia giữa cha và mẹ về việc giáo dục giới tính cho con ....... 42
Hình 2.10. Thái độ của cha mẹ khi con hỏi về vấn đề tuổi dậy thì..................... 43
Hình 2.11. Thời điểm cha mẹ trao đổi với con về vấn đề tuổi dậy thì ............... 45
Hình 2.12. Hình thức cha mẹ cung cấp thông tin về giới tính cho con .............. 46


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................... 1
2. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn.............................................................. 3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................... 3
4. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu ....................................................... 4
5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................... 4
6. Giả thuyết nghiên cứu ....................................................................................... 5
7. Đóng góp của đề tài........................................................................................... 5
8. Kết cấu của đề tài .............................................................................................. 5
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI .... 6
1.1. Cơ sở lý luận .................................................................................................. 6
1.1.1. Cơ sở phương pháp luận ............................................................................. 6
1.1.2. Các lý thuyết sử dụng trong đề tài .............................................................. 7
1.1.3. Khái niệm công cụ .................................................................................... 10
1.2. Cơ sở thực tiễn ............................................................................................. 14

1.2.1. Tình hình nghiên cứu ................................................................................ 14
1.2.2. Lược sử quá trình giáo dục giới tính......................................................... 17
1.2.3. Vài nét về địa bàn nghiên cứu................................................................... 20
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP GIÁO DỤC GIỚI TÍNH
CHO TRẺ VỊ THÀNH NIÊN TRONG GIA ĐÌNH DÂN TỘC H’MÔNG
XÃ MỒ DỀ - HUYỆN MÙ CANG CHẢI - TỈNH YÊN BÁI ....................... 23
2.1. Nhận thức của cha mẹ về giới tính và tầm quan trọng của giáo dục giới tính
cho trẻ vị thành niên ............................................................................................ 23
2.1.1. Hiểu biết của cha mẹ về tuổi dậy thì, sự thay đổi tâm sinh lý và các mối
quan hệ bạn bè của con ....................................................................................... 23
2.1.2. Quan niệm của cha mẹ về vấn đề quan hệ tình dục trước hôn nhân và
những điều cấm kỵ của dân tộc H’Mông liên quan tới vấn đề này .................... 33
2.1.3. Nhận thức về tầm quan trọng của giáo dục giới tính đối với trẻ vị thành
niên ...................................................................................................................... 40


2.2. Thực trạng giáo dục giới tính cho trẻ vị thành niên trong gia đình dân tộc
H’Mông ............................................................................................................... 42
2.2.1. Sự phân chia giữa cha và mẹ về giáo dục giới tính cho con trong tuổi vị
thành niên ............................................................................................................ 42
2.2.2. Thái độ của cha mẹ khi con chủ động hỏi về vấn đề giới tính. ................ 43
2.2.3. Thời điểm cha mẹ lựa chọn để trao đổi về vấn đề giới tính...................... 44
2.2.4. Hình thức cung cấp các thông tin về giới tính cho trẻ vị thành niên. ....... 46
2.2.5. Đánh giá của cha mẹ về kiến thức giới tính của con ................................ 47
2.3. Nhận thức của trẻ vị thành niên về việc giáo dục giới tính cho trẻ vị thành
niên ...................................................................................................................... 48
2.3.1. Đánh giá về vai trò của gia đình trong việc giáo dục giới tính cho trẻ vị
thành niên ............................................................................................................ 48
2.3.2. Mong muốn về các thông tin giới tính được cung cấp ............................. 50
2.4. Nguyên nhân tác động đến thực trạng giáo dục giới tính cho trẻ vị thành

niên trong gia đình............................................................................................... 52
2.4.1. Nguyên nhân khách quan .......................................................................... 53
2.4.2. Nguyên nhân chủ quan .............................................................................. 53
2.5. Khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục giới tính cho trẻ vị thành
niên trong gia đình............................................................................................... 54
2.5.1. Khuyến nghị đối với cha mẹ ..................................................................... 54
2.5.2. Khuyến nghị đối với chính quyền địa phương, nhà trường, các tổ chức
hoạt động xã hội, trẻ vị thành niên. ..................................................................... 55
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 57
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nhà giáo dục học Makarenco đã từng khẳng định “GDGT chỉ là một khía
cạnh của giáo dục toàn diện và không thể tách rời ra được, như một cánh tay
dính liền với cơ thể. Muốn cho cánh tay khỏe mạnh thì phải làm cho toàn bộ cơ
thể khỏe mạnh và ngược lại nếu có cơ thể khỏe mạnh về mọi mặt chỉ có cánh tay
GDGT là bị bỏ bê và nhức nhối thì người đó không thể thưởng thức sự lành
mạnh của phần cơ thể còn lại” [9]. Điều đó cho thấy tầm quan trọng của việc
GDGT cho trẻ VTN và không thể xem GDGT như là một điều mới lạ trẻ phải
học ở trường khi tới tuổi dậy thì.
Ở nhiều quốc gia khác trên thế giới GDGT là một đề tài khá cởi mở đã được
đề cập ngay từ bậc học mầm non (ở Anh, Malaysia) trong khi đó trẻ mầm non ở
nước ta chỉ mới tập làm quen với màu sắc đồ vật; không chỉ giáo dục thông qua
trường lớp mà ở các nước phương Tây người ta còn giáo dục qua truyền hình (ở
Thụy Điển); đặc biệt gia đình lại luôn là nơi trò chuyện về giới tính trong các
bữa ăn (ở Hà Lan).
Tuy nhiên ở nước ta với đặc điểm là một nước Á Đông, GDGT là một đề tài

tế nhị từ xưa đến nay ít được đề cập tới, cha mẹ thường cảm thấy ái ngại và bối
rối khi đề cập đến chủ đề này. Nhiều người quan niệm rằng việc dạy dỗ cho trẻ
em về vấn đề này chính là “Vẽ đường cho hươu chạy”. Hiện nay, quan niệm về
vấn đề này đã cởi mở hơn nhưng việc giáo dục giới tính vẫn còn nhiều bất cập.
Cả giáo viên và học sinh đều có tâm lý ngại ngùng, xấu hổ, khi giảng dạy về sự
phát triển của sinh lý nam nữ; trong gia đình các bậc cha mẹ rất ít đề cập đến
chủ đề này và hầu như không nói đến. Đặc biệt trong những năm gần đây, cùng
với sự phát triển của nền kinh tế thị trường là sự xuất hiện của nhiều thứ văn hóa
phẩm không lành mạnh có ảnh hưởng rất lớn đến trẻ ở lứa tuổi VTN điều đó
càng cho thấy GDGT thật sự là một vấn đề quan trọng. Theo thống kê của hội kế
hoạch hóa gia đình với hạn chế về vấn đề sức khỏe sinh sản, sức khỏe tình dục,
Việt Nam mỗi năm có 1,2 triệu - 1,6 triệu ca nạo phá thai, trong đó 20% ở lứa
tuổi VTN và là một trong 3 nước có tỷ lệ phá thai cao nhất thế giới [20]. Theo số
1


liệu của tổng điều tra dân số năm 1999, cả nước có gần 24 triệu người ở lứa tuổi
VTN, thanh niên (10 - 24 tuổi), chiếm 31,6% tổng dân số. 22,2% thanh niên
chưa lập gia đình đã có quan hệ tình dục (QHTD) trước hôn nhân, trong đó có
21,5% QHTD với gái mại dâm; có trên 30% số ca nạo phá thai là phụ nữ trẻ
chưa lập gia đình [10]. Nhìn vào số liệu trên đây chúng ta thấy rằng chính những
rào cản của phong tục, tập quán đã tạo nên nhiều hậu quả cho tương lai của thế
hệ trẻ ở nước ta. Bởi vậy chúng ta cần nhận định rõ GDGT là một bộ phận quan
trọng trong việc giáo dục nhân cách con người phát triển toàn diện. Đây là một
bộ phận của giáo dục nói chung và giáo dục đạo đức nói riêng. Giúp cho thế hệ
trẻ có những hiểu biết cần thiết về giới và giới tính.
Ở Yên Bái, theo số liệu thống kê năm 2009 có khoảng 60.736 người
H’Mông sinh sống, chiếm 8,1% dân số toàn tỉnh. Tập trung chủ yếu tại 40 xã
thuộc 6 huyện: Mù Cang Chải, Trạm Tấu, Văn Chấn, Văn Yên, Trấn Yên, Lục
Yên. Trong đó tập trung chủ yếu tại huyện Mù Cang Chải với 13/14 xã thị trấn

chủ yếu là đồng bào H’Mông cư trú, chiếm 95% dân số toàn huyện, Mù Cang
Chải là huyện thuộc khu vực đặc biệt khó khăn của tỉnh, phần lớn lại là dân tộc
H’Mông nên việc tuyên truyền các đường lối, chính sách của Đảng đến người
dân gặp khá nhiều khó khăn. Người H’Mông Mù Cang Chải với đức tính cần cù,
ý thức tự chủ cao, nền văn hóa phong phú, đặc sắc thì nơi đây đã trở thành điểm
đến của nhiều du khách trong và ngoài nước. Nhưng bên cạnh đó người H’Mông
Mù Cang Chải lại có nhiều hủ tục lạc hậu trong ma chay, trong cưới xin,… và
một điều đáng quan tâm là các bậc cha mẹ còn chưa quan tâm đến việc GDGT
cho trẻ VTN. Trong gia đình người H’Mông họ rất ít đề cập đến chủ đề này
thậm chí là không nói đến, bởi họ cho rằng đó là một đề tài tế nhị không nên đề
cập tới và hiểu biết của họ về vấn đề này cũng hạn chế. Vì vậy việc cha mẹ
GDGT cho con mình hầu như là không có, nếu có thì chỉ là ở một số khía cạnh
nhất định nào đó, điều đó đã dẫn đến nhiều hậu quả không mong muốn như: nạn
tảo hôn, có thai ngoài ý muốn, nạo phá thai,... Với những bất cập đó thì việc
nghiên cứu về GDGT cho trẻ VTN trong gia đình người H’Mông xã Mồ Dề huyện Mù Cang Chải - tỉnh Yên Bái là rất cần thiết. Trên thực tế đã có rất nhiều
2


bài viết, đề tài nghiên cứu về vấn đề GDGT cho trẻ VTN nhưng chưa có đề tài
nào nghiên cứu về GDGT cho trẻ VTN trong gia đình người H’Mông xã Mồ Dề
- huyện Mù Cang Chải - tỉnh Yên Bái. Bởi vậy tôi đã chọn đề tài “Đặc tính dân
tộc trong việc giáo dục giới tính cho trẻ vị thành niên trong gia đình (Nghiên
cứu dân tộc H’Mông xã Mồ Dề - huyện Mù Cang Chải - tỉnh Yên Bái)” làm
khóa luận tốt nghiệp.
2. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn
2.1. Ý nghĩa khoa học
- Cung cấp những luận cứ khoa học về vai trò của gia đình trong việc GDGT
đặc biệt trong cộng đồng người dân tộc H’Mông.
- Cung cấp những tri thức cho cộng đồng người dân tộc H’Mông về vấn đề
giáo dục giới tính cho trẻ VTN.

2.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Kết quả nghiên cứu còn giúp gia đình, nhà trường và cộng đồng xã hội hiểu
rõ vai trò quan trọng của mình trong việc GDGT cho trẻ ở lứa tuổi VTN.
- Giúp các nhà quản lý có cơ sở khoa học để đưa ra những biện pháp cũng
như phương án GDGT cho trẻ VTN.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ đặc tính dân tộc trong việc giáo dục giới tính cho trẻ vị thành niên
trong gia đình dân tộc H’Mông xã Mồ Dề - huyện Mù Cang Chải - tỉnh Yên
Bái. Từ đó tìm hiểu nguyên nhân và đề xuất một số những khuyến nghị giúp
cho gia đình người dân tộc H’Mông quan tâm hơn đến việc giáo dục giới tính
cho con em mình.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ thực trạng GDGT cho trẻ VTN trong gia đình người H’Mông xã
Mồ Dề - huyện Mù Cang Chải - tỉnh Yên Bái.
- Tìm hiểu những yếu tố tác động đến thực trạng đó.
- Đề xuất một số khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả GDGT cho trẻ VTN
trong gia đình dân tộc H’Mông xã Mồ Dề - huyện Mù Cang Chải - tỉnh Yên Bái.
3


4. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Đặc tính dân tộc trong việc giáo dục giới tính
cho trẻ VTN trong gia đình người H’Mông xã Mồ Dề - huyện Mù Cang Chải tỉnh Yên Bái
4.2. Khách thể nghiên cứu: Các gia đình người Dân tộc H’Mông xã Mồ Dề
- huyện Mù Cang Chải - tỉnh Yên Bái có con trong độ tuổi từ 13 - 18.
4.3. Phạm vi nghiên cứu
 Phạm vi không gian: Xã Mồ Dề - huyện Mù Cang Chải - tỉnh Yên Bái.
 Phạm vi thời gian: Từ tháng 10 năm 2015 đến tháng 05 năm 2016.
5. Phương pháp nghiên cứu

Đề tài sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử làm cơ sở
cho lý luận cho việc nghiên cứu.
Ngoài ra đề tài còn sử dụng một số biện pháp cụ thể như:
5.1. Phương pháp phân tích tài liệu
Trong quá trình nghiên cứu có thu thập, phân tích và tham khảo tài liệu, các
công trình nghiên cứu và báo cáo khoa học có liên quan đến đề tài nhằm làm rõ
cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của đề tài, góp phần bổ sung cho những nhận
định của mình.
5.2. Phương pháp trưng cầu ý kiến bằng bảng hỏi
Phương pháp này được áp dụng đối với cha mẹ là người dân tộc H’Mông, có
con từ 13-18 tuổi tại 10 thôn bản của xã Mồ Dề - huyện Mù Cang Chải - tỉnh
Yên Bái. Tôi đã tiến hành trưng cầu ý kiến của 200 bậc phụ huynh trong đó
Nam: 100, Nữ: 100, bằng 200 bảng hỏi, (191 bảng hỏi được xử lý), 9 bảng
hỏi không thu lại được.
5.3. Phương pháp phỏng vấn
Phương pháp này được thực hiện để thu thập những thông tin định tính, nhằm
làm phong phú thêm cho những thông tin định lượng. Đặc biệt phương pháp này
tập trung chủ yếu vào những ý kiến của các bậc cha mẹ có con ở lứa tuổi VTN và
các em ở lứa tuổi VTN về việc giáo dục giới tính và được giáo dục giới tính như
thế nào. Phỏng vấn sâu được tiến hành với số lượng là 15 mẫu trong đó:
4


 Cha mẹ: 10 đối tượng có con từ 13 - 18 tuổi
 Nam: 5
 Nữ: 5
 Trẻ VTN: 05 đối tượng từ 13 - 18 tuổi
 Nam: 3
 Nữ: 2
Các trường hợp phỏng vấn trên với các đặc điểm khác nhau về trình độ, lứa tuổi,

điều đó sẽ giúp tác giả có thêm những thông tin quý báu về vấn đề nghiên cứu.
6. Giả thuyết nghiên cứu của đề tài
- Các bậc cha mẹ người H’Mông thường lảng tránh, nói qua vấn đề hoặc nhờ
vào những người thân trong gia đình nói chuyện với con khi con hỏi về vấn đề GDGT.
- Gia đình không phải là nguồn chính cung cấp thông tin giới tính cho trẻ VTN.
- Đặc tính dân tộc là yếu tố cơ bản nhất tác động đến GDGT cho trẻ VTN
trong gia đình.
7. Đóng góp của đề tài
Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần:
- Khẳng định vai trò to lớn của mỗi gia đình, một tế bào của xã hội đối với
việc giáo dục giới tính cho trẻ vị thành niên tại xã Mồ Dề - huyện Mù Cang Chải
- tỉnh Yên Bái.
- Bổ sung tư liệu cho việc nghiên cứu về giáo dục giới tính trong gia đình
người dân tộc H’Mông tại xã Mồ Dề - huyện Mù Cang Chải - tỉnh Yên Bái.
- Đề tài có thể được sử dụng làm tư liệu tham khảo cho các bậc cha mẹ
không chỉ là đồng bào người H’Mông Mồ Dề nói riêng mà còn cho đồng bào
vùng khác nữa.
8. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, đề tài có 2 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của đề tài.
Chương 2: Thực trạng và giải pháp giáo dục giới tính cho trẻ vị thành niên
trong gia đình dân tộc H’Mông xã Mồ Dề - huyện Mù Cang Chải - tỉnh Yên Bái.

5


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Cơ sở phương pháp luận

Đề tài lấy chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử làm
phương pháp luận nhận thức về vấn đề và tuân theo các yêu cầu sau:
Phép duy vật biện chứng không chỉ nhìn nhận thế giới tồn tại xung quanh
chúng ta là thế giới vật chất không ngừng vận động, phát triển, mà còn vạch ra
những quy luật khách quan chi phối đến sự vận động, phát triển đó. Như vậy,
quan tâm trong nhận thức xã hội học không chỉ dừng ở bên ngoài sự vật, hiện
tượng mà cần nhận thức được bản chất bên trong như quy luật khách quan của
nó. Mặt khác, những hiện tượng xã hội cần phải xem xét trong mối liên hệ với
nhau, bởi lẽ mọi sự vật, hiện tượng nảy sinh không phải do một nguyên nhân
gây nên.
Một trong những nguyên tắc quan trọng nhất của chủ nghĩa duy vật lịch sử là
“không thể giải thích thời đại lịch sử nhất định căn cứ vào sinh hoạt vật chất của
thời đại”. Nghĩa là nguyên tắc này đòi hỏi phải xem xét, nhìn nhận đối tượng
nghiên cứu trong điều kiện lịch sử cụ thể chứ không được nhìn nhận, xem xét
nó một cách siêu hình. Với cở sở lý luận như trên khi xem xét đặc tính dân tộc
trong việc GDGT cho trẻ VTN trong gia đình dân tộc H’Mông xã Mồ Dề huyện Mù Cang Chải - tỉnh Yên Bái, chúng ta phải nhìn nhận nó trong quá trình
vận động và phát triển, đồng thời thấy được những quy luật tiềm ẩn chi phối đến
sự vận động và phát triển đó.
Để đưa ra những kết luận chính xác về đặc tính dân tộc trong việc GDGT
cho trẻ VTN trong gia đình dân tộc H’Mông xã Mồ Dề - huyện Mù Cang Chải tỉnh Yên Bái, chúng ta phải phân tích những nguyên nhân sâu xa tác động đến
vấn đề. Hơn nữa, còn phải đặt nó trong mối liên hệ với các sự vật, hiện tượng xã
hội khác, xem xét vấn đề trong mối liên hệ với điều kiện kinh tế - văn hóa - xã
hội, với chính sách pháp luật của Nhà nước… Từ đó giúp chúng ta có cái nhìn
sâu sắc và toàn diện hơn về vấn đề nghiên cứu.
6


1.1.2. Các lý thuyết sử dụng trong đề tài
 Thuyết cấu trúc - chức năng
Theo lý thuyết cấu trúc chức năng thì xã hội là một hệ thống tương đối chặt

chẽ được cấu thành từ các tiểu hệ thống. Đến lượt mình mỗi tiểu hệ thống lại
được coi là một hệ thống được cấu thành từ các tiểu hệ thống nhỏ hơn... Mỗi bộ
phận của hệ thống hoặc tiểu hệ thống đều giữ những vai trò nhất định phù hợp
nhằm duy trì sự ổn định và đảm bảo sự phát triển của toàn bộ hệ thống. Mở rộng
ra cho bất kỳ một sự vật, hiện tượng nào trong xã hội cũng đều có những chức
năng riêng của mình, mà nếu thiếu đi sự vật, hiện tượng ấy cùng những chức
năng tương ứng của nó thì xã hội không thể tồn tại được.
Vận dụng quan điểm này có thể xem xét nhà trường, gia đình và cộng đồng
xã hội là những tiểu hệ thống và hoạt động giáo dục tri thức khoa học cũng như
GDGT là những tiểu hệ thống nhỏ hơn. Và trong đời sống xã hội nếu thiếu đi
bất cứ một tri thức nào thì con người khó có thể phát triển bình thường. Việc
Giáo dục giới tính cho các trẻ VTN xã Mồ Dề - huyện Mù Cang Chải - tỉnh Yên
Bái phải được xem là việc cần làm ngay và là trách nhiệm của cả gia đình, nhà
trường và xã hội nhằm giúp các em có thể phát triển một cách hài hoà về thể
chất và tâm hồn.
 Thuyết hành động xã hội
Các tác giả nổi tiếng của thuyết này như Weber, Parson,… đều coi hành
động xã hội là cốt lõi của mối quan hệ con người - xã hội, là cơ sở của đời sống
xã hội của con người. Theo Weber, hành động xã hội là hành vi được chủ thể
gắn cho một ý nghĩa chủ quan nhất định. Và cái mà Weber gọi là “ý nghĩa chủ
quan” chính là ý thức, là hành động có ý thức, chủ thể hiểu được mình định thực
hiện hành động gì? và sẽ thực hiện nó như thế nào? khác hẳn với những hành
động bản năng sinh học.
Hành động xã hội có tính chuẩn mực, luôn phụ thuộc vào hệ giá trị chuẩn
mực của xã hội. Nhận thức của của trẻ VTN về vấn đề GDGT đều được điều
chỉnh bởi quan niệm của xã hội về giá trị chuẩn mực đã được các thành viên

7



trong xã hội chấp nhận vì vậy nhận thức và hành vi về vấn đề GDGT của các em
không thể không tính đến hệ giá trị - chuẩn mực của xã hội.
Hành động có tính duy lý, nghĩa là phụ thuộc vào nhận thức chủ quan của
chủ thể. Các cá nhân một mặt tuân theo hệ giá trị chuẩn mực của xã hội, mặt
khác vẫn hành động rất khác nhau, chứ không nhất thiết theo khuôn mẫu cứng
nhắc. Vì vậy các cá nhân tuỳ thuộc vào nhu cầu, mức độ quan tâm của mình mà
có những nhận thức và hành vi khác nhau về vấn đề GDGT.
 Lý thuyết nhu cầu của Maslow
Nhu cầu thể hiện sự đòi hỏi của cơ thể sống đối với môi trường bên ngoài
thể hiện thành những ứng xử tìm kiếm, nếu không thì thiếu những điều kiện tồn
tại và phát triển.
Maslow là người đầu tiên đưa ra hệ thống các nhu cầu của con người.
Thuyết về thang phân cấp nhu cầu của ông được chia thành 5 bâc: từ nhu cầu vật
chất đến nhu cầu hoàn thiện và phát huy tiềm năng của bản thân.
1. Các nhu cầu về sinh lý: Ăn, ngủ...
2. Các nhu cầu về an toàn an sinh.
3. Nhu cầu về xã hội văn hoá.
4. Nhu cầu tự trọng.
5. Nhu cầu tự thể hiện, tự khẳng định.
Mọi hành vi của con người đều do sự thúc đẩy của những nhu cầu nhất định.
Mỗi cá nhân khác nhau trong hoàn cảnh khác nhau sẽ có nhu cầu khác nhau và ở
cấp bậc khác nhau, nhưng phải đáp ứng được nhu cầu bậc thấp mới đi đến đáp
ứng được nhu cầu bậc cao hơn.
Sử dụng lý thuyết này vào đề tài nghiên cứu để chỉ ra rằng: Việc trẻ trong độ
tuổi dậy thì có nhu cầu được hiểu biết các vấn đề về giới tính là tất yếu nhằm
đáp ứng nhu cầu của chính bản thân các em.
 Lý thuyết vai trò
Theo Ralph Linton, vai trò là một quan điểm cơ bản trong lý thuyết xã hội
học nó đánh giá cao những mong đợi xã hội gắn với những vị thế cụ thể và phân
tích thực hiện những mong đợi. Mỗi cá nhân có một loại vai trò được đem lại từ

8


những hình mẫu xã hội khác nhau mà anh ta tham dự. Trong tiến trình cuộc đời
của mỗi cá nhân thực hiện một số những vai trò khác nhau lần lượt hoặc đồng
thời và tổng hợp tất cả các vai trò xã hội của anh ta được thực hiện từ khi sinh ra
cho đến lúc chết tạo thành nhân cách xã hội của anh ta. Ralph Linton nói chúng
ta giữ địa vị nhưng chúng ta đóng các vai trò. Vai trò và địa vị không thể tách
rời nhau. Không thể có vai trò mà không có địa vị hoặc ngược lại. Vai trò trở
thành tập hợp các quyền và nghĩa vụ đã được thể chế hoá có nghĩa là với vị trí
mà các cá nhân xã hội hay tổ chức nắm giữ thì chủ thể xã hội đó cần thực hiện
tốt những mong đợi, bổn phận, trách nhiệm ở vị trí đó.
Ở đề tài này có thể thấy vai trò của nhà trường, gia đình và cộng đồng xã hội
là có trách nhiệm giáo dục những tri thức khoa học cũng như những tri thức xã
hội cho trẻ VTN. Vai trò đó được thực hiện khi nhà trường, gia đình, cộng đồng
xã hội tham gia vào việc giáo dục trẻ VTN thoả mãn những mong đợi của xã hội
đối với nghĩa vụ và trách nhiệm của trường học, gia đình và xã hội.
 Phương pháp luận dân tộc học
Phương pháp luận dân tộc học cũng là một lĩnh vực xã hội học quan tâm tới
vì nó nghiên cứu toàn bộ tri thức, hành vi ứng xử, những quá trình, nếp sống, lối
sống của một nhóm người trong xã hội trên cơ sở giải thích những loại hành
động xã hội, những phong tục tập quán truyền thống của xã hội. Tác giả nổi
tiếng của của trường phái phương pháp luận dân tộc học là Harfinkel.
- Phương pháp nghiên cứu thiết chế xã hội: Để nghiên cứu thiết chế xã hội,
việc nghiên cứu môi trường thiết chế, mối quan hệ của môi trường thiết chế có ý
nghĩa quan trọng để xác định những mô hình hành vi ứng xử, xác định phong
tục tập quán của các nhóm xã hội khác nhau. Do đó, mỗi thành viên trong cộng
đồng có xu hướng tuân thủ các giá trị của tập thể hay các mô hình mà mọi người
xung quanh thừa nhân. Theo Harlod Garfinkel, để nghiên cứu thiết chế cần sử
dụng phương pháp đàm thoại, qua đó có thể hiểu một cách chi tiết, cụ thể những

cơ cấu cơ bản của tương tác người trong đàm thoại, trên cơ sở đó nghiên cứu
được những hành vi hoặc phản xạ vô thức tiềm ẩn.

9


- Phương pháp nghiên cứu hành vi thường ngày: Trong quá trình nghiên
cứu hoạt động thường ngày, những cân nhắc, tính toán của các chủ thể hành
động chính là hình thức mô tả, đánh giá những ý tưởng hoặc những tình huống
xã hội đặc thù. Để nghiên cứu hành vi thường ngày, các phương pháp tường
thuật, mô tả, phân tích đàm thoại được sử dụng một cách triệt để. Trên cơ sở đề
nghị đối tượng bị nghiên cứu tường thuật lại những hành động cụ thể diễn ra
trong cuộc sống hàng ngày, nhà nghiên cứu có thể đánh giá mối quan hệ giữa cá
nhân với cộng đồng hoặc cả cộng đồng với toàn xã hội. Đây là những phản ánh
chủ quan về đời sống xã hội khách quan, từ đó giải thích được mô hình hành vi
của các nhóm dân cư.
- Cũng theo Harlod Garfinkel, thói quen xã hội và những hành vi tiềm thức
có ý nghĩa quan trọng giúp xác định mô hình ứng xử, phong tục tập quán của cá
nhân và nhóm xã hội. Những thói quen và hành vi tiềm thức đó thường được
bộc lộ trong các đàm thoại khi chủ thể không có ý thức kiểm soát lời nói hoặc
hành vi của mình vì bị lôi cuốn vào mục tiêu của cuộc đàm thoại. Chính vì vậy,
hành vi tiềm thức và thói quen xã hội là những đối tượng nghiên cứu quan trọng
theo lý thuyết phương pháp dân tộc học.
Tóm lại, trong nghiên cứu này, phương pháp luận dân tộc học được sử dụng
để nghiên cứu về các đặc trưng của tộc người có ảnh hưởng như thế nào tới nhận
thức cũng như hình thức, nội dung được cha mẹ lựa chọn trong việc GDGT cho
trẻ VTN trong các gia đình người dân tộc H’Mông một cách khách quan không
áp đặt ý thức chủ quan của tác giả.
1.1.3. Khái niệm công cụ
1.1.3.1. Khái niệm đặc tính dân tộc

Đặc tính là: Tính chất riêng, không giống với tính chất các sự vật khác.
Khái niệm dân tộc được Stalin định nghĩa như sau: “Dân tộc là một cộng
đồng người ổn định, hình thành trong lịch sử, dựa trên cơ sở cộng đồng về tiếng
nói, về lãnh thổ, về đời sống kinh tế và trạng thái tâm lí biểu hiện trong một
cộng đồng về văn hóa”.

10


Đặc tính dân tộc là: Những gì thật đặc biệt, riêng biệt chỉ có ở một dân tộc
nào đó.
Theo đó, trong nghiên cứu này: Đặc tính dân tộc được hiểu là những nét tiêu
biểu, đặc trưng về văn hóa, phong tục tập quán, suy nghĩ, lối sống (sinh hoạt,
giáo dục, thói quen…) của nhóm người dân tộc thiểu số, cụ thể là dân tộc
H’Mông.
1.1.3.2. Khái niệm giáo dục
Theo từ điển tiếng việt: “Giáo dục là những hoạt động nhằm tác động một cách
hệ thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất của một đối tượng nào đó làm cho đối
tượng này dần có được những phẩm chất, năng lực, những yêu cầu đặt ra”.
Theo Nguyễn Sinh Huy và Nguyễn Văn Lê (Giáo dục học đại cương, NXB
Giáo dục, 1999), giáo dục theo nghĩa hẹp: “Bao gồm quá trình hoạt động nhằm
tạo ra cơ sở khoa học của thế giới quan, lý tưởng đạo đức, thái độ thẩm mỹ đối
với hiện thực của con người, kể cả việc phát triển nâng cao thể lực. Quá trình
này được xem là một bộ phận của quá trình giáo dục tổng thể, kết quả không chỉ
được xem xét về ý thức mà căn cứ trên hành vi, thói quen, hiểu biết của trình độ
phát triển (cao hay thấp) của trình độ có giáo dục của mỗi người”.
Theo các nhà xã hội học thì giáo dục là tất cả các dạng hoạt động của con
người, ở đâu có sự giao lưu hoạt động, truyền đạt và lĩnh hội những giá trị, kinh
nghiệm xã hội thì ở đó có giáo dục. Khi đó giáo dục đồng nghĩa với xã hội hoá.
Nhà XHH người Nga Andreeva định nghĩa: “Xã hội hoá là một quá trình hai

mặt, một mặt cá nhân tiếp nhận những kinh nghiệm xã hội bằng cách thâm nhập
vào môi trường xã hội hoá. Mặt khác sản xuất một cách chủ động hệ thống vào
mối quan hệ xã hội”.
1.1.3.3. Khái niệm giới
Giới được hiểu là những đặc điểm, tính cách, cách ứng xử, vai trò trách
nhiệm của con trai con gái mà xã hội quy định. Các đặc điểm này được hình
thành từ cuộc sống, chịu ảnh hưởng của gia đình, bạn bè, tôn giáo, văn hóa, nhà
trường, báo chí,… Các đặc điểm này có thể thay đổi được.

11


1.1.3.4. Khái niệm giới tính
Giới tính là khái niệm chỉ tập hợp những đặc điểm, tính chất riêng biệt tạo
nên sự khác nhau giữa nam và nữ, những đặc điểm ấy giúp ta phân biệt được
một cách dễ dàng nam và nữ. Giới tính hình thành từ hai nguồn gốc:
- Về mặt sinh học: Giới tính có các đặc điểm: Bị quy định hoàn toàn bởi gen
cụ thể là hai cặp nhiễm sắc thể XX và XY. Trong đó XX là nữ và XY là nam.
- Về mặt xã hội: Tình cảm, ý thức được hình thành qua giao tiếp dưới ảnh
hưởng của giáo dục, xã hội. Mỗi xã hội có sự phân công lao động riêng, có quan
niệm về giới tính theo những chuẩn mực đạo đức và văn hóa nhất định.
Theo từ điển tiếng việt: “Giới tính là sự khác biệt sinh học giữa nam và nữ”
Như vậy, giới tính là chỉ sự phân biệt về mặt sinh học giữa nam và nữ, theo
đó các đặc điểm về giới tính không thể thay đổi được trừ khi phẫu thuật.
1.1.3.5. Khái niệm giáo dục giới tính
Có nhiều định nghĩa khác nhau về GDGT:
 Định nghĩa của A.G.Khơricôpva và D.B.Kôlêxôp
“GDGT là một quá trình hướng vào việc vạch ra những nét, những phẩm
chất, những đặc trưng và khuynh hướng phát triển của nhân cách nhằm xác
định thái độ xã hội cần thiết của con người đối với những thuộc giới khác

nhau”. [12, tr.15]
 Định nghĩa theo Bách khoa toàn thư y học phổ thông (Pêtrôpxki chủ
nhiệm)
“GDGT là hệ thống các biện pháp y khoa và sư phạm nhằm giáo dục cho
nhi đồng, thanh thiếu niên có thái độ đúng đắn đối với các vấn đề giới tính”
[12, tr.16].
 Định nghĩa theo từ điển bách khoa về giáo dục
“GDGT là giáo dục về chức năng làm một con người có giới tính. Điều quan
trọng là vấn đề giới tính một cách công khai và đầy đủ trong lớp học, từ nhà trẻ
đến đại học, giúp cho học sinh cảm thấy an toàn và tự do trong việc biểu lộ các
cảm xúc liên quan đến đời sống giới tính”.
 Định nghĩa của D.N.Ixacev và V.E.Kagan
12


Theo D.N.Ixacev và V.E.Kagan, GDGT cần được hiểu theo hai nghĩa. Trước
hết, theo nghĩa rộng, thuật ngữ GDGT chỉ sự ảnh hưởng của môi trường đến sự
phát tâm lý tình dục và sự hình thành cá nhân. Môi trường bao quanh con người
là thực thể nhiều mặt và cơ động, không phải lúc nào cũng hoạch định được hay
mong muốn được những ảnh hưởng của nó. GDGT là một bộ phận hợp thành
của giáo dục học đại cương “Giáo dục phải đảm bảo sự phát triển tự do và vui
sướng của mọi thể tăng trưởng của con người từ bầu vú mẹ đến chiếc giường
chung vợ chồng”.
Theo nghĩa hẹp, GDTGT là một quá trình tác động có hệ thống, được hoạch
định và thực hiện một cách có ý thức, hướng tới kết quả cuối cùng xác định vào
sự phát triển tâm lý và thể chất của em trai và em gái với mục đích tối ưu hóa sự
phát triển nhân cách và hoạt động của chúng trong mọi lĩnh vực của đời sống có
liên quan tới các mối liên hệ của hai giới.
Tóm lại: GDGT là một vấn đề quan trọng trong việc giáo dục sự phát triển
toàn diện của con người. GDGT nhằm bồi dưỡng cho thế hệ trẻ những hiểu biết

cần thiết về giới tính, giúp họ có thái độ và kỹ năng giao tiếp, ứng xử lịch sự,
văn minh trong quan hệ với người khác giới trong hoạt động sống và hoạt động
xã hội. GDGT chủ yếu tập trung vào thế hệ trẻ trước hôn nhân.
1.1.3.6. Khái niệm vị thành niên
Vị thành niên là thời kỳ chuyển đổi từ trẻ con thành người lớn. Nó được
đánh dấu bằng những thay đổi xen lẫn nhau về thể chất, trí tuệ và mối quan hệ
xã hội chuyển từ giản đơn sang phức tạp.
Theo WHO, thời kỳ này kéo dài khoảng 10 năm từ 10 - 19 tuổi, có trường
hợp đến 21 tuổi. Người ta thường phân chia VTN thành 3 nhóm: VTN sớm: 10 14 tuổi, VTN giữa: 15 - 17 tuổi và VTN muộn: 18 - 19 tuổi.
Ở nước ta, pháp luật quy định từ đủ 18 tuổi trở lên thì một con người có đầy
đủ những quyền lợi và nghĩa vụ của một công dân độc lập. Đủ từ 18 tuổi họ có
quyền kết hôn và sinh con, nghĩa là khi đó họ không còn là VTN nữa. Do vậy,
VTN ở nước ta thường được xác định trong độ tuổi từ 10 đến trước 18 tuổi.

13


Đây là giai đoạn đứa trẻ có nhiều biến động lớn về thể chất, tâm lý, phát
triển trí tuệ, về mối quan hệ với bạn cùng lứa tuổi, với thầy cô giáo, với cha mẹ
và đặc biệt có sự thay đổi về hoạt động chức năng sinh sản. Những thay đổi vừa
phức tạp vừa đột biến đến mức đã có người định nghĩa “Vị thành niên là một
thời kỳ bão tố của những dao động lớn giữa những điều cực kỳ trái ngược
nhau”. (Neillk,1979)
1.1.3.7. Khái niệm gia đình
Gia đình được tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hiệp quốc
(UNESCO) định nghĩa: “Gia đình là một nhóm người có quan hệ họ hàng, cùng
sống chung và có cùng ngân sách chung”. Như vậy, gia đình là một nhóm xã hội
đặc biệt gắn bó với nhau bởi huyết thống và tình cảm. Gia đình được hình thành
trên cơ sở hôn nhân, và quan hệ huyết thống có được từ hôn nhân đó.
1.1.3.8. Giáo dục giới tính cho vị thành niên trong gia đình

GDGT là một phần của hoạt động giáo dục trong gia đình, chuẩn bị các kiến
thức cần thiết cho VTN để các em có tâm lý vững vàng, biết cách ứng phó với
những thay đổi bất ngờ về sinh lý cũng như tâm lý ở độ tuổi mới lớn. Tuy nhiên
hiện nay việc GDGT trong các gia đình Việt Nam nói chung và gia đình dân tộc
H’Mông nói riêng vẫn chưa được chú trọng và quan tâm đúng mức. Chính vì
vậy, nghiên cứu tìm hiểu vấn đề này có ý nghĩa quan trọng để góp phần thúc đẩy
nâng cao vai trò của gia đình trong việc GDGT cho thế hệ tương lai.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Tình hình nghiên cứu
Tuổi vị thành niên là những người ở sau tuổi thiếu nhi và trước tuổi trưởng
thành. Đây là giai đoạn chuyển tiếp nhưng là một giai đoạn khác biệt và quan
trọng trong cuộc sống con người. Giai đoạn này có rất nhiều thay đổi về tâm
sinh lý, bước đầu hình thành nhân cách và là giai đoạn đánh dấu bước phát triển
lớn từ phạm vi gia đình, họ bước đầu gia nhập vào xã hội cộng đồng, vào tập thể
cùng nhóm tuổi và phát triển những kỹ năng. Với những đặc điểm sinh lý riêng
biệt, họ muốn khẳng định mình nên dễ thay đổi tính cách, hành vi ứng xử. Sự
thay đổi và phát triển này phụ thuộc rất nhiều vào các phong tục tập quán dân
14


tộc của các nước mà trong từng nước, từng dân tộc lại có nhiều yếu tố ảnh
hưởng đến sự phát triển. Vì vậy mà Giáo dục giới tính có một vai trò quan trọng
trong việc giáo dục thế hệ trẻ tương lai của đất nước, bởi vậy cũng đã có khá
nhiều bài viết, cuốn sách hay và đề tài nghiên cứu về vấn đề này như:
Trong cuốn “Giáo dục giới tính vì sự phát triển của vị thành niên” của BS.
Đào Xuân Dũng, Nxb Đại học Quốc gia năm 2002 giới thiệu một cách toàn diện
đầy đủ về vấn đề GDGT, từ định nghĩa về GDGT, mục đích, ý nghĩa, nội dung,
phương pháp GDGT tới vai trò của gia đình, của cha mẹ trong việc hình thành
nhân cách cho con cái. Nhưng cuốn sách này cũng chỉ dừng lại ở việc giới thiệu
một cách tổng quát các nội dung GDGT cần thiết cho trẻ VTN.

Bài viết “Về vấn đề giáo dục giới tính cho trẻ em trong gia đình” của tác giả
Nguyễn Thị Tố Quyên Tạp chí Xã hội học số 1, năm 2005 cho thấy 61,6% ông
bố thấy cần thiết phải trao đổi với con về vấn đề giới tính, trong đó 56,6% ông
bố, 64,3% bà mẹ cho rằng cần phải giáo dục về vấn đề này. Liên quan tới
phương pháp GDGT, bài viết cũng đã chỉ ra một thực tế ngoài việc trò chuyện
trực tiếp, có tới 20,5% ông bố và 24,25 bà mẹ cho rằng chỉ cần GDGT, tình dục
SKSS cho con bằng việc mua sách báo cho chúng tự học, không cần trao đổi hay
nói chuyện trực tiếp về vấn đề này. Bài viết này đã chỉ ra được thực trạng hiện
nay trong việc GDGT của các gia đình, tuy nhiên chưa lý giải được nguyên nhân
dẫn tới thực trạng đó.
Trong cuốn “Khi người ta lớn” của BS. Đỗ Hồng Ngọc, Nxb trẻ. Sách tập
trung lý giải những trăn trở: Làm sao để trẻ đủ sức khỏe học hành, cách gì để xả
stress sau mỗi kỳ thi, nghỉ hè như thế nào cho hiệu quả, những mối quan hệ cha
mẹ - con cái… Tất cả được trình bày dưới góc nhìn tác giả là một bác sĩ nhi, một
nhà tâm lý và đồng thời là một người cha mẫu mực. Sách thích hợp cho giới trẻ
và cả phụ huynh tham khảo.
Trong cuốn “Bỗng nhiên mà họ lớn” của BS. Đỗ Hồng Ngọc, Nxb trẻ. Với
nhãn quan y học của một vị bác sĩ, một người cha, người anh, người bạn nhiều
năm gắn bó với trẻ, tác giả Đỗ Hồng Ngọc gửi đến bạn đọc những phát hiện thú
vị từ thực tế diễn biến tâm sinh lý tuổi mới lớn. Từ đó đi sâu phân tích, hướng
15


dẫn, chia sẻ về những lo lắng trước những “đổi thay”, những trục trặc quanh
chuyện cơ thể, tâm lý ở lứa tuổi chuyển tiếp thành người lớn. Tác phẩm bổ ích
cho các em tuổi mới lớn, đồng thời cần thiết cho các phụ huynh, thầy cô...
Trong cuốn “Tâm lý học giới tính và giáo dục giới tính” của tác giả Bùi
Ngọc Oánh, Nxb Giáo dục năm 2006 đã nêu lên những vấn đề chung về giới
tính tâm lý học giới tính, các khái niệm giới và giới tính, sự hình thành và phát
triển giới tính, một số vấn đề điển hình của đời sống giới tính, GDGT và những

vấn đề thực tiễn. Các vấn đề lý luận, thực tiễn trong cuốn sách này được trình
bày hệ thống hóa lý luận cơ bản của khoa học giới tính.
Luận án phó tiến sỹ khoa học tâm lý “Những yếu tố trong sự chấp nhận giáo
dục giới tính cho thanh niên, học sinh” của tác giả Bùi Ngọc Oánh đã phát hiện
được những yếu tố tâm lý ảnh hưởng tới sự chấp nhận GDGT ở thanh niên học
sinh, từ đó đề xuất một số phương hướng, biện pháp nhằm nâng cao sự chấp
nhận đó ở thanh niên, học sinh. Tuy nhiên, nghiên cứu này mới chỉ tìm hiểu sự
chấp nhận GDGT trong nhà trường mà chưa đề cập tới khía cạnh GDGT trong
gia đình.
Luận án tiến sỹ giáo dục “Một số biện pháp giáo dục giới tính cho sinh viên
Đại học Sư phạm” của nghiên cứu sinh Phan Bích Ngọc nhằm đánh giá thực
trạng giáo dục giới tính cho sinh viên Đại học Sư phạm và đưa ra các biện pháp,
nội dung giáo dục cho họ. Tuy nhiên nghiên cứu này chỉ tập trung vào nhóm đối
tượng đặc thù là sinh viên trường Đại học Sư phạm.
Trong cuốn “Cẩm nang con trai”của tác giả Violeta Babic, người dịch Ánh
Tuyết, Song Thu, Nxb trẻ. Đây là cuốn sách thích hợp cho lứa tuổi từ 9 đến 18.
Trẻ sẽ được trang bị kiến thức để bước vào giai đoạn dậy thì, biết tự chăm sóc
bản thân, chọn môn thể thao thích hợp, học được kỹ năng sắp xếp thời gian và
cách ứng xử trong cuộc sống... Nhờ thế, các em tự tin và dần trưởng thành hơn,
để từ các cậu bé ham chơi trở thành những chàng trai lịch lãm.
Trong cuốn “Cẩm nang con gái” của tác giả Violeta Babic, người dịch Ánh
Tuyết, Song Thu, Nxb trẻ. Thích hợp cho lứa tuổi từ 9 đến 18. Trẻ sẽ được trang
bị kiến thức về những vấn đề gần gũi trong cuộc sống của mình. Các em hiểu
16


hơn về những thay đổi tâm sinh lý trong giai đoạn dậy thì, những điều không
biết thổ lộ cùng ai. Sách còn hướng dẫn cách vệ sinh cá nhân như rửa tay, tắm
gội... để có được sức khỏe như ý. Nhờ thế, bé gái sẽ tự tin và dần trở thành
những cô nàng duyên dáng, đáng yêu.

Các cuốn sách khác như: “Sức khỏe sinh sản và sức khỏe tình dục dành cho
tuổi vị thành niên” tác giả Đào Xuân Dũng, Nxb tổng hợp TPHCM; “Giáo dục
giới tính dành cho tuổi vị thành niên” tác giả Đào Xuân Dũng, Nxb tổng hợp
TPHCM; “Tuổi dậy thì lớn rồi, nhưng mà” của AlphaBooks biên soạn và rất
nhiều cuốn sách khác nữa.
Nói chung những cuốn sách, bài viết trên đã khẳng định vai trò to lớn của
giáo dục giới tính cho trẻ vị thành niên trong giai đoạn hiện nay. Thế nhưng đây
là vấn đề rất phong phú và rộng lớn, vẫn còn nhiều nội dung cụ thể mà các nhà
nghiên cứu chưa đề cập tới, nhất là vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu về
đặc tính dân tộc trong việc giáo dục giới tính cho trẻ vị thành niên trong gia đình
dân tộc H’Mông xã Mồ Dề - huyện Mù Cang Chải - tỉnh Yên Bái. Vì vậy, với
khoá luận tốt nghiệp này, tôi xin đóng góp một hướng tiếp cận cụ thể hơn, sâu
hơn về vấn đề đặc tính dân tộc trong việc giáo dục giới tính cho trẻ vị thành niên
trong gia đình dân tộc H’Mông xã Mồ Dề - huyện Mù Cang Chải - tỉnh Yên Bái.
1.2.2. Lược sử quá trình giáo dục giới tính
1.2.2.1. Quá trình giáo dục giới tính trên thế giới
GDGT là 1 vấn đề được nhiều nước ở Châu Âu tiến hành từ rất sớm. Năm
1921 Thụy Điển đã nghiên cứu vấn đề GDGT. Ngay từ thời đó Thụy Điển đã
coi giáo dục là quyền tự do của con người, là quyền bình đẳng nam nữ là trách
nhiệm đạo đức của công dân đối với xã hội. Năm 1942, Bộ Giáo dục Thụy Điển
quyết định đưa thí nghiệm giáo dục tình dục vào nhà trường và đến năm 1956
thì dạy phổ thông trong tất cả các trường từ tiểu học đến trung học [12, tr.9].
Sau Thụy Điển các nước Đông Âu như: Anh, Đức, Ba Lan, Hunggari, Tiệp
Khắc, các nước Tây Âu, Bắc Âu khác đều coi giáo dục tình dục là một vấn đề
lành mạnh, đem lại tự do cho con người vì họ quan niệm rằng cần nói rõ cho

17


mọi người hiểu biết những quy luật hoạt động tình dục. Sau đó, nhiều nước

Châu Mỹ, Latinh, vùng Caribê cũng quan tâm đến giáo dục tình dục.
Tuy nhiên, những năm 1960 trở về trước vấn đề giới tính chỉ được quan tâm
ở trong nước riêng lẻ thuộc khu vực Châu Âu, Châu Mỹ. Đối với các nước Châu
Á GDGT là lĩnh vực “cấm kị” xuất phát từ quan niệm phong kiến và tôn giáo,
trong đó Châu Á và Châu Phi lại là những vùng dân số tăng nhanh nhất thế giới.
Trái lại ở những quốc gia giàu có dân số không tăng thậm chí có những nước
còn giảm số dân thuộc lớp trẻ như Ôxtrâylia, Cộng hòa Liên bang Đức, Đan
Mạch, Bỉ,… Những nước này tỷ lệ bình quân hàng năm là mức thấp nhất. Tình
trạng sinh ít, dân số già, thiếu sức lao động trẻ đã làm cho một phần sản xuất
nông nghiệp giảm. Thực trạng đó đòi hỏi Nhà nước phải có những chính sách
khuyến khích sinh đẻ nhiều đối với các cặp vợ chồng trẻ. Như vậy, ở các nước
giàu có, nghèo, dù đứng ở hai cực dân số đối lập nhau song đều có nhu cầu về
nâng cao chất lượng cuộc sống của mỗi cá nhân và cuộc sống văn minh của toàn
xã hội.
Trong những năm 1984, 1986 các Hội nghị UNESCO đã làm sáng tỏ những
nhu cầu về giáo dục đời sống gia đình và giáo dục giới tính trong quá trình giáo
dục ở các nước trong khu vực và châu Á - Thái Bình Dương. Nội dung và
phương pháp GDGT ở nước có thể có những khía cạnh khác nhau vì mỗi dân
tộc đề có những phong tục tập quán, những định hướng giá trị về gia đình, về
nam, về nữ khác nhau. Nhưng tất cả đều thống nhất ý kiến về tầm quan trọng và
sự cần thiết phải GDGT cho thế hệ trẻ, giúp làm chủ quá trình sinh sản của mình
một cách khoa học, phù hợp với tiến bộ của xã hội.
1.2.2.2. Giáo dục giới tính ở Việt Nam
Nhận thức về giới có từ rất sớm trong văn hóa truyền thống Việt Nam.
Trong ca dao, truyền thuyết, dân ca, nghệ thuật, khảo cổ,… của các dân tộc đều
cho thấy từ thời xa xưa ông cha ta đã có quan niệm về giới, “Trời - Cha”, “Mẹ Đất”, Trời - Đất như một cặp Nam - Nữ. Trong nền văn hóa Chàm có những
tượng thờ thể hiện quan niệm rất rõ về đặc điểm giới và giới tính.

18



Nhận thức về giới và GDGT trong văn hóa còn được thể hiện trong các
phong tục, đặc biệt là trong các lễ hội cổ truyền của nhiều địa phương. Nói
chung, thời Việt cổ có quan niệm tương đối đầy đủ về các yếu tố của vấn đề sinh
lý, giới tính, khá cởi mở, phóng khoáng về tình dục, coi đó là hành động tự
nhiên, cần thiết để bảo tồn và phát triển nòi giống, có quan hệ đến sự phồn thịnh
và hạnh phúc của quốc gia, dân tộc.
Sau khi tiếp nhận ảnh hưởng của văn hóa Nho giáo với chữ “Lễ” được đề
cao, dần dần khía cạnh tâm lý xã hội của giới tính được khai thác nhằm phục vụ
lợi ích của giai cấp phong kiến, tạo nên sự bất bình đẳng về giới. Hàng rào lễ giáo
được tăng lên, ngăn chặn một cách giả tạo sự tiếp xúc giữa những người khác
giới. Những chuyện liên quan đến khía cạnh sinh lý của giới tính và tình dục trở
thành điều cấm kỵ đối với trẻ. Toàn xã hội được hướng dẫn bởi những thuyết giáo
đạo đức “Trung, Hiếu, Tiết hạnh” phục vụ cho quân quyền, phụ quyền và nam
quyền. Chính vì vậy, GDGT với ý nghĩa chân chính của nó đã bị “né tránh”.
Ngày nay, Nhà nước Việt Nam coi giáo dục dân số là một công tác thường
xuyên. Hàng loạt chủ trương được thực hiện nhằm xã hội hóa công tác giáo dục
dân số một cách hữu hiệu, trong đó có chủ trương thực hiện khuyến nghị của Hội
nghị tư vấn khu vực về giáo dục dân số năm 1986 ở Băngkok, gồm: Giáo dục đời
sống gia đình, Giáo dục giới tính, Giáo dục tuổi già và Giáo dục đô thị hóa.
Trong năm 1985, Trung ương Hội liên hiệp phụ nữ đã triển khai phong trào
giáo dục “Ba triệu bà mẹ nuôi con khỏe, dạy con ngoan”, trong đó có nội dung
GDGT cho lứa tuổi dậy thì. Đây là lần đầu tiên ở nước ta đề cập đến vấn đề
GDGT được tiến hành rộng rãi và gián tiếp. Thông qua phong trào này nhằm
cung cấp kiến thức khoa học cho các mẹ có con ở lứa tuổi dậy thì. Tuy nhiên,
hình thức chủ yếu được sử dụng ở đây là nói chuyện, diễn giảng và các nhà
thuyết giảng hầu hết không phải nhà chuyên gia nên hiệu quả chỉ mang tính chất
phong trào.
Tới năm 1988, một đề án có quy mô to lớn nghiên cứu về GDGT, dân số và
kế hoạch hóa gia đình cho học sinh, đề án VIE/88/P09 đã được tiến hành dưới

sự tài trợ của quỹ Liên hiệp quốc UNFPA và sự giúp đỡ kỹ thuật của UNESCO.
19


Đề án do Bộ Giáo dục và Đào tạo, Viện khoa học Giáo dục Việt Nam thực hiện
dưới sự chỉ đạo và tham gia trực tiếp của các nhà khoa học trong và ngoài ngành
giáo dục. Đề án đã xây dựng chương trình, sách giáo khoa và giảng dạy thí điểm
ở 19 tỉnh thành cả nước.
Hiện nay GDGT ở nước ta càng được quan tâm hơn. Nhiều chương trình
giáo dục cho lứa tuổi VTN đã được thực hiện ở các nhà trường phổ thông,…tuy
nhiên đó mới chỉ là những nơi thành thị, những nơi có điều kiện phát triển, nhiều
địa phương ở vùng sâu vùng xa khi nói về đề tài này nó vẫn hết sức mới mẻ…
nhiều cha mẹ vẫn ngại ngùng về vấn đề này, nhiều trẻ VTN vẫn chưa có hiểu biết
về GDGT, vì vậy khi nghiên cứu về đề tài này tác giả muốn làm rõ thực trạng
giáo dục giới tính của cộng đồng dân tộc H”Mông xã Mồ Dề - huyện Mù Cang
Chải - tỉnh Yên Bái, để từ đó có thể có những khuyến nghị cho thực trạng này.
1.2.3. Vài nét về địa bàn nghiên cứu
Mồ Dề là một xã vùng sâu thuộc huyện Mù Cang Chải, tỉnh Yên Bái, xã có
diện tích 65,05 km²; là 1 trong 13 xã thuộc diện đặc biệt khó khăn của huyện Mù
Cang Chải, cách trung tâm huyện Mù Cang Chải 3km về phía Nam.
Phía Đông giáp: xã Chế Cu Nha, huyện Mù Cang Chải, tỉnh Yên Bái.
Phía Tây giáp: xã Khao Mang , huyện Mù Cang Chải, tỉnh Yên Bái.
Phía Nam giáp: thị trấn Mù Cang Chải, huyện Mù Cang Chải, tỉnh Yên Bái.
Phía Bắc giáp: huyện Văn Bàn, tỉnh Lào Cai.
Theo số liệu thống kê mới nhất năm 2015 Mồ Dề có tổng số hộ là 715 hộ với
4.202 nhân khẩu, trong đó nam: 2.090, nữ: 2.112 và tỷ lệ hộ nghèo trong toàn xã
chiếm khoảng 54,10%. Xã có gần 100% dân số là đồng bào H’Mông. Mồ Dề
gồm có 10 bản: Nả Háng A, Nả Háng B, Mí Háng, Mồ Dề, Háng Sung, Màng
Mủ A, Màng Mủ B, Sáng Nhù, Cung 11, Háng Phù Loa, đều cách xa trung tâm
xã với đường gồ ghề khó đi, nơi xa nhất cách 10 km đường đồi núi.

Cách đây chưa đầy 10 năm, xã Mồ Dề của huyện Mù Cang Chải còn rất khó
khăn. Đường giao thông cách trở, nhiều hủ tục lạc hậu vẫn tồn tại, đời sống của
đồng bào H’Mông thiếu thốn cả vật chất lẫn tinh thần. Đội ngũ cán bộ, đảng
viên xã vừa thiếu vừa yếu, không gánh vác được nhiệm vụ do Đảng bộ xã phân
20


×