Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Sự lãnh đạo của đảng bộ thành phố sơn la với việc phát triển giáo dục trung học phổ thông từ năm 2005 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 79 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC

TRẦN THỊ THU HƯƠNG

SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ SƠN LA
VỀ VIỆC PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
TỪ NĂM 2005 ĐẾN NAY

Chuyên ngành: XH2b

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Người hướng dẫn: ThS. Lèo Thị Thơ

SƠN LA, NĂM 2016


Lời cảm ơn!
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến các thầy cô giáo trong khoa Lý luận
chính trị, Phòng khoa học công nghệ và hợp tác quốc tế đã động viên, giúp đỡ
em trong suốt thời gian làm khóa luận. Đặc biệt em xin chân thành cảm ơn cô
giáo, Ths. Lèo Thị Thơ, đã tận tình chỉ bảo và đóng góp những ý kiến khoa học
vô cùng quý báu giúp em hoàn thành khóa luận này.
Em xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô giáo trong thư viện nhà trường đã tạo
điều kiện về mặt tài liệu để em hoàn thành khóa luận.
Xin cảm ơn sự giúp đỡ của sở Giáo dục và đào tạo Tỉnh Sơn La đã nhiệt
tình giúp đỡ em trong quá trình thu thập số liệu.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng để thực hiện khóa luận một cách hoàn chỉnh
nhất. Song do còn hạn chế về kiến thức cũng như kinh nghiệm nên khóa luận
không tránh khỏi những thiếu sót nhất định mà bản thân em chưa thấy được. Em
rất mong nhận được sự góp ý kiến của quý Thầy, Cô giáo và các bạn sinh viên


để khóa luận của em được hoàn chỉnh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sơn La, tháng 5/2016
Sinh viên:
Trần Thị Thu Hương


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
CBQL

Cán bộ quản lý

CCGD

Cơ cấu giáo dục

CSVC

Cơ sở vật chất

GD&ĐT

Giáo dục và đào tạo

GV

Giáo viên

HĐND


Hội đồng nhân dân

HS

Học sinh

Nxb

Nhà xuất bản

PCGD THCS

Phổ cập giáo dục trung học cơ sở

PGS.TS

Phó giáo sư tiến sĩ

SGK

Sách giáo khoa

SGV

Sách giáo viên

TB

Trung bình


TBDH

Thiết bị dạy học

THCS

Trung học cơ sở

THPT

Trung học phổ thông

TS

Tiến sĩ

TW

Trung ương

UBND

Uỷ ban nhân dân

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu ........................................................................................ 4
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................... 5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ..................................................................... 6
5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................... 6
6. Đóng góp của đề tài........................................................................................... 7
7. Kết cấu của đề tài .............................................................................................. 7
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU SỰ LÃNH ĐẠO PHÁT
TRIỂN GIÁO DỤC TRUNG HỌC PHỔ THÔNG CỦA ĐẢNG BỘ
THÀNH PHỐ SƠN LA ..................................................................................... 8
1.1. Cơ sở lý luận .................................................................................................. 8
1.1.1. Quan điểm cơ bản của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
Đảng Cộng sản Việt Nam về giáo dục .................................................................. 8
1.1.2. Vị trí và vai trò của giáo dục Trung học phổ thông trong chiến lược phát
triển giáo dục Việt Nam ...................................................................................... 18
1.2. Cơ sở thực tiễn ............................................................................................. 23
1.2.1. Đặc điểm tự nhiên và kinh tế - xã hội của thành phố Sơn La ................... 23
1.2.2. Thực trạng phát triển giáo dục Trung học phổ thông ở thành phố Sơn La
trước năm 2005.................................................................................................... 26
1.2.3. Bài học kinh nghiệm ................................................................................. 29
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 ...................................................................................... 31
CHƯƠNG 2: QUÁ TRÌNH ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ SƠN LA LÃNH ĐẠO
PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TỪ NĂM 2005 ĐẾN
NAY..................................................................................................................... 32
2.1. Đảng bộ thành phố Sơn La lãnh đạo phát triển giáo dục Trung học phổ
thông giai đoạn 2005 - 2010................................................................................ 32


2.1.1. Quá trình lãnh đạo triển khai thực hiện Nghị quyết Ban chấp hành Trung

ương và Nghị quyết Đảng bộ tỉnh Sơn La .......................................................... 32
2.1.2. Thành tựu, hạn chế và nguyên nhân.......................................................... 33
2.2. Đảng bộ thành phố Sơn La lãnh đạo phát triển giáo dục Trung học phổ
thông giai đoạn 2010 đến nay ............................................................................. 39
2.2.1. Quá trình lãnh đạo triển khai thực hiện Nghị quyết Ban chấp hành Trung
ương và Nghị quyết Đảng bộ tỉnh ....................................................................... 39
2.2.2. Thành tựu, hạn chế và nguyên nhân.......................................................... 42
2.2.3. Bài học kinh nghiệm ................................................................................. 50
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 ...................................................................................... 52
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC LÃNH ĐẠO
PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC TRUNG HỌC PHỔ THÔNG Ở THÀNH PHỐ
SƠN LA............................................................................................................... 53
3.1. Đổi mới công tác quản lý của Nhà nước ..................................................... 53
3.2. Tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao nhận thức đối với cán bộ,
đảng viên và nhân dân về vai trò của giáo dục phổ thông trong sự nghiệp phát
triển kinh tế - xã hội ở địa phương ...................................................................... 55
3.3. Nâng cao chất lượng các nghị quyết của Tỉnh uỷ về phát triển giáo dục phổ
thông, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước ........................................................................................................ 57
3.4. Lãnh đạo xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý và giáo
viên ...................................................................................................................... 60
3.4.1. Xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục.............................................. 60
3.4.2. Xây dựng đội ngũ giáo viên ..................................................................... 62
3.5. Củng cố, phát triển tổ chức đảng, đoàn thể trong các trường phổ thông
............................................................................................................................. 65
3.6. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, xử lý nghiêm các trường hợp sai
phạm .................................................................................................................... 67
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 ...................................................................................... 68
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 69



TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 71


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lịch sử xã hội loài người từ khi ra đời, tồn tại và phát triển đã kết tinh
trong mình toàn bộ những giá trị văn hoá cao đẹp, những tri thức, kinh nghiệm,
kỹ năng kỹ xảo trong các hoạt động phục vụ lợi ích con người và xã hội. Song
để những giá trị văn hoá, những tri thức, kinh nghiệm đó được kế thừa, phát
triển hoàn thiện và từ thế hệ này sang thế hệ khác, không có con đường nào khác
là phải thông qua giáo dục và đào tạo.
Ngày nay, chúng ta đang sống trong thời đại mà nền kinh tế tri thức đang
làm biến đổi sâu sắc đời sống vật chất và tinh thần của xã hội, tri thức trở thành
lực lượng sản xuất trực tiếp, là động lực cơ bản thúc đẩy sự phát triển của xã
hội. Chính vì vậy, tri thức trở thành nhân tố quyết định trực tiếp sự phát triển của
tất cả các quốc gia, dân tộc trên thế giới. Mọi quốc gia, dân tộc muốn phát triển
và phát triển bền vững đều phải chăm lo đến sự phát triển của sự nghiệp giáo
dục và đào tạo.
Dân tộc Việt Nam vốn có truyền thống hiếu học từ lâu đời. Trải qua hàng
nghìn năm lịch sử, truyền thống đó đã góp phần tạo nên nét đẹp của nền văn
hiến Việt Nam và được phát huy hơn bao giờ hết trong thời đại mới. Hơn nửa
thế kỷ qua, kể từ khi nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời, trong sự nghiệp
đấu tranh, bảo vệ và xây dựng đất nước, nền giáo dục nước nhà thực sự giữ một
vai trò quan trọng, gánh vác những sứ mệnh của dân tộc.
Bước vào công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, đòi hỏi trình độ dân trí
ngày càng cao làm cơ sở cho sự phát triển kinh tế xã hội, giáo dục và đào tạo là
mối quan tâm hàng đầu của toàn Đảng, toàn dân và toàn xã hội. Phát triển giáo
dục tức là phát triển con người: Con người với tư cách là chủ thể sáng tạo nên
mọi giá trị vật chất và tinh thần của toàn xã hội; con người là nguồn lực cơ bản

tạo ra mọi nguồn lực khác thúc đẩy xã hội phát triển; con người phát triển toàn
diện, hài hoà có nhân sinh quan, thế giới quan cộng sản chủ nghĩa.
Đảng và Nhà nước ta đã từ lâu nhận thức rất rõ vai trò, vị trí của giáo dục
1


và ngày càng chăm lo sự nghiệp giáo dục. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lấn thứ VII của Đảng khẳng định: “Khoa học và giáo dục đóng vai trò then chốt
trong toàn bộ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, là một
động lực đưa đất nước thoát ra khỏi nghèo nàn, lạc hậu, vươn lên trình độ tiên
tiến của thế giới” [9, tr.79]. Hội nghị lần thứ tư, Ban Chấp hành Trung ương
Đảng Khoá VII tiếp tục chỉ rõ: Phải coi đầu tư cho giáo dục là một trong những
hướng chính của đầu tư phát triển, tạo điều kiện cho giáo dục đi trước và phục
vụ đắc lực sự phát triển kinh tế - xã hội.
Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ VIII (1996) khẳng định:
“Cùng với khoa học công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu,
nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài” [10, tr.210]. Con
người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Vấn đề đào tạo con
người là vấn đề quan trọng bậc nhất trong phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã
hội, là một trong những tiền đề cơ bản góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Nhận thức rõ vấn đề này tại Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ
IX (2001) Đảng ta đã khẳng định: “Phát triển giáo dục và đào tạo là một trong
những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
là điều kiện để phát huy nguồn lực con người” [11, tr.127] yếu tố cơ bản để
phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Trên cơ sở đó Quốc
hội đã ban hành Nghị quyết 40/2000/NQ - QH về đổi mới chương trình giáo
dục phổ thông nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện đáp ứng yêu cầu
của sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn mới.
Với tư cách là một thành tố cơ bản của nền văn hoá dân tộc, giáo dục có

một vị trí trọng yếu hàng đầu trong chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã xác định: “Giáo dục và đào tạo
cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực
thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” [12, tr.94-95]. Giáo dục và
đào tạo là điều kiện phát huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển
xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, chế độ xã hội mà nhân dân ta
2


kiên trì lựa chọn và xây dựng là chế độ xã hội chủ nghĩa. Sự nghiệp giáo dục mà
chúng ta xây dựng là sự nghiệp giáo dục xã hội chủ nghĩa, có nhiệm vụ đào tạo ra
các thế hệ công dân trung thành với sự nghiệp cách mạng, có đầy đủ tài năng, phẩm
chất và bản lĩnh để vượt qua những thách thức, đưa đất nước tiến lên theo kịp trào
lưu phát triển chung của khu vực và quốc tế.
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, trong những năm qua, cùng sự phát
triển của nền giáo dục cả nước, ngành giáo dục thành phố Sơn La nói chung, bậc
giáo dục THPT nói riêng đã thu được nhiều thành tích đáng phấn khởi: Quy mô
giáo dục được mở rộng, chất lượng và hiệu quả giáo dục ngày càng thể hiện rõ
nét; hơn 10 năm liền ngành giáo dục thành phố được công nhận là đơn vị tiên
tiến xuất sắc của tỉnh. Tuy nhiên, bên cạnh đó sự nghiệp giáo dục thành phố, đặc
biệt bậc giáo dục THPT còn bộc lộ nhiều hạn chế và tồn tại: cơ sở vật chất, trang
thiết bị dạy học chưa đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới; chất lượng giáo
dục chưa đồng đều giữa các trường trong địa bàn thành phố; năng lực chuyên
môn của đội ngũ giáo viên còn hạn chế; công tác quản lý giáo dục chưa bắt
kịp so với yêu cầu. Trước tình hình đó đặt ra cho ngành giáo dục thành phố
cần phải đánh giá đúng thực trạng chất lượng giáo dục các cấp học trong toàn
thành phố để từ đó đưa ra những giải pháp phù hợp nhằm khắc phục những
khuyết điểm, phát huy những ưu điểm đã đạt được để nâng cao chất lượng
giáo dục nói chung và chất lượng giáo dục THPT nói riêng, đáp ứng được yêu

cầu của sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo.
Là sinh viên chuyên nghành Giáo dục chính trị đang sinh sống và học tập
trên địa bàn tỉnh Sơn La, trực tiếp chứng kiến quá trình phát triển kinh tế xã hội
đặc biệt là nền giáo dục của thành phố dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng bộ
thành phố Sơn La, để góp phần khẳng định vai trò và công lao to lớn của Đảng
nói chung và Đảng bộ thành phố Sơn La nói riêng đối với sự phát triển của nền
giáo dục tỉnh nhà trong những năm qua, tôi chọn vấn đề: “Sự lãnh đạo của
Đảng bộ thành phố Sơn La với việc phát triển giáo dục trung học phổ thông
từ năm 2005 đến nay” làm khóa luận tốt nghiệp của mình.

3


2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề Đảng lãnh đạo đối với giáo dục đào tạo là vấn đề quan trọng, do đó
đã được nhiều nhà khoa học, nhiều tác giả nghiên cứu ở các khía cạnh khác
nhau, đã có không ít đề tài cấp nhà nước, cấp bộ, sách chuyên khảo, bài viết trên
các tạp chí nghiên cứu, tiêu biểu như:
- Phạm Văn Đồng "Vấn đề giáo dục - đào tạo" Nxb Chính trị quốc gia, số
XB.01553/XB-QLXD 1/7/1999.
- Đỗ Mười "Phát triển mạnh giáo dục-đào tạo phục vụ đắc lực sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước" , Nxb Giáo dục - mã số:8G230M6.
- Vũ Đình Cự ( chủ biên) ( 1999), Giáo dục hướng tới thế kỉ XXI, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Đặng Thị Minh Hảo ( 2003), Nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên trong

các trường trung học phổ thông ở Hà Nội giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ,
Chuyên ngành Xây dựng đảng, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
Trong cuốn: “Giáo dục phổ thông - nền tảng cơ bản của hệ thống giáo dục
quốc dân” của Đảng Cộng sản Việt Nam (2009), đề cập đến vai trò to lớn của

nền giáo dục phổ thông của nước ta hiện nay, cần phải có những biện pháp cụ
thể để giáo dục phổ thông thực sự là nền tảng của giáo dục quốc dân. Bài viết
“Thực trạng đánh giá kết quả học tập của học sinh ở nhà trường phổ thông hiện
nay” của TS. Vũ Thị Ngọc Ánh (2010), tác giả đã đưa đến độc giả những cái
nhìn khách quan nhất về thực trạng đánh giá kết quả học tập của học sinh nhà
trường THPT hiện nay ở nước ta. Cuốn “Phương thức bồi dưỡng học sinh năng
khiếu ở nhà trường phổ thông Việt Nam” của PGS.TS. Đỗ Tiến Đạt (2010), tác
giả đã đưa ra các phương thức bồi dưỡng những em học sinh có những năng
khiếu riêng có của mình trong nhà trường THPT ở nước ta, cần phải có những
phương thức tiến bộ hơn để phát huy năng lực của các em học sinh. Công trình
nghiên cứu “Đổi mới quản lý giáo dục nhà nước và hệ thống giáo dục quốc dân
trong hội nhập quốc tế và xu hướng toàn cầu hoá” của GS.TSKH Vũ Ngọc Hải

4


(2012), đã đề cập đến công tác đổi mới quản lý giáo dục trong xu thế hội nhập
quốc tế và xu hướng toàn cầu hoá.
Trong bài viết: “Đổi mới có tính cách mạng nền giáo dục và đào tạo của
nước nhà" của Đại tướng Võ Nguyên Giáp (Báo Việt Nam net) đã nêu 6 vấn đề
"Cơ bản và cấp bách" nhằm "triển khai có kết quả công cuộc đổi mới nền giáo
dục và đào tạo”.
Những cuốn sách, bài viết nêu trên đã đưa ra nhiều cách hiểu, nhiều quan
điểm khác nhau về giáo dục và các cách tiếp cận nghiên cứu về giáo dục phong
phú, đa dạng. Đó là những tài liệu mà nhóm tác giả tham khảo định hình cho
mình một quan niệm đúng đắn về giáo dục được sử dụng trong đề tài.
Vấn đề xây dựng và phát triển giáo dục cũng thu hút được nhiều tác giả
chọn làm đề tài nghiên cứu khoa học, luận văn tốt nghiệp, luận văn thạc sĩ
như: “Quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo ở nước ta trong giai đoạn
hiện nay”, “Luận văn nâng cao chất lượng giáo dục Trung học cơ sở trên địa

bàn huyện Thanh Chương hiện nay”, “Luận văn sự lãnh đạo của tỉnh ủy Thái
Bình đối với công tác giáo dục phổ thông trong giai đoạn hiện nay”…
Nhìn chung những bài viết, đề tài, luận văn trên đã khẳng định tầm quan
trọng của xây dựng và phát triển giáo dục trong đó có giáo dục THPT, nêu bật
được sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của Đảng, được thể hiện bằng các đường lối,
chính sách phát triển và sự vận dụng vào các địa phương cụ thể nêu ra các biện
pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục THPT phù hợp với từng khu vực. Tuy
nhiên, giáo dục THPT là vấn đề rất phong phú và rộng lớn, vẫn còn nhiều nội
dung cụ thể mà các nhà nghiên cứu chưa đề cập tới, nhất là vẫn chưa có công
trình nào nghiên cứu về sự lãnh đạo của Đảng bộ thành phố Sơn La với việc
phát triển giáo dục THPT từ năm 2005 đến nay. Việc tìm hiểu giáo dục THPT ở
các địa phương mới triển khai bước đầu và hiệu quả chưa cao.
Kết quả nghiên cứu của các tác giả đã có nhiều gợi ý giúp tôi định hướng
và xác định các mục tiêu nghiên cứu phù hợp cho đề tài.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Góp phần tổng kết một bước thành quả của công tác lãnh đạo xây dựng và
phát triển giáo dục THPT trên địa bàn thành phố Sơn La.
5


- Tiếp tục khẳng định vai trò to lớn của Đảng bộ thành phố Sơn La đối với
sự nghiệp đổi mới giáo dục của thành phố.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa các quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và chủ trương, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây
dựng và phát triển giáo dục THPT.
- Làm rõ quá trình Đảng bộ thành phố Sơn La lãnh đạo xây dựng và phát
triển giáo dục THPT; Tổng kết thực trạng, những thành tựu và hạn chế, bài học
0kinh nghiệm trong quá trình phát triển giáo dục THPT.

- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả công tác lãnh
đạo của Đảng bộ thành phố Sơn La với việc phát triển giáo dục THPT từ năm
2005 đến nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Sự lãnh đạo của Đảng bộ thành phố Sơn La với việc phát triển giáo dục
Trung học phổ thông từ năm 2005 đến nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Quan điểm cơ bản chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng
Cộng sản Việt Nam về giáo dục và phát triển giáo dục THPT.
- Quá trình Đảng bộ thành phố Sơn La lãnh đạo xây dựng và phát triển giáo
dục THPT trong giai đoạn từ năm 2005 đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Khóa luận nghiên cứu dựa trên cơ sở sử dụng phương pháp luận duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin.
- Khóa luận còn sử dụng các phương pháp cụ thể như phương pháp: lịch sử
và logic, thu thập thông tin, phân tích, tổng hợp, so sánh đối chiếu các tài liệu,
số liệu thống kê; phương pháp tổng kết kinh nghiệm… Đồng thời có kế thừa
những kết quả nghiên cứu của các tác giả có liên quan trên cơ sở chọn lọc và
nâng cao.

6


6. Đóng góp của đề tài
Kết quả nghiên cứu của khóa luận góp phần:
- Hệ thống hóa các quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng và phát triển giáo dục THPT.
- Khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng bộ thành phố Sơn La trong việc
phát triển giáo dục THPT trên địa bàn thành phố giai đoạn 2005 đến nay.

- Bổ sung tư liệu cho việc nghiên cứu về Đảng bộ thành phố Sơn La với
việc phát triển giáo dục THPT.
- Khóa luận có thể sử dụng làm tư liệu cho sinh viên, giáo viên trong quá
trình nghiên cứu và tìm hiểu về sự phát triển giáo dục THPT thành phố Sơn La.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, khóa luận gồm có 3 chương:
Chương 1: Cơ sở của việc nghiên cứu sự lãnh đạo phát triển giáo dục THPT
của Đảng bộ thành phố Sơn La.
Chương 2: Quá trình Đảng bộ thành phố Sơn La lãnh đạo phát triển giáo
dục THPT từ năm 2005 đến nay.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác lãnh đạo phát triển giáo
dục THPT ở thành phố Sơn La.
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO

7


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU SỰ LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN
GIÁO DỤC TRUNG HỌC PHỔ THÔNG CỦA ĐẢNG BỘ THÀNH
PHỐ SƠN LA
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Quan điểm cơ bản của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
và Đảng Cộng sản Việt Nam về giáo dục
Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về giáo dục
Ngay từ khi chủ nghĩa xã hội mới còn là học thuyết, Các Mác và Ăngghen
đã nhận thấy vai trò của sự nghiệp giáo dục và đào tạo và coi đó như một nhiệm
vụ bắt buộc đối với hết thảy mọi người. Trong tác phẩm “Nguyên lý chủ nghĩa
cộng sản” khi trả lời câu hỏi: Cuộc cách mạng đó sẽ diễn biến như thế nào? Hai

ông đã nói rõ quan điểm: “… Đối với tất cả trẻ em khi không cần đến sự chăm
sóc của người mẹ nữa, thì đưa vào giáo dục trong các cơ quan nhà nước và bằng
sự đài thọ của nhà nước, kết hợp với sự giáo dục với lao động trong công
xưởng” [3, tr.21] và “Công tác giáo dục sẽ làm cho những người trẻ tuổi có khả
năng nắm vững nhanh chóng toàn bộ hệ thống sản xuất trong thực tiễn, làm cho
họ có thể lần lượt chuyển từ ngành sản xuất này sang ngành sản xuất nọ tuỳ theo
nhu cầu của xã hội hoặc tuỳ theo sở thích của bản thân họ. Do đó công tác giáo
dục sẽ làm cho họ thoát khỏi tình trạng một chiều mà sự phân công lao động hiện
nay đang buộc mỗi người phải theo. Như vậy là xã hội tổ chức theo nguyên tắc
cộng sản chủ nghĩa sẽ làm cho những thành viên trong xã hội có khả năng sử
dụng một cách toàn diện năng lực phát triển toàn diện của mình” [3, tr.24] Hai
ông còn khẳng định rằng: “… Bộ phận giác ngộ nhất trong giai cấp công nhân
cũng nhận thức rõ ràng rằng: tương lai của giai cấp họ và do đó tương lai của cả
loài người, hoàn toàn phụ thuộc vào việc giáo dục thế hệ công nhân đang lớn lên”
[ 3, tr.37].
Trong “Tuyên ngôn Đảng Cộng sản” (1848), C.Mác và Ph. Ăng ghen đã
đề cập tới một xã hội tốt đẹp mà những người cộng sản nhằm tới là xã hội trong
8


đó có sự phát triển của từng người tạo điều kiện cho sự phát triển của mọi người.
Các ông đã nhận thấy trước ở xã hội xã hội chủ nghĩa việc đào tạo những người
cộng sản phát triển toàn diện có ý nghĩa đặc biệt. Chính vì vậy mà các ông có
quan niệm rất rõ ràng về nhiệm vụ giáo dục. Các ông cho rằng nhiệm vụ giáo
dục gồm 3 điểm:
Thứ nhất: Giáo dục trí lực
Thứ hai: Giáo dục thể lực như đang được thực hành trong các trường Thể
dục thể thao và bằng luyện tập quân sự.
Thứ ba: Huấn luyện bách khoa, giới thiệu những nguyên tắc cơ bản của
tất cả các quá trình sản xuất và đồng thời tập cho trẻ em và thiếu niên quen sử

dụng những công cụ đơn giản nhất cho tất cả các ngành sản xuất.
C. Mác và Ph. Ăng ghen đã chỉ rõ sự phát triển toàn diện trong giáo dục là
sự phát triển thống nhất của thể chất và tinh thần, sự phát triển trong đó kết hợp
việc dạy kỹ thuật với tham gia lao động thực tiễn của trẻ. Sự phát triển toàn diện
sẽ tạo cho con người có khả năng định hướng một cách dễ dàng trong toàn bộ hệ
thống sản xuất và dễ dàng chuyển từ ngành sản xuất này sang ngành sản xuất
khác, tuỳ theo nhu cầu của xã hội và của bản thân. Chính trong việc giáo dục
như vậy, con người sẽ thoát khỏi sự phát triển phiến diện mà sự phân công lao
động xã hội dưới chế độ tư bản chủ nghĩa đã bắt con người phải chịu.
Về phương pháp giáo dục, trong tác phẩm “Các Mác - Tư bản” (1960),
Các Mác đã chỉ ra rằng: “Nền giáo dục sẽ kết hợp lao động sản xuất với trí tuệ và
thể dục, đối với hết thảy trẻ em trên mọi lứa tuổi nhất định nào đó và làm như vậy
không những chỉ là phương pháp tăng thêm sản xuất xã hội, mà còn là phương
pháp tốt nhất và duy nhất để đào tạo ra những con người toàn diện” [6, tr.299].
Những quan điểm khoa học đúng đắn được C.Mác phản ánh thực chất sự
tồn tại của con người trong xã hội. Con người được xem là sản phẩm kỳ diệu
nhất, cao nhất của lịch sử phát triển thế giới vật chất và chịu sự chi phối của thế
giới tự nhiên. Do vậy, vấn đề đặt ra là phải hiểu và xử lý mối quan hệ giữa cá
nhân và xã hội, giữa hoạt động nâng cao và hoạt động đơn giản. Giữa phát triển
cả thể lực lẫn trí óc và chân tay để phát huy sức mạnh nội sinh, tiềm tàng trong
9


mỗi con người như là cơ sở vật chất để khai thông và phát triển tinh thần của
nhân tố con người và động lực trọng yếu cho quá trình trên.
Kế thừa tư tưởng của C.Mác và Ph. Ăng ghen về giáo dục, V.I.Lênin đã
đưa ra những lý luận đầy đủ hơn về giáo dục và hệ thống giáo dục, về nhiệm vụ
và tính chất của nền giáo dục trong xã hội mới. Trong “Dự thảo Cương lĩnh
Đảng Cộng sản Nga” tháng 2 năm 1919, Lênin nêu những ý tưởng về giáo dục đào tạo đến nay vẫn còn mang tính thời sự và giá trị vận dụng thực tiễn của nó:
“Thực hiện chế độ giáo dục không mất tiền và bắt buộc, phổ thông và bách

khoa (dạy lý thuyết và thực hành về tất cả các ngành sản xuất chủ yếu) cho tất
cả em trai, em gái dưới 16 tuổi.
* Kết hợp chặt chẽ công tác giáo dục với lao động sản xuất.
* Lôi cuốn nhân dân lao động tích cực tham gia sự nghiệp giáo dục, phát
triển những hội đồng giáo dục quốc dân, huy động những người biết chữ dạy
người không biết chữ” [21, tr.118].
Trong nhiều phát biểu Lênin từng nói: “Học, học nữa, học mãi” hay: “Suy
cho cùng thì người thầy quyết định hết …”
Ngay sau khi Cách mạng Tháng Mười Nga thành công, Lênin đã nêu bật
được vai trò, nhiệm vụ to lớn và nặng nề của giáo dục - đào tạo trong việc phát
triển nguồn nhân lực, trong đó Người rất chú trọng đến giáo dục toàn dân, tới
mọi người cùng làm giáo dục, tới bình đẳng, tới học đi đôi với hành, tới nhà
trường gắn liền với xã hội, học không biết chán và không biết mỏi, học có suy
ngẫm có tìm tòi sáng tạo, có tư duy phát triển, nghiên cứu luôn đổi mới phương
pháp để đạt hiệu quả cao.
Quan điểm của Hồ Chí Minh về giáo dục
Chủ tịch Hồ Chí Minh mở đầu sự nghiệp giáo dục của mình bắt đầu bằng
việc trở thành thầy giáo dạy học ở trường Dục Thanh (Phan Thiết), đến những
năm tháng hoạt động ở Pháp với tên gọi Nguyễn Ái Quốc và sau này trở thành
lãnh tụ Hồ Chí Minh. Qua những năm tháng đó, Người đã tổ chức và trực tiếp
giảng dạy nhiều lớp huấn luyện chính trị, văn hóa và quân sự cho bao lớp cán
bộ. Người đã có công đào tạo nên nhiều thế hệ cách mạng Việt Nam, những lãnh
10


tụ xuất sắc của Đảng, nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng
con người. Không chỉ vậy Chủ tịch Hồ Chí Minh là người khai sinh và đặt nền
móng cho nền giáo dục mới của Việt Nam, đó là nền giáo dục mang tính dân
tộc, khoa học và đại chúng, bảo đảm cho mọi người đều được đi học, ai cũng
được học hành, có quyền bình đẳng về giáo dục; bảo đảm cho sự phát trển toàn

diện những năng lực sẵn có của con người.
Từ những năm 20 của thế kỷ XX, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm nhận
thấy giáo dục có vai trò và sức mạnh to lớn. Những năm tháng bôn ba qua các
đại dương tìm đường cứu nước, cứu dân, Người đã tận mắt chứng kiến và học
được nhiều điều. Sống ở Pari thủ đô nước Pháp, nơi được coi là trung tâm văn
minh của nhân loại với nền khoa học - kỹ thuật phát triển hàng đầu thế giới vào
đầu thế kỷ 20, Người đã nhận thức về tầm quan trọng của trình độ dân trí "Một
dân tộc dốt là một dân tộc yếu". Vì thế, Người luôn coi việc đấu tranh chống
chính sách "Ngu dân" của thực dân Pháp để có một nền giáo dục tự do là một
trong những mục tiêu của cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc. Người nói: Tôi
chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn
độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai
cũng được học hành.
Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, trong phiên
họp đầu tiên của chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đặt vấn đề chống giặc dốt là vấn đề cấp bách số hai, sau vấn đề chống nạn
đói trong sáu nhiệm vụ cấp bách của nhà nước lúc bấy giờ. Giặc dốt được coi
như một thứ giặc cần tiêu diệt ngang hàng với giặc ngoại xâm. Người xem việc
nâng cao dân trí là một công việc cần phải thực hiện cấp tốc để làm cho: mọi
người Việt Nam, ai cũng đều có kiến thức để có thể tham gia vào công cuộc xây
dựng nước nhà. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp dù bận lãnh đạo nhân
dân đánh giặc và sản xuất, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn quan tâm chú ý đến văn
hóa và giáo dục, Người đã kêu gọi mọi người hăng hái học tập "Thi đua diệt
giặc dốt". Trong khói lửa của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Người dã
kêu gọi "Dù khó khăn đến đâu cũng phải thi đua dạy tốt và học tốt" [15, tr.329].
11


Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn quan tâm đặc biệt đến sự nghiệp giáo
dục và đào tạo. Sinh thời, Người vẫn thường nhắc nhở toàn Đảng, toàn dân: Bồi

dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và cần thiết. Sau
Cách mạng Tháng Tám, cùng với sự khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng
hoà, Người rất quan tâm đến sự nghiệp trồng người: Vì lợi ích mười năm trồng
cây, vì lợi ích trăm năm trồng người. Trong hoàn cảnh của nhà nước cách mạng
còn non trẻ, thù trong giặc ngoài và thiên tai dịch hoạ hoành hành, Người đã kêu
gọi toàn dân ra sức diệt giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Nhờ đó mà từ chỗ
hơn 95% số dân mù chữ, dân ta đã trở thành một dân tộc có văn hoá, khoa học,
có đủ khả năng để giành độc lập, tự do cho đất nước. Đây là điểm khởi đầu chói
sáng trong tư tưởng Hồ Chí Minh, góp phần mở đầu cho nền giáo dục của nước
Việt Nam mới.
Trong toàn bộ di sản tư tưởng giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh thì vấn
đề cơ bản nhất, nổi bật nhất là vấn đề xây dựng và hoàn thiện con người thông
qua hoạt động giáo dục và tự giáo dục. Người thường nói: “Muốn xây dựng chủ
nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa” và Hiền giữ
phải đâu là tính sẵn, phần nhiều do giáo dục mà nên. Tư tưởng này không những
chỉ là sự kế thừa những truyền thống quý báu của dân tộc mà còn là sự phản ánh
những yêu cầu lâu dài vừa cấp bách của nước ta trên con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội từ một trình độ xuất phát thấp về kinh tế và xã hội. Sự vận động, phát
triển khách quan của đất nước, tất yếu đòi hỏi nền giáo dục phải đem lại một
chất lượng mới cho từng con người, cho cả dân tộc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra mục tiêu mà nhà trường cần phải thực
hiện trong hoạt động dạy và học là: Học để làm việc, làm người, làm cán bộ.
Học để phục vụ đoàn thể, giai cấp nhân dân, Tổ quốc và nhân loại ... Để đạt
được mục tiêu nói trên, Người chủ trương phải xây dựng một nền giáo dục toàn
diện, trong việc giáo dục và học tập phải đủ các mặt: đạo đức cách mạng, giác
ngộ xã hội chủ nghĩa, văn hoá, kỹ thuật, lao động và sản xuất.
Đây chính là những nội dung giáo dục cơ bản, gắn bó chặt chẽ với nhau,
làm nền tảng cho sự phát triển toàn diện con người Việt Nam mới và cũng là
12



những nội dung chủ yếu của nhà trường trong việc giáo dục, rèn luyện học sinh
vươn lên chiếm lĩnh những giá trị cao quý, tinh hoa của loài người và dân tộc.
Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giáo dục đã trở thành cơ sở tư
tưởng và lý luận cho việc xây dựng một nền giáo dục cách mạng kiểu mới mà
chúng ta đã và đang thực hiện.
Ngày nay, công tác giáo dục, đào tạo nhằm phát huy nguồn lực con người
vẫn là một nhân tố có ý nghĩa quyết định cho sự nghiệp xây dựng xã hội mới, sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta. Sự nghiệp giáo dục nói chung,
giáo dục thế hệ trẻ nói riêng đang đứng trước những điều kiện thuận lợi mới và
những thách thức lớn. Vì thế, cần phải nghiên cứu, quán triệt sâu sắc những quan
điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giáo dục, nhằm góp phần nâng cao chất lượng
giáo dục và đào tạo ra cho đất nước những con người vừa "hồng" vừa "chuyên".
Như vậy ta có thể khái quát: Giáo dục theo nghĩa chung là hình thức học
tập theo đó kiến thức, kỹ năng và thói quen của một nhóm người được trao
truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua giảng dạy, đào tạo, hay nghiên
cứu. Giáo dục thường diễn ra dưới sự hướng dẫn của người khác, nhưng cũng có
thể thông qua tự học. Bất cứ trải nghiệm nào có ảnh hưởng đáng kể lên cách mà
người ta suy nghĩ, cảm nhận, hay hành động đều có thể được xem là có tính giáo
dục. Giáo dục thường được chia thành các giai đoạn như giáo dục tuổi ấu
thơ, giáo dục tiểu học, giáo dục trung học, và giáo dục đại học. Giáo dục là quá
trình tác động có hệ thống, có kế hoạch của hệ thống giáo dục quốc dân, của cơ
sở giáo dục khác, của các cơ quan hành chính nhà nước, của các tổ chức chính
trị xã hội, các tổ chức cá nhân tham gia vào hoạt động giáo dục nhằm đạt được
mục tiêu là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, có tri
thức, có sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và
năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển sự nghiệp giáo dục
Trên cơ sở quán triệt chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nền

giáo dục xã hội chủ nghĩa, Đảng ta trong quá trình lãnh đạo cách mạng đã có
13


những nhận thức, quan điểm đúng đắn, tích cực về vai trò, vị trí của giáo dục
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc nhất là trong quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay.
Ngay sau khi vừa giành được chính quyền, Đảng ta vừa tiến hành lãnh đạo
nhân dân tiến hành diệt giặc dốt, vừa tiến hành cải cách nền giáo dục kiểu cũ
thành nền giáo dục mới của một nước độc lập, một nền giáo dục và đào tạo thế
hệ trẻ thành những công dân kiểu mới của chế độ xã hội mới. Trong suốt gần
một nửa thế kỷ qua, chúng ta đã tiến hành 3 cuộc cải cách giáo dục (CCGD):
Lần thứ nhất: Tháng 7/1950. Hội đồng chính phủ thông qua đề án CCGD
và quyết định thực hiện cuộc cải cách này.
Lần thứ hai: Tháng 8/1956, chính phủ ban hành chính sách giáo dục phổ
thông của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.
Lần thứ ba: Năm 1979, Bộ chính trị ra Quyết định số 14 tiến hành CCGD và
được thực hiện từ năm 1981 đến nay. Hiện nay, chúng ta vẫn đang tiếp tục điều
chỉnh, đổi mới, chấn hưng giáo dục để ngày càng đạt đến sự hoàn thiện hơn.
Trải qua các thời kỳ Đại hội, nhất là từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VI của Đảng (12/1986) cho đến nay, Đảng ta đã có những bước phát triển mới
về tư duy và tiếp tục khẳng định vai trò, vị trí của giáo dục và đào tạo trong sự
nghiệp phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta. Hội nghị Ban chấp hành Trung ương
Đảng lần thứ 4 khoá VII (1993) đã ra Nghị quyết “Về tiếp tục đổi mới sự nghiệp
giáo dục và đào tạo” với 4 quan điểm và 12 chủ chương, chính sách, biện pháp lớn
để phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là động lực thúc đẩy, là
điều kiện cơ bản bảo đảm thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo
vệ đất nước, phải coi giáo dục là một hướng chính của đầu tư phát triển.
Nghị quyết trung ương 2 (khoá VIII) “Về định hướng chiến lược phát triển
giáo dục và đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và nhiệm vụ đến

năm 2000” là sự kế thừa, hoàn thiện và nâng cao những tư tưởng chỉ đạo phát
triển giáo dục và đào tạo của Đảng trong hoàn cảnh mới. Đại hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ IX của Đảng (4/2001) đã tiếp tục khẳng định: Phát triển giáo dục
và đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người - yếu tố
14


cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững và Phát triển
khoa học, công nghệ cùng với phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng
đầu, là nền tảng và động lực đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Vì vậy, việc tạo bước chuyển biến mạnh về phát triển nguồn nhân lực, trọng tâm
là giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ đã được xác định là một trong ba
khâu đột phá để làm chuyển động toàn bộ tình hình kinh tế - xã hội của nước ta.
Trên cơ sở quan điểm chỉ đạo phát triển giáo dục, Hiến pháp 1992 và sửa
đổi 2001; Luật giáo dục (1998) và Văn kiện Đại hội IX của Đảng, ngày
28/12/2001, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 201/2001/QĐ-TTg về
“Chiến lược phát triển giáo dục 2001 - 2010”. “Chiến lược phát triển giáo dục”
đã hệ thống hoá 4 quan điểm lớn: Một là, giáo dục là quốc sách hàng đầu; hai là,
xây dựng nền giáo dục có tính nhân dân, dân tộc, khoa học hiện đại theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh
làm nền tảng; ba là, phát triển giáo dục phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế
- xã hội, tiến bộ khoa học - công nghệ, củng cố quốc phòng - an ninh; bốn là,
giáo dục là sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. Chiến lược cũng đã
vạch ra 7 nhóm giải pháp lớn cần tập trung thực hiện để đạt được những mục
tiêu đã đề ra. Như vậy, nhận thức và quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, quan
điểm của Đảng về giáo dục là nền tảng và tiền đề để nhận thức, đánh giá đúng
vị trí, vai trò của giáo dục trong xã hội. Từ đó, đề xuất những giải pháp mang
tính khả thi trong việc nâng cao chất lượng và hiệu quả của giáo dục ở từng địa
phương, từng cơ sở. Đây là những định hướng mang tính nguyên tắc, cần tuân

thủ trong hoạt động thực tiễn.
Tuy nhiên trong đánh giá kiểm điểm nhiệm kỳ khoá IX tại ĐH lần thứ X
của Đảng cũng đã chỉ ra mặt yếu kém của giáo dục đào tạo: Chất lượng giáo dục
còn nhiều yếu kém, khả năng chủ động, sáng tạo của học sinh, sinh viên ít được
bồi dưỡng, năng lực thực hành của học sinh, sinh viên còn yếu. Chương trình,
phương pháp dạy và học còn lạc hậu, nặng nề chưa phù hợp ...
Chính vì vậy, trong phương hướng, nhiệm vụ phát triển những năm tới về
giáo dục và đào tạo, Đảng ta đặt ra nhiều vấn đề trọng tâm trong đó có nhấn
mạnh: Ưu tiên hàng đầu cho việc nâng cao chất lượng dạy và học. Đổi mới chương
15


trình, nội dung, phương pháp dạy và học, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và
tăng cường cơ sở vật chất của nhà trường, phát huy khả năng sáng tạo và độc lập
suy nghĩ của học sinh, sinh viên. Coi trọng bồi dưỡng cho học sinh, sinh viên khát
vọng mãnh liệt xây dựng đất nước giầu mạnh, gắn liền lập nghiệp bản thân với
tương lai của cộng đồng của dân tộc, trau dồi cho học sinh, sinh viên bản lĩnh,
phẩm chất và lối sống của thế hệ trẻ Việt Nam hiện đại. Triển khai thực hiện hệ
thống kiểm định khách quan, trung thực chất lượng giáo dục, đào tạo.
Đây là những tư tưởng cơ bản, cốt lõi có ý nghĩa chỉ đạo chiến lược cho
quá trình xây dựng và phát triển giáo dục nói riêng, xây dựng và phát triển đất
nước nói chung trong sự nghiệp đổi mới hiện nay.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (2011) đã chỉ rõ: Giáo dục
và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất nước, xây dựng nền văn hóa và con
người Việt Nam. Phát triển giáo dục và đào tạo cùng với phát triển khoa học và
công nghệ là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư phát
triển. Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo theo nhu cầu phát triển
của xã hội; nâng cao chất lượng theo yêu cầu chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội
hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, phục vụ đắc lực sự nghiệp xây dựng và

bảo vệ Tổ quốc. Đẩy mạnh xây dựng xã hội học tập, tạo cơ hội và điều kiện cho
mọi công dân được học tập suốt đời.
Ngày 4/11/2013, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Nghị
quyết Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI (Nghị quyết số
29-NQ/TW) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu
CNH-HĐH trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập
quốc tế.
Nêu rõ mục tiêu: Tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu
quả giáo dục, đào tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc xây dựng, bảo vệ
Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân. Giáo dục con người Việt Nam phát
triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá
nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồ ng bào; sống tốt và làm việc hiệu quả;
16


Xây dựng nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp, dạy tốt, học tốt, quản lý tốt;
có cơ cấu và phương thức giáo dục hợp lý, gắn với xây dựng xã hội học tập; bảo
đảm các điều kiện nâng cao chất lượng; chuẩn hóa, hiện đại hoá, dân chủ hóa, xã
hội hóa và hội nhập quốc tế hệ thống giáo dục và đào ta ̣o; giữ vững định hướng
xã hội chủ nghĩa và bản sắc dân tộc. Phấn đấu đến năm 2030, nền giáo dục Việt
Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực.
Đặc biệt, đối với giáo dục trung học phổ thông, nghị quyết nêu rõ: Đối với
giáo dục phổ thông, tập trung phát triển trí tuệ, thể chất, hiǹ h thành phẩ m chấ t,
năng lực công dân, phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu, định hướng nghề nghiệp
cho học sinh. Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chú trọng giáo dục lý
tưởng, truyền thống, đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học, năng lực và kỹ năng
thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Phát triển khả năng sáng tạo, tự
học, khuyến khích học tập suốt đời. Hoàn thành việc xây dựng chương trình
giáo dục phổ thông giai đoạn sau năm 2015. Bảo đảm cho học sinh có trình độ
trung học cơ sở (hết lớp 9) có tri thức phổ thông nền tảng, đáp ứng yêu cầu phân

luồng mạnh sau trung học cơ sở; trung học phổ thông phải tiếp cận nghề nghiệp
và chuẩn bị cho giai đoạn học sau phổ thông có chất lượng. Nâng cao chấ t lươ ̣ng
phổ cập giáo dục, thực hiện giáo dục bắt buộc 9 năm từ sau năm 2020. Phấn đấu
đến năm 2020, có 80% thanh niên trong độ tuổi đạt trình độ giáo dục trung học
phổ thông và tương đương.
Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng (2016) tiếp tục nhấn
mạnh sự quan tâm đặc biệt và làm rõ hơn lập trường, quan điểm, tính nhất quán
về sự cần thiết phải đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo, phát triển
nguồn nhân lực. Đại hội chỉ rõ: Trước hết, giáo dục, đào tạo và khoa học công
nghệ phải gắn kết, tương tác lẫn nhau. Đổi mới giáo dục, đào tạo nhằm nâng cao
tiềm năng, kỹ năng sáng tạo, ứng dụng khoa học công nghệ của con người; khoa
học, công nghệ phải gắn bó và thông qua nguồn nhân lực được đào tạo để thâm
nhập sâu vào sản xuất, kinh doanh và đời sống xã hội. Hướng đích của đổi mới
giáo dục, đào tạo và phát triển, ứng dụng khoa học, công nghệ là phục vụ thiết
thực sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá, hội nhập quốc tế, trước hết là
17


nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, theo đó là chất lượng, hiệu quả, sức cạnh
tranh của nền kinh tế.
1.1.2. Vị trí và vai trò của giáo dục Trung học phổ thông trong chiến lược
phát triển giáo dục Việt Nam
Hiểu một cách khái quát, giáo dục phổ thông là: Ngành giáo dục dạy
những kiến thức cơ sở chung cho học sinh [37, tr.394], tức là dạy những kiến
thức, kỹ năng cơ bản, cần thiết, sát thực nhất để học sinh có thể áp dụng vào
cuộc sống, nhằm thích nghi và hoà nhập tốt với xã hội hiện tại, là cơ sở của sự
nghiệp giáo dục và đào tạo.
Ngay từ thời Hy Lạp cổ đại, nhiều triết gia đã đưa ra những quan niệm về
giáo dục phổ thông.
Platôn cho rằng: việc giáo dục con người được diễn ra trong một hệ thống

giáo dục hoàn chỉnh, theo đó bậc giáo dục phổ thông tiếp nhận những học sinh
từ 7 đến 18 tuổi. Trong đó từ 7 đến 12 tuổi, trẻ em vào học văn và trường học
đàn, được học đọc, viết, tính toán, âm nhạc, tôn giáo, hội hoạ; từ 12 đến 18 tuổi,
trẻ em được vào trường học thể thao. Tại đây nhà trường rất coi trọng giáo dục
thể chất, toán học, địa lý, thiên văn học với phương pháp thực tiễn.
Arixtốt là người đầu tiên trong lịch sử có ý định phân kỳ lứa tuổi học sinh.
Ông cho rằng độ tuổi của học sinh bậc giáo dục phổ thông từ 7 đến 21 tuổi. Ứng
với mỗi lứa tuổi có đặc điểm phát triển riêng về tâm lý và sinh lý nên phải có nội
dung và phương pháp giáo dục thích hợp cho trẻ em.
Theo quan niệm của J.J.Ruxô, muốn giáo dục con người phải căn cứ vào
đặc điểm tự nhiên của chúng, vì vậy giáo dục phải tuân theo sự phát triển của trẻ
để giáo dục trẻ. Ông cho rằng bậc giáo dục phổ thông từ 11 đến 15 tuổi. Đây là
thời kỳ dạy chữ, là thời trí dục. Ông đã cho nhiều chỉ dẫn quan trọng về dạy học
cho trẻ em bằng phương pháp thực nghiệm.
Hiện nay ở nước ta, giáo dục phổ thông gồm giáo dục tiểu học được thực
hiện trong 5 năm học, từ lớp một đến lớp năm. Tuổi của học sinh vào lớp một là
6 tuổi. Giáo dục phổ thông là cấp học không những bắt đầu dạy kiến thức khoa
học cơ bản mà quan trọng là dạy học sinh cách làm người cả về đạo đức, nhân
18


cách... Giáo dục trung học cơ sở được thực hiện trong 4 năm học, từ lớp 6 đến
lớp 9. Học sinh vào học lớp 6 phải hoàn thành chương trình tiểu học, có tuổi là
11. Giáo dục trung học phổ thông được thực hiện trong 3 năm học, từ lớp 10 đến
lớp 12. Học sinh vào học lớp 10 phải có bằng tốt nghiệp trung học cơ sở, có tuổi
là 15. Giáo dục tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu
cho sự phát triển đúng đắn, lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các
kỹ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học trung học cơ sở. Giáo dục trung học cơ
sở giúp học sinh củng cố và phát triển những kết quả của giáo dục tiểu học; có
trình độ học vấn phổ thông ở trình độ cơ sở và những hiểu biết ban đầu về kỹ

thuật và hướng nghiệp để tiếp tục học trung học phổ thông, trung cấp, học nghề
hoặc đi vào cuộc sống lao động.
Nội dung giáo dục phổ thông phải đảm bảo tính phổ thông, cơ bản, toàn
diện, hướng nghiệp và có hệ thống, gắn với thực tiễn cuộc sống, phù hợp với tâm
sinh lý lứa tuổi học sinh. Giáo dục phổ thông đảm bảo cho học sinh có hiểu biết
đơn giản, cần thiết về tự nhiên, xã hội và con người; có kỹ năng cơ bản về nghe,
nói, đọc, viết và tính toán; có thói quen rèn luyện thân thể, giữ gìn vệ sinh; có hiểu
biết ban đầu về hát, múa, âm nhạc, mỹ thuật; phát triển những nội dung đã học ở
bậc học dưới, bảo đảm cho học sinh có những hiểu biết phổ thông cơ bản về tiếng
Việt, toán, lịch sử dân tộc, những kiến thức khác về khoa học xã hội, khoa học tự
nhiên, pháp luật, tin học, ngoại ngữ, có hiểu biết tối thiểu về kỹ thuật hướng
nghiệp. Ngoài nội dung chủ yếu nhằm đảm bảo kiến thức phổ thông, cơ bản, toàn
diện và hướng nghiệp cho học sinh, giáo dục phổ thông còn có nội dung nâng cao
ở một số môn học để phát triển năng lực, đáp ứng nguyện vọng của học sinh.
Sách giáo khoa sẽ cụ thể hoá các yêu cầu về nội dung kiến thức và kỹ năng
quy định trong chương trình giáo dục của các môn học ở mỗi lớp. Chương trình
giáo dục phổ thông, sách giáo khoa được sử dụng chính thức, ổn định, thống
nhất trong giảng dạy, học tập ở các cơ sở giáo dục phổ thông.
Cơ sở giáo dục phổ thông là các trường tiểu học, trường trung học cơ sở,
trường trung học phổ thông. Học sinh học hết chương trình tiểu học có đủ điều
kiện theo quy định của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo thì được hiệu trưởng
19


×