Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Sự lãnh đạo của đảng bộ xã, thị trấn đối với chính quyền cơ sở ở huyện hương khê trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (829.22 KB, 96 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------------------------------

TRẦN QUỐC BẢO

SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ XÃ, THỊ TRẤN ĐỐI
VỚI CHÍNH QUYỀN CƠ SỞ Ở HUYỆN HƢƠNG KHÊ
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành Chính trị học

Hà Nội – 2013

i


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------------------

TRẦN QUỐC BẢO

SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ XÃ, THỊ TRẤN ĐỐI VỚI
CHÍNH QUYỀN CƠ SỞ Ở HUYỆN HƢƠNG KHÊ
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Chính trị học
Mã số: 60 31 02 01


Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Đoàn Trƣờng Thụ

Hà Nội – 2013

ii


LỜI CAM ĐOAN

Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của
riêng tôi. Các số liệu và trích dẫn trong luận văn là trung thực .
Kết quả nghiên cứu của luận văn không trùng với các công
trình khác.
Tác giả luận văn

Trần Quốc Bảo

iii


MỤC LỤC

Trang
Mở đầu ..............................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài .................................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ...........................................................................5
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài ...................................................................6
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ....................................................7
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .................................................................7
6. Đóng góp của luận văn ..................................................................................8

7. Kết cấu của luận văn ......................................................................................8
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận về Đảng lãnh đạo Nhà nƣớc;
chính quyền cơ sở .............................................................................................9
1.1. Khái niệm lãnh đạo, Đảng lãnh đạo và cơ sở lý luận về
Đảng lãnh đạo Nhà nước ...................................................................................9
1.1.1. Khái niệm lãnh đạo, Đảng lãnh đạo ........................................................... 9
1.1.2. Quan điểm Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản
Việt Nam về Đảng lãnh đạo Nhà nƣớc ...............................................................11
1.2. Về sự lãnh đạo của Đảng bộ xã, thị trấn đối với chính quyền cơ sở ........23
1.2.1. Vị trí, vai trò của Đảng bộ trong hệ thống chính trị ở địa phƣơng .....23
1.2.2. Chính quyền địa phƣơng............................................................................27
1.2.3. Nội dung và phƣơng thức lãnh đạo của Đảng bộ xã, thị trấn
đối với chính quyền cơ sở .....................................................................................30
Chƣơng 2: Đặc điểm và thực trạng sự lãnh đạo của
Đảng bộ xã, thị trấn đối với chính quyền cơ sở ở huyện Hƣơng Khê
từ năm 2000 đến nay ......................................................................................34
2.1. Tình hình huyện miền núi Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh ..............................34
2.1.1. Điều kiện kinh tế-xã hội huyện Hương Khê ..........................................34
2.1.2. Khái quát về cấp uỷ và chính quyền các xã, thị trấn ở huyện
Hương Khê - Hà Tĩnh hiện nay .......................................................................35
iv


2.2. Những thành tựu Đảng bộ xã, thị trấn đối lãnh đa ̣o chiń h quyề n cơ sở.. .37
2.2.1. Về nội dung lãnh đạo .............................................................................37
2.2.2. Về phương thức lãnh đạo .....................................................................45
2.2.3. Thực hiện mô hình điể m Bí thư đồng thời là Chủ tịch ..........................50
2.3. Những hạn chế sự lãnh đạo của Đảng bộ xã, thị trấn
đối với chính quyền cơ sở ................................................................................52
2.3.1. Về nội dung lãnh đạo .............................................................................52

2.3.2. Về phương thức lãnh đạo .......................................................................56
2.3.3. Những ha ̣n chế mô hình điểm Bí thư đồng thời là Chủ tịch..................58
2.4. Những vấn đề đặt ra ..................................................................................60
2.4.1. Quyền lực của chính quyền thực hiê ̣n không đầ y đủ ............................60
2.4.2. Sử du ̣ng quyề n lực lañ h đa ̣o của Đảng không hơ ̣p pháp .......................61
2.4.3. Sự lañ h đa ̣o của Đảng thể hiện không rõ nét ........................................61
Chƣơng 3: Giải pháp nâng cao sƣ ̣ lãnh đạo của
Đảng bộ xã, thị trấn đối với chính quyền cơ sở hiện nay ...........................64
3.1. Phương hướng chung ................................................................................64
3.2. Các giải pháp cơ bản .................................................................................64
3.2.1. Nhóm giải pháp đổi mới nội dung lãnh đạo .........................................64
3.2.2. Nhóm giải pháp đổi mới phương thức lãnh đạo ....................................76
Kết luận ...........................................................................................................84
Danh mục tài liệu tham khảo ........................................................................87

v


DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT

GCTS:

Giai cấ p tƣ sản

GCVS:

Giai cấ p vô sản

HĐND:


Hội đồng nhân dân

LLSX:

Lƣ̣c lƣơ ̣ng sản xuấ t

UBKT:

Ủy ban kiểm tra

UBND:

Ủy ban nhân dân

vi


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Văn kiện Đại hội lần thứ XI của Đảng nêu rõ: “Đảng Cộng sản Việt Nam
là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội; Đảng lãnh đạo hệ thống
chính trị, đồng thời là bộ phận của hệ thống ấy”[19,tr.56]. Trong lịch sử vẻ
vang của mình, Đảng luôn giữ vai trò lãnh đạo toàn bộ sự nghiệp cách mạng và
xã hội Việt Nam.
Kể từ ngày thành lập Đảng đến nay, với lý tưởng và mục tiêu cao đẹp,
bằng trí tuệ, tài năng và phẩm chất chính trị của mình, Đảng cộng sản Việt Nam
đã lãnh đạo toàn dân tộc Việt Nam giành được nhiều thắng lợi. Đó là, thắng lợi
của cuộc cách mạng tháng 8 năm 1945, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ
cộng hoà, nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á; là chiến thắng oanh liệt
của các cuộc kháng chiến chống đế quốc xâm lược, hoàn thành cách mạng dân

tộc dân chủ nhân dân, thực hiện thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ
nghĩa xã hội. Đó là thắng lợi trong công cuộc đổi mới đất nước, đạt được nhiều
thành tựu to lớn, trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, có
quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và
trên thế giới.
Đạt được những thành tựu như vậy, chính là nhờ việc Đảng Cộng sản
Việt Nam đã biết vận dụng phương thức triển khai quyền lực lãnh đạo một
cách hợp lý, làm cho những giá trị dân chủ, công bằng và văn minh đến được
một cách thực sự và toàn diện tới nhân dân. Đảng bộ cấp xã, thị trấn - Với tư
cách “nhịp nối” giữa Đảng với nhân dân trên địa bàn nông thôn, được coi là cấp
căn bản, trực tiếp trong việc triển khai quyền lực của Đảng. Một mặt, nó bảo
đảm cho đường lối, chủ trương của Trung ương, Tỉnh, Huyện đến với cơ sở
Đảng, đi vào quần chúng; mặt khác, nó kịp thời phản ánh, sơ, tổng kết thực tiễn
phong phú của từng địa phương, đơn vị, để khẳng định hoặc bổ sung đường lối,
chủ trương của Đảng.
1


Hương Khê là một huyện miền núi nằm ở phía Tây Nam của tỉnh Hà
Tĩnh, trải qua 145 năm hình thành và phát triển, nhân dân Hương Khê đã đóng
góp sức người, sức của vào sự nghiệp đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc và xây
dựng quê hương, đất nước. Từ khi có sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí
Minh, cán bộ, đảng viên và đồng bào các dân tộc Hương Khê đã vùng lên lật đổ
chế độ thực dân, phong kiến, cùng nhân dân trong tỉnh và cả nước làm nên
thắng lợi cuộc Cách mạng tháng tám năm 1945, đánh thắng trong các cuộc
chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, góp phần bảo vệ và
dựng xây Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trong thời kỳ hoà bình, đổ i mới , nhất là giai đoạn hiện nay (từ năm
2000 đến nay - thời điểm chia tách huyện)1, các Đảng bộ xã, thị trấn đã cụ
thể hoá những quan điểm, chủ trương của Đảng bằng các chương trình hành

động sát với tình hình đặc điểm của địa phương, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ
đạo, đạt được nhiều thành tựu quan trọng trên tất cả các lĩnh vực: chính trị,
kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và xây dựng hệ thống chính trị
ở địa phương. Trong lĩnh vực xây dựng và phát triển chính quyền, các Đảng
bộ đã từng bước nhận thức đúng vị trí, vai trò, quyền hạn của mình trong
quan hệ đối với chính quyền; xác định những nhiệm vụ chính trị ngắn hạn và
dài hạn để định hướng hoạt động; có những chủ trương, biện pháp cụ thể,
củng cố bộ máy tổ chức, bố trí cán bộ có năng lực công tác chính quyền;
thực hiện công tác kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật và thiết lập các
quan hệ công tác ngày càng hợp lý hơn.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, vẫn còn những hạn chế trong quá
trình thực hiện sự lãnh đạo của Đảng bộ xã, thị trấn đối với chính quyền cơ sở.
Nhiều khâu trong quá trình lãnh đạo của Đảng bộ đối với chính quyền còn
trong tình trạng chồng chéo, lấn sân nhau, thiếu phân định rõ ràng; Báo cáo
chính trị Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện nhiệm kỳ 2005 - 2010 đã đánh giá về
1

Chính phủ ban hành Nghị định số 27/NĐ-CP, ngày 4/8/2000 nội dung “chuyển 5 xã của Huyện Hương

Khê về Huyện Vũ Quang”.

2


những hạn chế, khuyết điểm “Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu ở một số tổ
chức cơ sở Đảng còn hạn chế. Kiến thức, kinh nghiệm lãnh đạo quản lý, năng
lực chỉ đạo, điều hành và tổ chức thực hiện của cán bộ trong bộ máy chính
quyền còn nhiều hạn chế, nhưng các cấp uỷ Đảng chưa có giải pháp kịp thời,
hữu hiệu để khắc phục những vấn đề trên”[1,tr.9]; điều đó đã hạn chế, cản trở
việc giải quyết các công việc, kìm hãm sự phát triển kinh tế- xã hội.

Thực tiễn lãnh đạo của các Đảng bộ xã, thị trấn đối với chính quyền cùng
cấp đã bộc lộ những mặt hạn chế chủ yếu sau đây:
Thứ nhất: Chưa xác định rõ phạm vi chức trách, thẩm quyền của cấp uỷ
địa phương.
Do hiểu sự lãnh đạo của cấp uỷ một cách chung chung, nên sự lãnh đạo
của cấp uỷ đối với HĐND, UBND vẫn còn nhiều lúng túng, chưa được xác
định một cách khoa học. Đôi khi, hai bộ máy quyền lực cùng giải quyết các nội
dung của một mục tiêu. Sự phân định giữa hai cơ quan Đảng và chính quyền bị
xoá nhoà, có chăng chính quyền thì ban hành các quyết định hành chính, còn cơ
quan Đảng thêm được nhiệm vụ công tác đảng và đoàn thể.
Thứ hai: Cấp uỷ bao biện, làm thay chính quyền, xem chính quyền là
công cụ “hợp thức hoá” các quyết định của cấp uỷ.
Do xác định sai thẩm quyền của cấp uỷ trong việc ban hành các quyết
định, bầu cử hội đồng nhân dân, biện pháp phát triển kinh tế và xã hội ở địa
phương, chọn cử nhân sự,… mà nhiều người cho rằng, chính quyền là tổ chức
chỉ để thực hiện các quyết định của cấp uỷ. Không ít cấp uỷ địa phương áp đặt
nhiều chủ trương theo ý muốn chủ quan của mình, buộc chính quyền thực hiện.
Ở nhiều nơi, cán bộ Nhà nước khi giải quyết việc gì cũng cũng xin ý kiến chỉ
đạo của Đảng. Sự không đúng về nhận thức này là một trong những nguyên
nhân làm cho Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân rơi vào sự vụ, hình thức,
kém năng động.
Thứ ba: Cấp uỷ Đảng buông lỏng, bỏ mất vai trò lãnh đạo, dẫn dắt
của mình.
3


Nhiều lúc, nhiều nơi, cấp uỷ đã không quán xuyến hết một số nhiệm vụ
phát triển kinh tế, xã hội, nên đã bỏ mất vai trò lãnh đạo; có việc thì mặc nhận,
thậm chí đồng tình để UBND thực hiện những công việc, những chính sách trái
với quy định chung, lợi dụng danh nghĩa “vận dụng sáng tạo” để làm những

việc sai phạm, chỉ vì lợi ích cục bộ địa phương.
Thứ tư: Sự lãnh đạo của cấp uỷ bị từ chối
Có thể do những động cơ khác nhau hoặc sự xung đột trong phong cách,
tính cách của các nhân vật chủ chốt cấp uỷ và chính quyền, chủ thể lãnh đạo
chính quyền (chủ yếu là Uỷ ban nhân dân) muốn khước từ, bỏ qua sự lãnh đạo
của cấp uỷ.
Trong những vấn đề nêu trên, tình trạng chồng lấn về quyền lực được
biểu hiện dưới dạng lấn sân, bao biện, làm thay và buông lỏng là hiện tượng có
tính phổ biến; nhiều khi khắc phục khuyết điểm này lại rơi vào khuyết điểm kia
một cách không tự giác.
Những điều nêu trên đã hạn chế không nhỏ đến vai trò lãnh đạo của
Đảng, và vì thế, ảnh hưởng đến hiệu lực quản lý của chính quyền các xã, thị
trấn và thành tựu kinh tế - xã hội của địa phương. Trong điều kiện hiện nay,
Việt Nam đang thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa;
gia nhập ngày càng sâu hơn nền kinh tế quốc tế; công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước và xây dựng nền kinh tế tri thức; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.
Để phát huy ưu điểm, khắc phục những khuyết điểm, yếu kém về sự lãnh
đạo của Đảng bộ xã, thị trấn đối với chính quyền cùng cấp ở huyện Hương
Khê, vấn đề rất cần thiết đặt ra là, nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn và
tìm ra những giải pháp tăng cường sự lãnh đạo của Đảng bộ xã, thị trấn đối với
chính quyền cùng cấp. Và bản thân hiện nay đang công tác tại Ban Tuyên giáo Cơ quan Huyện uỷ Hương Khê, nhận thấy rằng, việc nghiên cứu sự lãnh đạo
của Đảng bộ xã, thị trấn đối với chính quyền cùng cấp ở huyện Hương Khê, là
một đòi hỏi khách quan, không những có ý nghĩa cho thực tiễn, mà còn có giá
4


trị về mặt lý luận, vừa phục vụ nhiệm vụ chính trị trước mắt, vừa đặt cơ sở cho
việc nghiên cứu khoa học sau này, tôi chọn đề tài nghiên cứu: “Sự lãnh đạo của
Đảng bộ xã, thị trấn đối với chính quyền cơ sở ở huyện Hương Khê trong giai

đoạn hiện nay”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Sự lãnh đạo của Đảng đối với chính quyền các cấp là một vấn đề quan
trọng, có tính thời sự, được nhiều nhà nghiên cứu và hoạt động thực tiễn quan tâm
ở nhiều góc độ tiếp cận khác nhau. Có thể kể đến một số công trình cơ bản như:
Về sách nghiên cứu, thảo luận: Văn hoá và con người, Nguyễn Trần Bạt,
NXB Hội nhà văn - 2011; Cải cách và sự phát triển, Nguyễn Trần Bạt, NXB
Hội nhà văn - 2011; Nhà nước trong hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay, Lê
Minh Quân, NXB Chính trị Quốc gia - 2010; Vai trò cán bộ lãnh đạo chủ chốt
cấp xã trong việc giữ vững ổn định chính trị-xã hội ở nông thôn nước ta hiện
nay, Mai Đức Ngọc, NXB Chính trị-Hành chính-2008; Quá trình đổi mới hệ
thống chính trị ở Việt Nam, Phạm Ngọc Trâm, NXB Chính trị Quốc gia-2011;
Phát triển kỹ năng lãnh đạo, John C.Maxwell, NXB Lao động-xã hội-2012; 21
nguyên tắc vàng của Nghệ thuật lãnh đạo, John C.Maxwell, NXB Lao động-xã
hội-2012; Văn kiện đại hội Đảng XI, Điều lệ Đảng cộng sản Việt Nam (đã được
sữa đổi bổ sung) và những quy định mới về chức năng nhiệm vụ quy chế hoạt
động của các cơ sở Đảng, NXB lao động-2011; Nghiệp vụ công tác đảng viên
và các văn bản hướng dẫn thực hiện, NXB Chính trị Quốc gia-2010; “Phương
thức Đảng lãnh đạo Nhà nước”, Trần Đình Huỳnh, Nxb Hà Nội - 2001; Hương
Khê 135 năm (1867-2002), Nguyễn Bá Thanh (chủ biên), NXB Văn hoá-Thông
tin-2003; Đề án phát triển kinh tế - xã hội, Quốc phòng-An ninh huyện Hương
Khê đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2025, UBND huyện Hương Khê, hoàn
thành tháng 7 năm 2011.
Các bài đăng trên tạp chí:
- Đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội
trong thời kỳ mới, Trần Đình Thắng (2010), Tạp chí Lịch sử Đảng, số chuyên
đề 8 (237) tháng 8.
5



- Sự lãnh đạo của Tỉnh uỷ Nghệ An trong cao trào cách mạng 1930 -1931,
Trần Văn Hằng (2010), Tạp chí Lịch sử Đảng, số chuyên đề 8 (237) tháng 8.
- Đổi mới phương thức lãnh đạo của đảng đối với bầu cử đại biểu Hội
đồng nhân dân góp phần nâng cao văn hoá dân chủ và văn hoá pháp luật cho
nhân dân ở nước ta hiện nay, Tống Đức Thảo (2011), tạp chí Báo cáo viên số 1.
- Xây dựng và phát huy vai trò của hệ thống chính trị cơ sở ở vùng đồng
bào dân tộc thiểu số, Trần Đức Quang (2012), , Tạp chí Cộng sản số 64 tháng 4.
- Bí thư đảng uỷ đồng thời Chủ tịch UBND xã ở Hà Tĩnh từ “Điểm” đến
“Diện”, Thành Châu – Văn Học (2010), Tạp chí Thông Tin Tư Tưởng - Ban
chấp hành Đảng bộ Hà Tĩnh, số 1.
- Xây dựng Nhà nước thật sự của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân,
Nguyễn Phú Trọng (2011), Tạp chí Cộng sản, số 827.
- Quan điểm của Đảng về phòng, chống suy thoái phẩm chất chính trị,
đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên thời kỳ mới, Đỗ Xuân Tuất (2012), ,
tạp chí Lịch sử Đảng, số 2 (225).
Các công trình trên đây đã đề cập được những chủ đề lớn, ở những góc
độ và mục đích khác nhau. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có công trình khoa học
nào nghiên cứu về sự lãnh đạo của Đảng bộ xã, thị trấn đối với chính quyền cơ
sở ở huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh trong giai đoạn hiện nay. Luận văn này
cố gắng kế thừa những giá trị quý báu đã có, tiếp tục đi sâu nghiên cứu những
vấn đề cần được làm sáng tỏ trong điều kiện hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
3.1. Mục đích
Phân tích thực trạng về sự lãnh đạo của Đảng bộ xã, thị trấn, đối với chính
quyền cơ sở; chỉ ra những thành tựu, hạn chế, nêu các giải pháp đổi mới, tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng bộ xã, thị trấn đối với chính quyền cơ sở ở huyện
miền núi Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh, qua đó, tăng cường hiệu lực, hiệu quả lãnh
đạo của Đảng bộ xã, thị trấn đối với chính quyền cùng cấp.
6



3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ những vấn đề lý luận về Đảng lãnh đạo Nhà nước, phạm vi, cách
thức thực hiện và thực chất, nội dung, yêu cầu của sự lãnh đạo của Đảng bộ xã, thị
trấn đối với chính quyền cơ sở.
- Khảo sát, phân tích thực trạng, làm rõ những ưu điể m , hạn chế,
trong sự lãnh đạo của Đảng bộ xã, thị trấn đối với chính quyền cơ sở ở huyện
miền núi Hương Khê.
- Nêu giải pháp đổi mới sự lãnh đạo của Đảng bộ xã, thị trấn đối với
chính quyền trong điều kiện hiện nay, nhằm xây dựng hệ thống chính trị ở cơ
sở vững mạnh.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và hệ thống quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về đảng cầm quyền, về quyền lực chính trị và thực thi quyền lực chính trị,
mối quan hệ giữa Đảng với Nhà nước.
4.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử của chủ nghĩa Mác - Lênin.
- Phương pháp tiếp cận hệ thống để xác định vị trí và mối tương quan giữa
các chủ thể trong hệ thống chính trị, nhất là mối quan hệ cơ bản giữa Đảng và
Nhà nước, cấp tỉnh đối với huyện và cấp huyện đối với xã, thị trấn, phương pháp
kết hợp lịch sử - logic; phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp điều
tra, phỏng vấn.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Sự lãnh đạo của đảng bộ xã, thị trấn đối với chính quyền cơ sở ở huyện
miền núi Hương Khê tỉnh Hà Tĩnh, giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2012; giải
pháp đổi mới sự lãnh đạo của đảng bộ xã, thị trấn đối với chính quyền giai
đoạn 2013 - 2015; dẫn chứng tư liệu từ thực tiễn của 22 xã, thị trấn trong huyện.
7



6. Đóng góp của luận văn
+ Hệ thống hoá, phân tích các khái niệm lãnh đạo, đảng lãnh đạo nhà
nước; vị trí, vai trò và cơ cấu tổ chức của cấp uỷ, chính quyền cơ sở; phản ánh
và phân tích thực trạng sự lãnh đạo của đảng bộ xã, thị trấn đối với chính quyền
cơ sở;
+ Góp phần luận giải rõ thêm lý luận về sự lãnh đạo của Đảng bộ xã, thị
trấn đối với chính quyền cơ sở;
+ Nêu quan điểm mới về nội dung, mô hình lãnh đạo toàn diện, xây dựng
uy tín lãnh đạo, khắc phục tập trung quyền lực tuyệt đối và dự báo các xu
hướng lớn cần tiếp tục đổi mới hệ thống chính trị ở địa phương.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài các phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ
lục, luận văn gồm 03 chương, 08 tiết.

8


Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐẢNG LÃNH ĐẠO NHÀ NƢỚC
VÀ CHÍNH QUYỀN CƠ SỞ
1.1. Khái niệm lãnh đạo, Đảng lãnh đạo và cơ sở lý luận về Đảng
lãnh đạo Nhà nƣớc
1.1.1. Khái niệm lãnh đạo, Đảng lãnh đạo
Trong các quan hệ xã hội, thì quan hệ lãnh đạo và chịu sự lãnh đạo là
một trong những quan hệ chính yếu trong lịch sử phát triển của xã hội loài
người. Cho nên, vấn đề lãnh đạo và quản lý đã trở thành đối tượng nghiên
cứu và bàn luận của các nhà tư tưởng, các nhà chính trị. Ở Việt Nam, mãi tới
những năm gần đây, mới xuất hiện những đầu sách, chuyên luận bàn về lãnh

đạo, quản lý.
Trong cuốn sách Phát triển kỹ năng lãnh đạo của John C. Maxwell đã
định nghĩa lãnh đạo “là gây ảnh hưởng”[23,tr.18].
Có người làm rõ nội hàm khái niệm: “lãnh đạo là sự ảnh hưởng mang
tính tương tác, được thực hiện trong một tình huống, được chỉ đạo, thông qua
quá trình thông tin để đạt tới mục tiêu cụ thể”[24,tr.14]. Từ tìm dấu hiệu chung
của khái niệm, có tác giả đã khái quát: “lãnh đạo là một chức năng hoạt động xã
hội của con người (cá nhân hay tập thể) bằng phương pháp tác động, gây ảnh
hưởng, thuyết phục (một cá nhân, một tập thể, một cộng đồng xã hội, một dân
tộc) nhằm tổ chức các mối quan hệ, tập hợp các thành viên, để huy động mọi
khả năng và ý chí của họ, hành động đạt những mục tiêu chung, đã xác
định”[32,tr.35].
Có tác giả đi sâu vào việc phân biệt khái niệm lãnh đạo với khái niệm
quản lý, chỉ ra dấu hiệu đặc trưng của khái niệm lãnh đạo ở chỗ nó hướng vào
việc “nhận thức, lãnh hội quan điểm, xây dựng tầm nhìn, lý tưởng, sứ mệnh của
hệ thống; làm sáng tỏ được thực trạng vận động của hệ thống (bao gồm việc
phân tích các mâu thuẫn trong quá trình phát triển), phát hiện nhân tố mới; tổng
9


kết được quy luật, xu thế phát triển của hệ thống; đề xuất các phương án chiến
lược phát triển hệ thống”[34,tr.18]. Nói khái quát nhất, lãnh đạo là: “đề ra chủ
trương, đường lối và tổ chức, động viên thực hiện”[44,tr.568].
Mặc dù, phân tích, đánh giá ở những điểm khác nhau, nhưng điểm chung
các tác giả đều nhất trí đặc trưng của lãnh đạo là tính định hướng và sự vươn tới
việc đạt được mục tiêu của tổ chức. Từ những định nghĩa trên, có thể hiểu rằng
Lãnh đạo là khả năng, tài năng vạch phương hướng, chỉ đường và bằng ý chí,
niềm tin, phẩm hạnh của mình (của tổ chức) nhằm lôi cuốn, cổ vũ mọi người
thực hiện mục tiêu của cá nhân, tổ chức đã định.
Từ nhận thức về khái niệm lãnh đạo, nhiều tác giả đã đề cập đến khái

niệm đảng lãnh đạo. Đã có nhiều công trình, đề tài nghiên cứu về đảng nói
chung và Đảng cộng sản Việt Nam nói riêng, đã lý giải nhiều về đảng lãnh đạo.
Sự tương đồng cao về khái niệm đảng lãnh đạo thể hiện ở chỗ: tính định hướng
chính trị, tổ chức lực lượng, thuyết phục, truyền bá các quan điểm tư tưởng
nhằm lôi kéo các tầng lớp khác trong xã hội đi theo và thực hiện những mục
tiêu chính trị của đảng. Còn khi nói Đảng cộng sản lãnh đạo là nói Đảng đưa ra
những định hướng về quan điểm, nguyên tắc xây dựng đất nước theo mục tiêu
của CNXH; lựa chọn các nội dung chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và vận
động thuyết phục, tổ chức các tầng lớp nhân dân thực hiện cho bằng được các
mục tiêu ấy.
Một số tác giả còn phân tích khái niệm “Đảng cầm quyền” để phân biệt
với khái niệm “Đảng lãnh đạo”. Theo các nhà chính trị học, nhà tư tưởng ở
phương tây, thì thuật ngữ “Đảng cầm quyền”, “Đảng chấp chính”, “Đảng nắm
chính quyền” đã được dùng từ lâu ở các nước phương tây để chỉ rõ vai trò, vị
thế và trách nhiệm của Đảng khi đã có chính quyền; phân biệt Đảng nắm chính
quyền với những Đảng không nắm chính quyền, chưa dành được chính quyền
hoặc vị trí đối lập. Dù diễn đạt ngôn từ hay chỉ ra các đặc điểm khác nhau trong
chi tiết, nhưng hầu hết các ý kiến đều thể hiện quan điểm chung đó là: Đảng
cầm quyền có nghĩa là Đảng lãnh đạo chính quyền, chi phối chính quyền, làm
10


cho mọi hoạt động của chính quyền thể hiện và thực hiện tư tưởng, đường lối
của Đảng đó, phù hợp với lập trường và phục vụ cho lợi ích của giai cấp, tầng
lớp mà Đảng đó đại diện. Xét về bản chất, Đảng cầm quyền tức là Đảng lãnh
đạo trong điều kiện có chính quyền. Đảng cầm quyền là Đảng đã chi phối, dẫn
dắt chính quyền, sử dụng quyền lực nhà nước trên thực tế để thực hiện mục tiêu
chính trị của Đảng.
1.1.2. Quan điểm Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và Đảng Cộng
sản Việt Nam về đảng lãnh đạo nhà nƣớc

Với quan điểm khoa học về lịch sử, C.Mác đã chứng minh quá trình
chuyển biến vai trò lãnh đạo sang tay giai cấp công nhân, xuất phát từ sự phát
triển của LLSX là một tất yếu lịch sử. Thông qua việc giành được quyền lực
nhà nước bằng cách lật đổ sự thống trị của GCTS, GCVS đã thiết lập nên nhà
nước của mình, thiết lập nên quyền lãnh đạo đối với nhà nước. Tuyên ngôn của
Đảng cộng sản đã chỉ rõ: “Trong tất cả các giai cấp hiện đang đối lập với giai
cấp tư sản thì chỉ có giai cấp vô sản là giai cấp thực sự cách mạng. Tất cả các
giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại công
nghiệp, còn giai cấp vô sản lại là sản phẩm của bản thân nền đại công
nghiệp”[14,tr.610].
Trong cuộc đấu tranh giai cấp có tính lịch sử này, giai cấp vô sản cần có
một đảng chân chính lãnh đạo - Đảng cộng sản. Bởi vì lịch sử đấu tranh giai
cấp đã khẳng định một điều, để giành được thắng lợi tất yếu phải xây dựng
được cho mình một Đảng cách mạng. Đảng cộng sản là đội tiên phong của giai
cấp vô sản. Đó là những người kiên quyết nhất, là bộ phận cổ vũ tất cả các bộ
phận khác; họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả chung của phong
trào vô sản. Mục đích của những người cộng sản, cũng là mục đích của tất cả
các Đảng vô sản khác; tổ chức của những người vô sản thành giai cấp, lật đổ sự
thống trị của giai cấp tư sản, giai cấp vô sản giành lấy chính quyền. Tính quy
luật của lịch sử là: chủ nghĩa tư bản nhất định được thay thế bằng chủ nghĩa
cộng sản và người có vai trò thực hiện bước thay đổi thế giới là giai cấp công
nhân mà Đảng cộng sản là đội tiền phong của giai cấp công nhân lãnh đạo.
11


Cũng theo C. Mác và Ph.Ăngghen: “cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản
chống lại giai cấp tư sản, dù về mặt nội dung, không phải là cuộc đấu tranh dân
tộc, nhưng lúc đầu lại mang hình thức đấu tranh dân tộc. Đương nhiên là trước
hết, giai cấp vô sản mỗi nước phải thanh toán xong giai cấp tư sản ở nước mình
đã”[14,tr.611]. Và “Vì giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính

quyền, phải tự xây dựng thành một giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân
tộc, tuy hoàn toàn không phải theo cái nghĩa như giai cấp tư sản
hiểu”[14,tr.623-624].
Trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác về Đảng, Lênin đã chỉ ra, chỉ
có một Đảng chân chính mới bảo đảm duy nhất cho thắng lợi của chủ nghĩa xã
hội. Đảng cộng sản tác động đến mọi quá trình xã hội, trước hết là thông qua hệ
thống chính trị của chủ nghĩa xã hội. Vai trò lãnh đạo của Đảng là ở chỗ nó
lãnh đạo nhà nước, các tổ chức xã hội, thông qua các tổ chức này, lãnh đạo toàn
bộ quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Lênin chỉ ra rằng: “Trong nước cộng
hoà chúng ta, không có một vấn đề chính trị hay tổ chức quan trọng nào do một
cơ quan Nhà nước giải quyết mà lại không có chỉ thị của Ban chấp hành trung
ương Đảng”[43,tr.38]. Tuy nhiên, sau khi lãnh đạo chính quyền, Lênin cũng đã
phát hiện sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước có dấu hiệu không cụ thể,
chồng chéo. Lênin đã yêu cầu: cần phân định một cách rõ ràng hơn nữa những
nhiệm vụ của Đảng (và của Ban chấp hành Trung ương của nó) với nhiệm vụ
chính quyền Xô Viết và các cơ quan Xô-Viết, còn về Đảng thì dành quyền lãnh
đạo chung công tác của tất cả các cơ quan nhà nước gộp chung lại, mà không
can thiệp một cách quá thường xuyên, không chính quy và thường là nhỏ nhặt
như hiện nay.
Trong quá trình hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh luôn dành
sự quan tâm đến việc xây dựng tổ chức Đảng. Người xác định: “Trước hết phải
có Đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên
lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững, cách mạng
mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thì thuyền mới
12


chạy”[26,tr.267-268]. Người đã tập trung xây dựng và rèn luyện những người
ưu tú từ các giai cấp, tầng lớp lao động để hình thành một Đảng cách mạng
chân chính. Người cũng yêu cầu Chính phủ (suy rộng ra là cơ quan nhà nước

các cấp) phải đặt quyền lợi của dân lên trên hết thảy: “việc gì có lợi cho dân thì
phải làm. Việc gì có hại cho dân thì phải tránh”[27,tr.22]. Bác luôn khẳng định
nhà nước là của dân. Đảng đại diện cho giai cấp công nhân, nhân dân lao động,
lãnh đạo nhà nước thực thi nhiệm vụ mà nhân dân giao phó. Do vậy, quyền lực
là thống nhất, không có sự phân chia quyền lực. Người cho rằng: “trong Đảng
và Nhà nước ta có sự phân công chặt chẽ như các bộ phận trong chiếc kim đồng
hồ; cái kim dây cót khác nhau nhưng hợp tác chặt chẽ với nhau. Thiếu một bộ
phận nào cũng không được”[25,tr.555-556]. Tuy nhiên, Hồ Chí Minh cũng đã
từng lưu ý rằng, trong điều kiện một Đảng duy nhất cầm quyền, để tránh những
sai lầm, khuyết điểm, Đảng phải không ngừng phát huy dân chủ trong sinh hoạt
và công tác, đảm bảo sự lãnh đạo tập thể, đi đúng đường lối quần chúng, giữ
vững nguyên tắc tập trung dân chủ, chống độc quyền, độc đoán, kéo bè, kéo
cánh. Và để phát huy dân chủ trong điều kiện một Đảng cầm quyền, cần tiếp
tục hoàn thiện thể chế: “Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, nhà nước quản lý”.
Đảng lãnh đạo là một cách thức (quan trọng nhất) mang lại lợi ích cho giai cấp
công nhân, cho dân tộc và quốc tế. Lợi ích đó là chính trị, kế tiếp là các lợi ích
khác, nhằm đạt được dân chủ, bình đẳng, công bằng, văn minh,… Ngoài ra,
không có một tổ chức nào có thể thay thế Đảng cộng sản trong việc mang lại lợi
ích cho số đông người lao động
Thực hiện quan điểm, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng cộng sản Việt Nam
đã từng bước hoàn thiện về quan niệm Đảng lãnh đạo Nhà nước và cơ quan
Nhà nước các cấp. Từ khi cầm quyền, đặc biệt là trong quá trình thực hiện công
cuộc đổi mới, Đảng cộng sản Việt Nam không ngừng chăm lo, xây dựng và
cũng cố và hoàn thiện bộ máy, nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý của Nhà
nước, và thực tế đã đạt được những thành tựu quan trọng. Thành tựu đó thể
hiện sự phát triển, trưởng thành của Nhà nước Việt Nam, trong hoạt động quản
13


lý và tổ chức thực tiễn, đồng thời cũng đánh dấu sự phát triển của tiến trình đổi

mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Vấn đề này được thể
hiện qua các giai đoạn lịch sử như sau:
Giai đoạn 1945 - 1946:
Từ khi ra đời, Đảng cộng sản Việt Nam (tháng 10 -1930 đổi tên Đảng
cộng sản Đông Dương) đã chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng để đi
tới chủ nghĩa cộng sản. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã tiến hành
thắng lợi cuộc cách mạng Tháng tám năm 1945, lập nên nước Việt Nam dân
chủ cộng hoà ngày 2-9-1945, đã tạo ra thế và lực mới cho cách mạng Việt
Nam. Tuy vậy, do hoàn cảnh lịch sử cụ thể yêu cầu về lãnh đạo và quản lý khác
nhau nên quan hệ giữa Nhà nước và Đảng cũng có sự khác nhau. Từ khi Nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, lãnh đạo và quản lý vốn có cùng một
nguồn gốc - đều được bắt nguồn từ sứ mệnh lịch sử của Đảng và do Đảng lãnh
đạo. Khi chưa có chính quyền, Đảng đã lãnh đạo nhân dân đứng lên giành
chính quyền. Khi đã có chính quyền, Đảng trở thành Đảng cầm quyền, lãnh đạo
Nhà nước. Nhưng tại thời điểm này, các thế lực thù địch trong và ngoài nước
cấu kết với nhau tìm mọi cách xoá bỏ một nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng
hoà vừa mới được lập nên, xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.
Trong hoàn cảnh khó khăn đó, Đảng cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí
Minh xác định phải dùng mọi cách để sống còn, hoạt động và phát triển, để
lãnh đạo kín đáo và có hiệu quả hơn và để có thời giờ cũng cố dần lực lượng
của chính quyền nhân dân, cũng cố Mặt trận dân tộc thống nhất. Đảng phải
quyết đoán mau chóng, phải dùng phương pháp là, tuyên bố giải tán Đảng,
mà thực chất là Đảng rút vào hoạt động bí mật, để lãnh đạo kín đáo và hiệu
quả hơn. Có thể nói sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước giai đoạn này là
sự lãnh đạo hợp pháp nhưng không công khai. Hợp pháp vì sự tồn tại của
Đảng được Hiến pháp quy định. Không công khai là vì trong điều kiện một
chính quyền gồm nhiều thế lực đối lập, đối kháng thì không công khai sẽ
hiệu quả hơn.
14



Giai đoạn 1946 – 1954:
Tháng 9-1946, tên lính cuối cùng trong quân đội của Tưởng Giới Thạch
phải rút về nước kéo theo lực lượng của hai tổ chức Việt Quốc và Việt Cách.
Từ đây quyền lực Nhà nước ta Việt Nam không còn bị chia sẽ, Đảng cộng sản
Việt Nam ra hoạt động công khai và lãnh đạo toàn bộ hệ thống chính trị. Để
thực hiện tốt các nhiệm vụ chính trị trong giai đoạn này, vai trò lãnh đạo của
Đảng đối với Nhà nước và toàn bộ hệ thống chính trị được thực hiện theo
phương châm lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối và toàn diện. Lãnh đạo trực tiếp là
nói tới vai trò của Đảng không chỉ dừng lại ở vai trò lãnh đạo mà còn thể hiện
trong vai trò quản lý đối với xã hội. Lãnh đạo tuyệt đối là nói tới vai trò quyết
định mang tính thể chế của Đảng đối với mọi hoạt động của toàn bộ hệ thống
chính trị cũng như đối với xã hội để phục vụ cho nhiệm vụ chính trị của Đảng
trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội cũng như trong các hoạt động đối
nội, đối ngoại nhằm huy động được mọi nguồn lực cả tinh thần và vật chất phục
vụ cho nhiệm vụ chính trị của Đảng.
Giai đoạn 1954 -1975:
Bước sang giai đoạn cách mạng mới, nhiệm vụ cách mạng đặt ra cho
Đảng, Nhà nước và dân tộc Việt Nam lại nặng nề hơn, kinh nghiệm của việc
xây dựng, cũng cố chính quyền nhân dân và quan hệ giữa Đảng và Nhà nước
tiếp tục được duy trì và phát huy. Do vậy, phương châm lãnh đạo trực tiếp,
tuyệt đối và toàn diện của Đảng đối với Nhà nước và xã hội vẫn được thực
hiện. Quan hệ giữa Đảng và Nhà nước theo nguyên tắc “hai trong một” hay
“một mà hai” đã phát huy được tính hiệu quả của nó trong hoạt động lãnh đạo
cũng như trong lãnh đạo xã hội. Tính hiệu quả của nó được thể hiện trong
đường lối đối nội, đối ngoại của Nhà nước Việt Nam trong giai đoạn này.
Xuất phát từ yêu cầu kịp thời và nhanh chóng thực hiện sự lãnh đạo và
chỉ đạo của Đảng đối với thực tiễn cách mạng, nên trong giai đoạn này về cơ
bản Đảng vẫn thực hiện phần lớn các chức năng của Nhà nước. Hiệu lực hiệu
15



quả quản lý, điều hành của Nhà nước phụ thuộc trực tiếp vào hiệu lực, hiệu quả
lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng. Trong thời kỳ này vẫn chưa có sự phân biệt rõ ràng
các chức năng lãnh đạo và quản lý trong mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước.
Giai đoạn 1975 -1986:
Trong giai đoạn này, cơ chế tập trung và bao cấp tồn tại trong mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội, trong đó có mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước. Sự
lẫn lộn về chức năng và nhiệm vụ, sự chống chéo về tổ chức và hoạt động của
Đảng và Nhà nước ngày càng lớn. Trách nhiệm của tổ chức Đảng, của cấp uỷ
Đảng trong quan hệ với Nhà nước thiếu rõ ràng và cụ thể. Tình trạng này làm
suy yếu cả sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước. Cơ chế lãnh đạo
tập trung, bao cấp tất yếu sinh ra cơ chế quản lý tập trung. Đảng trực tiếp làm
công việc của Nhà nước, không phân biệt rõ đâu là trách nhiệm của các cơ quan
Nhà nước, đâu là trách nhiệm của các tổ chức cơ sở Đảng. Quan hệ giữa Đảng
và Nhà nước như vậy đã ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình phát triển đất nước
những năm trước đổi mới.
Giai đoạn 1986 đến nay:
Ở giai đoạn này, sự lãnh đạo của cấp uỷ Đảng đối với Nhà nước được đổi
mới qua các kỳ đại hội, chức năng lãnh đạo của Đảng và chức năng quản lý
Nhà nước ngày càng phân định rõ hơn, điều này được thể hiện cụ thể như sau:
Đại hội VI của Đảng (12-1986) đã quyết định định hướng đổi mới kinh tế
- xã hội của đất nước, trong đó có nội dung quan trọng là đổi mới nội dung và
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước; xác định rõ hơn chức năng,
nhiệm vụ của Nhà nước trong điều kiện chuyển đổi cơ cấu kinh tế

và cơ chế

quản lý. Đó là các nhiệm vụ: Thể chế hoá đường lối, chủ trương của Đảng
thành pháp luật, chính sách cụ thể; xây dựng chiến lược kinh tế - xã hội và cụ

thể hoá chiến lược đó thành những kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội; quản lý
hành chính - xã hội và hành chính - kinh tế; điều hành các hoạt động kinh tế, xã
hội trong toàn xã hội theo kế hoạch, giữ vững pháp luật, kỹ cương nhà nước và
trật tự xã hội, giữ vững quốc phòng và an ninh; kiểm tra việc thực hiện kế
16


hoạch của nhà nước, phát hiện những mất cân đối và đề ra những biện pháp để
khắc phục; thực hiện quy chế làm việc khoa học, có hiệu suất cao; xây dựng bộ
máy gọn nhẹ, có chất lượng, với một đội ngũ cán bộ có phẩm chất chính trị,
năng lực quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, quản lý xã hội.
Đại hội VII của Đảng (6/1991) đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trong đó nêu rõ quan điểm cần
thiết sữa đổi hệ thống tổ chức nhà nước, cải cách bộ máy hành chính, kiện toàn
các cơ quan lập pháp để thực hiện có hiệu quả chức năng quản lý của Nhà
nước. Tổ chức và hoạt động bộ máy quản lý nhà nước theo nguyên tắc tập trung
dân chủ, thống nhất quyền lực, có sự phân công, phân cấp, đồng thời bảo đảm
sự chỉ đạo thống nhất của Trung ương. Nhà nước Việt Nam thống nhất ba
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, với sự phân công rành mạch ba quyền
đó. Đại hội VII cũng đã chủ trương cải tiến tổ chức và hoạt động của Quốc hội
và Hội đồng nhân dân, sữa đổi cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động của
Chính phủ, coi trọng hoạt động của tập thể, đồng thời đề cao trách nhiệm và
quyền hạn các cá nhân của người đúng đầu chính phủ, đứng đầu bộ, ngành
trong quản lý và điều hành. Tăng cường hiệu lực của các cơ quan bảo vệ pháp
luật. Đổi mới hệ thống tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân các
cấp và toà án nhân dân các cấp. Theo đó, nghị quyết hội nghị Trung ương 2
(12-1991), khoá VII, nhấn mạnh: “Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nước là điều kiện quan trọng nhất để tiến hành đổi mới tổ chức và hoạt động
của bộ máy Nhà nước, làm cho sự lãnh đạo của Đảng có chất lượng và có hiệu
quả hơn, đồng thời làm cho sự quản lý và điều hành của Nhà nước có hiệu quả,

pháp luật được tôn trọng, quyền làm chủ của nhân dân được phát
huy”[15,tr.56]. Đảng lãnh đạo Nhà nước chứ không làm thay Nhà nước. Cần
phân định rõ chức năng, nhiệm vụ và giải quyết tốt mối quan hệ giữa Đảng và
Nhà nước. Nhà nước thể chế hoá đường lối, chính sách của Đảng.
Thực hiện quan điểm chỉ đạo đó, ngày 15 tháng 4 năm 1992, Quốc hội
khoá VIII đã thông qua Hiến pháp sữa đổi, quy định những vấn đề cơ bản nhất
17


về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước: Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính
phủ, Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương VIII (1/1995), khoá VII, chủ trương
tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, trọng tâm là cải cách một bước nền hành chính. “Tăng cường pháp chế
xã hội chủ nghĩa; xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam quản lý xã hội
bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức xã hội chủ
nghĩa”[16,tr.78]. Nghị quyết Trung ương 3 (6/1997), khoá VIII, đã khẳng định
những thành tựu quan trọng về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và
những đổi mới về nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng, vừa phát huy
trách nhiệm, tính chủ động của các cơ quan Nhà nước. Tuy nhiên, trước thực
tế là tổ chức bộ máy nhà nước còn nặng nề và chưa thực sự trong sạch, vững
mạnh; sự lãnh đạo của Đảng chưa đáp ứng yêu cầu của quá trình đổi mới tổ
chức, hoạt động của Nhà nước, nghị quyết đã đề ra yêu cầu là cần nắm vững
và thực hiện tốt 3 nội dung trọng yếu về sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nước là:
- Lãnh đạo các cơ quan nhà nước kịp thời thể chế hoá đường lối của
Đảng thành pháp luật.
- Tăng cường quản lý cán bộ, đảng viên trong bộ máy nhà nước; xây
dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, vững mạnh, thực sự vừa là người
lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân.

- Tăng cường kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên trong việc thực hiện
các nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương VII (năm 1999), khoá VIII, chủ trương
tiếp tục hoàn thiện bộ máy nhà nước trong tổng thể bộ máy của hệ thống chính
trị. Coi cải cách hành chính là nhiệm vụ thường xuyên, ứng dụng công nghệ
thông tin vào công tác cải cách hành chính.
Đại hội IX của Đảng đã tiếp tục khẳng định nội dung tiếp tục đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước: “Đảng lãnh đạo Nhà nước
18


thông qua việc đề ra đường lối, chủ trương, các chính sách lớn, định hướng cho
sự phát triển và kiểm tra việc tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của đảng
và Hiến pháp, pháp luật của nhà nước”[17,tr.98]. Để cụ thể hoá nghị quyết đại
hội, Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng Khoá IX đã ban hành
Nghị quyết về “Đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã,
phường, thị trấn”.
Việc khẳng định Nhà nước Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân và vì dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng (Văn kiện Đại hội
IX của Đảng và Điều 2, Hiến pháp năm 1992 và Hiến pháp năm 1992 sửa đổi,
bổ sung) đã thể hiện bước phát triển mới về quan điểm chính trị của Đảng cộng
sản Việt Nam; đồng thời cũng là sự đổi mới có tính nguyên tắc trong quan hệ
giữa Đảng với Nhà nước nói chung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với
hệ thống tổ chức bộ máy nhà nước nói riêng. Nó đặt ra nhiều vấn đề cần tiếp
tục hoàn chỉnh cả về phía Đảng và cả phía Nhà nước.
Đại hội X đã rút ra 6 bài học kinh nghiệm về công tác xây dựng Đảng
qua 20 năm đổi mới, trong đó bài học thứ sáu là: “Đảng phải đổi mới và hoàn
thiện phương thức lãnh đạo, nhất là phương thức lãnh đạo Nhà nước, bảo đảm
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy hiệu lực,
hiệu quả quản lý của Nhà nước, tính tích cực, chủ động, sáng tạo của Mặt trận,

các đoàn thể nhân dân. Phải xây dựng hệ thống các quy chế về sự lãnh đạo
của Đảng ở các ngành, các cấp. Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp
và pháp luật, không làm thay công việc của các tổ chức khác trong hệ thống
chính trị”[18,tr.67].
Hội nghị Trung ương 5, khoá X khẳng định: Phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị là cách thức, phương pháp Đảng
tác động lên hoạt động của hệ thống đó nhằm đạt mục tiêu đề ra. Trong điều
kiện ở nước ta một đảng duy nhất cầm quyền là Đảng Cộng sản Việt Nam,
phương thức lãnh đạo của Đảng tác động trực tiếp đến hoạt động của tất cả các
tổ chức trong hệ thống chính trị. Phương thức lãnh đạo tốt, sẽ tạo động lực cho
19


×