Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

ẢNH HƯỞNG CỦA NUÔI TRỒNG THỦY SẢN ĐẾN MÔI TRƯỜNG Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (563.6 KB, 20 trang )

Ảnh hưởng của nuôi trồng thủy sản đến môi trường ĐBSCL

ẢNH HƯỞNG CỦA NUÔI TRỒNG THỦY SẢN ĐẾN
MÔI TRƯỜNG Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG


I.

MỞ ĐẦU
Nuôi trồng thủy sản là một trong những loại hình nông nghiệp hết sức phổ biến

của nước ta. Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, sản lượng thủy sản 10
tháng đầu năm 2011 ước đạt 4.612 ngàn tấn, tăng 5,4% so với cùng kỳ năm 2010, trong đó sản
lượng khai thác ước đạt 2.199 ngàn tấn, tăng 5,2%; sản lượng nuôi trồng ước đạt 2.413 ngàn
tấn, tăng 5,5% so với cùng kỳ năm 2010. Năm 2011 vừa qua ngành thủy sản cả nước có được
kết quả đáng phấn khởi cả về sản xuất nuôi trồng, khai thác và xuất khẩu. Tổng diện tích nuôi
trồng thủy sản của cả nước đạt 1.099.000ha, tăng 2,5%. Sản lượng thủy sản ước đạt 5,32 triệu
tấn, trong đó sản lượng nuôi trồng đạt 3 triệu tấn, tăng 7,8% so với 2010. Giá trị xuất khẩu ước
đạt 6 tỷ USD, tăng 19,6% so với năm 2010 chủ yếu do được giá. Thật vậy, nuôi trồng thủy

sản là một ngành kinh tế mang lại nguồn lợi khá lớn cho người dân cả nước nói chung
và đặc biệt là người dân khu vực Đồng bằng sông Cửu Long - một vùng đất ngập nước
điển hình với trên 90% diện tích ngập nước theo mùa mưa lũ và theo thủy triều thuộc
lưu vực sông Mê Kông đổ ra biển Đông.
Ngành nghề nuôi trồng thủy
sản đã nhanh chóng phát triển
suốt hơn 2 thập kỷ qua và có
những đóng góp lớn cho nên kinh
tế quốc gia. Trong vòng 10 năm
từ 1995 đến 2005, diện tích nuôi
trồng thủy sản vùng Đồng bằng đã


tăng hơn 2.37 lần và sản lượng
tăng vọt hơn 3.68 lần.
Trong 6 tháng đầu năm
2011, diện tích nuôi cá tra vùng
ĐBSCL đạt 3.980 ha, diện tích đã
Quản lý môi trường nông nghiệp

Hình 1: Người nuôi cá tra và doanh nghiệp chế
biến xuất khẩu ở ĐBSCL áp dụng theo tiêu chuẩn
Global GAP (Ngọc Yến).
Trang 1


Ảnh hưởng của nuôi trồng thủy sản đến môi trường ĐBSCL

thu hoạch 1.933 ha, sản lượng cá thu hoạch đạt 597.324 tấn (năng suất 309 tấn/ha) với
kim ngạch xuất khẩu đạt 744 triệu USD là một bước tăng đáng kể so với các ngành thủy
sản khác.
Đến hết quý 3/2011, diện tích thả nuôi tôm tại các tỉnh ĐBSCL là 594.421 ha,
chiếm 92% diện tích nuôi tôm của cả nước. Sản lượng thu hoạch đạt 209.342 tấn, bằng
70% sản lượng cả nước. Năm 2011 xuất
khẩu tôm của Việt Nam lần đầu tiên đạt
con số gần 2,4 tỉ đô la, tăng 13,7% so với
năm 2010.
Vì vậy, ngành nuôi tôm và cá tra
được đặc biệt quan tâm nhiều hơn so với
trước kia, nó đang dần trở thành một
trong những lĩnh vực kinh tế hết sức quan
trọng đối với người dân đồng bằng sông
Cửu Long.


Hình 2: Thu hoạch tôm sú

Tuy nhiên, do việc chưa áp dụng các tiến bộ khoa học - kỹ thuật kết hợp với việc mở
rộng diện tích các ao nuôi vô tình người dân đã làm ảnh hưởng nặng nề đến môi trường
nước. Một điều chúng ta cần hết sức quan tâm là với các mô hình nuôi thâm canh càng
cao, quy mô công nghiệp càng lớn thì lượng chất thải lại càng lớn và mức độ nguy hại
cho môi trường nước càng nhiều. Bên cạnh đó, các nguồn chất thải sau nuôi trồng chưa
được xử lý đạt tiêu chuẩn môi trường vẫn được thải ra các sông, kinh, rạch trong khu
vực đã gây nên các tác động xấu đến chất lượng nước và dịch bệnh phát sinh. Đây chính
là một mối đe dọa lớn đến nguồn tài nguyên - môi trường sinh thái (đặc biệt là tài
nguyên nước - nguồn tài nguyên hết sức quan trọng của vùng) và cũng như đối với sức
khỏe người dân đang sống ở đây. Và nghiêm trọng hơn, nếu không có cách quản lý kịp
thời thì tình trạng trên sẽ làm ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển bền vững nền kinh tế
- xã hội của đất nước.
Vì thế, việc đưa ra một số giải pháp để quản lý có hiệu quả đối với ngành nuôi
trồng thủy sản, đặc biệt là nuôi cá tra hiện nay là một vấn đề cấp bách hàng đầu cần
được quan tâm nhiều hơn.

Quản lý môi trường nông nghiệp

Trang 2


Ảnh hưởng của nuôi trồng thủy sản đến môi trường ĐBSCL

II.

THỰC TRẠNG NUÔI TRỒNG THỦY SẢN Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU
LONG (ĐBSCL)

1. Tình hình nuôi trồng thủy sản ở ĐBSCL
a. Cả nước:
Theo báo cáo của Bộ NN&PTNT: Năm 2011 là năm rất thuận lợi cho ngành nuôi

trồng thủy sản, được mùa và được giá, sản lượng nuôi trồng thuỷ sản cả năm ước đạt
2.930 ngàn tấn, tăng 7,4% cùng kỳ năm 2010, trong đó tháng 12/2011 ước đạt 271
ngàn tấn. Tính cả năm, cá Tra ước đạt sản lượng 1.136.253 tấn (diện tích: 5.571,6 ha);
Tôm nuôi nước lợ ước đạt 435.000 tấn (diện tích: 658.000 ha); Tôm càng xanh đạt
13.000 tấn (diện tích: 8.500 ha); nhuyễn thể đạt 180.000 tấn (diện tích: 30.000 ha); cá
nước ngọt ước đạt trên 800.000 tấn (diện tích: 380.000 ha).
b. Đồng bằng sông Cửu Long:
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) có chiều dài bờ biển từ Long An đến Kiên
Giang (Giáp Campuchia-không tính các đảo) là 780 km; trong nội địa có một mạng lưới
sông ngòi dày đặc với 15 cửa sông lớn đổ ra biển; nguồn lợi thủy sản phong phú với
nhiều thành phần giống loài có giá trị kinh tế cao; lực lượng lao động dồi dào; nằm tiếp
giáp với Thành phố Hồ Chí Minh là một trung tâm kinh tế lớn nhất của cả nước, đây là
những lợi thế rất lớn để phát triển ngành thủy sản, đặc biệt là lĩnh vực nuôi trồng thủy
sản (NTTS).
Tôm sú, cá tra là các đối tượng được nuôi trồng tương đối phổ biến ở các tỉnh,
thành trong vùng, đặc biệt là các tỉnh nằm ven sông Tiền và sông Hậu. Sản lượng cá tra
của ĐBSCL chiếm trên 95% sản lượng cá da trơn của cả nước. Trong những năm qua,
giá trị xuất khẩu cá tra có tốc độ tăng trưởng khá cao và đóng góp rất lớn vào tổng kim
ngạch xuất khẩu thủy sản của cả nước (chỉ đứng sau tôm sú).
 Vùng nuôi cá tra tập trung ở các tỉnh An Giang, Đồng Tháp, Cần Thơ, Vĩnh
Long, Bến Tre, Sóc Trăng, Tiền Giang, Hậu Giang, và Trà Vinh.
Cá tra được nuôi dưới 2 loại hình chính:
• Thâm canh trong ao:
Loại hình nuôi cá tra thâm canh trong ao phù hợp với những ưu điểm về đặc tính
sinh học của cá tra và mang lại hiệu quả kinh tế cho người nuôi. Với sự phát triển nuôi
Quản lý môi trường nông nghiệp


Trang 3


Ảnh hưởng của nuôi trồng thủy sản đến môi trường ĐBSCL

tự phát, thiếu quy hoạch nên diện tích liên tục gia tăng. Đến năm 2003, diện tích nuôi là
2.792,4 ha, tăng nhanh vào năm 2007 lên tới 5.429,7 ha; tốc độ tăng trưởng bình quân
giai đoạn 2003-2007 là 18,1%/năm. Tốc độ tăng trưởng bình quân trong 11 năm (19972007) là 15,46%/năm, diện tích nuôi cá tra năm 2007 tăng gấp 4,2 lần so với năm 1997.
Đến tháng 7/2008 đã triển khai nuôi cá tra được 5.350,8 ha, gần bằng với diện tích nuôi
năm 2007.

Hình 3: Diễn biến diện tích nuôi cá tra ở vùng ĐBSCL giai đoạn 1997-7T/2008

Quản lý môi trường nông nghiệp

Trang 4


Ảnh hưởng của nuôi trồng thủy sản đến môi trường ở ĐBSCL

TĐTT TĐ
Địa
T phương/
T Năm

Long
1

An

Tiền

2

Giang
Bến

3

Tre
Trà

4

Vinh
Sóc

5

Trăng
Bạc

6

Liêu


7

Mau

Kiên

8

Giang
An

9
1

Giang
Đồng

Tháp
1 Vĩnh
1 Long
1 Hậu
0

Giang
1 Cần
3 Thơ
2

Tổng

1997

1998


1999

2000

2001

2002

2003

2004

2005

2006

2007

-

-

-

-

-

-


-

100,0

150,0

0,0

0,0

850,0

900,0

815,0

738,0

860,0

860,0

880,0

900,0

920,0

42,0


82,0

7T/



1997- 20

2008

2002

0,0

0

-

-

-

-

-

54,3

57,9


97

495

-

-

-

-

-

-

-

151,1

76,6

38,0

50,0

-

-


-

-

-

-

16,0

39,0

84,0

45,0

140,0

-

-

-

-

-

-


-

5,5

6,0

0

0

0,0

-

-

-

-

-

-

-

-

3,0


0

0

0,0

-

-

-

-

-

-

-

-

20,0

0

0

0,0


440,0

400,0

600,0

400,0

401,1

650,0

860,9

765,2

815,0

807,2

1.393,

1.39

8

2,0
1.11

435,0


510,0

595,0

567,5

480,0

408,5

520,0

-

-

-

-

15,0

40,2

55,0

92,0

-


20,0

27,0

1.580

1.272

131,0

204

301

40,0

42,0

126,0

0

-

4
0,23

5


680,

-

-

-

120,

-

1.826,

20

0
60,6
210,

7

5

9

1
8,12

0

3

0,4
336,

4
5

4
199,

5
5

1.569,

0
1.24

3
2

-

328,0

390,0

473,0


383,0

552,0

671,0

783,0

797,8

1.290,

1.735,

2.253,

2.123,

2.316,

2.413,

2.792,

3.325,

4.912,

3.653,


9
5.429,

1,9
5.35

13,3

6
1

0

0

0

0

6

2

4

1

5

0


7

0,8

4

9

Bảng 1: Diện tích nuôi cá tra ở các tỉnh ĐBSCL giai đoạn 1997- 7T/2008
ĐVT: ha
(Nguồn: Báo cáo của các Sở Thủy sản, Sở NN & PTNT và Cục Nuôi trồng Thủy sản,
giai đoạn 1997-7/2008)

Quản lý môi trường nông nghiệp

Trang 5


Ảnh hưởng của nuôi trồng thủy sản đến môi trường ở ĐBSCL

• Nuôi lồng bè:
Năm 1997, nuôi cá tra lồng bè mới chỉ xuất hiện ở An Giang với 100 lồng,
tương đương 20.000m3, sau đó phong trào nuôi cá tra lồng bè bắt đầu lan rộng sang
các tỉnh Đồng Tháp, Cần Thơ, Vĩnh Long, Tiền Giang và đạt cao nhất về số lượng
bè vào năm 2003 (2.333 lồng); thể tích cao nhất năm 2004 đạt 683.856m3, giai đoạn
về sau hình thức nuôi lồng bè giảm xuống rất nhanh cả về số lượng và thể tích nuôi.
Tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 1997-2002 về số lượng bè là
47,44%/năm, về thể tích là 51,38%/năm. Giai đoạn 2003-2007, tốc độ tăng trưởng
bình quân âm là (-49,48%/năm về số lượng, -52,5%/năm về thể tích) do hình thức

nuôi lồng bè kém hiệu quả về mặt kinh tế hơn so với nuôi cá tra trong ao. Tốc độ
tăng trưởng bình quân về số lượng và thể tích lồng bè nuôi qua 10 năm khoảng
4%/năm. Thể tích trung bình qua các năm mỗi lồng nuôi trong vùng là 250m 3/lồng,
dao động trong khoảng 198-363m3/lồng.
Trong vùng có 5 tỉnh nuôi cá tra lồng bè: An Giang, Đồng Tháp, Cần Thơ,
Tiền Giang và Vĩnh Long nhưng phát triển mạnh chỉ tập trung ở 2 tỉnh An Giang và
Đồng Tháp. Năm 2003, tỉnh An Giang số lượng lồng bè lên cao nhất là 1.804 lồng,
Đồng Tháp là 300 lồng; số lượng lồng bè 2 tỉnh này chiếm khoảng 90% trong toàn
vùng. Năm 2004, tỉnh An Giang có thể tích nuôi lồng bè cao nhất (564.846m 3), tiếp
đến Đồng Tháp (75.000m3) và chỉ riêng 2 tỉnh đã chiếm 93,6% thể tích trong toàn
vùng.

Quản lý môi trường nông nghiệp

Trang 6


Ảnh hưởng của nuôi trồng thủy sản đến môi trường ở ĐBSCL

Bảng 2: Số lượng và thể tích lồng bè nuôi cá tra các tỉnh ĐBSCL giai đoạn 19977T/2008

ĐVT: lồng
TĐT TĐTT TĐTT

Địa

T GĐ GĐ

1997- 2003- 1997-


T phương/
T Năm

1997

1998 1999

2000

2001

2002

2003

An

2004 2005 2006 2007
1.58

1 Giang

100

200

Thể tích 20.00 40.0
3

* (m )


0

550

1.900

1.600

1.750

1.804

4
656
564. 255.

110.00 380.00 320.00 437.50 471.14

00

0

0

0

0

247


8

84

63

6

5

7T/2008 2002 2007
-

126
172

98.1
53

24.836 33.903

2007

43,

48,5

01


9
-

2,34

47,

52,0

2,1

06

8
-

9

Đồng

52,7

2 Tháp

0

441

Thể tích


317

111.

3

400

396

320

300

101.20 100.00

573 80.201 0
0
35
41

0
50

80.000 74.722
80
120

* (m3)


0

3.350

5.350

2.345

2.747

129

52

15

0

1
-

75.0 38.7 2.63

* (m )
0
3 Cần Thơ 0
Thể tích
0

300


00
18
3
80
40
0
9.96 6.00

7.470

0

0

0

68,1
768
0

0
0

0

0

6


Vĩnh

53,7

4 Long

0

0

0

0

12

81

109

Thể tích
3

* (m )
Tiền

95

20


6

5

4

2
-

33.2 7.00 4.00
0

0

0

0

4.200

28.350 38.150

5 Giang
0
Thể tích

0

0


0

2

2

0

4

* (m3)

0

0

0

400

400

0

800

0

50


0

0

45,7
3.300

5
6
6
1.00 1.20
0

0

1.200

2.640

7

0
0
-

2.06
Tổng

100


641

902

2.341

2.060

2.233

2.333

Thể tích 20.00 151.5 192.54 483.94 427.95 551.60
3

(m )
Thể tích

0

73

6

7

0

0


200

236

213

207

208

247

3

850

311

152

176

683. 308. 105.
591.490

856

353

986 30.104 36.543


47,

49,4

44

8
-

51,

52,5

38

0

TB/lồng
(m3)

254

331

363

341

198


208

(Nguồn: Báo cáo của các Sở Thủy sản, Sở NN & PTNT và Cục Nuôi trồng Thủy
sản, giai đoạn 1997-7/2008).

Quản lý môi trường nông nghiệp

Trang 7

4,28

4,17


Ảnh hưởng của nuôi trồng thủy sản đến môi trường ở ĐBSCL

 Vùng nuôi tôm sú tập trung tại các tỉnh Cà Mau, Bạc Liêu, Kiên Giang, Sóc
Trăng, Trà Vinh, Bến Tre, Long An, và Tiền Giang.
Tuy ĐBSCL chiếm diện tích nuôi tôm lớn nhất trong cả nước, là nơi cung cấp
tôm chính cho thị trường trong và ngoài nước. Thế nhưng việc nuôi tôm vẫn còn
mang tính tự phát, không có tính qui hoạch.
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, tính đến tháng 5 năm 2010,
các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long đưa 550.600ha vào nuôi tôm sú, chiếm gần
70% diện tích nuôi toàn vùng; giảm gần 16.000ha so với năm ngoái.
Diện tích nuôi tôm sú lớn nhất là Cà Mau 257 nghìn ha; Bạc Liêu 121,8 nghìn ha;
Sóc Trăng 47,6 nghìn ha và Kiên Giang 77,2 nghìn ha. Trong đó, diện tích nuôi tôm
thâm canh, bán thâm canh chỉ đạt 47, 6 nghìn ha; còn lại là nuôi quảng canh, tập
trung nhiều nhất ở hai tỉnh Cà Mau và Bạc Liêu. Sản lượng sau thu hoạch, chỉ tính
riêng ở các tỉnh ĐBSCL là 160,5 nghìn tấn, chiếm hơn 76% tổng sản lượng tôm của

cả nước; nhiều nhất là Cà Mau 68,5 nghìn tấn, Bạc Liêu 36,2 nghìn tấn, Kiên Giang
13,6 nghìn tấn.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn qui hoạch đến năm 2015, đưa
546.000 ha mặt nước tại Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) vào nuôi tôm sú,
giảm 768 ha so với năm 2010 nhưng sản lượng sẽ đạt 463.000 tấn, tăng 77.000 tấn
so cùng thời điểm, 80% sản lượng sẽ được xuất khẩu với giá trị hàng năm ít nhất là
1,5 tỉ USD.
Để bảo đảm đạt kết quả mong muốn, ĐBSCL mở rộng nuôi theo chiều sâu
trên địa bàn 8 tỉnh Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Kiên Giang, Trà Vinh, Bến Tre,
Tiền Giang, Long An, trong đó tỉnh Cà Mau có diện tích nuôi lớn nhất. ĐBSCL
cải tiến kỹ thuật nuôi theo hướng bền vững và áp dụng các công nghệ nuôi tiên
tiến, thân thiện với môi trường như Code of Conduct – CoC, Good Aquaculture
Practice - GAP (áp dụng các qui trình nuôi tốt), nuôi có trách nhiệm (Responsible
Aquaculture Practice - RAP), quản lý vùng nuôi an toàn, nhằm tạo sản phẩm đáp
ứng yêu cầu ngày càng cao của thị trường thế giới và trong nước.
Hình thức nuôi phổ biến là quảng canh, quảng canh cải tiến, bán thâm canh,
thâm canh. Trong đó, diện tích nuôi bán thâm canh và thâm canh chiếm khoảng
20% diện tích để sản lượng nuôi bán thâm canh và thâm canh chiếm 51% tổng sản
Quản lý môi trường nông nghiệp

Trang 8


Ảnh hưởng của nuôi trồng thủy sản đến môi trường ở ĐBSCL

lượng tôm, sản lượng nuôi quảng canh cải tiến chiếm 35%, sản lượng tôm lúa, tôm
rừng chiếm 14% tổng sản lượng. Năng suất tôm nuôi quảng canh phấn đấu từ 0,350,45 tấn/ha, nuôi quảng canh cải tiến trên ruộng lúa (tôm lúa) đạt từ 0,4-0,5 tấn/ha,
nuôi tôm rừng 0,15-0,20 tấn/ha, nuôi thâm canh-bán thâm canh đạt trung bình 2,03,5 tấn/ha. Hiện tại năng suất tôm nuôi trung bình của vùng đạt 0,7 tấn/ha/năm và
phấn đấu đến năm 2015 đạt 0,85 tấn/ha. Tổng sản lượng tôm sú nuôi vùng ĐBSCL
sẽ tăng từ 386.400 tấn năm 2010 lên 463.000 tấn năm 2015. Trong đó sản lượng

tôm nuôi chủ yếu được đóng góp từ các tỉnh vùng Bán đảo Cà Mau.
2. Thực trạng ô nhiễm môi trường do nuôi trồng thủy sản
Vùng đồng bằng sông Cửu long là một khu đất ngập nước rộng lớn như một
phần cuối hạ nguồn của sông Mekong ra đến biển Đông và vịnh Thái Lan nên có
một tiềm năng to lớn trong nuôi trồng thuỷ sản nước ngọt và nước mặn. Toàn vùng
có diện tích nuôi thủy sản nước ngọt, nước mặn trên 685.800 ha, sản lượng gần 1
triệu tấn/năm, với rất nhiều mô hình canh tác khác nhau.
Một điều hết cần hết sức quan
tâm là, với các mô hình nuôi thâm
canh càng cao, quy mô công nghiệp
càng lớn thì lượng chất thải lại càng
lớn và mức độ nguy hại cho môi
trường nước càng nhiều.Vùng
ĐBSCL đang phải gánh chịu sự suy
giảm chất lượng nước ô nhiễm môi
trường do việc bùng phát thâm canh
nuôi trồng thủy sản trong suốt hai
thập niên qua, cả về diện tích nuôi và

Hình 4: Phong trào nuôi cá tra ao phát triển
tự phát ở nhiều địa phương cũng là tác nhân
quan trọng làm ảnh hưởng chất lượng nguồn
nước mặt ở ĐBSCL. (Ảnh: H.V)

mật độ nuôi thả tôm hoặc cá trên mỗi
mét vuông mặt nước.
Các nguồn chất thải sau nuôi trồng chưa được xử lý đạt tiêu chuẩn môi
trường vẫn được thải ra các sông, kinh, rạch trong khu vực (ở khu vực ĐBSCL theo
đánh giá đã cho thấy hàng năm thải ra
Quản lý môi trường nông nghiệp


Trang 9


Ảnh hưởng của nuôi trồng thủy sản đến môi trường ở ĐBSCL

456,6 triệu m3/ bùn thải và chất thải nuôi trồng thủy
sản) gây nên các tác động xấu đến chất lượng nước và
dịch bệnh phát sinh.
Ước tính mỗi năm, việc nuôi trồng thủy sản đã thải ra môi trường nước xấp
xỉ 3 triệu tấn bùn ở dạng chất thải hữu cơ gần như chưa được xử lý. Chất thải trong
nuôi trồng thủy sản là bùn thải chứa phân của các loài thủy sản tôm cá, các nguồn
thức ăn dư thừa thối rữa bị phân hủy, các chất tồn dư của các loại vật tư sử dụng
trong nuôi trồng như: hóa chất, vôi và các loại khoáng chất Diatomit, Dolomit, lưu
huỳnh lắng đọng, các chất độc hại có trong đất phèn Fe2+, Fe3+, Al3+, SO42-, các
thành phần chứa H2S, NH3... là sản phẩm của quá trình phân hủy yếm khí ngập
nước tạo thành, nguồn bùn phù sa lắng đọng trong các ao nuôi trồng thủy sản thải ra
hàng năm trong quá trình vệ sinh và nạo vét ao nuôi. Đặc biệt, với các mô hình nuôi
kỹ thuật cao, mật độ nuôi lớn như nuôi thâm canh, nuôi công nghiệp... thì nguồn
thải càng lớn và tác động gây ô nhiễm môi trường càng cao.
Một số kết quả nghiên cứu cho thấy: Chỉ có 17% trọng lượng khô của thức
ăn cung cấp cho ao nuôi được chuyển thành sinh khối, phần còn lại được thải ra môi
trường dưới dạng phân và chất hữu cơ dư thừa thối rữa vào môi trường. Đối với các
ao nuôi công nghiệp chất thải trong ao có thể chứa đến trên 45% nitrogen và 22% là
các chất hữu cơ khác. Các loại chất thải chứa nitơ và phốtpho ở hàm lượng cao gây
nên hiện tượng phú dưỡng môi trường nước phát sinh tảo độc trong môi trường nuôi
trồng thủy sản. Đặc biệt, nguồn chất thải này lan truyền rất nhanh đối với hệ thống
nuôi cá bè trên sông, nuôi cá bao ví trong các đầm trũng ngập nước... cùng với
lượng phù sa lan truyền có thể gây ô nhiễm môi trường và dịch bệnh thủy sản phát
sinh trong môi trường nước.

Theo tính toán một cách tính gần đúng, muốn có 1 kg cá da trơn thành phẩm,
người nông dân đã phải sử dụng từ 3-5 kg thức ăn, trung bình khoảng 4 kg. Thực tế
chỉ khoảng 17% thức ăn được cá hấp thu và phần còn lại (chừng 83%) hòa lẫn trong
môi trường nước trở thành các chất hữu cơ phân hủy. Như vậy, với ước tính khoảng
1 triệu tấn thủy sản thì ít nhất 3 triệu tấn chất thải hữu cơ đã tuôn ra môi trường
nước ở ĐBSCL. Đối với các ao nuôi công nghiệp chất thải trong ao có thể chứa đến
trên 45% nitrogen và 22% là các chất hữu cơ khác. Các loại chất thải chứa nitơ và
Quản lý môi trường nông nghiệp

Trang 10


Ảnh hưởng của nuôi trồng thủy sản đến môi trường ở ĐBSCL

phốtpho ở hàm lượng cao gây nên hiện tượng phú dưỡng môi trường nước phát sinh
tảo độc trong môi trường nuôi trồng thủy sản. Đặc biệt, nguồn chất thải này lan
truyền rất nhanh đối với hệ thống nuôi cá bè trên sông, nuôi cá bao ví trong các đầm
trũng ngập nước... cùng với lượng phù sa lan truyền có thể gây ô nhiễm môi trường
và dịch bệnh thủy sản phát sinh trong môi trường nước.
Theo văn bản “Phê duyệt quy hoạch chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông, lâm
nghiệp, thủy sản cả nước đến năm 2010 và tầm nhìn 2020” của Thủ tướng Chính
phủ, mục tiêu phát triển thuỷ sản trong giai đoạn 2006-2010 tăng trưởng bình quân
8-9%/năm, sản lượng nuôi trồng thủy sản cả nước đến năm 2010 khoảng 2,0 triệu
tấn.Đây là môt chỉ tiêu thực sự khó khăn cho việc quản lý nguồn nước ở ĐBSCL.
Thực tế, nguồn nước trong mùa khô của ĐBSCL rất hạn chế và đang bị suy giảm về
chất lượng. ĐBSCL là vùng tập trung nhiều các loại đất phèn tiềm tàng (pyrite
FeS2)và phèn hoạt động (jarosite (K/Na.Fe3/Al3(SO4)2(OH)6). Khi bị đào đắp ao
nuôi thủy sản, đào kinh rạch cấp và thoát nước, vệ sinh ao nuôi sau mùa thu hoạch
đã làm cho tầng phèn tiềm ẩn bị tác động bởi quá trình ôxy hóa sẽ diễn ra quá trình
lan truyền phèn rất mãnh liệt làm giảm độ pH môi trường nước, gây ô nhiễm môi

trường và dịch bệnh tôm, cá trong nuôi trồng. Các nguồn thải ra sông rạch đã tác
động làm cho môi trường nước bị biến đổi.
Chất lượng nước trong các ao nuôi thủy sản gồm cá nước ngọt, nuôi tôm ven
biển đặc biệt là trong các mô hình nuôi công nghiệp đã cho thấy dấu hiệu ô nhiễm
hữu cơ (BOD, COD, nitơ, phốt pho cao hơn tiêu chuẩn cho phép), có sự xuất hiện
các thành phần độc hại như H2S, NH3+, và chỉ số vi sinh Coliforms, đã cho thấy
nguồn nước thải này cần phải được xử lý triệt để trước lúc thải ra sông rạch.
Môi trường nước ở vùng ngọt hóa có dấu hiệu ô nhiễm hữu cơ, các vi sinh
trong nước Coliforms, độ đục, amoniac trong nước... ảnh hưởng đến chất lượng môi
trường nước, đặc biệt là nước dùng cho nhu cầu cấp nước. Môi trường nước ở vùng
mặn hóa ven biển hàm lượng sắt (phèn hóa) trong nước do quá trình phèn hóa mạnh
mẽ, N-NH3, Coliforms... gây ảnh hưởng đến nuôi trồng thủy sản, đặc biệt độ đục
môi trường cao do nước phù sa và quá trình đào đắp sên vét ao nuôi tôm phát sinh
không được xử lý thải ra môi trường.

Quản lý môi trường nông nghiệp

Trang 11


Ảnh hưởng của nuôi trồng thủy sản đến môi trường ở ĐBSCL

Sự gia tăng diện tích nuôi trồng thiếu định hướng và chưa phù hợp với quy
hoạch sử dụng nguồn nước hiện nay đang là một nguy cơ gây suy thoái chất lượng
nước.Các kênh rạch nhỏ ô nhiễm trầm trọng đã và đang ảnh hưởng đến khả năng tự
làm sạch của nguồn nước và đe dọa tính bền vững của nghề cá vùng ĐBSCL.
Quá trình chuyển dịch trồng lúa sang nuôi trồng thủy sản diễn ra quy mô lớn
ở vùng mặn hóa ven biển làm gia tăng xâm nhập mặn ở các vùng ven biển. Tác
động làm suy giảm rừng ngập mặn ven biển tiếp tục diễn ra ảnh hưởng đến các hệ
sinh thái rừng ngập mặn. Nuôi cá bè trên sông rạch, nuôi thâm canh thủy sản vùng

ngọt hóa đã gây nên các tác động đến chất lượng môi trường nước ở đây.
3. Nguyên nhân ô nhiễm môi trường
-

Do người dân ồ ạt đào ao không theo qui hoạch làm diện tích đào ao tăng lên

ảnh hưởng đến môi trường đất, môi trường nước và các hệ sinh thái trong phát triển
nuôi trồng thủy sản bị biến đổi gây suy thoái và làm ô nhiễm môi trường.
-

Do chính quyền địa phương chưa kiểm soát chặt chẽ diện tích nuôi, hệ thống

xử lý nước thải và do thái độ của người dân không quan tâm đến việc xử lý nước
thải và bùn đáy ao.
-

Thức ăn thừa trong quá trình nuôi cá được đưa thẳng ra sông, rạch.

-

Đa số những hộ nuôi cá tra hầm đều không xây dựng hệ thống ao lắng để xử

lý nước trước khi cho vào ao nuôi và xử lý nước thải trước khi thả ra sông rạch, đó
là nguyên nhân chính gây ô nhiễm nguồn nước.
-

Kỹ thuật nuôi cá truyền thống sử dụng nguồn thức ăn tự chế làm cho các vật

chất trong ao nuôi ngày càng tăng, lượng các hóa chất và kháng sinh sử dụng cho cá
trong quá trình nuôi tăng, chưa có ao xử lý chất thải trước khi thải ra môi trường

chiếm tỷ lệ cao (98% tổng số hộ nuôi).
-

Những người nuôi cá thường sử dụng các hóa chất vệ sinh cải tạo ao nuôi,

các vật tư chuyên dụng như vôi bột, chế phẩm sinh hóa học và các loại thuốc kháng
sinh, chất kích thích tăng trưởng cá với số lượng nhiều và gây nguồn nước ngày
càng trở nên ô nhiễm (Phạm Đình Đôn, 2008).
III.

ẢNH HƯỞNG TỪ CHẤT THẢI CỦA AO NUÔI TRỒNG THỦY SẢN

Quản lý môi trường nông nghiệp

Trang 12


Ảnh hưởng của nuôi trồng thủy sản đến môi trường ở ĐBSCL

Các công nghệ về sản xuất con giống, thức ăn, quy trình nuôi thủy sản thâm
canh ngày càng hoàn thiện, quy mô nuôi ngày càng tăng. Hoạt động này sẽ gây ra
áp lực tác động tiêu cực đến môi trường.
Vùng ĐBSCL đang phải gánh chịu sự suy giảm chất lượng nước ô nhiễm
môi trường do việc bùng phát thâm canh nuôi trồng thủy sản trong suốt hai thập
niên qua, cả về diện tích nuôi và mật độ nuôi thả tôm hoặc cá trên mỗi mét vuông
mặt nước. Một cách tính gần đúng, muốn có 1 kg cá da trơn thành phẩm, người
nông dân đã phải sử dụng từ 3 - 5 kg thức ăn. Thực tế chỉ khoảng 17%- 20 % thức
ăn được cá hấp thu và phần còn lại (chừng 80%) lẫn trong môi trường nước , lắng
xuống đáy và trở thành các chất hữu cơ phân hủy, đối với các ao nuôi công nghiệp,
chất thải trong ao có thể chứa 45% ni tơ và 22% chất hữu cơ khác, các nguồn khác

của chất thải hữu cơ còn do mảnh vụn thực vật phù du hoặc tảo dạng sợi, chất lắng
đọng hoà tan do nước lấy vào mang theo. Số liệu quan trắc ở các ao ,đầm nuôi cho
thấy nồng độ các chất ô nhiễm như oxy sinh hóa (BOD5), oxy hóa học (COD), tổng
lượng chất rắn lơ lửng (TSS), đạm tổng số (TKN), H 2S , NH3, tổng số Coliform, ...
vượt xa mức cho phép của tiêu chuẩn Việt Nam, và cứ 01 ha nuôi tôm sau khi thu
hoạch sẽ thải ra môi trường nước 133 kg nitơ, 43 kg phốt pho .... Nước ô nhiễm
cũng đã dẫn đến sự gia tăng nguồn bệnh chính cho người và thủy sản.
Các nghiên cứu của Boyd, 1985, Gross và cộng sự, 1998 cho thấy cá tra chỉ hấp
thu được 27 -30% Nitrogen, 16 – 30% photpho và khoảng 25% chất hữu cơ đưa vào
từ thức ăn. Các nghiên cứu của Yang, 2004 khi thử nghiệm nuôi cá tra trong 90
ngày cho thấy cá chỉ hấp thu được khoảng 37% hàm lượng N và 45% hàm lượng P
trong thức ăn cho vào ao nuôi như vậy, để đạt được sản lượng trung bình khoảng
150 tấn cá/ha với hệ số chuyển đổi thức ăn FRC là 1,6 cần sử dụng lượng thức ăn
tối thiểu là 240 tấn và lượng chất hữu cơ thải ra môi trường là 192 tấn.

Bảng 3:Ước lượng chất thải phát sinh từ 1ha nuôi cá tra
Cách tính
Sản lượng cá
Thức ăn sử dụng

Thức ăn chứa 5%N, 1,2%P,

Quản lý môi trường nông nghiệp

Khối lượng (tấn)
150
240
Trang 13



Ảnh hưởng của nuôi trồng thủy sản đến môi trường ở ĐBSCL

FCR=1,6
Chất thải phát sinh
Bằng 80% thức ăn khô
Chất thải dạng N
37% N được cá hấp thu
Chất thải dạng P
45% P được cá hấp thu
Chất thải dạng
0,22 kg BOD5/kg thức
BOD5
Khả

năng

ăn

(Wimberly, 1990)
phú
Bằng 2- 3 lần lượng thức ăn sử

192
7,6
2,88
52
480-7420

dưỡng của tảo
dụng

(Nguồn : TT nghiên cứu môi trường và xử lý nước tháng 6 năm 2008)
Như vậy, theo quy hoạch phát triển đến năm 2020 sản lượng cá tra nuôi
trồng tại ĐBSCL sẽ là 1.850.000 tấn thì lượng chất thải tương ứng là 2.368.000 tấn
chất hữu cơ trong đó có 93.240 tấn N; 19.536 tấn P và 651.200 tấn BOD 5, cùng với
1 lượng khoảng 100.000.000 tấn chất thải hữu cơ từ hoạt động nuôi tôm.Con số trên
là một giá trị khổng lồ đối với các vùng nuôi tập trung, với lượng thải trên nếu
không có giải pháp hạn chế sẽ là hiểm họa đối với môi trường nước vùng ĐBSCL
nói chung và đặc biệt nghiêm trọng đối với các vùng nuôi thủy sản tập trung.
1. Môi trường nước
Các chất thải là do thức ăn dư thừa, thối rữa bị phân hủy, các chất tồn dư
trong sử dụng hóa chất, kháng sinh, vôi, các loại khoáng chất Diatomit, Dolomit,
lưu huỳnh lắng đọng, các chất độc hại có trong đất phèn Fe 2+, Fe3+,Al3+, SO42-, các
thành phần chứa H2S, NH3... là sản phẩm của quá trình phân hủy yếm khí ngập
nước tạo thành, nguồn bùn phù sa lắng đọng trong các ao nuôi trồng thủy sản thải ra
hàng năm trong quá trình vệ sinh và nạo vét ao nuôi,…. tạo thành chất độc trong
môi trường nước. Đặc biệt, với các mô hình nuôi kỹ thuật cao, mật độ nuôi lớn như
nuôi thâm canh, nuôi công nghiệp... thì nguồn thải càng lớn và tác động gây ô
nhiễm môi trường càng cao. Chất thải ao nuôi công nghiệp có chứa trên 45%
nitrogen và trên 22% chất hữu cơ khác vượt mức cho phép làm mất cân bằng sinh
thái trong ao nuôi dẫn đến tình trạng cá bệnh, chết (Sở Tài Nguyên-Môi Trường
thành phố Cần Thơ).
Đối với các ao nuôi công nghiệp chất thải trong ao có thể chứa đến trên 45%
nitrogen và 22% là các chất hữu cơ khác. Các loại chất thải chứa nitơ và phốtpho ở
hàm lượng cao gây nên hiện tượng phú dưỡng môi trường nước phát sinh tảo độc
Quản lý môi trường nông nghiệp

Trang 14


Ảnh hưởng của nuôi trồng thủy sản đến môi trường ở ĐBSCL


trong môi trường nuôi trồng thủy sản. Đặc biệt, nguồn chất thải này lan truyền rất
nhanh đối với hệ thống nuôi cá bè trên sông, nuôi cá bao ví trong các đầm trũng
ngập nước... cùng với lượng phù sa lan truyền có thể gây ô nhiễm môi trường và
dịch bệnh thủy sản phát sinh trong môi trường nước.
2. Môi trường đất
Nước thải từ ao nuôi không được xử lý thải trực tiếp ra môi trường đất dẫn
đến tình trạng suy thoái môi trường đất .Việc đào đắp ao nuôi thủy sản, đào kinh
rạch cấp và thoát nước cũng như việc vệ sinh ao nuôi sau mùa thu hoạch đã làm cho
tầng phèn tiềm ẩn bị tác động bởi quá trình ôxy hóa sẽ diễn ra quá trình lan truyền
phèn rất mãnh liệt làm giảm độ pH môi trường nước, gây ô nhiễm môi trường và
dịch bệnh trong nuôi trồng.
Thêm vào đó, trong nước thải chứa rất nhiều đạm nếu không được quản lý
mà thải ồ ạt ra ruộng sẽ làm thừa đạm. Điển hình hàng trăm hộ dân ở thị trấn Tràm
Chim, huyện Tam Nông (Đồng Tháp) thu hoạch lúa với năng suất chỉ bằng 20-30%
nơi khác do trại nuôi cá gần đó xả nước thải ra ruộng làm lúa bị thừa đạm, lép hạt,
thậm chí thối hạt không thu hoạch được.
3. Ảnh hưởng tới sức khỏe con người
Nguồn tài nguyên nước ở những khu vực nuôi đang biến đổi cả về trạng thái
và chất lượng… không những đe dọa đến phát triển bền vững nền kinh tế - xã hội
mà còn ảnh hưởng đến sức khỏe của con người và các hệ sinh thái gần khu vực nuôi
(Phạm Đình Đôn.2007).
Hằng ngày, tại những vùng nuôi thuỷ sản tập trung thải ra một lượng lớn
nước thải làm cho nước ở những nơi này bị biến màu, người dân nghèo tại các khu
vực đó không có nước sạch nên phải sử dụng nguồn nước bị nhiễm bẩn này cho
sinh hoạt hàng ngày vì thế đã có dấu hiệu mắc một số chứng bệnh về da như: nỗi
mẫn đỏ, ngứa ngấy da,…. (An Nông. 2008)
Thêm vào đó bùn thải từ ao nuôi chứa nhiều vi khuẩn, vi rút, protozoa, ký
sinh trùng và các vi sinh vật khác có thể gây bệnh. Sử dụng bùn đáy ao nuôi để tạo
độ ẩm cho đất, dùng làm phân bón trực tiếp cho đất…đối với bùn đặc chưa được xử


Quản lý môi trường nông nghiệp

Trang 15


Ảnh hưởng của nuôi trồng thủy sản đến môi trường ở ĐBSCL

lý sẽ tạo ra một nguy cơ nhiễm bệnh nguy hiểm cho người khi tiếp xúc trực tiếp với
những sinh vật gây bệnh.
IV. GIẢI PHÁP HẠN CHẾ Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG TỪ SẢN XUẤT
THỦY SẢN
1. Tăng cường quản lý nhà nước:
-

Các cán bộ kỹ thuật phổ biến luật bảo vệ môi trường và quy định về kiểm
soát chất thải cho các hộ nuôi cá hiểu rõ (TTXVN, 2008).

-

Tăng cường thanh tra, kiểm tra, xử lý nghiêm các cơ sở, cá nhân gây ô nhiễm
môi trường, vận động nhân dân tham bảo vệ môi trường (TTXVN,2008).

-

Thành lập các đoàn công tác đến các vùng nuôi cá trọng điểm hướng dẫn xử
lý môi trường, đối với các đơn vị, hộ gia đình đang nuôi cá (Đức Thịnh,
2007).

-


Mở lớp tập huấn và chuyển giao khoa học kỹ thuật cho người nuôi, nhằm
nâng cao khả năng quản lý, ứng dụng kỹ thuật và công nghệ vào sản xuất
(Khoa học công nghệ và kinh tế thủy sản, 2007).

-

Chính quyền các cấp cần tập trung quan tâm đến bảo vệ môi trường trong
nuôi trồng thủy sản, bảo vệ môi trường trong các trang trại vùng sản xuất
nuôi trồng kinh tế hộ, bảo vệ môi trường nuôi thủy sản trên sông rạch...
nhằm giải quyết vấn đề cấp và thoát nước trong nuôi trồng thủy sản.

-

Quản lý và xử lý chất thải nuôi từ các ao nuôi,các vật tư hóa chất, các ch ế
phẩm hóa học và sinh học sử dụng trong các mô hình canh tác ở các vùng
kinh tế đáp ứng tiêu chuẩn môi trường và hạn chế dịch bệnh nuôi trồng thủy
sản lây nhiễm để phát triển bền vững nuôi trồng thủy sản.

-

Tổ chức kiểm tra thực tế và buộc người dân cam kết khắc phục tình trạng ô
nhiễm môi trường. Đồng thời, các địa phương nên yêu cầu các hộ nuôi cá
liền kề nhau có thể liên kết lại để xây dựng ao xử lý nước thải, bùn đáy ao
trước khi đổ ra sông, rạch.

-

Xây dựng quỹ bảo vệ môi trường nuôi thủy sản. Nguồn quỹ này do người
nuôi thủy sản đóng góp và sẽ sử dụng cho việc khắc phục tình trạng ô nhiễn

môi trường nước do nuôi trồng thủy sản gây ra.

Quản lý môi trường nông nghiệp

Trang 16


Ảnh hưởng của nuôi trồng thủy sản đến môi trường ở ĐBSCL

2. Giải pháp quy hoạch:
-

Trên cơ sở quy hoạch tổng thể của Bộ NN&PTNT, các địa phương cần xây
dựng quy hoạch chi tiết tùy theo tình hình cụ thể của địa phương mình dựa
trên những cơ sở về điều kiện tự nhiên, cơ sở hạ tầng.

-

Cần phải quy hoạch thủy lợi gắn với quy hoạch nuôi trồng thủy sản bảo đảm
hài hòa các tiêu chí vùng sinh thái.

-

Cần có sự phối hợp giữa các chuyên gia ở nhiều lĩnh vực khác nhau xây
dựng một số mô hình mẫu về đầu tư thủy lợi phục vụ nuôi trồng thủy sản
thực nghiệm qui mô đi từ nhỏ đến lớn.

-

Nhanh chóng hoàn thiện quy hoạch môi trường trên cơ sở phân vùng sinh

thái nhạy cảm với các vùng tiềm năng trong phát triển các mô hình canh tác
thủy sản nước mặn, nước ngọt và nước lợ... theo các cấp độ từ thấp tới cao
như nuôi trồng thủy sản tự nhiên, mật độ thấp, mô hình hợp sinh thái... cho
đến nuôi thâm canh, nuôi công nghiệp để bảo đảm cho phát triển lâu dài và
bền vững nuôi trồng thủy sản ở ÐBSCL.

-

Quy hoạch thủy sản phải gắn liền với quy hoạch môi trường trong các hệ
canh tác của các loại mô hình nuôi trồng thủy sản. Ðối với mô hình nuôi
trồng thủy sản thâm canh và công nghiệp, cần tập trung giải quyết vấn đề xử
lý nước cấp, quản lý chất lượng nước và xử lý chất thải nuôi trồng thủy sản
và quản lý dịch hại tổng hợp trong các mô hình canh tác.

3. Giải pháp về khoa học - kỹ thuật:
-

Khuyến khích người dân nuôi thủy sản thâm canh theo tiêu chuẩn nhà nước
hay các tiêu chuẩn quốc tế khác thân thiện với môi trường.

-

Đầu tư nghiên cứu làm rõ về thành phần chất thải theo thời gian nuôi thủy
sản, xác định rõ tải lượng các chất ô nhiễm từ các ao nuôi để trên cơ sở đó
tính toán diện tích và cách thức xử lý cho phù hợp.

-

Với đặc tính lượng chất thải lớn, thành phần chủ yếu là các chất dễ phân hủy
sinh học, các khu nuôi nằm gần các vùng sản xuất nông nghiệp nên giải pháp

thủy lợi cho vấn đề này là dẫn nước thải từ khu nuôi sử dụng cho các khu sản

Quản lý môi trường nông nghiệp

Trang 17


Ảnh hưởng của nuôi trồng thủy sản đến môi trường ở ĐBSCL

xuất nông nghiệp sẽ có tính khả thi và phù hợp với điều kiện về đất đai, cơ
sở hạn hạ tầng và trình độ quản lý của các địa phương.
-

Đầu tư nghiên cứu và xây dựng thử nghiệm mô hình xử lý chất thải phát sinh
từ nuôi thủy sản. Chú trọng đến giải pháp hồ sinh học kết hợp với cánh đồng
tưới nông nghiệp, trong đó phải làm rõ vấn đề điều kiện áp dụng, cách thức,
tỷ lệ diện tích, thời gian lưu, các vấn đề nước thải phú dưỡng, cân bằng dinh
dưỡng trong nước thải khi sử dụng cánh đồng tưới nông nghiệp (Trí Quang,
www.librexco.com).

4. Dùng chế phẩm sinh học:
• Chế phẩm sinh học đa năng Huđavil-Hud 5
Từ nguồn phế phẩm của các nhà máy sản xuất mía đường, các nhà khoa học
thuộc Viện Hóa học các hợp chất thiên nhiên đã nghiên cứu thành công quy trình
sản xuất chế phẩm sinh học đa năng Huđavil-Hud 5. Không chỉ khắc phục tình
trạng ô nhiễm của ngành mía đường, chế phẩm này còn đem lại lợi ích rõ rệt trong
việc xử lý môi trường của các hồ nuôi tôm sú, cá tra. Từ các chủng vi sinh vật phân
giải xenlulo ưa ẩm, vi sinh vật phân giải xenlulo ưa nhiệt, vi sinh vật hòa tan
photphat, vi sinh vật cố định đạm, các chủng vi sinh vật phân hủy các chất hữu cơ
dễ phân hủy, và một số chủng vi sinh vật mới được đưa vào sử dụng như vi sinh vật

nitrat hóa, vi sinh vật sunphat hóa, vi sinh vật quang hợp lưu huỳnh màu tía.
Khi sử dụng với liều lượng hợp lý cho hồ nuôi tôm cá, chế phẩm Hud5 tạo
sự cân bằng sinh thái cho hồ nuôi với sự có mặt của tôm (cá), tảo, thức ăn thừa,
phân của tôm cá. Cân bằng được đẩy lên cao mà không gây ô nhiễm nhờ sinh khối
và chất thải của cá thể này là thức ăn của cá thể khác.( Viện Hoá học các hợp chất
thiên nhiên,2010).
• Xử lý bằng chế phẩm SEMSR:
Làm sạch nước trong các ao tù, nước đọng lâu ngày, phục hồi hệ sinh thái
thủy vực tự nhiên để có thể nuôi được tôm cá. Xử lý nước và ngăn chặn hiện tượng
“phú dưỡng hóa” - nước có nhiều tảo có màu xanh lá cây trong các nước ao nuôi
thủy sản, làm sạch nền.

Quản lý môi trường nông nghiệp

Trang 18


Ảnh hưởng của nuôi trồng thủy sản đến môi trường ở ĐBSCL

• Xử lý bằng chế phẩm EM kết hợp PAC:
-

EM: men vi sinh dùng trong xử lý môi trường thủy sản (tôm, cá,…), xử
lý đáy ao; phân hủy xác bã hữu cơ, thức ăn thừa làm giảm độ đục, khử
nitrat, nitric, tăng vi sinh vật có ích trong nước,…phòng ngừa nhiễm bệnh
do ô nhiễm.

-

PAC: có tác dụng lắng tụ nhanh các chất rắn lơ lửng, chất thải của tôm

cá, làm sạch nước ao nuôi tôm cá. Hấp thụ khí độc hòa tan trong nước
như NH3, H2S, NO2,…Tăng hàm lượng oxy hòa tan trong nuuowcs nhờ
các phần tử hoạt động như SiO2, Al2O3.

V.

KẾT LUẬN & KIẾN NGHỊ
1. Kết luận:
Nuôi trồng thủy sản ở ĐBSCL có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển tuy

nhiên, nếu phát triển như hiện nay: các vùng nuôi thiếu tính quy hoạch, mới chỉ chú
ý đến phát triển diện tích và năng xuất trong nuôi trồng mà bỏ quên vấn đề bảo vệ
môi trường nuôi thì có thể nói nghề nuôi thủy sản ở ĐBSCL đang “bán dần” môi
trường để thu lợi nhuận và với hiện trạng này suy thoái môi trường do nuôi thủy sản
sẽ tác động tiêu cực đến nghề và là cản trở lớn nhất đến ổn định và phát triển nghề
trong thời gian tới. Vì vậy để nghề nuôi trồng thủy sản ở vùng ĐBSCL phát triển ổn
định, ngay từ bây giờ song song với quy hoạch phát triển nghề nuôi cần phải chú
trọng đến vấn đề quản lý môi trường trong đó vấn đề đặc biệt quan trọng là phải
nghiên cứu đưa ra được các biện pháp hợp lý, có tính ứng dụng thực tiễn để xử lý
được chất thải phát sinh trong nuôi trồng thủy sản.

2. Kiến nghị
-

Thực trạng này đang đặt vấn đề: quy hoạch vùng nuôi thủy sản hợp lý và sự

hỗ trợ liên hoàn của cơ quan chức năng về phương pháp kĩ thuật nuôi để bảo vệ môi
trường nước.
- Tổ chức kiểm tra thực tế và buộc người dân cam kết khắc phục tình trạng ô
nhiễm môi trường. Những trường hợp nuôi mới phải thực hiện ngay những yêu cầu

Quản lý môi trường nông nghiệp

Trang 19


Ảnh hưởng của nuôi trồng thủy sản đến môi trường ở ĐBSCL

về bảo vệ môi trường. Đồng thời, các địa phương nên yêu cầu các hộ nuôi cá liền kề
nhau có thể liên kết lại để xây dựng ao xử lý nước thải, bùn đáy ao trước khi đổ ra
sông, rạch.
- Nhà nước nên kết hợp với các viện, trường hay các tổ chức khoa học để
nghiên cứu các vấn đề về giống, nuôi trồng, bệnh, môi trường thủy sản; bảo vệ và
phát triển nguồn lợi thuỷ sản; công nghệ sau thu hoạch; nghiên cứu ứng dụng kỹ
thuật và công nghệ mới vào sản xuất, xây dựng đề án phát triển thủy sản bền vững,
tránh ô nhiễm môi trường nước.
- Khuyến khích các hộ nuôi thủy sản tập trung áp dụng các biện pháp xử lý
chất thải từ ao nuôi để hạn chế lượng chất thải ra môi trường.
- Nhà nước sớm ban hành qui trình nuôi bảo đảm chất lượng, an toàn vệ sinh
thực phẩm, bảo vệ môi trường theo chuẩn quốc tế; ban hành qui chuẩn quốc gia,
tiêu chuẩn kỹ thuật thủy sản nguyên liệu, thức ăn nuôi để có cơ sở kiểm tra, quản lý
chất lượng trong sản xuất kinh doanh, lưu thông phân phối mặt hàng này.

Quản lý môi trường nông nghiệp

Trang 20



×