Tải bản đầy đủ (.doc) (103 trang)

Vai trò của các thành phần kinh tế đối với sự phát triển kinh tế tri thức ở tỉnh Bình Dương hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (689.12 KB, 103 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN HỒNG NGỌC ẨN
VAI TRỊ CỦA CÁC THÀNH PHẦN KINH TẾ ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI
THỨC Ở TỈNH BÌNH DƯƠNG HIỆN NAY
Chun
ngành:
Triếtthành
học tại
Cơng
trình
được hồn
Mã số: 60.22.03.01
Học viện khoa học xã hội
Người hướng dẫn khoa học: TS. Hồ Anh Dũng

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HC
Phản biện 1: ........................................:.........................................................
.................................................................................................

Phản biện 2: .................................................................................................
.................................................................................................

Luận vn sẽ đợc bảo vệ trớc Hội đồng chấm luận vn thạc sĩ họp tại: Học viện
Khoa học xà hội................giờ..............ngày................tháng ............. năm..............

H NI - 2016

Có thể tìm hiểu luận văn tại: Th viện Häc viÖn Khoa häc X· héi




LỜI CAM ĐOAN


Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học độc lập của bản
thân, chưa được ai công bố, dưới sự hướng dẫn của TS. Hồ Anh Dũng. Những tư
liệu, trích dẫn trong luận văn là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng.
Tác giả luận văn

Trần Hồng Ngọc Ẩn


MỤC LỤC
MỤC LỤC....................................................................................................................4
Chương 1....................................................................................................................10
LÝ LUẬN CHUNG VỀ KINH TẾ TRI THỨC VÀ VẤN ĐỀ CÁC THÀNH PHẦN
KINH TẾ....................................................................................................................10
1.1. Kinh tế tri thức, đặc trưng của kinh tế tri thức, điều kiện hình thành và phát
triển kinh tế tri thức....................................................................................................10
1.1.1. Tri thức yếu tố cơ bản của kinh tế tri thức.......................................................10
1.1.2. Quan niệm về kinh tế tri thức...........................................................................13
1.1.3. Những đặc trưng cơ bản của nền kinh tế tri thức............................................16
1.1.4. Điều kiện hình thành và phát triển kinh tế tri thức..........................................20
1.2. Các thành phần kinh tế và mối quan hệ của nó trong việc phát triển kinh tế tri
thức.............................................................................................................................23
1.2.1. Các thành phần kinh tế ở nước ta hiện nay......................................................23
1.2.2. Mối quan hệ giữa các thành phần kinh tế với việc phát triển kinh tế tri thức.29
Kết luận chương 1......................................................................................................34
Chương 2....................................................................................................................35

TÁC ĐỘNG CỦA CÁC THÀNH PHẦN KINH TẾ ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN
KINH TẾ TRI THỨC Ở TỈNH BÌNH DƯƠNG HIỆN NAY...................................35
2.1. Thực trạng phát triển các thành phần kinh tế và ảnh hưởng đối với kinh tế tri
thức ở tỉnh Bình Dương hiện nay...............................................................................35
2.1.1. Khái quát những điều kiện kinh tế – xã hội, ảnh hưởng tới sự hình thành kinh
tế tri thức của tỉnh Bình Dương hiện nay...................................................................35
2.1.2. Ảnh hưởng các thành phần kinh tế tới phát triển kinh tế tri thức ở tỉnh Bình
Dương.........................................................................................................................37


2.2. Nguyên nhân thực trạng và các vấn đề còn đang đặt ra.....................................50
2.2.1. Nguyên nhân thực trạng...................................................................................50
2.2.2. Những vấn đề còn đang đặt ra..........................................................................60
2.3. Phương hướng và giải pháp nâng cao vai trò của các thành phần kinh tế đối với
sự phát triển kinh tế tri thức ở tỉnh Bình Dương hiện nay.........................................63
2.3.1. Phương hướng nâng cao vai trò các thành phần kinh tế trong phát triển kinh tế
tri thức ở tỉnh Bình Dương hiện nay..........................................................................63
Kết luận chương 2......................................................................................................78
KẾT LUẬN................................................................................................................79



PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cơng cuộc đổi mới mà Đảng, Nhà nước và toàn thể nhân dân ta đang
thực hiện đã góp phần to lớn vào sự phát triển kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa,
giáo dục… ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Sự nghiệp đổi mới được bắt đầu từ Đại hội Đảng lần thứ VI và tiếp tục bổ
sung trong các kỳ Đại hội Đảng tiếp theo với nội dung tập trung vào thay đổi cơ
cấu, đường lối, chính sách phát triển kinh tế, xã hội ở đất nước ta từ nền kinh tế

kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần định hướng
xã hội chủ nghĩa.
Việc đa dạng hóa thành phần kinh tế gắn liền với quá trình Việt Nam mở
cửa hội nhập với thế giới. Sự hội nhập đã tạo ra nhiều cơ hội cũng như những
thách thức trong việc phát triển kinh tế đất nước. Trong đó, khơng thể khơng
nhắc tới những tác động của sự phát triển nhảy vọt của khoa học – công nghệ
trong giai đoạn hiện nay. Sự phát triển khoa học – công nghệ đã thúc đẩy phát
triển kinh tế, mở ra nhiều lĩnh vực mới, giúp con người khai thác có hiệu quả hơn
đối với tài nguyên thiên nhiên, tạo điều kiện cho nhiều quốc gia vốn khơng giàu
có về tài nguyên nhưng vẫn có thể phát triển được đất nước... Muốn có được nền
kinh tế dựa trên khoa học – cơng nghệ thì tất yếu phải dựa vào sự phát triển tri
thức của con người và phát triển nó theo hướng nền kinh tế tri thức.
Nhận thấy rõ xu hướng tất yếu của thời đại, Đảng và Nhà nước ta đã
mạnh dạng chủ động đầu tư phát triển nền kinh tế tri thức thơng qua nhiều
chương trình nghiên cứu, ứng dụng khoa học – công nghệ và phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao.
Là một trong những địa phương trẻ, năng động ở khu vực Đông Nam Bộ
và Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, Bình Dương hiện nay đang có tốc độ phát
triển kinh tế nhanh, đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện và phát
triển. Những chuyển biến trong nền kinh tế của tỉnh chiếm một phần quan trọng
là nhờ công cuộc đổi mới, thực hiện kinh tế hàng hóa nhiều thành phần định
1


hướng xã hội chủ nghĩa mà Đảng và Nhà nước ta thực hiện. Bên cạnh đó, cũng có
một phần là nhờ vào sự đầu tư, phát triển nền kinh tế tri thức của Đảng bộ, chính
quyền cùng với nhân dân tỉnh Bình Dương thơng qua các chương trình đầu tư
giáo dục, xây dựng các khu công nghệ cao, nghiên cứu và chuyển giao công nghệ,
hợp tác đầu tư…
Việc phát triển kinh tế tri thức không phải chỉ dừng lại bởi đường lối,

chính sách của Đảng và Nhà nước hay chủ trương, chính sách của tỉnh mà trực
tiếp nhất vẫn là các thành phần kinh tế.
Trong quá trình phát triển, các thành phần kinh tế ở Bình Dương cũng
chịu sự tác động xu thế phát triển khoa học – công nghệ hiện đại chung của thế
giới; trước xu hướng này muốn tồn tại và phát triển buộc các thành phần kinh tế
phải thay đổi, sự thay đổi này giúp các thành phần kinh tế định hình vị thế khác
nhau trong nền kinh tế của tỉnh. Sự thay đổi này thể hiện ở việc đưa khoa học –
công nghệ mới, hiện đại vào sản xuất cũng như hàm lượng tri thức được tạo ra
bởi người lao động ngày càng tăng lên. Quá trình này diễn ra có sự chênh lệch
lớn và khoảng cách nhất định giữa các thành phần kinh tế, những điều này ảnh
hưởng lớn đến vị thế, vai trò trong việc phát triển kinh tế tri thức cũng như chính
sách phát triển kinh tế – xã hội của Bình Dương. Cho nên việc nghiên cứu đề tài
“Vai trò của các thành phần kinh tế đối với sự phát triển kinh tế tri thức ở
tỉnh Bình Dương hiện nay” là có ý nghĩa cần thiết về lý luận và thực tiễn đối
với tiến trình xây dựng và phát triển tỉnh nói chung, kinh tế tri thức nói riêng
trong giai đoạn hiện nay, đó cũng là lý do chọn đề tài luận văn của tác giả.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Kinh tế tri thức hình thành và phát triển ở nhiều nơi trên thế giới, trong
đó có Việt Nam. Những lợi ích mà kinh tế tri thức đem lại cho những nước phát
triển, cũng như một số nền kinh tế mới nổi ở châu Á đã đòi hỏi phải nghiên cứu,
làm rõ để tận dụng, khai thác và phát triển kinh tế – xã hội ở nước ta.

2


Nhóm thứ nhất, các cơng trình nghiên cứu về kinh tế tri thức và
vai trò của kinh tế tri thức. Ở nhóm này, đã có nhiều cơng trình nghiên cứu của
nhiều học giả, nhà khoa học ở nhiều góc độ, cấp độ, khía cạnh khác nhau.
Trước tiên là sách “Kinh tế tri thức thời cơ và thách thức đối với sự phát
triển và những vấn đề đặt ra với Việt Nam” (2004), Nhà xuất bản Chính trị Quốc

gia, Hà Nội, 2004 do GS.TS Đặng Hữu viết. Cơng trình này của GS.TS Đặng Hữu đã
trình bày, đưa ra vai trị của khoa học – công nghệ, cách mạng khoa học – công
nghệ hiện đại đối với phát triển kinh tế tri thức, chỉ ra khái niệm và một số tham
số có liên quan đến kinh tế tri thức, nêu lên cơ hội để rút ngắn cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa thơng qua phát triển kinh tế tri thức, một số giải pháp để phát triển
kinh tế tri thức ở nước ta gắn với cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Cuốn “Vai trị của tri thức khoa học trong sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay” (2009), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà
Nội của TS. Trần Hồng Lưu đã làm rõ những chuyển biến về kinh tế – xã hội do
cách mạng khoa học – công nghệ hiện đại mang lại, vai trò của tri thức và kinh tế
tri thức trong thời đại ngày nay, vai trị của cơng nghệ thơng tin trong phát triển
kinh tế tri thức, khả năng phát triển kinh tế tri thức ở các nước đang phát triển
và Việt Nam.
Năm 2001, Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội dịch và xuất bản cuốn
“Kinh tế tri thức – xu thế mới của xã hội thế kỷ XXI” của GS. Ngô Quý Tùng, một
học giả có uy tín Trung Quốc. Tác giả đã chỉ ra xu thế tất yếu trong tương lai của
kinh tế tri thức, việc nghiên cứu và chuẩn bị bước vào nền kinh tế tri thức là cần
thiết và cấp bách. Cơng trình này cũng đã nêu sự ra đời các khái niệm, nội dung,
đặc điểm của kinh tế tri thức. Việc phát triển kinh tế gắn với phát triển khoa học
– công nghệ hiện đại là một xu hướng tồn cầu, trong đó nổi bật là các ngành địi
hỏi cơng nghệ, kỹ thuật cao như: cơng nghệ thơng tin, vật liệu mới, năng lương
mới, công nghệ sinh học... Những vấn đề xã hội mà nền kinh tế tri thức đem đến.
Các giải pháp để phát triển kinh tế tri thức, trong đó chú trọng đào tạo nguồn
nhân lực.
3


Cuốn “Lực lượng sản xuất mới và kinh tế tri thức” được Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia xuất bản năm 2006 của tập thể tác giả do GS.TSKH Vũ Đình Cự
và PGS.TS Trần Xn Sầm đồng chủ biên. Nhóm tác giả đã trình bày, phân tích

một số nội dung về kinh tế tri thức có liên quan được đưa ra trong các văn kiện
của Đảng. Cơng trình tập trung chỉ ra những thành tựu mà cuộc cách mạng khoa
học – công nghệ hiện đại đã làm thay đổi về chất của lực lượng sản xuất, hình
thành lực lượng sản xuất mới. Phân tích, làm rõ việc phát triển kinh tế tri thức có
tác động mạnh mẽ đối với phát triển lực lượng sản xuất. Sự đòi hỏi phải xây
dựng lực lượng sản xuất mới, hiện đại để đáp ứng việc phát triển, ứng dụng khoa
học – công nghệ vào sản xuất thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội.
TS. Nguyễn Thị Ngọc Hương trong luận án tiến sĩ triết học “Phát triển
kinh tế tri thức ở Việt Nam trong bối cảnh tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế”, TP.
Hồ Chí Minh, 2014, đã làm rõ những nội dung cơ bản về kinh tế tri thức, tồn cầu
hóa, thực trạng và giải pháp phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam trong bối
cảnh tồn cầu hóa và kinh nghiệm thực hiện điều này ở một số nước công nghiệp
phát triển và bài học cho Việt Nam.
TS. Cao Quang Xứng với luận án tiến sĩ kinh tế “Tác động của kinh tế tri
thức đến q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân ở Việt
Nam”, Hà Nội, 2008, đã phân tích các nội dung về kinh tế tri thức, cơng nghiệp
hóa và hiện đại hóa gắn với kinh tế tri thức, thực trạng và giải pháp để thực hiện
cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức.
Ngồi ra, cịn có nhiều cơng trình của các tác giả khác liên quan đến phát
triển kinh tế tri thức như: PGS.TS Trần Cao Sơn với “Môi trường xã hội nền kinh
tế tri thức những nguyên lý cơ bản”, Nhà xuất bản Khoa học – Xã hội (2004); TS.
Nguyễn Thị Luyến, “Nhà nước với phát triển kinh tế tri thức trong bối cảnh tồn
cầu hóa”, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội (2005); TS. Trần Văn Tùng,
“Nền kinh tế tri thức và yêu cầu đổi mới giáo dục Việt Nam”, Nhà xuất bản Thế
giới (2001). Các cơng trình nghiên cứu này đã khái quát, phân tích, làm rõ các
khái niệm, đặc trưng của kinh tế tri thức; quá trình thực hiện kinh tế tri thức ở
4


Việt Nam; chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế tri

thức; những thành tựu, hạn chế và giải pháp phát triển kinh tế tri thức.
Nhóm thứ hai, những cơng trình nghiên cứu về các thành phần
kinh tế và vai trò các thành phần kinh tế đối với phát triển kinh tế – xã
hội.
Bàn về vấn đề này đầu tiên phải nói đến đó là các văn kiện của Đảng mà
chủ yếu là văn kiện từ Đại hội Đảng lần thứ VI cho đến nay. Bên cạnh đó, là các
giáo trình viết về kinh tế chính trị như: “Giáo trình kinh tế chính trị” (2006), Nhà
xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội của Bộ Giáo dục và Đào tạo; “Giáo trình Kinh
tế học Chính trị Mác – Lênin” (2005), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội
của Hội đồng trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ mơn khoa
học Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh. Các văn kiện và giáo trình này đã trình
bày khái quát lý luận về số lượng, đặc điểm, tính chất, vị trí, mối quan hệ giữa các
thành phần kinh tế trong nền kinh tế nước ta.
Sách “Vấn đề sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam” (2010), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội của GS.TS
Nguyễn Kế Tuấn đã làm rõ một số lý luận về vấn đề sở hữu; thực trạng và giải
pháp vấn đề sở hữu, các thành phần kinh tế và loại hình doanh nghiệp ở Việt
Nam.
Năm 2010, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội cho xuất bản cuốn
sách “Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp theo thành phần kinh tế ở Việt
Nam – Nghiên cứu điển hình tại thành phố Đà Nẵng” của PGS.TS Nguyễn Trường
Sơn. Sách này trình bày, phân tích về năng lực, lợi thế cạnh tranh, vai trò giữa
các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế ở Đà Nẵng; các yếu tố từ bên
trong và bên ngoài tạo nên sự cạnh tranh của các doanh nghiệp thuộc các thành
phần kinh tế.
Bên cạnh các cơng trình viết về tổng thể các thành phần kinh tế thì có rất
nhiều cơng trình bàn về vị trí, vai trị, đặc điểm của từng thành phần kinh tế.

5



Cơng trình của GS.TS Bùi Quang Trung, “Mơ hình tập đoàn kinh tế nhà
nước ở Việt Nam đến năm 2020” (2013), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, đã lý giải về sự hình thành các tập đồn kinh tế của nhiều nước trên thế giới,
về chủ trương của Đảng và Nhà nước trong việc xây dựng các tập đồn kinh tế
nhà nước; tác giả cịn chỉ ra vị trí, vai trị đầu tàu của tập đồn kinh tế nhà nước
đối với nền kinh tế và con đường quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
PGS.TS Lương Minh Cừ – ThS. Vũ Văn Thư với “Sở hữu tư nhân và kinh tế
tư nhân ở Việt Nam hiện nay, một số nhận thức về lý luận và thực tiễn ” (2011),
Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Tập thể tác giả đã làm rõ về sở hữu, đa
dạng hóa hình thức sở hữu ở nước ta; vị trí, vai trị sở hữu tư nhân, kinh tế tư
nhân trong lịch sử thế giới và Việt Nam, rút các bài học kinh nghiệm, giải pháp,
quy luật vận động của nó.
Năm 2010, Bộ Kế hoạch và Đầu tư Vụ Hợp tác xã cho tái bản bổ sung
cuốn sách “Một số nội dung cơ bản chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước về kinh tế tập thể”, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Sách đã phân
tích nội dung về kinh tế hợp tác xã ở Việt Nam qua các kỳ Đại hội Đảng, các văn
bản pháp luật, kinh nghiệm mơ hình hợp tác xã ở một số nước trên thế giới và
thực tiễn ở nước ta.
Ngồi các cơng trình nghiên cứu trên, luận văn cũng tham khảo, kế thừa
chọn lọc các bài viết, bài nghiên cứu từ các tạp chí, trang mạng uy tín như: Tạp
chí Cộng sản, Tạp chí triết học, Tạp chí Thơng tin Khoa học Xã hội…
Tổng thể các cơng trình nghiên cứu khoa học trên đã đề cập sâu sắc ở
nhiều khía cạnh khác nhau về kinh tế tri thức, vai trò kinh tế tri thức; các thành
phần kinh tế và vai trò các thành phần kinh tế đối với phát triển kinh tế – xã hội.
Các tác giả đã làm rõ những quan niệm, đặc điểm, vai trò của kinh tế tri thức và
giải pháp phát triển nó ở Việt Nam; chỉ ra sự hình thành, đặc điểm, vị trí và vai
trò của các thành phần kinh tế đối với nước ta và ở một số địa phương. Tuy
nhiên, chưa có cơng trình kết hợp giữa vấn đề các thành phần kinh tế với phát
triển kinh tế tế tri thức; các cơng trình này chưa đề cập và làm rõ về kinh tế tri

6


thức ở tỉnh Bình Dương, chưa chỉ ra vị thế các thành phần tế trong việc phát
triển kinh tế tri thức ở đây. Do vậy, luận văn trên cơ sở kế thừa có chọn lọc các
cơng trình nghiên cứu khoa học của các tác giả đi trước, vận dụng lý giải những
mặt mạnh, yếu của các thành phần kinh tế trong việc phát triển kinh tế tri thức ở
tỉnh Bình Dương; làm rõ nguyên nhân và đưa ra giải pháp để các thành phần
kinh tế ngày càng phát huy tốt hơn vai trị của mình trong việc phát triển kinh tế
tri thức.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ lý luận về kinh tế tri thức, các thành phần kinh tế nước
ta hiện nay, mối quan hệ giữa các thành phần kinh tế với phát triển kinh tế tri
thức; luận văn vận dụng đánh giá thực trạng vai trò các thành phần kinh tế
trong sự phát triển kinh tế tri thức ở tỉnh Bình Dương và đề xuất các giải pháp
cơ bản để nâng cao vai trò của các thành phần kinh tế đối với sự phát triển kinh
tế tri thức của tỉnh hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được các mục tiêu trên, luận văn tập trung giải quyết các nhiệm
vụ sau:
Một là, làm rõ lý luận chung về kinh tế tri thức, về các thành phần kinh tế
Việt Nam hiện nay và mối quan hệ giữa các thành phần kinh tế với phát triển
kinh tế tri thức.
Hai là, phân tích thực trạng vai trị của các thành phần kinh tế trong việc
phát triển kinh tế tri thức ở tỉnh Bình Dương qua những thành tựu, hạn chế,
nguyên nhân, thực trạng và những vấn đề đang đặt ra.
Ba là, đề xuất một số phương hướng, giải pháp để phát huy hơn nữa vai
trò các thành phần kinh tế trong việc phát triển kinh tế tri thức ở tỉnh Bình
Dương.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu của luận văn
7


Đề tài chủ yếu tập trung nghiên cứu thực tế phát triển kinh tế tri thức
của các thành phần kinh tế ở tỉnh Bình Dương từ thời kỳ đổi mới.
4.2. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Về nội dung, luận văn chủ yếu nghiên cứu vai trò của các thành phần
kinh tế đối với sự phát triển kinh tế tri thức ở tỉnh Bình Dương.
Về khơng gian, luận văn tập trung nghiên cứu về những vấn đề liên quan
đến kinh tế tri thức ở tỉnh Bình Dương.
Về thời gian, chủ yếu từ Đại hội Đảng lần thứ VI cho đến nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở thế giới quan và phương pháp
luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước về đa dạng hóa các thành phần kinh tế, phát triển
kinh tế tri thức.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng kết hợp một số phương pháp nghiên cứu chuyên
ngành, liên ngành, kết hợp một số phương pháp như: phân tích và tổng hợp;
thống kê, phân tích số liệu, logic, và lịch sử, so sánh đối chiếu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Về ý nghĩa lý luận
Luận văn góp phần làm rõ thêm lý luận về phát triển kinh tế tri thức, sự
diễn ra của phát triển kinh tế tri thức trong các thành phần kinh tế và vai trò của
từng thành phần kinh tế trong việc phát triển kinh tế tri thức ở nước ta nói
chung, của tỉnh Bình Dương nói riêng.
6.2. Về ý nghĩa thực tiễn

Kết quả luận văn góp phần xác định cơ sở lý luận và thực tiễn giúp các
doanh nghiệp ở Bình Dương hoạch định kế hoạch phát triển kinh tế tri thức.

8


Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho sinh viên và học viên
cao học các chuyên ngành triết học, chủ nghĩa xã hội khoa học và khoa học chính
trị.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận
văn được kết cấu thành 2 chương, 5 tiết và 12 mục.

9


Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ KINH TẾ TRI THỨC VÀ VẤN ĐỀ CÁC THÀNH
PHẦN KINH TẾ
1.1. Kinh tế tri thức, đặc trưng của kinh tế tri thức, điều kiện hình
thành và phát triển kinh tế tri thức
1.1.1. Tri thức yếu tố cơ bản của kinh tế tri thức
Loài người vốn bắt nguồn từ giới động vật, nhưng phát triển bỏ xa giới
động vật. Sở dĩ như vậy là vì con người luôn nhận thức và cải tạo thế giới. Sản
xuất vật chất là hoạt động cơ bản, đặc trưng riêng của con người, là hoạt động
có mục đích, có kế hoạch nhằm tác động cải tạo, biến đổi các sự vật của giới tự
nhiên, tạo ra của cải vật chất phục vụ nhu cầu ngày càng cao của con người và
xã hội. Để tiến hành sản xuất đạt hiệu quả mong muốn địi hỏi con người phải có
hiểu biết đúng đắn về cấu trúc, về bản chất và các quy luật chi phối các sự vật,
hiện tượng của thế giới khách quan. Vì thế cùng với quá trình phát triển sản

xuất, con người không ngừng nhận thức thế giới và thu nhận ngày càng nhiều tri
thức, hình thành nên các lĩnh vực khoa học.
Khái niệm tri thức được hiểu là kết quả của quá trình nhận thức, là
những hiểu biết, phản ánh các sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan vào
trong bộ óc của con người.
Thế giới vật chất là vô cùng, vô tận, phong phú, đa dạng. Vì thế ý thức với
tư cách là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, ý thức của con người cũng
chứa đựng các tri thức phong phú, đa dạng về thế giới. Các tri thức khác nhau có
vị trí, vai trò khác nhau trong việc tác động, chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con
người. Tùy theo các tiêu chí làm cơ sở, mà chúng ta có thể phân chia tri thức của
con người thành nhiều loại khác nhau.

10


Nếu căn cứ vào các lĩnh vực khách thể nhận thức, chúng ta có thể chia tri
thức thành các loại: tri thức về giới tự nhiên, tri thức về xã hội, tri thức về con
người, về cuộc sống, tri thức kinh tế, tri thức chính trị…
Nếu căn cứ vào mức độ phản ánh, có thể chia ra làm hai loại: tri thức sai
lầm, tri thức đúng đắn chân thực (hay còn gọi là chân lý).
Căn cứ vào cấp độ phản ánh, có thể chia ra: tri thức thơng thường, tri
thức khoa học.
Tri thức thông thường là kết quả của nhận thức thơng thường (hay cịn
gọi là nhận thức thường ngày), nhận thức thường ngày là quá trình nhận thức
diễn ra một cách tự phát, rời rạc, khơng có kế hoạch. Tri thức thơng thường đa
dạng, phong phú, nhưng khơng có hệ thống, thiếu sự khái quát, chưa được thực
tiễn kiểm nghiệm.
Còn tri thức khoa học là kết quả của quá trình nhận thức khoa học, hình
thành một cách tự giác, tích cực, chủ động, có kế hoạch, trừu tượng và khái quát
cao. Tri thức khoa học là một hệ thống những tri thức hiểu biết phản ánh chân

thực về các sự vật, hiện tượng của thế giới. Vì thế “tri thức khoa học phải có tính
hệ thống và tính có căn cứ” [25, tr.369], điều này thể hiện qua một “hệ thống
chỉnh thể các khái niệm, phạm trù, quy luật, có liên hệ nội tại với nhau mang tính
chân thực” [25, tr.369], bên cạnh đó các dữ liệu, cơng cụ, phương pháp… để tiến
hành hoạt động tìm ra tri thức khoa học phải đảm bảo tính tin cậy, phản ánh xác
và đúng với hiện thực.
Tri thức khoa học tìm ra những chân lý, quy luật để giải quyết những gì
đang diễn ra ở hiện tại, đã xảy ra ở quá khứ và dự báo, định hướng ở tương lai.
Nhận thức thông thường và nhận thức khoa học là hai cấp độ thấp, cao
khác nhau của q trình nhận thức có quan hệ biện chứng tác động qua lại lẫn
nhau. Tuy nhiên tri thức khoa học không bắt nguồn trực tiếp từ tri thức thơng
thường, mà được hình thành tương đối độc lập từ hoạt động nhận thức khoa
học. Tri thức khoa học là kết quả của quá trình lao động miệt mài, chăm chỉ của
đội ngũ những nhà khoa học mới có thể tìm ra nó. Q trình này cần nhiều thời
11


gian, cơng sức, có thể là vài năm, vài chục năm, thậm chí là vài thế kỷ. Do nắm
được bản chất sự vật nên tri thức khoa học giúp con người hiểu biết hơn về thế
giới xung quanh và giải quyết vấn đề thực tiễn một cách đúng đắn, hiệu quả. Con
người nhờ tri thức khoa học mà đã hiểu biết cấu tạo cơ thể sống của mình và
nhiều loại sinh vật, ứng dụng nó vào y học, sản xuất nông nghiệp; đặc biệt con
người đã sản xuất ra những vật dụng, công cụ, vật liệu, phương tiện mới mà
trước đây chỉ có trong trí tưởng tượng của con người thì nay đã thành hiện thực,
nó giúp đời sống con người trở nên tốt đẹp hơn.
Những tri thức khoa học con người tìm được chỉ có ý nghĩa khi được
thực tiễn kiểm nghiệm và chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người. Do thực
tiễn thường xuyên biến đổi vì thế việc nhận thức khoa học cũng phải thay đổi
theo để phục vụ có hiệu quả cho hoạt động thực tiễn.
Tri thức khoa học luôn thúc đẩy sự tiến lên của lịch sử nhân loại. Sự phát

triển của khoa học – công nghệ luôn song hành cùng với tri thức khoa học. Nó
thúc đẩy sản xuất phát triển và hàm lượng tri thức khoa học được kết tinh trong
hàng hóa khơng ngừng tăng lên. Nó thể hiện ở chỗ tri thức khoa học trở thành
điểm xuất phát, ra đời nhiều ngành sản xuất mới, công cụ sản xuất mới, công nghệ
mới, ngun liệu mới... mà cơng dụng nó vừa tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, chi
phí sản xuất thấp mà công dụng cao hơn nhiều lần. Sự phát triển tri thức khoa học
không xa rời hoạt động kinh tế con người, vì thế làm cho đội ngũ lao động có tri
thức khoa học ngày càng sử dụng nhiều vào sản xuất. Sự phát triển của khoa học –
công nghệ mà đặc biệt là từ sau cuộc cách mạng khoa học – công nghệ hiện đại
đã làm con người nhận ra tri thức ngày càng trở thành yếu tố không thể thiếu,
thậm chí là quyết định đến sự phát triển kinh tế. Khoa học – công nghệ và tri thức
khoa học đóng vai trị quyết định trong sự phát triển của lực lượng sản xuất và
dần trở thành lực lược sản xuất trực tiếp, đưa con người vào nền kinh tế tri thức.
Những nội dung này chứng minh tri thức khoa học là yếu tố khơng thể thiếu, nó
thể hiện bản chất của kinh tế tri thức.

12


Như vậy, có thể thấy rằng những tri thức con người có được từ nhận
thức có ý nghĩa quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển lịch sử xã hội lồi
người. Mỗi loại tri thức có ý nghĩa và vai trị riêng biệt của mình. Tuy nhiên để có
một đất nước có nền kinh tế phát triển, người dân có mức sống cao, hạnh phúc…
thì khơng thể khơng có tri thức khoa học và để thực hiện điều này thì tri thức
phải đưa vào quá trình sản xuất vật chất, vì suy cho cùng phần lớn tri thức khoa
học cịn người tìm tịi dùng để phục vụ sản xuất vật chất. Vì thế phát triển và ứng
dụng tri thức khoa học là cần thiết, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế ở nước ta.
1.1.2. Quan niệm về kinh tế tri thức
Sự phát triển của tri thức nói chung và tri thức khoa học nói riêng đã
đưa sản xuất của con người không ngừng phát triển, làm thay đổi các nền kinh tế

trong lịch sử. Mà kinh tế được hiểu là toàn bộ hoạt động sản xuất, phân phối,
trao đổi, tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ của con người và xã hội; kinh tế cũng thể
hiện trình độ sản xuất và các quan hệ xã hội trong nền sản xuất đó.
Trong tiến trình lịch sử của nhân loại tất yếu sẽ trải qua các giai đoạn
kinh tế khác nhau theo chiều hướng ngày càng phát triển đi lên; sự phát triển
này là sự phát triển của sản xuất và nó ln đồng hành với tri thức của con
người, vì dù ở giai đoạn kinh tế nào thì con người luôn vận dụng tri thức vào sản
xuất từ kinh tế tự nhiên, kinh tế nông nghiệp, kinh tế công nghiệp cho đến kinh tế
tri thức. Nhưng giữa chúng có sự khác nhau trong việc vận dụng và hàm lượng
tri thức chứa trong nó.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất và khoa học – cơng nghệ đã thúc
đẩy hình thành các cuộc cách mạng kỹ thuật làm thay đổi toàn diện đời sống
kinh tế – xã hội của con người. Sự thay đổi do các cuộc cách mạng kỹ thuật tạo
nên trong mỗi thời kỳ lịch sử sẽ có vị thế, vai trò và mức độ tác động khác nhau.
Trong các cuộc cách mạng kỹ thuật nổi bật là cuộc cách mạng kỹ thuật diễn ra ở
cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX đã đưa nền sang xuất từ nông nghiệp lên công
nghiệp và cuộc cách mạng kỹ thuật diễn ra từ giữa thế kỷ XX cho đến hiện nay đã
13


chuyển nền kinh tế công nghiệp lên nền kinh tế tri thức. Với sự ra đời của kinh tế
tri thức đánh dấu sự thay đổi trong đời sống kinh tế – xã hội của con người, con
người tiến vào thời đại mà trí tuệ, tri thức trở thành sức mạnh của sự phát triển.
Kinh tế tri thức về mặt thuật ngữ xuất hiện bởi các nhà lý luận phương
Tây nêu lên vào khoảng những năm 80 của thế kỷ XX. Đây là sự nối tiếp quan
niệm về “nền văn minh trí tuệ” mà Alvin Toffler đã đưa ra trong cuốn “Nền văn
minh thứ ba” từ đầu thập niên 70 của thế kỷ XX.
Có nhiều quan niệm về kinh tế tri thức trong đó phải kể đến một quan
niệm phổ biến do OECD và APEC đưa ra, theo đó: “Kinh tế tri thức là nền kinh tế
trong đó sự sản sinh ra, truyền bá và sử dụng tri thức là động lực chủ yếu nhất

của tăng trưởng, tạo ra của cải, tạo việc làm trong tất cả các ngành kinh tế” [31,
tr.98]. Quan niệm này nhấn mạnh trong nền sản xuất hiện đại việc tạo ra và sử
dụng tri thức trong tất cả lĩnh vực là nền tảng của toàn bộ nền kinh tế.
Giáo sư Ngơ Q Tùng thì cho rằng kinh tế tri thức là: “nền kinh tế mà
trong nó nhân tố quan trọng nhất là việc chiếm hữu, phân phối nguồn trí lực và
về việc sáng tạo, phổ biến và sử dụng tri thức trong các ngành sản xuất có hàm
lượng khoa học cơng nghệ cao” [57, tr.29]. Quan niệm này cho thấy trong nền
kinh tế tri thức thì tri thức như một dạng tài nguyên, việc sử dụng, chiếm hữu nó
so với các dạng tài nguyên thiên nhiên là quan trọng hơn; các ngành đòi hỏi khoa
học – công nghệ cao bắt buộc phải sử dụng nhiều tri thức; tri thức là yếu tố cơ
bản bắt buộc phải có trong nền kinh tế tri thức.
Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về kinh tế tri thức bắt đầu được
đưa vào từ Đại hội IX. Qua các kỳ Đại hội Đảng quan niệm về kinh tế tri thức
không có điều chỉnh nhiều, nhìn chung Đảng ta quan niệm kinh tế tri thức là kinh
tế mà các sản phẩm và ngành có giá trị cao dựa trên nền tảng tri thức ngày càng
chiếm tỷ trọng lớn trong toàn bộ nền kinh tế. Bên cạnh đó, là sự đổi mới công
nghệ và phát triển nguồn nhân lực, kinh tế tri thức gắn liền và tạo điều kiện thúc
đẩy nhanh sự nghiệp cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa ở nước ta thông qua tận

14


dụng những thành tựu khoa học – công nghệ mới, tiên tiến hiện nay đưa vào sản
xuất.
Tiến sĩ Hồ Anh Dũng thì đưa ra định nghĩa: “Kinh tế tri thức là nền kinh
tế mà trong đó, sự sản sinh, phát triển, chuyển giao và sử dụng tri thức giữ vai
trò chủ đạo đối với quá trình sản xuất ra của cải vật chất và nâng cao không
ngừng mọi mặt đời sống xã hội” [12, tr.11]. Định nghĩa này muốn nhấn mạnh sự
phát triển không ngừng của tri thức và phổ biến trong sản xuất và đời sống sẽ
thúc đẩy sự đi lên của sản xuất và đời sống của con người.

Theo GS. Đặng Hữu, kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh,
phổ cập, sử dụng tri thức giữ vai trị mang tính quyết định đối với phát triển kinh
tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống của con người và xã hội [66,
tr.21]. Quan niệm này cho thấy vẫn còn kinh tế nơng nghiệp, cơng nghiệp theo
kiểu truyền thống khơng địi hỏi cao về tri thức và công nghệ với tỷ lệ thấp, chiếm
đa số là các ngành kinh tế dựa vào tri thức và khoa học – công nghệ hiện đại và
nó giữ vai trị chủ đạo, quyết định đến đời sống kinh tế – xã hội.
Trong các quan niệm trên tác giả đồng ý với quan niệm của của TS. Hồ
Anh Dũng và GS. Đặng Hữu. Vì các quan niệm này đã nhấn mạnh tri thức giữ vai
trò quan trọng trong nền kinh tế, nó góp phần tạo ra sản phẩm có giá trị cao; sự
phổ biến tri thức là hoạt động thường xuyên, bắt buột và đẩy mạnh ứng dụng tri
thức vào hoạt động sản xuất để tạo ra tăng trưởng kinh tế, đưa đời sống kinh tế
– xã hội con người đi lên.
Như vậy, khái quát lại, kinh tế tri thức là kinh tế trong đó khoa học –
công nghệ, sự sáng tạo tri thức của con người được sản sinh, sử dụng,
phát triển và phổ biến ngày càng sâu, rộng trong lao động sản xuất và
đồng thời thúc đẩy sự phát triển đời sống xã hội con người ngày càng tốt
hơn, văn minh hơn.
Kinh tế tri thức dựa trên sự phát triển của khoa học – công nghệ, sự vận
dụng khoa học – công nghệ vào sản xuất thông qua đổi mới tư liệu sản xuất từ
đối tượng lao động với nhiều loại mới khơng có sẵn trong tự nhiên và một số có
15


thể thay thế được; cho đến hệ thống phục vụ sản xuất từ cơ sở hạ tầng cho đến
vật chứa bảo quản ngày càng hiệu quả và tiết kiệm hơn; đặc biệt là công cụ sản
xuất không ngừng hiện đại, tinh vi. Bên cạnh đó, nó cịn phát triển trình độ, khả
năng của con người; quá trình sử dụng tri thức ngày càng nhiều và đi vào chiều
sâu thúc đẩy nhiều ý tưởng kinh doanh, tối ưu sản xuất và sáng tạo ra sản phẩm
mới; việc phổ biến, tiếp cận tri thức trở nên dễ dàng hơn giúp con người lao động

hiệu quả hơn, đồng thời nó cũng nâng cao đời sống con người. Những điều này
chứng minh kết luận chính xác của Mác về khả năng khoa học cơng nghệ sẽ trở
thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
1.1.3. Những đặc trưng cơ bản của nền kinh tế tri thức
Thứ nhất, nền kinh tế tri thức lấy tri thức mà đặc biệt là tri thức
khoa học làm nền tảng, làm lực lượng sản xuất trực tiếp cho sự phát triển
kinh tế.
Đây là đặc trưng nói lên bản chất của nền kinh tế tri thức. Của cải, sản
phẩm trong nền kinh tế tri thức được tạo ra dựa vào tri thức nhiều hơn là dựa
vào tài nguyên thiên nhiên và sức lao động cơ bắp, mặc dù vốn và lao động vẫn là
những yếu tố cơ bản không thể thiếu [31, tr.101].
Nhờ sự phát triển của tri thức mà nổi bật là q trình phát minh, sáng
tạo khơng ngừng của con người qua công cụ sản xuất, vật liệu mới… theo hướng
tự động hóa, tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, nâng cao năng suất lao động… đã
làm thay đổi nhiều mặt trong sản xuất, thay đổi cơ cấu ngành nghề, lĩnh vực sản
xuất. Trong nơng nghiệp con người có thể tăng năng suất lên vài lần so với cách
sản xuất trước đây nhờ sử dụng nhiều giống cây trồng, vật nuôi và kỹ thuật mới;
các lĩnh vực sản xuất công nghiệp truyền thống đã thay thế các máy móc cơ khí
đơn giản thành những máy tự động hóa tinh vi; dịch vụ thì phát triển với nhiều
phương tiện nhanh hơn, hiệu quả hơn. Song không thể không thể không nhắc đến
những ngành công nghệ cao mà đặc biệt là công nghệ thông tin, đây là những
ngành mà sản phẩm chủ yếu dựa trên tri thức, sự phát triển mạnh mẽ công nghệ
16


thơng tin đã giúp con người có nhiều tiến bộ vượt bật trong sự phát triển kinh tế
– xã hội, khoa học – công nghệ, cũng như sự phát triển của tri thức con người. Sự
phát triển của các ngành cơng nghệ cao hình thành những tập đồn, cơng ty
khổng lồ với giá trị kinh tế rất lớn, trong khi số lượng lao động không quá đông
và cũng không sử dụng nhiều tài nguyên thiên nhiên.

Đồng thời với việc tri thức ngày càng tham gia mạnh mẽ vào toàn bộ đời
sống kinh tế – xã hội thì việc phổ biến tri thức diễn ra cũng rất mạnh mẽ. Việc
tiếp cận tri thức cũng dễ dàng và đa dạng hơn so với trước đây, từ tri thức thông
qua giáo dục – đào tạo, các tài liệu khoa học, cho đến mạng thông tin… Từ việc
tiếp cận dễ dàng và đa dạng hơn so với trước mà con người đã có nhiều cải tiến,
phát minh, ý tưởng mới khi vận dụng nó vào quá trình lao động sản xuất, học
tập, nghiên cứu, sáng tạo, hoạt động xã hội của con người.
Thứ hai, nền kinh tế tri thức dựa trên đội ngũ lao động chủ yếu là
tri thức, được đào tào đầy đủ cả về chất và lượng tạo thành nguồn nhân
lực chất lượng cao để phát triển kinh tế.
Yếu tố này giữ vai trị quyết định vì trong nền kinh tế tri thức để vận
hành máy móc, cơng cụ sản xuất, phương pháp sản xuất hiện đại đòi hỏi người
lao động phải đủ năng lực điều khiển và sử dụng nó. Bên cạnh đó, chính đội ngũ
lao động sẽ trở thành nguồn gốc sáng tạo để cải tiến phương tiện, máy móc, kỹ
thuật… và đặt ra những yêu cầu khoa học mới địi hỏi những nhà nghiên cứu tìm
tịi và phát minh.
Thứ ba, quá trình sản xuất dựa trên nền tảng quá trình sử dụng và
phát triển cơng nghệ hiện đại.
Kinh tế tri thức có tốc độ hoạt động nhanh và tạo ra nhiều biến đổi trong
đời sống kinh tế – xã hội theo hướng ngày càng phát triển đi lên, vì thế sáng tạo
trở thành động lực trực tiếp và không thể thiếu của sự phát triển. Trong nền kinh
tế tri thức khơng hẳn cái khan hiếm, q giá mới có giá trị mà cái chưa biết cũng
tạo nên giá trị, cái đã biết đã được sử dụng thì sẽ mất dần giá trị của nó. Tìm ra
cái chưa biết tức là việc tạo ra cái mới và cũng có nghĩa là cái cũ bị thay thế và
17


mất đi. Vịng đời cơng nghệ, sản phẩm trong nền kinh tế tri thức từ lúc mới nẩy
sinh, phát triển, chín muồi đến tiêu vong ngày càng rút ngắn; nếu trước đây vịng
đời cơng nghệ có thể tính bằng nhiều thập kỷ thì nay tính bằng năm, thậm chí rút

ngắn xuống bằng tháng chẳng hạn trong công nghệ thông tin [31, tr.104].
Đem so sánh kinh tế tri thức với kinh tế công nghiệp trong việc nâng cao
năng lực cạnh tranh thì kinh tế cơng nghiệp chủ yếu thực hiện tối ưu hóa sản
xuất, tức là hồn thiện cái đã có, để làm giảm chi phí sản xuất; cịn trong kinh tế
tri thức thì chủ yếu thực hiện sáng tạo ra cái mới có chất lượng cao hơn, thời
gian đi tới người tiêu dùng nhanh hơn. Sản xuất những ngành công nghệ cao và
sản xuất dựa trên công nghệ cao trở thành ngành sản xuất chủ đạo, như C.Mác
đã dự báo: “Phát minh trở thành một nghề đặc biệt” [31, tr.104 -105].
Sự phát triển của khoa học – công nghệ và việc đưa nó vào sản xuất làm
định hình nền kinh tế tri thức là nền kinh tế dựa trên những dây chuyền hiện đại,
những công cụ sản xuất mới với năng suất rất cao, độ chính xác và hiệu quả sản
xuất khơng ngừng đi lên. Cùng với nó là q trình con người sử dụng, tương tác
với cơng cụ sản xuất để tạo ra sản phẩm không phải đơn thuần là lao động phổ
thông giản đơn mà là sự tương tác bằng tri thức là chủ yếu.
Thứ tư, nền kinh tế tri thức phát triển tạo điều kiện thuận lợi phát
triển lực lượng sản xuất.
Điều này xuất phát từ chính yêu cầu của kinh tế tri thức là quá trình sáng
tạo khơng ngừng và vận dụng nó vào sản xuất và cuộc sống. Nó biểu hiện ở q
trình cải tiến, tạo ra những công cụ, phương pháp sản xuất mới. Đồng thời với nó
là tạo điều kiện cho mọi người học tập nâng cao trình độ và đặc biệt là phát huy
khả năng sáng tạo của mình, điều này thể hiện bước tiến so với kinh tế cơng
nghiệp trước đó là công việc sáng tạo hầu như thuộc về số ít những nhà khoa
học, những chuyên gia.
Những thành tựu trong khoa học – cơng nghệ nhanh chóng được đem
vào sản xuất làm biến đổi tư liệu sản xuất, trong đó chủ yếu là công cụ sản xuất.
Nhiều công cụ sản xuất hiện đại có khả năng tự vận hành sử dụng trí tuệ nhân
18


tạo ngày càng nhiều, nó làm giảm bớt lượng lao động và công sức lao động của

con người. Đồng thời với việc này thì số lượng lao động và thể lực trong lao động
ở nhiều lĩnh vực giảm xuống, nhưng yêu cầu công việc tăng lên thông qua việc sử
dụng nhiều trí lực của con người trong lao động, sản xuất. Việc đòi hỏi sử dụng
nhiều tư liệu sản xuất hiện đại và lao động có trình độ cao ngày càng tăng trong
nền kinh tế tri thức đã mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển.
Thứ năm, Phân bố nguồn lực và phát triển cơ cấu kinh tế hợp lý
theo hướng phát triển và lấy công nghiệp làm nền tảng, kết hợp phát
triển dịch vụ, cân đối và nâng cao hiệu quả trong nông nghiệp.
Công nghiệp phát triển theo hướng đẩy mạnh trong những ngành công
nghệ cao như công nghệ thơng tin, điện tử, viễn thơng… Bên cạnh đó, các ngành
công nghiệp khác theo hướng đổi mới công nghệ, dây chuyền hiện đại, nâng cao
giá trị sản phẩm, đẩy mạnh công nghiệp chế biến, chế tạo. Về dịch vụ thì chú
trọng phát triển các ngành phục vụ sản xuất công nghiệp và nông nghiệp, kết
hợp phát triển những ngành dịch vụ truyền thống và có lợi thế. Cịn nơng nghiệp
thì sử dụng và khai thác nguồn lợi một cách hiệu quả, giảm quy mô nhỏ, lẻ, cách
thức lạc hậu, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ sinh học thông qua giống cây trồng,
vật nuôi, phương pháp, kỹ thuật mới theo hướng nâng cao năng suất gắn với
chất lượng, bảo vệ mơi trường và kết hợp nó với cơng nghiệp chế biến.

Thứ sáu, mạng thông tin là cơ sở hạ tầng quan trọng của kinh tế tri
thức.
Mạng thông tin phát triển mạnh mẽ trong khoảng hơn 15 năm nay, nó là
kết quả của sự phát triển lâu dài của công nghệ thơng tin, của khoa học máy
tính… Từ khi nó định hình và phổ biến đến mọi người, nó đã thúc đẩy nhanh
chóng việc tiếp cập tri thức và ứng dụng nó vào thực tiễn.
Nhờ có mạng thơng tin, tri thức được phổ biến rộng rãi đến mọi người;
các hoạt động sản xuất, kinh doanh (kinh doanh điện tử) sôi động nhanh nhạy,
19



×