CHƯƠNG TRÌNH KH&CN TRỌNG ĐIỂM CẤP NHÀ NƯỚC KX.02/06-10
VIỆN KHOA HỌC TỔ CHỨC NHÀ NƯỚC – BỘ NỘI VỤ
BÁO CÁO TỔNG QUAN
ĐỀ TÀI KHOA HỌC CẤP NHÀ NƯỚC
“VAI TRÒ CÁC TỔ CHỨC XÃ HỘI ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN XÃ
HỘI VÀ QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI Ở NƯỚC TA TRONG
ĐIỀU KIỆN PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VÀ XÂY
DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XHCN – CƠ SỞ LÝ LUẬN
VÀ THỰC TIỄN”
Mã số KX.02.19/06-10
(Hoàn thiện sau nghiệm thu cấp nhà nước)
Chủ nhiệm đề tài: TS. Thang Văn Phúc
Thư ký đề tài: PGS.TS. Nguyễn Minh Phương
8454
HÀ NỘI- 2010
1
NHỮNG NGƯỜI THAM GIA CHÍNH
TS. Thang Văn Phúc
PGS.TS. Nguyễn Minh Phương
GS.TSKH. Phan Xuân Sơn
PGS.TSKH. Bùi Quang Dũng
TS.Nguyễn Hữu Dũng
TS. Trịnh Xuân Giới
TS. Trần Anh Tuấn
PGS.TS. Bùi Xuân Đính
PGS.TS. Nguyễn Mạnh Hưởng
TS. Lê Đại Nghĩa
TS. Lưu Minh Văn
Ths. Trương Minh Tuấn
Ths. Bùi Thị Hiền
Ông Vũ Quốc Tuấn
Ông Nguyễn Ng
ọc Lâm
CÔNG TRÌNH NÀY CÓ SỰ THAM GIA NGHIÊN CỨU CỦA ĐẠI
DIỆN LÃNH ĐẠO SỞ NỘI VỤ CỦA THÀNH PHỐ HÀ NỘI, TP. HỒ CHÍ
MINH, TP. ĐÀ NẴNG VÀ MỘT SỐ HỘI, LIÊN HIỆP HỘI, LIÊN MINH,
LIÊN ĐOÀN… CÓ PHẠM VI HOẠT ĐỘNG TOÀN QUỐC
2
MỤC LỤC TRANG
MỞ ĐẦU 2
CHƯƠNG I- MỘT SỐ VÂN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VAI
TRÒ CỦA CÁC TỔ CHỨC XÃ HỘI ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN XÃ HỘI Ở
NƯỚC TA HIỆN NAY
11
1.1 - NHẬN THỨC VỀ TỔ CHỨC XÃ HỘI VÀ VAI TRÒ CỦA CÁC
TỔ CHỨC XÃ HỘI ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN XÃ HỘI VÀ QUẢN LÝ PHÁT
TRIỂN XÃ HỘI
11
1.2- QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC TỔ
CHỨC XÃ HỘI Ở NƯỚC TA
55
CHƯƠNG II- THỰC TRẠNG PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA MỘT SỐ
TỔ CHỨC XÃ HỘI ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN XÃ HỘI VÀ QUẢN LÝ
PHÁT TRIỄN XÃ HỘI Ở NƯỚC TA
91
2.1- KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC TỔ CHỨC XÃ HỘI CÓ
PHẠM VI HOẠT ĐỘNG TOÀN QUỐC
91
2.2- KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC TỔ CHỨC XÃ HỘI CÓ
PHẠM VI HOẠT ĐỘNG Ở ĐỊA PHƯƠNG
145
2.3- KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC TỔ CHỨC CỘNG ĐỒNG
DÂN CƯ Ở NÔNG THÔN
158
CHƯƠNG III- KINH NGHIỆM PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA CÁC
TỔ CHỨC XÃ HỘI ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN XÃ HỘI VÀ QUẢN LÝ
PHÁT TRIỂN XÃ HỘI CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI
177
3.1- KINH NGHIỆM PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA CÁC TỔ CHỨC XÃ
HỘI Ở TRUNG QUỐC
177
3.2- KINH NGHIỆM XÂY DỰNG THỂ CHẾ QUẢN LÝ CÁC TỔ
CHỨC XÃ HỘI CỦA MỘT SỐ NƯỚC CHÂU ÂU
200
CHƯƠNG IV- QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY VAI
TRÒ CỦA CÁC TỔ CHỨC XÃ HỘI ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN XÃ HỘI VÀ
QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
215
4.1- BỐI CẢNH PHÁT TRIỂN XÃ HỘI VÀ QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN
XÃ HỘI GIAI ĐOẠN 2011- 2020 VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI CÁC TỔ
CHỨC XÃ HỘI
215
4.2- QUAN ĐIỂM PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA CÁC TỔ CHỨC XÃ
HỘI ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN XÃ HỘI VÀ QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI
237
4.3- CÁC GIẢI PHÁP PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA CÁC TỔ CHỨC
XÃ HỘI ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN XÃ HỘI VÀ QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN XÃ
HỘI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
255
KẾT LUẬN
287
3
MỞ ĐẦU
1- Tính cấp thiết của đề tài
Các tổ chức xã hội với tư cách là hình thức liên hiệp của con người là
một trong những phương thức tổ chức đời sống xã hội cần thiết, hợp lý trong
lĩnh vực “phi nhà nước”, nhằm phát huy tính năng động, sáng tạo, tự giác, tự
quản của người dân, cộng đồng dân cư, đồng thời góp phần t
ạo ra sự cân bằng
giữa nhà nước và cá nhân, các cộng đồng dân cư. Trong xã hội hiện đại, các
tổ chức xã hội phát triển rất phong phú đa dạng, với nhiều loại hình và tên gọi
rất khác nhau như: liên hiệp, hiệp hội, hội, liên đoàn, câu lạc bộ, quỹ, viện,
trung tâm, hội đồng, uỷ ban, nhóm tình nguyện, v.v…, thực hiện các chức
năng, vai trò xã hội, hoặc mục đích nghề nghiệp, bảo v
ệ môi trường, từ thiện,
nhân đạo
Ở nước ta, trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, các tổ chức xã
hội ngày càng tăng nhanh về số lượng và phong phú về loại hình, hình thức tổ
chức, đa dạng về phương thức hoạt động. Vai trò của các tổ chức xã hội ngày
càng trở nên quan trọng đối với phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội,
giải quyết các v
ấn đề xã hội mà nhà nước “không với tới” hoặc kém hiệu quả
trong đời sống của các cộng đồng dân cư; góp phần làm giảm tác động tiêu
cực của kinh tế thị trường, bởi những hoạt động độc lập bảo vệ lợi ích, quyền
lợi của các tổ chức này đối với từng nhóm cộng đồng.
Thực tế hiện nay ở nước ta, trong điề
u kiện xây dựng nhà nước pháp
quyền, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập
kinh tế quốc tế, ngày càng có nhiều tổ chức xã hội được thành lập, hoạt động
trong tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội với các mô hình và tên gọi rất đa
dạng, phong phú. Tính đến 10/2010 đã có gần 450 hội có phạm vi hoạt động
toàn quốc, hơn 4.200 hộ
i có phạm vi hoạt động tại tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương và hàng chục vạn hội, tổ chức cộng đồng tự quản, tổ hoà giải có
phạm vi hoạt động tại quận, huyện, thị xã, thị trấn, xã, thôn, làng, ấp, bản. Các
tổ chức xã hội đã có nhiều đóng góp trong việc phát huy dân chủ, xây dựng,
hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật và thực hiện giám sát, phản biện xã
hội đối với các chủ trương, chính sách, của Đảng và Nhà nước; tham gia tích
cực, chủ động tham gia cung ứng dịch vụ công, hỗ trợ cho hoạt động của
Chính phủ trong việc phân phối dịch vụ, tăng chất lượng dịch vụ, giải quyết
4
việc làm, xoá đói, giảm nghèo, góp phần phát triển xã hội và quản lý phát
triển xã hội.
Sự hình thành và phát triển của các tổ chức xã hội là một tất yếu khách
quan gắn liền với quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo điều kiện để người dân được làm những
việc mà pháp luật không cấm nhằm thoả mãn nhu cầu và lợ
i ích ngày càng
phong phú, đa dạng của mình. Kinh tế thị trường, nhà nước pháp quyền đặt ra
những đòi hỏi về phát huy dân chủ nhằm đảm bảo thực thi các quyền con
người, các quyền tự do cơ bản của công dân, trong đó có các quyền liên kết
với nhau một cách tự nguyện, tự quản thành các tổ chức xã hội, nhằm thoả
mãn các nhu cầu và lợi ích nhất định của cá nhân hoặc cộng đồng. Vì vậ
y,
trong thời gian tới các tổ chức xã hội sẽ tiếp tục phát triển mạnh và ngày càng
có vai trò quan trọng trong phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội.
Những thành tựu to lớn , những khởi sắc trong phát triển của đất nước
trong 25 năm Đổi mới vừa qua là công sức đóng góp của tất cả mọi người dân
và của cả dân tộc ta; là kết quả của ổn định và phát triển, của dân chủ
- đoàn
kết và đồng thuận thể hiện sức mạnh tổng hợp của Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý và nhân dân làm chủ. Các tổ chức xã hội là nơi thể hiện những hoạt
động sáng tạo của nhân dân, góp phần làm nên thành tựu và sức mạnh đó. Do
đó, việc nghiên cứu, tổng kết hoạt động của các tổ chức xã hội ở nước ta trong
Đổi mới nhằm tiếp t
ục phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, vai trò tích
cực, chủ động, sáng tạo của nhan dân thông qua các tổ chức của mình, tiếp tục
Đổi mới để nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức này có tầm quan
trọng chiến lược đối với phát triển bền vững và hiện đại hóa ở nước ta.
Tuy nhiên hiện nay, một số tổ chức xã hội hoạt động còn hình thức,
kém hi
ệu quả, chưa đáp ứng được nguyện vọng và lợi ích của đoàn viên, hội
viên, có tư tưởng ỷ lại, trông chờ vào sự tài trợ của Nhà nước; có xu hướng
“hành chính hoá” về mặt tổ chức và hoạt động, do đó khả năng thu hút, tập
hợp hội viên bị hạn chế. Vai trò tham gia quản lý phát triển xã hội chưa được
thể hiện rõ trong thực tế. Việc tham gia cung cấp dị
ch vụ công trong nhiều
trường hợp chưa được triển khai đúng với tôn chỉ và mục đích đã đăng ký,
thậm chí có trường hợp chạy theo lợi nhuận đơn thuần, hoặc lợi dụng danh
nghĩa tổ chức phi lợi nhuận để trốn thuế, gây tổn hại đối với lợi ích xã hội.
Một số cơ quan nhà nước, nhiều cán bộ, công chức nhận thức ch
ưa đầy đủ về
5
tầm quan trọng và tác dụng của các tổ chức xã hội trong đời sống xã hội nói
chung và đối với phát triển xã hội và quản lý phát trỉên xã hội nói riêng; có
biểu hiện xem nhẹ vai trò, tác dụng của các tổ chức này; chậm ban hành, sửa
đổi các văn bản quy phạm pháp luật về tổ chức, hoạt động và quản lý hội cho
phù hợp tình hình mới.
Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do việc nghiên
cứu về vai trò của các tổ chức xã hội trong phát triển xã hội và quản lý phát
triển xã hội ở nước ta, nhất là trong điều kiện mới chưa thực sự được quan
tâm thích đáng. Vai trò chủ thể trong phát triển xã hội cũng như đặc điểm,
tính chất, phương thức quản lý phát triển xã hội của các tổ chức xã hội chưa
được luận giải một cách khoa học. Vì vậ
y, triển khai nghiên cứu một cách cơ
bản, có hệ thống vai trò của các tổ chức xã hội không chỉ cung cấp cơ sở lý
luận và thực tiễn cho việc phát huy vai trò của các tổ chức xã hội trong phát
triển xã hội và quản lý phát triển xã hội, mà còn góp phần đổi mới nhận thức
về xã hội dân sự – một vấn đề hiện vẫn còn được xem là “nhạy cảm“ ở nước
ta.
Trong bối c
ảnh trên, việc nghiên cứu đề tài: “Vai trò các tổ chức xã hội
đối với phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở nước ta trong điều kiện
phát triển kinh tế thị trường và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa - Cơ sở lý luận và thực tiễn” có ý nghĩa rất cấp thiết.
2- Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trên thế giới, các tổ chức xã hội là loại thiết chế thuộc khu vực xã hội
dân sự, do vậy khi bàn về vai trò của các tổ chức xã hội, đã có nhiều công
trình luận giải về khái niệm, bản chất, đặc điểm và chức năng của xã hội dân
sự như: Tester, Keith: Civil Society. Routledge, London and New York. 1992,
Towards: Good Society, Heinrich Boll Foundation. Berlin 2005, Lee hock
Quan ed: Civil Society in Southest Asia. NIAS, Singapor, 2004, Anheir, H. K,
Civil Society, London, 2004, Ferdinand Karlhofer: Organized Civil Society,
2006, Edwarrds: Civil Society, Cambridge, UK, Polity Press, 2000,… Nhìn
chung, các nhà nghiên cứu nước ngoài có nhữ
ng cách tiếp cận và quan điểm
lý luận khác nhau do bối cảnh mối quan hệ nhà nước – thị trường - xã hội
khác nhau.
Trong công trình “Nhà nước trong một thế giới đang chuyển đổi”, Ngân
hàng Thế giới cho rằng muốn cải thiện tính hiệu quả của nhà nước, cần phải
6
dựa vào sức mạnh tương đối của thị trường và xã hội dân sự. Theo đó, những
lựa chọn của nhà nước về cung cấp, tài trợ và điều tiết các dịch vụ cơ bản phải
được xây dựng trên những sức mạnh tương đối của thị trường, xã hội dân sự
và các cơ quan nhà nước. Các tổ chức phi chính phủ có thể vừa là cộng s
ự
vừa là đối thủ cạnh tranh trong việc cung cấp các dịch vụ công cộng; các tổ
chức này có thể gây áp lực có ích đối với chính quyền để cải thiện việc cung
cấp và chất lượng các dịch vụ công cộng.
Công trình “Phục vụ và duy trì. Cải thiện hành chính công trong một thế
giới cạnh tranh”, Ngân hàng Châu Á khi đề cập đến vai trò của xã hội công
dân (dân sự) đã xuất phát từ luận điểm củ
a Mahatma Gandhi “Sự cai trị tốt
không thể thay thế cho sự tự cai trị” để đi đến luận điểm rằng: Xã hội công
dân lấp chỗ trống giữa các cá nhân và nhà nước, gồm các nhóm tình nguyện
và các hiệp hội độc lập với chính quyền. Một xã hội công dân tích cực và
mạnh là nền tảng cho hoạt động quản lý nhà nước có hiệu quả, tạo ra khả
năng tranh luận với chính quyền, các mố
i quan hệ mang tính xây dựng giữa
mọi người, các cơ hội để ảnh hưởng đến chính sách, bênh vực người nghèo,
tạo ra những cơ chế cho sự tham gia của công chúng và tham gia cung ứng
dịch vụ công.
Công trình “Tương lai của nền dân chủ xã hội” của Thomas Meyer và
Nicole Breyer đã nêu ra quan điểm của các nhà lý luận dân chủ xã hội về các
chức năng của xã hội dân sự và cho rằng ở các nước theo chế độ dân chủ xã
hội, các hội đoàn và tổ chức của xã hội dân sự là những đơn vị tạo ra phúc lợi,
hạnh phúc và an sinh xã hội. Hoạt động của xã hội dân sự có tầm quan trọng
đặc biệt trong lĩnh vực chăm sóc sức khoẻ về tinh thần và thể chất, trong việc
truyền thụ kinh nghiệm về cuộc đời và trong định hướng hành động.
Ở nước ta, kết quả nghiên cứu củ
a các Chương trình khoa học cấp Nhà
nước KX.04 (2001-2005) do GS. VS. Nguyễn Duy Quý chủ nhiệm và
KX.10.06 (2004-2006) do PGS. TS. Trần Đình Hoan chủ nhiệm đã bước đầu
xác định khái niệm xã hội dân sự và cho rằng xã hội dân sự không phải là một
thực thể do ý định chủ quan tạo lập ra, mà là sản phẩm của quá trình lịch sử -
tự nhiên, chịu sự chi phối, tác động của những nhân tố khách quan và chủ
quan nhất định và nhằm mụ
c đích đáp ứng những nhu cầu của sự phát triển xã
hội. Theo đó, xã hội dân sự ở nước ta là kết quả tất yếu của quá trình dân chủ
7
hoá đời sống xã hội, là một điều kiện đảm bảo cần thiết để cũng cố và hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền XHCN và phát triển dân chủ.
Công trình “Quan hệ giữa Nhà nước và xã hội dân sự Việt Nam - lịch
sử và hiện tại” của GS.TS. Lê Văn Quang, TS. Văn Đức Thanh đã đề cập đến
mối quan hệ biện chứng giữa Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa với xã
hội dân sự ở Việt Nam và sự cần thiết phải phát triển xã hội dân sự ở nước ta
như là một trong những cơ sở quan trọng của Nhà nước pháp quyền.
Công trình “Đổi mới tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các
tổ chức chính trị - xã hội ở nước ta hiện nay" do TS. Thang Văn Phúc và TS.
Nguyễn Minh Phương chủ biên đã bướ
c đầu phân tích nội hàm của khái niệm
xã hội dân sự và đề cập đến các chức năng của xã hội dân sự như: cầu nối,
kênh truyền dẫn tiếng nói, nguyện vọng của người dân đến với Nhà nước hay
nói cách khác là xã hội hóa các cá nhân, nối cá nhân với hệ thống xã hội;
tham gia việc hoạch định các chủ trương, chính sách của Nhà nước, góp phần
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp lý; thực hiện giám sát, phả
n biện xã hội
đối với các chủ trương, chính sách của Nhà nước và hoạt động của đội ngũ
cán bộ, công chức; phát huy các nguồn lực và tính năng động, sáng tạo của
các tầng lớp dân cư, tham gia hoạt động cung cấp dịch vụ công như giáo dục,
y tế, văn hoá, khoa học, bảo vệ môi trường ; thực hiện đối ngoại nhân dân.
Công trình “Vai trò của các Hội trong đổi mới và phát triển đất nướ
c”
do TS. Thang Văn Phúc chủ biên đã trình bày những nhận thức chung về hội
và đặc điểm của hội ở Việt Nam; luận chứng vai trò của hội thông qua việc
phân tích hoạt động và những thành tựu chủ yếu của một số hội, hiệp hội.
Công trình “Ba bàn tay thị trường, nhà nước và cộng đồng ứng dụng cho Việt
Nam” của TS. Đặng Kim Sơn phân tích vai trò, cơ chế hoạt động củ
a bàn tay
“hữu hình” nhà nước, bàn tay “vô hình” thị trường và bàn tay “bán vô hình”
cộng đồng cũng như sự tương tác lẫn nhau giữa chúng trong việc tham gia
điều hành mọi hoạt động của xã hội. Trong đó bàn tay của cộng đồng được
hiểu là vai trò của các tổ chức xã hội dân sự, tổ chức cộng đồng trong việc
góp phần ổn định môi trường và xã hội, hài hoà lợi ích cho cộng đồng và huy
động nội lực nhân dân.
Công trình “
Đánh giá ban đầu về xã hội dân sự tại Việt Nam” do Dự
án CIVICUS CSI-SAT thực hiện đã bước đầu đưa ra hệ công cụ đánh giá khái
quát chỉ số xã hội dân sự ở Việt Nam, đề xuất cách tiếp cận và phương pháp
8
luận đánh giá thực trạng xã hội dân sự, quá trình xây dựng khung pháp lý cho
các tổ chức phi chính phủ và các nhóm không chính thức ở Việt Nam; phân
tích xã hội dân sự ở Việt Nam theo cấu trúc, môi trường, các giá trị, tác động
của xã hội dân sự đến sự phát triển của xã hội nói chung.
Các công trình “Xã hội dân sự. Một số vấn đề chọn lọc” do Vũ Duy
Phú chủ biên và “Xây dựng xã hội dân sự ở Việt Nam. Một số
vấn đề lý luận
và thực tiễn” do GS.TS. Dương Xuân Ngọc chủ biên đã bước đầu đánh giá
khái quát thực trạng xã hội dân sự ở nước ta và đề xuất phương hướng, giải
pháp xây dựng và phát triển xã hội dân sự đáp ứng yêu cầu đổi mới toàn diện
đất nước.
Một số bài báo trên các tạp chí nghiên cứu như: “Xã hội công dân và
một số vấn đề về xã hội công dân ở
nước ta” của TSKH. Phan Xuân Sơn;
“Nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự” của GS. Tương Lai; “Khung tư duy
nhận thức về xã hội dân sự” của PGS.TS. Võ Khánh Vinh; “Vai trò của xã hội
công dân đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền” của TS. Vũ Thư; “Vấn
đề nhận thức về xã hội công dân (hay xã hội dân sự) ở nước ta hiện nay” của
PGS.TS. Bùi Xuân Đức; “Vai trò của xã hội dân sự ở Việt Nam hiện nay” của
TS. Nguyễ
n Minh Phương;… đã bước đầu phân tích một số vấn đề về nội
hàm của khái niệm xã hội dân sự; quan hệ của xã hội dân sự với nhà nước
pháp quyền và kinh tế thị trường; vai trò của xã hội dân sự trong xã hội hiện
đại; thực trạng của xã hội dân sự ở Việt Nam hiện nay.
Trên các tạp chí nghiên cứu như Triết học, Nhà nước và Pháp luật,
Nghiên cứu lập pháp, Thông tin khoa họ
c xã hội, Tia sáng đã có một số bài
viết về vai trò của xã hội dân sự trong phát triển xã hội và quản lý phát triển
xã hội. Theo đó, xã hội dân sự được nhìn nhận như là một bước tiến của loài
người trong tổ chức và sinh hoạt cộng đồng bên cạnh hoạt động của các thiết
chế nhà nước và là một trong những nhân tố đảm bảo cho sự phát triển hài
hoà và cân bằng của xã hội. Khi Nhà nướ
c chuyển đổi chức năng từ cai trị
sang phục vụ; thể hiện tính chất nhà nước của dân, do dân, vì dân, giảm sự
can thiệp, mở rộng xã hội hoá và tư nhân hoá thì vai trò của các tổ chức xã hội
càng trở nên quan trọng.
GS.TS. Hoàng Chí Bảo trong bài viết “Phát triển xã hội và quản lý phát
triển xã hội: quan niệm, vấn đề, sự cần thiết cho Việt Nam và xác định lô gích
9
nghiên cứu“ đã đặt vấn đề về vai trò của nhân dân, của các tổ chức xã hội dân
sự tham gia vào phát triển xã hội, đánh giá chính sách phát triển xã hội.
Nghiên cứu vai trò của các tổ chức xã hội trong những lĩnh vực cụ thể
đã có một số đề tài khoa học cấp bộ như: “Hoàn thiện cơ chế tổ chức để nhân
dân tham gia vào quy trình xây dựng, ban hành và thực thi pháp luật”, 2004
của Văn phòng Qu
ốc hội. “Cơ sở khoa học của chuyển giao một số dịch vụ
công cho các hội, tổ chức phi chính phủ”, 2002; và “Nâng cao vai trò của các
hiệp hội các tổ chức kinh tế trong giai đoạn phát triển mới của đất nước”,
2004 của Bộ Nội vụ. “Vai trò của các tổ chức xã hội dân sự trong xây dựng và
thực thi các chính sách kinh tế - xã hội ở Việt Nam“ của Viện Quản lý kinh tế
Trung ương. Các
đề tài này đã đánh giá thực trạng hoạt động và kết quả đạt
được của các tổ chức xã hội trong những lĩnh vực nhất định; phân tích những
khó khăn, vướng mắc, đồng thời bước đầu đề xuất phương hướng, giải pháp
phát huy vai trò của các tổ chức xã hội trong các lĩnh vực đó.
Tuy nhiên, nhìn chung có thể nói ở nước ta chưa có một công trình nào
đi sâu nghiên cứu một cách hệ
thống và toàn diện vấn đề vai trò của các tổ
chức xã hội đối với phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội. Hiện tại,
chưa có đề tài nghiên cứu cấp nhà nước về vấn đề này.
3- Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục tiêu
Luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn về vai trò của các tổ chức xã hội (tổ
chức chính trị - xã hội - nghề
nghiệp, xã hội - nghề nghiệp, xã hội, tổ chức phi
chính phủ, ) đối với sự phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở nước
ta hiện nay. Dự báo xu hướng phát triển của các tổ chức xã hội và đề xuất các
quan điểm, giải pháp phát huy vai trò của các tổ chức xã hội đối với phát triển
xã hội và quản lý phát triển xã hội trong điều kiện phát triển kinh tế thị tr
ường
và xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.
- Các nhiệm vụ chủ yếu
+ Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về các tổ chức xã hội; vai trò, chức
năng của các tổ chức xã hội đối với phát triển xã hội và quản lý phát triển xã
hội; đặc điểm tổ chức và hoạt động của các tổ chức xã hội.
+ Đánh giá thực trạng vai trò của các tổ chức xã hộ
i trong phát triển xã
hội và quản lý phát triển xã hội ở nước ta hiện nay.
+ Dự báo xu hướng vận động của các tổ chức xã hội và những vấn đề
10
đặt ra đối với phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở nước ta đến năm
2020.
+ Đề xuất quan điểm và chính sách, giải pháp phát huy vai trò của các tổ
chức xã hội đối với phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội trong điều
kiện phát triển kinh tế thị trường và xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.
4- Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Vai trò củ
a các liên hiệp, hiệp hội, hội, liên
đoàn, quỹ xã hội, từ thiện, viện, trung tâm, nhóm tình nguyện, v.v …là các tổ
chức tự nguyện, tự quản, dân chủ, công khai của người dân, không vì mục
tiêu lợi nhuận đối với phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội.
- Phạm vi nghiên cứu: Các hội, quỹ có phạm vi hoạt động toàn quốc;
Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng và một số tổ chức cộng
đồng dân
cư ở nông thôn. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và 5 tổ chức chính trị - xã hội
không thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài.
5- Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
quan điểm, đường lối của Đảng về vai trò quần chúng nhân dân trong lịch sử
và về phát huy quyền làm chủ của người dân, đ
a dạng hóa các hình thức tập
hợp nhân dân, đề tài thực hiện cách tiếp cận cấu trúc hệ thống, tức xem xét
vai trò tổ chức xã hội trong các mối quan hệ giữa thực thể hoạt động, thiết chế
bộ máy, các chủ thể trong sự tác động qua lại giữa Nhà nước – thị trường và
xã hội, giữa dân chủ với pháp luật và pháp quyền, giữa Đổi mới với ổn định
và phát triể
n bền vững.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng là: phân tích, so sánh,
tổng hợp, lô gích, lịch sử, điều tra xã hội học, khảo sát thực tiễn, hội thảo, toạ
đàm khoa học, lấy ý kiến chuyên gia và các phương pháp chuyên ngành khác.
6- Tình hình triển khai đề tài
Đề tài được triển khai nghiên cứu trong 24 tháng, đến nay đã thực hiện
đầy đủ các hạng mục công việc theo đăng ký.
- Xây dựng hệ thống t
ư liệu, dịch thuật các tài liệu phục vụ đề tài;
- Điều tra xã hội học về thực trạng phát huy vai trò của các tổ chức xã hội
đối với phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội;
- Tổ chức 04 cuộc hội thảo tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh và nhiều cuộc
trao đổi, toạ đàm theo chuyên đề;
11
- Khảo sát kinh nghiệm nước ngoài
- Hoàn thành việc biên soạn các chuyên đề đã đăng ký;
- Đề tài có sự tham gia nghiên cứu của các nhà khoa học, quản lý thuộc
Bộ Nội vụ, Ban Dân vận TƯ, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ
Chí Minh, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, Sở Nội vụ Hà Nội, Thành phố
Hồ Chí Minh và Đà Nẵng, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam
và nhiều liên hiệp h
ội, hiệp hội, hội trong cả nước.
7- Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Đề tài góp phần làm rõ cơ sở nhận thức lý luận và thực tiễn về vai trò
của các tổ chức xã hội đối với phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội
trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và xây dựng nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa.
Kết quả nghiên cứu của đề tài cung cấp luận cứ
phục vụ xây dựng, hoàn
thiện chính sách, thể chế quản lý các tổ chức xã hội nhằm phát huy vai trò của
các tổ chức này đối với phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở nước ta
hiện nay.
8- Các sản phẩm của đề tài
Kết quả nghiên cứu được thể hiện trong 01 Báo cáo tổng quan của đề
tài, 01 Báo cáo tóm tắt, 01 Báo cáo đề xuất, kiến nghị, 01 Báo cáo kết quả
đ
iều tra xã hội học; Báo cáo kết quả nghiên cứu của 07 nội dung nghiên cứu;
04 kỷ yếu hội thảo và các phụ lục khác.
9- Kết cấu của Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, báo cáo
kết quả nghiên cứu gồm 4 chương, 10 tiết.
12
CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VAI TRÒ CỦA CÁC
TỔ CHỨC XÃ HỘI ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN XÃ HỘI VÀ QUẢN LÝ
PHÁT TRIỂN XÃ HỘI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
1.1 - NHẬN THỨC VỀ TỔ CHỨC XÃ HỘI VÀ VAI TRÒ CỦA CÁC
TỔ CHỨC XÃ HỘI ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN XÃ HỘI VÀ QUẢN LÝ PHÁT
TRIỂN XÃ HỘI
1.1. 1- Quan niệm về tổ chức xã h
ội một số nước trên thế giới và Việt
Nam
Theo từ nguyên chữ Hán thì “tổ” là sự tập hợp, gom góp lại những gì
riêng rẽ, còn “chức” là đan dệt nên, cấu trúc sắp xếp theo một trật tự nhất định
những gì được gom lại để thực hiện một chức năng nhất định. Tổ chức ra đời
do yêu cầu khách quan của sự tồn tại và phát triển của con ng
ười và xã hội.
Tổ chức xã hội là khái niệm được dùng với nhiều nghĩa khác nhau trong các
ngành khoa học khác nhau và trong cuộc sống hàng ngày. Theo nghĩa rộng, tổ
chức xã hội có thể được hiểu hoặc là một thành tố của cơ cấu xã hội, hoặc là
một dạng hoạt động, hay là mức độ trật tự nội tại, sự hài hòa giữa các thành
phần của một chỉnh thể; với ý nghĩa này, t
ổ chức xã hội chính là một hệ thống
các quan hệ, tập hợp liên kết cá nhân nào đó để đạt được một mục đích nhất
định. Nếu như giữa tập hợp các cá nhân không có những quan hệ xã hội thì họ
chưa thể được coi là thành viên của một tổ chức xã hội nào đó. Những quan
hệ này sẽ liên kết các cá nhân vào một nhóm để họ cùng thực hiện một hoạt
động chung nào
đó nhằm đạt được những lợi ích nhất định
Trong cuộc sống, con người tự tìm đến nhau, liên kết với nhau bởi phải
chống chọi với thiên tai, thú dữ, bởi sự đe dọa lẫn nhau của các thế lực và bởi
yêu cầu của xã hội hóa sản xuất. Một người hành động riêng lẻ thì họ tự quyết
định lấy hành động của mình theo suy nghĩ của cá nhân, nhưng khi nhi
ều
người tập hợp vào một tổ chức thì cần phải thương lượng và thỏa thuận thống
nhất với nhau để hình thành những khế ước xã hội. Mục đích của tổ chức xã
hội có những mục tiêu trùng hợp với những mục tiêu cá nhân của các thành
viên ở những mức độ nào đó, các tổ chức này được điều tiết theo những
nguyên tắc được các thành viên thi
ết lập (điều lệ), hoặc theo những những
chuẩn mực, giá trị của tập thể được hình thành một cách tự phát, ít hoặc
13
không có tính chất chính thức
1
. Những khế ước xã hội ra đời và mọi người
trong tổ chức hành động một cách tự nguyện theo những khế ước ấy, đồng
thời khế ước cũng buộc mọi người trong tổ chức không được làm những gì
vượt ra ngoài khuôn khổ của khế ước.
Sự phát triển của xã hội, trước hết bắt nguồn từ sự phát triển của mỗi
con ngườ
i. Xã hội tìm thấy nguồn lực thúc đẩy sự phát triển từ trong nguồn
lực của từng con người. Nhưng nguồn lực của từng con người có thể được
khơi dậy, được giải phóng nhiều hay ít, mạnh mẽ hay yếu ớt, liên tục hay đứt
quãng, bền vững hay tạm thời lại tùy thuộc vào hai yếu tố: một là, sức mạnh
tiềm tàng của bản thân con người; hai là, sự g
ắn kết con người theo quy luật
vận động nhất định của một cộng đồng, một tập hợp trong một tổ chức.
Từ hành động cá thể biến thành hành động tập thể là một bước phát triển
của xã hội loài người. Từ hành động tập thể tự phát mang tính phường hội trở
nên hành động có trật tự theo khế ước (dưới dạng Điều lệ
, Quy chế, Nội quy,
Chương trình hành động, Cương lĩnh của một tổ chức) là một bước phát
triển cao hơn của xã hội. Từ hành động của một tổ chức tiến tới hành động
phối hợp giữa một nhóm các tổ chức, rồi nhiều tổ chức mang tính liên minh
toàn dân trong một quốc gia hoặc nhiều quốc gia lại là một bước phát triển
cao hơn nữa của xã hộ
i. Qua từng nấc thang phát triển, con người ngày càng
hoàn thiện hơn, xã hội ngày càng tiến lên. Đó chính là một nội dung của sự
phát triển cá nhân và sự phát triển xã hội. Như vậy là sự phát triển của các tổ
chức xã hội có quan hệ rất mật thiết đến sự phát triển xã hội và quản lý sự
phát triển xã hội.
Sự phát triển của các tổ chức xã hội chịu tác động bởi nhiều yế
u tố, do
vậy mối quan hệ giữa các tổ chức xã hội với sự phát triển xã hội và quản lý
phát triển xã hội cũng chịu sự tác động của nhiều yếu tố. Muốn cho sự phát
triển của các tổ chức xã hội có thể tích cực thúc đẩy sự phát triển xã hội và
quản lý phát triển xã hội, cần phải tạo ra những tiền đề và điều kiện c
ần thiết.
Tất cả những vấn đề đó nói lên rằng: vai trò của các tổ chức xã hội đối với sự
phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội là một vấn đề hàm chứa nội dung
khoa học và thực tiễn phong phú, là đòi hỏi cấp thiết của đời sống xã hội cần
được nghiên cứu trên cả hai bình diện lý luận và thực tiễn.
1
Xem Nguyễn Khắc Viện (chủ biên): Từ điển Xã hội học. NXB Thế giới. Hà Nội.1994.
14
Trong lịch sử, các hình thức liên hiệp con người đã xuất hiện từ xa xưa,
trước khi xuất hiện nhà nước. Nhưng phải đến thời đại tư bản chủ nghĩa, mối
quan hệ xã hội trong các cộng đồng đó mới được xác lập trên cơ sở chính trị -
pháp lý nhất định, khi đó các tổ chức xã hội mới thực sự ra đời. Tổ chứ
c xã
hội là hình thức liên hiệp con người, một trong những hình thức tổ chức cộng
đồng xã hội; là một trong những phương thức tổ chức đời sống xã hội cần
thiết, hợp lý trong lĩnh vực “phi nhà nước”, nhằm phát huy tính năng động,
sáng tạo, tự giác, tự nguyện, tự quản của người dân, cộng đồng dân cư trong
phát triển xã hội và quản lý xã hội, đồng thời góp phần t
ạo ra sự cân bằng
giữa nhà nước và cá nhân, các cộng đồng dân cư, các tổ chức xã hội với nhau.
Tổ chức xã hội là “hình thức tập hợp rộng rãi nhân dân theo nghề nghiệp,
lứa tuổi, sở thích, giới tính… nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của các tầng lớp
nhân dân như học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ các mặt, giúp đỡ, động
viên nhau trong cuộc sống, tham gia sinh hoạt văn hóa, thể thao, du lịch, xã
hội, từ thiện v.v…”
2
Các tổ chức xã hội có qui mô rất khác nhau, có tổ chức
hình thành hệ thống trong cả nước, ở tất cả các địa phương hoặc tham gia tổ
chức quốc tế tương ứng; có tổ chức chỉ hoạt động ở địa phương hoặc cơ sở.
Các tổ chức xã hội phát triển và hoạt động có kết quả là sự phản ánh mức độ
tiến bộ về dân trí và dân ch
ủ trong xã hội. Nhà nước có trách nhiệm quản lý,
tạo điều kiện giúp đỡ các tổ chức xã hội ra đời và hoạt động đúng pháp luật,
đáp ứng yêu cầu và nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân.
Trong một quốc gia, bên cạnh những thiết chế xã hội còn có những thiết
chế chính trị, thiết chế kinh tế, thiết chế tôn giáo, thiết chế văn hóa cùng
những thiết chế khác. Xét riêng nhữ
ng thiết chế xã hội, cũng có nhiều hình
thức khác nhau, nhiều chức năng khác nhau, với những vai trò không giống
nhau.
Các tổ chức xã hội được tổ chức và hoạt động theo tinh thần tự nguyện
trong khuôn khổ pháp luật của nhà nước, nhưng không phải là những cơ quan
mang tính quyền lực nhà nước. Chính vì thế, các tổ chức xã hội còn được gọi
là các tổ chức phi chính phủ (tiếng Anh là Non govermental organization -
NGO, tiếng Pháp là organisation non gouvernementale - ONG). Thuật ng
ữ tổ
chức phi chính phủ, theo Ngân hàng Thế giới “chỉ một tổ chức, hiệp hội, quỹ
2
Từ điển Bách khoa Việt Nam Tập 4 trang 467
15
văn hóa, xã hội (tài trợ), ủy hội từ thiện, tập đoàn phi vụ lợi hoặc các pháp
nhân khác mà theo luật pháp không thuộc khu vực nhà nước và không hoạt
động vì lợi nhuận – nghĩa là mọi khoản lợi nhuận nếu có, không được và
không thể phân phối theo kiểu chia lợi nhuận. Loại tổ chức này không bao
gồm các nghiệp đoàn, đảng phái chính trị, hợp tác xã phân chia lợi nhuận hay
nhà thờ”
3
. Theo Jonhns Hopkins, khu vực phi vụ lợi bao gồm các tổ chức 1)
chính thức; 2) tư nhân; 3) phân phối phi vụ lợi; 4) tự quản; 5) tự nguyện; 6)
phi tôn giáo; 7) phi chính trị.
Thực tế, tổ chức xã hội hay tổ chức phi chính phủ không phải là một
thuật ngữ luật chính thức; để chỉ các tổ chức này người ta có thể dùng các
khái niệm như: khu vực “phi vụ lợi”, khu vực “độc lập”, khu vực “thứ ba”,
các tổ ch
ức thiện nguyện, hiệp hội, tổ chức miễn trừ (EO), tổ chức tình
nguyện tư nhân (PVO) hay xã hội dân sự. Viện Công nghệ Massachusetls đã
soạn một danh sách 45 thuật ngữ được sử dụng trong các tài liệu thuộc lĩnh
vực này để chỉ các tổ chức phi chính phủ.
Ở nhiều nước trên thế giới, xã hội dân sự, trong đó các tổ chức xã hội
hay các tổ chức phi chính phủ là bộ
phận chủ yếu, được hiểu là một mảng của
đời sống xã hội có tổ chức, mang tính tự nguyện, (hầu như) tự tái tạo, tự tài
trợ, độc lập với nhà nước, gắn bó với nhau bằng một trật tự pháp lý hay một
số nguyên tắc chung. Các tổ chức xã hội do người dân tự tổ chức để phát huy
năng lực sáng tạo, hiện thực hóa các ý tưởng để
tương tác với nhà nước nhằm
đạt tới một nền quản trị quốc gia minh bạch, hiệu quả và có trách nhiệm
4
.
Theo đó, xã hội dân sự có những đặc trưng cơ bản như: 1) Không phải là
những hoạt động kinh tế tư nhân hướng theo lợi nhuận và cũng không là
những hoạt động chính trị hướng vào việc chiếm lĩnh và thực thi quyền lực
nhà nước; 2) Là một khu vực đa dạng bao gồm những hội, nhóm và tổ chức
khác nhau. Những thành tố này có thể trở thành những đảm bảo quan trọ
ng
cho một chính sách phát triển bền vững và trong khuôn khổ hợp tác của các
cơ quan nước ngoài, cần phải được ưu tiên trợ giúp tuỳ theo thực chất của
từng tổ chức; 3) Độc lập tương đối về mặt chính trị - xã hội, và qua đó, các tổ
chức có một tiềm năng quan trọng phục vụ cho tiến trình phát triển dân chủ;
4) Đóng vai trò là các thành tố “dân chủ tham gia” như là sự bổ khuyế
t cho
3
Xem Ngân hàng Thê giới: Sổ tay kinh nghiệm pháp luật về các tổ chức phi chính phủ
4
http//www.wikipedia.org/wiki (bản sửa đổi 24/10/2007).
16
các cơ quan “dân chủ đại diện”; 5) Có khả năng tiến tới tầm cỡ toàn cầu thông
qua việc nối kết với những tổ chức dân sự khác trên thế giới.
Theo Ngân hàng Thế giới, có ít nhất sáu lý do mà xã hội cần một khu
vực phi chính phủ vững mạnh và độc lập là: “1) thực hiện quyền tự do ngôn
luận và lập hội; 2) khuyến khích đa dạng và khoan dung; 3) tăng cường ổn
định xã hội và tuân thủ pháp luật; 4) tính hiệu quả; 5) khiếm khuyết thị trường
của khu vực công; và 6) hỗ trợ cho nền kinh tế thị trường”
5
.
Do bối cảnh lịch sử và các mối quan hệ nhà nước - xã hội khác nhau, có
những cách tiếp cận và quan điểm lý luận khác nhau về xã hội dân sự. Theo
TS. Irenne Norlund
6
, có ba cách tiếp cận đối với xã hội dân sự là: Thuyết tân
tự do cho rằng xã hội dân sự tồn tại một cách độc lập, thuộc “khu vực thứ ba”,
“khu vực tự nguyện”, ở đó các công dân tự tổ chức thành nhóm và giải quyết
các vấn đề phát sinh thông qua đối thoại “dân sự” và biện pháp phi bao lực.
Vai trò của các tổ chức này là kiểm soát và làm cân bằng mối quan hệ giữa
nhà nước và thị trường. Theo mô hình Xã hộ
i tốt lành (Good Society), xã hội
dân sự là một bộ phận cấu thành xã hội, không hoàn toàn tách biệt với nhà
nước, thị trường và gia đình mà nằm ở khu vực giao nhau của ba bộ phận này;
ranh giới của nó cũng không rạch ròi, luôn có sự tương tác giữa nhà nước, thị
trường và các tổ chức xã hội nhằm đem lại sự đồng thuận tốt lành cho mọi
người. Mô hình Hậu hiện đại (Postmodern) xem xã hội dân sự thuộ
c khu vực
thứ ba và đề cao vai trò chia sẽ, thông cảm và liên kết, hợp tác giữa các bên
tham gia đối thoại, thảo luận.
Từ góc độ phạm vi, theo Linz và Stepan
7
, xã hội dân sự là một lĩnh vực
trung gian nằm giữa khu vực tư nhân và nhà nước, hay còn được gọi là khu
vực thứ ba.
Từ góc độ chức năng, Anirudh Krishna xác định xã hội dân sự thực hiện
các chức năng ở ba cấp độ khác nhau: 1) Thể hiện những lợi ích và nhu cầu
của công dân; 2) Bảo vệ quyền công dân và 3) Cung cấp hàng hoá và dịch vụ
trực tiếp không dựa vào các cơ quan nhà nước. Các tổ chức xã h
ội dân sự có
5
Ngân hàng Thế giới: Tài liệu đã dẫn
6
Xem Tài liệu Hội thảo của Viện Quản lý kinh tế Trung ương . Hà Nội ngày 4/4/2008
7
Towards Good Society. Heinrich Boll Foundation. Berlin 2005.
17
thể thực hiện chỉ một hoặc hai hay ba chức năng, tuỳ theo khả năng và hoàn
cảnh
8
.
Theo Liên minh Thế giới vì Sự tham gia của Công dân (CIVICUS), xã hội
dân sự là “diễn đàn giữa gia đình, nhà nước và thị trường, nơi mà mọi con
người bắt tay nhau để thúc đẩy quyền lợi chung”
9
. Theo đó, muốn cải thiện
tính hiệu quả của nhà nước, cần phải dựa vào sức mạnh tương đối của thị
trường và xã hội dân sự. Các tổ chức xã hội có thể vừa là cộng sự vừa là đối
thủ cạnh tranh trong việc cung ứng các dịch vụ công cộng; các tổ chức này có
thể gây áp lực có ích đối với chính quyền để cải thiện việc cung cấp và ch
ất
lượng các dịch vụ công cộng. Vai trò của xã hội dân sự được nhìn nhận là lấp
chỗ trống giữa các cá nhân và nhà nước, gồm các nhóm tình nguyện và các
hiệp hội độc lập với chính quyền. Các tổ chức xã hội dân sự hoạt động tích
cực và mạnh là nền tảng cho hoạt động quản lý nhà nước có hiệu quả, tạo ra
khả năng tranh luận với chính quyền, các mối quan hệ mang tính xây dựng
giữa mọi người, các cơ hội để ảnh hưởng đến chính sách, bênh vực người
nghèo, tạo ra những cơ chế cho sự tham gia của công chúng và tham gia cung
ứng dịch vụ công
10
.
Theo C.M.Hann và Elizabeth Dunn
11
, xã hội dân sự được xem là lĩnh
vực tư, tách biệt với nhà nước, là không gian mà nhà nước không thể can
thiệp; và hơn thế nữa, nó đối lập với nhà nước, trở thành một lực lượng độc
lập tham gia vào quá trình giám sát các hoạt động của nhà nước và giải quyết
những vấn đề thuộc lĩnh vực “dân sự” mà ở đó nhà nước không đủ nguồn lực
và cơ sở xã hội để
thực hiện.
Theo Marlies Glasius, David Lewis và Hakan Seckinelgin
12
, xã hội dân
sự được lập nên bởi cộng đồng dựa trên cơ sở tự nguyện, nằm ngoài phạm vi
nhà nước; tổ chức và hoạt động của các tổ chức xã hội phụ thuộc vào chế độ
chính trị, cấu trúc của hệ thống quyền lực chính trị của quốc gia và các yếu tố
8
Dẫn theo “Xã hội dân sự ở Malaysia và Thái Lan”- Lê Thị Thanh Hương (Chủ biên) NXB
KHXH. Hà Nội 2009.
9
VIDS: Báo cáo “Đánh giá ban đầu về XHDS ở Việt Nam”. HN 1/2006. Tr 6
10
Xem Ngân hàng Thế giới:“Nhà nước trong một thế giới đang chuyển đổi”
và Ngân hàng Châu
Á: “Phục vụ và duy trì. Cải thiện hành chính công trong một thế giới cạnh tranh”,
11
C.M. Hann và Elizabeth Dunn: Xã hội dân sự. UK.1991 (Tài liệu dịch tham khảo - Viện Khoa
học Xã hội Việt Nam.
12
Marlies Glasius, David Lewis và Hakan Seckinelgin. Exploring Civil Society. UK.2004.
18
văn hoá, dân tộc. Theo Larry Diamond
13
, xã hội dân sự là lĩnh vực của đời
sống xã hội có tổ chức, mang tính tự nguyện, tự trang trải, độc lập với nhà
nước và chịu sự ràng buộc bởi trật tự pháp luật hoặc hệ thống luật lệ chung do
cộng đồng đặt ra. Xã hội dân sự là thực thể trung gian, nằm giữa môi trường
tư và công (nhà nước), bao gồm một dải rộng các tổ chức
độc lập chính thức
và không chính thức ở nhiều lĩnh vực: 1) Kinh tế (các hiệp hội ngành nghề và
mạng lưới sản xuất, thương mại); 2) Văn hoá (đạo đức, tôn giáo, cộng đồng
và các thiết chế tổ chức khác bảo vệ các quyền, giá trị, niềm tin, tín ngưỡng,
các biểu tượng cộng đồng); 3) Thông tin và giáo dục (cho việc tạo ra và phát
tán, dù là vụ lợi hay phi vụ lợi, những kiến thức, ý tưởng, tin t
ức và thông tin
công); 4) Dựa trên lợi ích (thiết kế để thúc đẩy hay bảo vệ những lợi ích căn
bản hay lợi ích vật chất chung của các thành viên); 5) Phát triển (các tổ chức
kết hợp các nguồn lực cá nhân để cải thiện hạ tầng, thể chế, và chất lượng
cuộc sống của cộng đồng); 6) Hướng vấn đề (các phong trào bảo vệ môi
trường, quyền phụ nữ, cải cách ru
ộng đất, hay bảo vệ người tiêu dùng); 7)
Công dân (tìm các phương tiện phi đảng phái để cải thiện hệ thống chính trị
và dân chủ hoá nó thông qua việc theo dõi nhân quyền, giáo dục, vận động cử
tri, giám sát, theo dõi bầu cử, các nỗ lực chống tham nhũng…).
Theo Gerassimos Fourlanos “Xã hội dân sự được hiểu là tổng thể các tổ
chức, thiết chế xã hội tự nguyện, không phụ thuộc vào hình thức pháp lý,
cùng tự nguyện tham gia và các hoạt động vì nhữ
ng giá trị, mục tiêu, lợi ích
chung”
14
.
Như vậy có thể thấy, hiện có nhiều quan điểm khác nhau về vai trò của
xã hội dân sự. Theo quan điểm của chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa tự do mới,
xã hội dân sự được xem là một thực thể tồn tại độc lập, là “những hoạt động
tập thể tự nguyện” mang tính cộng đồng, phân biệt với lĩnh vực riêng tư, cá
nhân, gia đình và phầ
n nào đối trọng với nhà nước nhằm bảo vệ lợi ích cộng
đồng. Các tổ chức xã hội được các công dân tự do lập nên một cách tự
nguyện, không bị ép buộc, dựa trên những nguyên tắc đạo đức. Xuất phát từ
cách “định vị” các bộ phận của xã hội hiện đại là nhà nước - thị trường - xã
hội dân sự, quan điểm tự do mới cho rằng xã hội dân sự chă
m lo những người
13
Larry Diamont: Hướng tới củng cố dân chủ (The Jonh Hopkins University Press).
14
Tài liệu Hội thảo khoa học “Vai trò của các tổ chức phi chính phủ trong xây dựng chính sách,
pháp luật”- Bộ Tư pháp, Hà Nội, ngày 7/5/2009.
19
lọt ra ngoài mạng lưới của cạnh tranh tự do của thị trường nhằm góp phần hạn
chế, khắc phục hậu quả xấu do thị trường gây ra và tạo cơ hội bình đẳng, hạn
chế xung đột xã hội.
Các nhà lý luận dân chủ xã hội quan niệm xã hội dân sự có các chức
năng: dân chủ hoá xã hội trong một số lĩnh vực hoạt động có lựa chọn; t
ăng
cường quyền năng tác động của công dân đối với quá trình hình thành công
luận; tự giúp nhau trên tình đoàn kết; có những điều chỉnh trên tinh thần dân
chủ đối với hoạt động quản lý và đối với các đề án chính sách; chỉnh sửa
những hệ luỵ “có vấn đề” của hệ thống thị trường (gắn kết các đơn vị kinh tế
đóng ở địa phương vào mạng lướ
i xã hội dân sự); xây dựng cơ cấu thích hợp
cho hoạt động đoàn kết; hoàn thành nghĩa vụ công dân
15
. Ở các nước theo chế
độ dân chủ xã hội, các tổ chức xã hội dân sự là những đơn vị tạo ra phúc lợi,
hạnh phúc và an sinh xã hội. Hoạt động của các tổ chức này có tầm quan
trọng đặc biệt trong lĩnh vực chăm sóc sức khoẻ về tinh thần và thể chất, trong
việc truyền thụ kinh nghiệm cuộc sống và định hướng hành động cho các
thành viên.
Những người theo chủ nghĩ
a cộng đồng cho rằng các giá trị truyền thống
văn hóa, ngôn ngữ, tập quán sinh hoạt là cơ sở để các thành viên trong cộng
đồng liên kết với nhau nhằm hướng tới sự phát triển chung, theo đó xã hội
dân sự được tạo nên từ các mối liên kết xã hội và đoàn kết xã hội, chú trọng
đến lợi ích cộng đồng. Và do đó, xã hội dân sự không chỉ là các tổ chức xã
hội được tổ chứ
c chặt chẽ dưới dạng các tổ chức phi chính phủ, mà còn là các
nhóm, tổ chức, mạng lưới xã hội bán chính thức hoặc không chính thức.
Quan điểm của những người theo “chủ nghĩa cộng hòa” cho rằng, xã hội
dân sự gắn liền với xây dựng khuôn khổ pháp luật, ở đó người dân ý thức về
trách nhiệm của họ đối với lĩnh vực công cộng của xã hội. Các tổ ch
ức tự
nguyện ra đời nhằm góp phần giải quyết những vấn đề của cộng đồng. Như
vậy, pháp luật như là cơ sở đặc biệt quan trọng cho sự ra đời và phát triển của
xã hội dân sự.
Mặc dù quan niệm về phạm vi và vai trò của xã hội dân sự còn khác
nhau, tùy theo quan điểm của mỗi trường phái và thể chế chính trị - xã hội của
các nước, như
ng có một thực tế là các tổ chức xã hội có xu hướng ngày càng
15
Thomas Meyer và Nicole Breyer: Tương lai của nền dân chủ. Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội,
2007.
20
tăng về số lượng và đóng góp cho sự phát triển xã hội và quản lý xã hội cả ở
phạm vi quốc gia cùng như trên bình diện quốc tế. Nhất là ở các nước châu
Âu, nơi được gọi là “thiên đường của của đời sống hội“, trung bình 1.000 dân
có 4 hội, trong đó, nhiều nhất là ở Phần Lan, cứ 1.000 dân có đến 20 hội; ở
Pháp 1.000 dân có 10 hội. Số lượng hội trung bình ở các nước châu Á ít h
ơn,
khoảng 0,16-0,33 hội/1000 dân: Thái Lan và Philippin 0,23 hội/1000 dân.
Ở Anh, có trên 400.000 hội tự nguyện với doanh số được đánh giá
tương đương 4% GDP của Anh, trong đó có 181.800 hội thiện nguyện.
Tại Cộng hòa Pháp có gần 730.000 hội khai báo, hàng năm có khoảng
60.000 hội thành lập và có khai báo. Theo lĩnh vực hoạt động: Thể thao có
127.000 hội; y tế - xã hội có 82.000 hội; giải trí – thanh niên có 79.000 hội;
thương mại, việc làm có 73.000 hội; giáo dục và đào tạo có 49.000 hội; đờ
i
sống xã hội có 47.500 hội; nhà ở và mô trường có 41.000 hội; săn bắn và
đánh bắt cá có 17.500 hội Tỷ trọng chi của khu vực này chiếm 180 tỷ Franc,
chiếm 3,3% GDP của Pháp
Ở Cộng hòa liên bang Đức có 36.000 hội, mỗi năm có trên 10.000 hội
được thành lập. Các hội có vai trò quan trọng trong các hoạt động xã hội và
phúc lợi xã hội. Các hội quản lý trên 40% bệnh viện, 85% các nhà dành cho
trẻ em, 55% các cơ sở dành cho người cao tuổi
16
.
Tại Cộng hòa Áo có khoảng 110.000 tổ chức hoạt động phi lợi nhuận,
trong đó đông nhất là các hiệp hội với 108.459 tổ chức, tiếp theo là các quỹ
công: 475, các công ty: 310, các hợp tác xã: 297 và các quỹ tư nhân: 115.
Trong lĩnh vực giáo dục, tổ chức phi lợi nhuận chiếm 11,9% tương ứng
26.682 tổ chức; trong lĩnh vực y tế, tổ chức phi lợi nhuân là 10,3%
17
Ở Liên bang Nga, tổ chức xã hội gồm nhiều loại hình với tên gọi khác
nhau như: tổ chức phi chính phủ, hội, hiệp hội, phong trào xã hội, quỹ xã hội,
tổ chức xã hội độc lập, tổ chức phi lợi nhuận Sau khi Liên Xô tan rã, số
lượng các tổ chức xã hội ở Liên bang Nga tăng lên một cách nhanh chóng,
năm 1990 chỉ có khoảng 4.000 tổ chức, chủ yếu là các hiệp hội văn hoá, thể
thao, h
ội tình nguyện với quân đội và các Quỹ hoà bình, đến năm 1996 đã có
khoảng 58.000 tổ chức đăng ký hoạt động với nhiều loại hình, tên gọi khác
16
Sứ quán Pháp: Tự do Hội trên thế giới (Tài liệu dịch)
17
Dẫn theo “Tiếp tục cải cách và đổi mới khu vực tổ chức sự nghiệp công lập cung ứng dịch vụ
giáo dục và y tế ở Việt Nam, Nguyễn Thị Tuệ Anh Chủ biên. NXB. Lao động , HN.2010. tr 110
21
nhau. Hoạt động của các tổ chức này được điều chỉnh bởi các quy định của
các văn bản pháp luật khác nhau như Luật Liên bang ngày 14/6/1992 về đơn
vị hành chính - lãnh thổ đặc biệt (khép kín), Luật Liên bang ngày 19/5/1995về
các tổ chức xã hội, Luật liên bang ngày 12/1/1996 về các tổ chức phi lợi
nhuận, Luật liên bang ngày 10/01/2006 về những thay đổi trong một số luật
Liên bang Nga,
Tại Hoa Kỳ, các tổ chức xã h
ội bao gồm các loại hình khác nhau như: tổ
chức thiện nguyện, tổ chức phi chính phủ, hội ái hữu, hội tương trợ phụ nữ,
hội nghề nghiệp, công đoàn, hội sinh viên, hội bảo vệ thiện nhiên, nhóm lợi
ích Theo thống kê trong 10 năm từ 1995- 2005, số tổ chức thiện nguyện
tăng 66, 1%; đến năm 2008, có 984.386 tổ chức thiện nguyện, 116.890 tổ
chức phúc lợi xã hội, 56.819 tổ ch
ức lao động trong lĩnh vực nông nghiệp,
71.878 liên đoàn doanh nghiệp, 56.369 câu lạc bộ xã hội và giải trí, 63.318
hội ái hữu, 35.113 hội cựu chiến binh. Tổng số chi phí trong hoạt động của
876.164 tổ chức thiện nguyện năm 2005 là 1,1 ngàn tỷ USD, tương đương
10% GDP của Hoa Kỳ
18
.
Ở Nhật Bản, năm 1996 đã có 85.786 tổ chức phi lợi nhuận, trong đó có
37% hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ xã hội, 17% hoạt động cộng đồng, 17%
hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, văn hóa và thể thao, 10% trong lĩnh vực
bảo vệ mô trường, 5% liên quan đến y tế và sức khỏe
19
Ở Hàn Quốc, sau khi kết thúc chế độ độc tài quân sự, bước vào thời kỳ
dân chủ hóa, số lượng tổ chức xã hội tăng lên nhanh chóng từ 11.000 năm
1996 lên 22.000 năm 2002. Và vai trò của các tổ chức xã hội được xem là
cộng tác hài hòa với chủ thể nhà nước và thị trường vì mục tiêu tiến bộ của
dân tộc; theo đó giới hoạt động xã hội cho rằng phản biện chính sách, phát
hiện cái đúng và cái sai trong chính sách nhà nướ
c là trách nhiệm của các tổ
chức xã hội. Kết quả điều tra năm 2000 tại Hàn Quốc cho thấy: 33,8% người
dân quan niệm các tổ chức xã hội phải “phê phán chính sách của chính phủ,
hiến kế và ũng hộ các chính sách thay thể”, 31% cho rằng các tổ chức xã hội
cần “bảo vệ quyền của những người bên lề xã hội”, 13,6% khẳng định vai trò
quan trọng của các tổ chức này trong việc “cung cấp các dị
ch vụ xã hội” và
13,8% ũng hộ vai trò của các tổ chức xã hội trong “thúc đẩy sự tham gia của
18
Xem Thông tin khoa học pháp lý. Số 3/2010 - Viện Khoa học Pháp lý – Bộ Tư pháp
19
Xem đã dân ở 15
22
người dân vì cộng đồng”
20
Ở Trung Quốc, các tổ chức xã hội, các tổ chức phi chính phủ, phi thương
mại, các quỹ được hình thành và phát triển mạnh từ khi Đảng và Nhà nước
thực hiện cải cách, mở cửa, xây dựng kinh tế thị trường, chú trọng đến pháp
trị và thực hiện tự do, dân chủ cho người dân. Theo thống kê của Bộ Dân
chính, đến cuối năm 2008, Trung Quốc có 414.000 tổ chức xã hội, trong đó
đoàn thể xã hội là 230.000 t
ổ chức. Tuy nhiên trên thực tế, số lượng tổ chức
xã hội ở Trung Quốc còn nhiều hơn con số đó do có nhiều tổ chức xã hội
không hội đủ điều kiện thành lập của cơ quan quản lý nhà nước nhưng vẫn
đanghoạt động. Các tổ chức xã hội hoạt động trong nhiều lĩnh vực: khoa học
kỹ thuật, giáo dục, văn hoá, vệ sinh, lao động, dân chính, th
ể dục, bảo vệ môi
trường, dịch vụ pháp luật, dịch vụ trung gian, dịch vụ công thương, kinh tế
nông nghiệp… thu hút người lao động làm việc trong các tổ chức lên tới
4.758.000 người. Điểm đặc thù của các tổ chức xã hội ở Trung Quốc là các tổ
chức này có mối liên hệ mật thiết với Nhà nước, chịu sự quản lý của Nhà
nước theo “Điều lệ quản lý
đăng ký đoàn thể xã hội” và “Điều lệ tạm thời
quản lý đăng ký các đơn vị phi doanh nghiệp tư nhân”; các tổ chức xã hội có
quy mô tổ chức và ảnh hưởng lớn trong xã hội được Nhà nước cấp hoàn toàn
hoặc hỗ trợ một phần kinh phí hoạt động.
Để phân biệt các tổ chức ngoài nhà nước, chúng ta có thể so sánh các
loại tổ chức sau:
- Đảng phái là những tổ chức có mục
đích hoạt động giành chính
quyền, thực thi quyền lực nhà nước. Với mục tiêu lớn như vậy nên đảng phái
thường được tổ chức thành một hệ thống chặt chẽ, có kỷ luật, nguyên tắc hoạt
động cũng như lý tưởng, đường lối, chiến lược của mình.
- Các tổ chức chính trị- xã hội là những tổ chức hoạt động vì lợi ích
của các nhóm, các cộng đồ
ng xã hội cụ thể, thông qua các phương thức gây
ảnh hưởng đến chính quyền, và đảng phái (mà không đặt ra mục tiêu giành
hoặc tham gia chính quyền)
- Các tổ chức xã hội là những nhóm hoặc tổ chức các thành viên nhằm
đạt được những mục đích chung của tổ chức, xã hội, cộng đồng mà không cần
20
Kang, Sang –wook, 2001 Study on NGOs growth in South Korea. Seoul Labor, March 8.2006
23
đặt ra mục tiêu trực tiếp gây ảnh hưởng, tác động đến quá trình hoạch định
chính sách của nhà nước cũng như đảng phái. …
Về mặt lịch sử, các thiết chế phi lợi nhuận, thiện nguyện đã tồn tại lâu
dài trong mọi xã hội, được coi như sản phẩm của các động cơ tôn giáo, phong
trào xã hội, lợi ích văn hoá hoặc nghề nghiệp, tinh thần đoàn kết và tươ
ng hỗ
lẫn nhau, sự hi sinh Từ thế kỷ XIX, xuất hiện ý tưởng về xã hội dân sự như
là một lực lượng để chỉnh sửa đối với chính quyền và thị trường không hoàn
hảo. Đồng thời, những nổ lực giải quyết xung đột xã hội và sự thiếu hụt dân
chủ làm cho người ta nhấn mạnh đến vai trò của các tổ chức xã hội cũng như
do bản thân các chính phủ có nhu cầu cần được hỗ trợ để thực hiện tốt các
chức năng công cộng.
Trong xã hội hiện đại, khi kinh tế thị trường và nhà nước pháp quyền đã
trở thành những giá trị mang tính phổ biến, các tổ chức xã hội (tên gọi chung
thường được dùng là xã hội dân sự) phát triển hết sức đa dạng về hình thức,
mềm dẻo về cơ chế
hoạt động và phong phú về nội dung, tôn chỉ, mục đích
hoạt động, dù tên gọi không giống nhau. Chẳng hạn, ở Anh, đó là các “hãng”
tương ái, tổ chức từ thiện, tổ chức tình nguyện; ở Pháp gọi là các hội công ích
và quỹ; ở Italia là các tổ chức phi vụ lợi, hoặc các ủy ban, quỹ; ở Nga gọi là
hội, quỹ hoặc tổ chức phi thương mại; ở Mỹ gọi là các tổ ch
ức phi lợi nhuận,
tổ chức miễn thuế; một số nước khác thì gọi là tổ chức tự nguyện hay tổ chức
nhân dân, v.v…
Nhà nước ra đời là một tất yếu lịch sử và phải thực hiện đồng thời hai
chức năng: chức năng giai cấp và chức năng xã hội. Điều đó có nghĩa là bên
cạnh lợi ích chung của toàn xã hội, nhà nước còn có nghĩa vụ ch
ăm lo lợi ích
cho giai cấp thống trị. Trên thực tế, lợi ích giai cấp nhiều khi lại được đặt cao
hơn lợi ích của toàn xã hội. Điều này đi ngược lại với mong muốn của đa số
người dân, những người đã trao một phần quyền lực của mình cho nhà nước
để nhà nước đảm bảo và bảo vệ quyền và lợi ích cho mình. Những người dân
lập ra các tổ
chức riêng của mình để giám sát hoạt động của nhà nước và nhắc
nhở, thậm chí gây áp lực với nhà nước để buộc nhà nước thực hiện đầy đủ
những cam kết của mình với người dân. Trong bất kỳ xã hội nào đều tồn tại
sự khác biệt về giới, tuổi, nghề nghiệp, sở thích, khuynh hướng nhu cầu, lợi
ích ; sự khác biệt đó sớm hay muộn, công khai hay thầm kín, dù h
ợp pháp
hay bất hợp pháp cũng sẽ bộc lộ. Và do đó dần hình thành những tổ chức của
24
các nhóm công dân nhằm vào những mục tiêu khác nhau với những cách thức
tổ chức và hoạt động khác nhau. Mỗi cá nhân chưa đủ quan trọng để tiếng nói
riêng của mình có trọng lượng nhưng nếu nhiều người tập hợp lại tạo thành
nhóm thì tiếng nói chung sẽ có trọng lượng hơn. Những nhu cầu chưa được
đáp ứng của người dân ngày càng bức xúc, họ tập hợp những người có cùng
nhu c
ầu để tạo nên một tiếng nói có trọng lượng hơn, có ảnh hưởng hơn đối
với xã hội và thông qua đó buộc những người cầm quyền phải nghe thấy và
có sự quan tâm đáp ứng thỏa đáng ở mức độ nhất định.
Sự tham gia của người dân vào các hoạt động chính trị, xã hội được coi
như một giá trị dân chủ và như một cơ hội cho sự
phát triển tự thân và đầy đủ
của mỗi cá nhân. Ngay cả trong trường hợp mọi quyết định cuối cùng đều là ý
chí của đa số, các nhóm thiểu số vẫn được phép vận dụng những phương pháp
đã được thể chế hoá để giành ảnh hưởng hoặc thắng lợi cho quan điểm của
mình. Một trong những cách thức người dân thực hiện những quyền dân chủ
của mình là thông qua các t
ổ chức xã hội.
Để đảm bảo mở rộng tiến trình dân chủ trên quy mô quốc gia, giải quyết
các xung đột một cách hoà bình, thông qua các phương tiện hợp hiến và hợp
pháp, các học thuyết chính trị phương Tây cho rằng cần phải có sự hiện diện
của các tổ chức xã hội tương đối độc lập. Sự hình thành các tổ chức xã hội
trong khuôn khổ pháp luật là một phương thức an toàn cầ
n thiết giải tỏa
những căng thẳng và năng lượng tích tụ trong xã hội. Nói một cách khác, các
lý thuyết này cho rằng, không thể tồn tại dân chủ ở nơi không tồn tại các tổ
chức xã hội độc lập tương đối. Mà mục đích là để kiểm soát lẫn nhau, kiểm
soát nhà nước và thực thi dân chủ.
Mặt khác, với một chi phí có hạn, nhà nước không phải lúc nào cũng đủ
khả năng và ngu
ồn lực để quan tâm đến mọi lĩnh vực của cuộc sống, đáp ứng
mọi nguyện vọng, nhu cầu của mọi người dân. Nhà nước cũng không thể bao
biện, bao quát, áp đặt, làm thay được xã hội công dân trong nhiều vấn đề. Các
tổ chức xã hội có khả năng làm tốt hơn nhà nước trong một số lĩnh vực và đó
cũng là nhu cầu tất yếu của người dân tự
thực hiện những nguyện vọng của
mình mà nhà nước, vì nhiều lí do, chưa thực hiện hoặc không thực hiện được.
Xã hội càng phát triển, nhu cầu của người dân càng cao, các nguồn lực càng
phong phú. Đây là nguyên nhân các tổ chức xã hội xuất hiện và xuất hiện
ngày càng nhiều ở các nước tư bản phát triển.