Tải bản đầy đủ (.doc) (89 trang)

bài giảng kinh tế vĩ mô

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.17 MB, 89 trang )

CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ KINH TẾ HỌC VĨ MÔ
I. Khái niệm và đặc trưng của kinh tế học
1. Khái niệm về kinh tế học
1.1. Khái niệm
Khoa học kinh tế hình thành từ cuối thế kỷ XVIII. Tác phẩm mở đường “Bàn
về bản chất và nguồn gốc của cải của các quốc gia” của Adam Smith xuất bản năm
1776 đánh dấu sự hình thành khoa học kinh tế.
Năm 1936, John Maynard Keynes - nhà kinh tế học người Anh đã đưa ra lý
thuyết chống lại lý thuyết của Adam Smith. Đây cũng là năm đánh dấu sự hình thành
kinh tế học vĩ mô. Keynes đã đưa ra 2 quy luật: trật tự của tự nhiên và trật tự kinh tế
- xã hội. Theo ông, hai trật tự kinh tế này hoàn toàn tồn tại khách quan. Khác với
quan điểm bàn tay vô hình của Adam Smith, Keynes đưa ra quan điểm bàn tay hữu
hình. Theo ông sự vận động của nền kinh tế cần có sự can thiệp của Nhà nước, của
Chính phủ.
Các vấn đề kinh tế xuất hiện do chúng ta mong muốn nhiều hơn so với cái mà
chúng ta có thể nhận được. Chúng ta muốn một thế giới an toàn và hoà bình. Chúng
ta muốn có không khí trong lành và nguồn nước sạch. Chúng ta muốn sống lâu, sống
khoẻ. Chúng ta muốn sống trong một căn hộ rộng rãi và đầy đủ tiện nghi. Chúng ta
muốn có thật nhiều thời gian để thưởng thức âm nhạc, chơi thể thao, đi du lịch, giao
lưu với bạn bè,…
Nhưng mỗi thứ mà chúng ta nhận được lại bị hạn chế bởi thời gian và thu
nhập hiện có. Kết quả là mọi người luôn có những mong muốn không được thoả
mãn. Việc chúng ta thất bại trong việc thoả mãn mọi mong muốn được gọi là khan
hiếm. Cả người giàu và người nghèo đều đối mặt với khan hiếm. Một em bé muốn có
một que kem giá 2000 đồng và một phong kẹo cao su giá 2000 đồng, nhưng trong túi
em chỉ có 2000 đồng. Em bé đối mặt với sự khan hiếm. Hay một nhà triệu phú muốn
chơi golf vào cuối tuần và ông ta cũng muốn tham dự buổi hội thảo kinh doanh cũng
vào cuối tuần. Nhà triệu phú cũng đối mặt với sự khan hiếm. Một xã hội muốn xây
dựng nhiều đường giao thông, cung cấp dịch vụ y tế tốt hơn, làm sạch các dòng sông
bị ô nhiễm,…Xã hội cũng đối mặt với sự khan hiếm. Đứng trước sự khan hiếm,


chúng ta phải lựa chọn. Chúng ta phải lựa chọn giữa các phương án sẵn có. Em bé
trong ví dụ trên phải lựa chọn hoặc ăn kem, hoặc ăn kẹo cao su. Nhà triệu phú phải
lựa chọn hoặc chơi golf, hoặc tham dự hội thảo. Với tư cách là xã hội, chúng ta phải
lựa chọn giữa đầu tư vào cơ sở hạ tầng với chăm sóc sức khoẻ, quốc phòng, môi
trường,…
1


Kinh tế học ra đời xuất phát từ sự khan hiếm.
Có thể nói kinh tế học từ khi ra đời cho đến nay đã trải qua nhiều phát triển và
cũng đã xuất hiện khá nhiều định nghĩa. Theo Paul A. Samuelson và William D.
Nordhaus: “Kinh tế học là khoa học nghiên cứu xem xã hội sử dụng như thế nào nguồn tài
nguyên khan hiếm để sản xuất ra những hàng hoá cần thiết và phân phối cho các thành
viên của xã hội”.
Từ khái niệm trên, chúng ta cần chú ý:
+ Kinh tế học là một môn khoa học nên trước hết đòi hỏi phải đảm bảo tính
khách quan. Tuy nhiên, cũng như các môn khoa học xã hội khác, kinh tế học không
phải là môn khoa học chính xác nên nó không thể tách rời hoàn toàn quan điểm chủ
quan trong nội dung nghiên cứu.
+ Nội dung cơ bản của kinh tế học là nghiên cứu cách thức sử dụng nguồn tài
nguyên khan hiếm để sản xuất ra một số loại hàng hoá và dịch vụ cần thiết đáp ứng
nhu cầu của nền kinh tế.
+ Mục tiêu cuối cùng của khoa học kinh tế là nhằm thoả mãn nhu cầu ngày càng
tăng của nền kinh tế. Muốn thoả mãn được nhu cầu đòi hỏi sản xuất phải được tăng
trưởng. Do đó, nghiên cứu tăng trưởng kinh tế là một nội dung quan trọng của kinh tế
học. Tuy nhiên, trong quá trình tăng trưởng kinh tế dài hạn lại nảy sinh vấn đề cân bằng
và mất cân bằng, tạo nên sự dao động ngắn hạn của nền kinh tế. Sự dao động này làm
cho nền kinh tế kém hiệu quả và tăng trưởng chậm. Muốn có hiệu quả cao và tăng
trưởng nhanh đòi hỏi phải hạn chế mức độ dao động đó. Song nền kinh tế ổn định, hiệu
quả cao và tăng trưởng nhanh chưa chắc đảm bảo thoả mãn tốt nhất nhu cầu của dân

chúng, khi mà sự phân phối những thành quả đó còn bất hợp lý. Chính vì vậy, kinh tế học
phải giải quyết vấn đề phân phối thu nhập nhằm tạo ra sự công bằng trong việc hưởng
thụ những sản phẩm mà nền kinh tế tạo ra.
Kinh tế học thường được chia thành hai phân ngành lớn là kinh tế học vi mô và
kinh tế học vĩ mô.
1.2. Kinh tế học vi mô và kinh tế học vĩ mô
- Kinh tế học vi mô (Microeconomics): Nghiên cứu, phân tích nền kinh tế ở giác
độ chi tiết, bộ phận riêng lẽ, nghiên cứu hành vi ứng xử của người tiêu dùng và người
sản xuất nhằm lý giải sự hình thành và vận động của giá cả từng sản phẩm trong từng
loại thị trường khác nhau.
- Kinh tế học vĩ mô (Macroeconomics): Nghiên cứu, phân tích nền kinh tế một
cách tổng thể, thông qua các biến số: tổng sản phẩm quốc gia (GNP), tỷ lệ lạm phát, tỷ
lệ thất nghiệp, lượng cung tiền trong nền kinh tế, cán cân thanh toán, tỷ giá hối đoái,…
Trên cơ sở đó đề ra những giải pháp nhằm ổn định và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
2


Cách tiếp cận cơ bản trong kinh tế học vĩ mô là xem xét những xu hướng chung
của nền kinh tế chứ không phải là các vấn đề liên quan đến từng đơn vị kinh tế đơn lẽ
hay từng đơn vị hành chính. Các câu hỏi lớn của đời sống kinh tế được kinh tế vĩ mô
tìm cách giải đáp như: Điều gì làm cho một nước giàu hơn hay nghèo đi theo thời
gian? Các công dân của một nước sẽ tiết kiệm bao nhiêu cho tương lai? Tại sao mức
giá ở một số nước có xu hướng tăng nhanh trong khi ở các nước khác giá cả lại ổn
định hoặc tăng chậm?,…
Một nội dung lớn trong kinh tế học vĩ mô là nghiên cứu các chính sách của
Chính phủ có ảnh hưởng như thế nào tới hoạt động chung của nền kinh tế. Đa số các
nhà kinh tế vĩ mô cho rằng những thay đổi trong các chính sách kinh tế vĩ mô có ảnh
hưởng rộng khắp và có thể dự tính được chiều hướng chung trong mức sản xuất, việc
làm, mức giá chung và thương mại quốc tế. Nhiều nhà kinh tế cho rằng chính phủ cần
chủ động sử dụng các chính sách kinh tế vĩ mô để cải thiện thành tựu kinh tế vĩ mô.

Tuy nhiên, một số nhà kinh tế khác lại cho rằng mối liên kết giữa các chính sách này
với nền kinh tế là không ổn định và không dự tính được nên không thể sử dụng để
quản lý nền kinh tế.
Kinh tế học vĩ mô và kinh tế học vi mô có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với
nhau. Vì những thay đổi trong toàn bộ nền kinh tế phát sinh từ các quyết định của
hàng triệu cá nhân, nên chúng ta không thể hiểu được các hiện tượng kinh tế vĩ mô nếu
không tính đến các quyết định kinh tế vi mô. Chẳng hạn, một nhà kinh tế vĩ mô có thể
nghiên cứu ảnh hưởng của biện pháp cắt giảm thuế thu nhập đối với mức sản xuất
hàng hoá và dịch vụ của nền kinh tế. Để phân tích vấn đề này, nhà kinh tế vĩ mô phải
xem xét ảnh hưởng của biện pháp cắt giảm thuế đối với quyết định chi mua hàng hoá
và dịch vụ của các hộ gia đình.
Mặc dù có mối liên kết chặt chẽ giữa kinh tế học vĩ mô và kinh tế học vi mô,
hai lĩnh vực nghiên cứu này vẫn có sự khác biệt. Kinh tế học vi mô và kinh tế học vĩ
mô xử lý các vấn đề khác nhau, đôi khi họ sử dụng những phương pháp tiếp cận hoàn
toàn khác nhau.
Tuỳ theo cách sử dụng mà kinh tế học được chia thành hai dạng: kinh tế học
thực chứng và kinh tế học chuẩn tắc.
1.3. Kinh tế học thực chứng và kinh tế học chuẩn tắc
- Kinh tế học thực chứng (Positive economics): Mô tả và giải thích các hiện
tượng kinh tế một cách khách quan và khoa học.
Mục tiêu của kinh tế học thực chứng là giải thích xã hội quyết định như thế nào về
sản xuất, tiêu thụ và trao đổi hàng hoá. Sự khảo sát này nhằm hai mục đích:
+ Giải thích cơ chế vận hành của nền kinh tế.
3


+ Dự đoán những phản ứng của nền kinh tế và dự đoán sự phát triển của nền
kinh tế trong tương lai.
Nó trả lời cho các câu hỏi dưới dạng: “là gì”, “là bao nhiêu”, “tại sao”, “như thế
nào”,…

- Kinh tế học chuẩn tắc (Normative economics): Đưa ra những chỉ dẫn, những
quan điểm đánh giá hoặc lựa chọn cách thức giải quyết các vấn đề kinh tế của từng cá
nhân hay từng nhóm cá nhân (không có tính khoa học).
Nó giải đáp các câu hỏi dưới dạng: “tốt hay xấu”, “nên hay không nên”, “phải
làm gì”,…
2. Những đặc trưng của kinh tế học
2.1. Tiền đề nghiên cứu và phát triển của kinh tế học
Kinh tế học nghiên cứu sự khan hiếm các nguồn lực một cách tương đối so với
nhu cầu của nền kinh tế, xã hội.
Nếu có thể sản xuất với một số lượng vô hạn về mọi loại hàng hoá và thoả mãn
đầy đủ được mọi nhu cầu của con người thì sẽ không có hàng hoá kinh tế và cũng
không cần thiết phải tiết kiệm hay nghiên cứu kinh tế học.
Kinh tế học ra đời bắt nguồn từ mâu thuẫn giữa một bên là nguồn tài nguyên có
hạn với một bên là nhu cầu có khuynh hướng tăng vô hạn và tăng nhanh hơn sản xuất
của con người.
2.2. Tính hợp lý của kinh tế học
Đặc trưng này thể hiện ở chỗ khi phân tích hoặc lý giải một sự kiện kinh tế nào
đó, cần phải dựa trên những giả thiết nhất định (hợp lý) phù hợp với các mối quan hệ
kinh tế mà ta đang quan tâm.
Ví dụ: Khi muốn phân tích xem người tiêu dùng muốn mua thứ gì, với số lượng bao
nhiêu, kinh tế học đưa ra giả định là họ tìm cách mua được nhiều hàng hoá và dịch vụ nhất,
với số thu nhập có hạn của mình. Hay để giải thích xem doanh nghiệp sản xuất cái gì, bao
nhiêu và bằng cách nào, kinh tế học giả định là họ tìm cách tối đa hoá thu nhập của mình
với những ràng buộc nhất định về các yếu tố sản xuất.
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng tính chất hợp lý của những giả thiết này chỉ có ý
nghĩa tương đối.
2.3. Kinh tế học là bộ môn nghiên cứu mặt lượng
Việc thể hiện các kết quả nghiên cứu kinh tế bằng những con số có tầm quan
trọng đặc biệt. Khi phân tích kết quả của các hoạt động kinh tế, nếu chỉ nhận định nó
tăng lên hay giảm xuống là chưa đủ, mà còn phải xác định xem sự thay đổi đó là bao

nhiêu.
2.4. Tính toàn diện và tính tổng hợp của kinh tế học
4


Khi xem xét các hoạt động và sự kiện kinh tế phải đặt nó trong mối liên hệ với
các hoạt động và sự kiện kinh tế khác trên phương diện một nước, thậm chí trên
phương diện nền kinh tế thế giới.
Ví dụ: Để chống lạm phát, Ngân hàng Trung ương của một nước nào đó quyết
định giảm mức cung về tiền. Kết quả là tổng cầu giảm và cả giá cả, sản lượng và việc
làm đều giảm. Mặt khác, đồng tiền nước này lại tăng giá, hàng xuất khẩu của họ trở
nên đắt tương đối và hàng nhập khẩu của họ lại giảm tương đối. Do đó, xuất khẩu ròng
giảm, dẫn đến sản lượng và việc làm của nước này tiếp tục giảm, còn các nước có
quan hệ buôn bán với nước này lại tăng được xuất khẩu, nên khuyến khích sản lượng
và việc làm của nước họ,…
2.5. Các kết quả nghiên cứu kinh tế chỉ xác định được ở mức độ trung bình
Vì những kết quả này phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố khác nhau và không
thể xác định được chính xác tất cả các yếu tố này.
3. Phương pháp luận nghiên cứu của kinh tế học
Tính khoa học của một môn học được quyết định bởi cách tiếp cận vấn đề chứ
không phải bởi công cụ sử dụng, nghĩa là phải phát triển và kiểm định các lý thuyết về
phương thức vận hành của thế giới một cách khách quan và vô tư. Các nhà kinh tế tìm
cách nghiên cứu đối tượng của mình với tính khách quan của một nhà khoa học, họ
đưa ra các giả thiết thích hợp và thiết lập các mô hình để giải thích sự vận hành của thế
giới kinh tế xung quanh chúng ta.
Khác với khoa học tự nhiên, khi nghiên cứu các hiện tượng kinh tế, người ta
thường áp dụng phương pháp quan sát. Sỡ dĩ như vậy là do các hiện tượng kinh tế hết
sức phức tạp, thường xuyên biến động và chịu nhiều yếu tố tác động.
Do đó, trong quá trình nghiên cứu cần phải thu thập các số liệu, tiến hành phân
tích bằng các phương pháp phân tích thích hợp.

Một phương pháp vô cùng quan trọng trong kinh tế là phương pháp trừu tượng
hoá, bóc tách các nhân tố không định nghiên cứu (cố định lại) để xem xét các mối
quan hệ kinh tế giữa những biến số cơ bản. Khi phân tích trừu tượng như vậy, việc sử
dụng các phương pháp thống kê có ý nghĩa rất lớn.
Cuối cùng cần rút ra những kết luận, đối chiếu với thực tế, phát hiện những
điểm bất hợp lý, đề ra những giả thiết mới rồi kiểm nghiệm lại bằng thực tế để rút ra
những kết luận sát thực hơn với đời sống kinh tế.
II. Một số khái niệm cơ bản của kinh tế học
1. Các yếu tố sản xuất, giới hạn khả năng sản xuất và chi phí cơ hội
1.1. Các yếu tố sản xuất
Các yếu tố sản xuất là các đầu vào của quá trình sản xuất, bao gồm:
5


+ Tài nguyên thiên nhiên
Tài nguyên thiên nhiên là yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất do thiên nhiên
mang lại như: đất đai, sông ngòi, khoáng sản,…
+ Tích luỹ tư bản
Tư bản là những hàng hoá sản xuất ra để sử dụng sản xuất ra các hàng hoá
khác, bao gồm: nhà xưởng, đường xá, máy móc,…
Việc tích luỹ tư bản có vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả sản
xuất.
+ Nguồn nhân lực
Nhiều nhà kinh tế cho rằng chất lượng đầu vào lao động - kỹ năng, kiến thức và
kỷ luật của lực lượng lao động - là yếu tố quan trọng nhất của tăng trưởng kinh tế. Hầu
hết các yếu tố khác của sản xuất như tư bản hiện vật, nguyên vật liệu, công nghệ đều
có thể mua hoặc thuê được trong nền kinh tế thế giới. Một nước có thể nhập khẩu các
thiết bị viễn thông, máy tính, máy phát điện, các loại máy móc hiện đại nhất. Nhưng
những hàng tư bản này chỉ có thể được sử dụng một cách có hiệu quả nhất nếu như
con người có kỹ năng và được đào tạo, có trình độ văn hoá, kỷ luật lao động cao làm

cho năng suất lao động tăng.
+ Khoa học công nghệ
1.2. Đường giới hạn khả năng sản xuất (PPF: Production Possibility Frontier)
Đường giới hạn khả năng sản xuất PPF là tập hợp các mức phối hợp tối đa khối
lượng các loại sản phẩm mà nền kinh tế có thể đạt được khi sử dụng toàn bộ các nguồn
lực của nền kinh tế.
- Điều kiện:
+ 100% các yếu tố đầu vào được sử dụng.
+ Phạm vi áp dụng: cho một doanh nghiệp hay cho một quốc gia.
Ví dụ: Giả sử chỉ có hai loại mặt hàng được sản xuất là lương thực và quần áo.
Bảng 1 thể hiện một số khả năng lựa chọn các tổ hợp hai loại hàng hoá trên khi
sử dụng hết các yếu tố sản xuất với công nghệ hiện có.
Bảng 1: Những khả năng sản xuất thay thế nhau
Khả năng sản xuất Lương thực (tấn)
Quần áo (1000 bộ)
A
0
7,5
B
1
7,0
C
2
6,0
D
3
4,5
E
4
2,5

F
5
0
Bảng trên cho thấy nếu nền kinh tế chỉ sản xuất quần áo thì lượng quần áo thu
được là 7,5 nghìn bộ. Nếu sản xuất 7 nghìn bộ quần áo thì phần năng lực còn lại sẽ sản
6


xuất được 1 tấn lương thực. Tương tự, nếu giảm sản xuất quần áo thì sẽ có khả năng
tăng lương thực lên. Lượng quần áo giảm đến 0 thì lương thực đạt được là 5 tấn.
Biểu diễn những khả năng này trên đồ thị và nối những điểm này lại ta được
đường PPF (Hình 1).
QA (1000 bộ)
A
M

N

F

Hình 1.1: Đường giới hạn khả năng sản xuất (PPF)
Dọc theo đường cong từ A đến F, xã hội ngày càng có ít quần áo nhưng nhiều
lương thực hơn. Việc chuyển quần áo thành lương thực được thực hiện qua việc
chuyển tài nguyên sang sản xuất lương thực.
Trên thực tế, do tồn tại quy luật “năng suất cận biên giảm dần” nên đường PPF
có dạng cong.
Các điểm nằm trên đường PPF là những điểm hiệu quả, tận dụng hết khả năng
sản xuất của nền kinh tế.
Các điểm nằm phía trong đường PPF (ví dụ: điểm M) là những điểm không
hiệu quả, còn lãng phí nguồn tài nguyên.

Các điểm nằm phía ngoài đường PPF (ví dụ: điểm N) là những điểm mà nền
kinh tế hay doanh nghiệp không thể đạt được vì đòi hỏi đầu tư vượt quá nguồn lực
hiện có.
Khi nằm trên đường PPF, muốn tăng loại sản phẩm này lên đòi hỏi phải giảm
bớt loại sản phẩm khác. Theo thời gian, các nguồn lực sản xuất của mỗi quốc gia có
khuynh hướng gia tăng. Do đó, đường PPF sẽ dịch chuyển ra ngoài.
Hệ quả: Lựa chọn và quyết định khả năng sản xuất tối ưu:
Gọi PL và PA là đơn giá của lương thực và quần áo.
QL và QA là sản lượng của lương thực và quần áo.
TR là tổng doanh thu.
Khả năng sản xuất tối ưu là khả năng sản xuất có tổng doanh thu cao nhất:
TR = PL.QL + PA.QA = Max
7


1.3. Chi phí cơ hội (Chi phí tương đối)
Do các nguồn tài nguyên là khan hiếm nên xã hội hay từng cá nhân luôn luôn phải
lựa chọn xem sẽ tiến hành những hoạt động cụ thể gì trong số những hoạt động có thể
được tiến hành. Phương án thay thế tốt nhất hay có giá trị nhất mà chúng ta từ bỏ để nhận
được một thứ gọi là chi phí cơ hội của thứ được lựa chọn. Một trong những bài học cơ
bản của kinh tế học là tất cả các lựa chọn của chúng ta đều chứa đựng chi phí. Đúng như
câu ngạn ngữ Anh: “Chẳng có gì là cho không cả”.
Như vậy, chi phí cơ hội của một quyết định là lượng hàng hoá và dịch vụ phải
bỏ qua khi ta lựa chọn và thực hiện quyết định đó mà không lựa chọn thực hiện quyết
định khác trong điều kiện khan hiếm các yếu tố thực hiện quyết định. Đó là một sự
đánh đổi, nghĩa là trao đổi (hy sinh) một thứ để nhận được thứ khác.
Chẳng hạn, hiện tại bạn đang là sinh viên năm thứ nhất trường CĐSP Huế, bạn
quyết định liệu có nên tiếp tục học hay dừng học. Lợi ích của việc học tiếp là làm giàu
thêm kiến thức và có được những cơ hội tốt hơn trong tương lai. Nhưng chi phí của học
tiếp là gì? Nếu dừng học và đi bán hàng tại một công ty kinh doanh nào đó, bạn có thể

nhận đủ thu nhập để ổn định cuộc sống, đi du lịch và có nhiều thời gian giao lưu với bạn
bè. Nếu học tiếp thì bạn không thể có những thứ đó. Bạn có thể có những thứ đó sau
này, và đó chính là một trong những sự hy sinh từ việc học tiếp. Tuy nhiên, hiện tại
mọi chi phí sinh hoạt, đóng học phí và mua tài liệu đều do gia đình bạn chu cấp, và
bạn không có tiền để đi du lịch. Ôn bài, đọc tài liệu tham khảo, làm bài tập về nhà
cũng đồng nghĩa với việc bạn còn ít thời gian hơn để giao lưu với bạn bè. Chi phí cơ
hội của việc học tiếp là phương án thay thế có giá trị nhất mà bạn có thể làm nếu bạn
dừng học.
Khái niệm chi phí cơ hội có thể được minh hoạ thông qua đường PPF (Hình
1.1), giả sử quyết định sản xuất thêm lương thực từ 1 tấn ở điểm B lên 2 tấn ở điểm
C, chi phí cơ hội cho quyết định này chính là số quần áo bị mất đi để sản xuất thêm
lương thực. Trong trường hợp này, chi phí cơ hội của 1 tấn lương thực là 1 nghìn bộ
quần áo. Hoàn toàn tương tự, tại một điểm cho trước trên đường PPF, muốn tăng
thêm lương thực đòi hỏi phải giảm bớt quần áo, lượng quần áo bị mất đi là chi phí cơ
hội của lượng vải tăng thêm.
2. Quy luật thu nhập giảm dần (Quy luật năng suất cận biên giảm dần)
Quy luật này cho biết số lượng đầu ra có thêm sẽ ngày càng giảm khi liên tiếp
đầu tư thêm những đơn vị bằng nhau của một đầu vào biến đổi trong điều kiện các yếu
tố đầu vào khác cố định.
Quy luật thu nhập giảm dần nói lên mối liên hệ không phải giữa hai loại hàng hoá
mà là giữa một đầu vào của quá trình sản xuất với đầu ra do đầu vào đó tạo ra.
8


Ví dụ: Bảng 2 cung cấp các số liệu về số lao động, sản lượng thóc sản xuất ra
trong vòng 1 vụ với điều kiện diện tích gieo trồng cố định là 100 ha.
Bảng 2: Quy luật năng suất cận biên giảm dần
Số lượng lao động L Sản lượng thóc M (tạ) Sản lượng biên lao động
(người)
MPL (tạ)

100
2500
101
2520
20
102
2535
15
103
2545
10
104
2550
5
105
2550
0
Hệ quả: Lựa chọn và quyết định đầu tư đầu vào để có hiệu quả cao nhất.
MPL = ∆M/∆L
Gọi PL, PM là đơn giá đầu vào lao động và đầu ra của lúa.
∆L, ∆M: Gia tăng lao động và sản lượng lúa.
PL*∆L: Chi phí đầu tư thêm
PM*∆M: Giá trị đầu ra có thêm
Nếu PL*∆L > PM*∆M: nên giảm đầu tư.
PL*∆L < PM*∆M: nên tăng đầu tư.
PL*∆L = PM*∆M: điểm đầu tư tối ưu.
∆M/∆L = PL/PM hay MPL = PL/PM
Như vậy, khi diện tích và các yếu tố khác cố định, mỗi đầu vào lao động tăng
thêm sẽ có ngày càng ít đầu vào cố định để cùng làm việc. Do đó, những đầu vào được
bổ sung sẽ tạo ra ngày càng ít đầu ra tăng thêm.

Quy luật thu nhập giảm dần không phải lúc nào cũng đúng. Trong nhiều trường hợp,
nó chỉ có hiệu lực khi đã bổ sung một số lượng rất lớn các lượng bằng nhau của đầu vào
biến thiên. Nói cách khác, lúc đầu đầu vào biến thiên có thể đem lại thu nhập bổ sung ngày
càng tăng nhưng cuối cùng quy luật thu nhập giảm dần sẽ xảy ra.
3. Quy luật chi phí cơ hội ngày càng tăng
Quy luật này cho biết để có thêm những số lượng bằng nhau về một mặt hàng, xã
hội phải hy sinh ngày càng nhiều hơn số lượng mặt hàng khác.
Trở lại hình 1, nếu nền kinh tế nằm trên đường PPF, muốn tăng thêm 1 tấn
lương thực ta phải hy sinh một lượng quần áo nhất định, nhưng muốn tăng thêm 1 tấn
lương thực nữa đòi hỏi phải hy sinh một lượng quần áo lớn hơn trước. Ngược lại, khi
muốn tăng thêm một lượng quần áo nhất định đòi hỏi phải hy sinh lương thực ngày
càng nhiều.
Đó cũng chính là lý do giải thích tại sao đường PPF có dạng cong lồi ra ngoài.
Các đường PPF có dạng thẳng hay lõm vào gốc toạ độ không thể mô tả được xu hướng
9


trên.
Vấn đề đặt ra là tại sao lại như vậy và có phải quy luật này lúc nào cũng đúng
không? Giả sử việc sản xuất quần áo chủ yếu dùng đến lao động và hầu như không
dùng đến đất đai, còn việc sản xuất lương thực cần đến cả lao động và đất đai. Nếu đất
đai được coi là cố định. Tại điểm A ta thấy việc giảm đi từng đơn vị quần áo sẽ cho
phép chuyển số lao động ra khỏi ngành sản xuất quần áo để chuyển sang ngành sản
xuất lương thực. Tuy nhiên, do đất đai cố định nên theo quy luật thu nhập giảm dần, số
lao động như nhau được bổ sung cho ngành sản xuất lương thực sẽ tạo ra ngày càng ít
lương thực. Như vậy, việc hy sinh lần lượt từng đơn vị quần áo sẽ cho ta ngày càng ít
lương thực và quy luật chi phí cơ hội ngày càng tăng đã được chứng minh.
Từ lập luận trên có thể thấy, điều kiện để tồn tại quy luật này là tỷ lệ sử dụng đầu
vào của hai loại hàng hoá phải khác nhau. Nếu tỷ lệ này như nhau thì đường giới hạn khả
năng sản xuất sẽ trở thành đường thẳng và quy luật này không đúng nữa.

4. Sản lượng tiềm năng và tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên
Sản lượng tiềm năng (Yp - Potentional output) là mức sản lượng mà nền kinh tế
đạt được tương ứng với mức tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên (U n - natural rate of
unemployment) và tỷ lệ lạm phát vừa phải mà nền kinh tế có thể chấp nhận được.
Lưu ý: Sản lượng tiềm năng (Yp) chưa phải là mức sản lượng tối đa, đồng thời
nó có khuynh hướng tăng lên theo thời gian (do khả năng sản xuất của nền kinh tế
luôn có khuynh hướng tăng lên).
Trong thực tế, sản lượng thực tế (Ya) luôn biến động xoay quanh sản lượng tiềm
năng Yp nên tỷ lệ thất nghiệp và tỷ lệ lạm phát cũng biến động, tạo ra chu kỳ kinh
doanh.
Khi Ya = Yp: Nền kinh tế đạt trạng thái toàn dụng.
Khi Ya < Yp: Nền kinh tế đang trong trạng thái khiếm dụng. Nghĩa là lúc này Ua> Un.
Phần cao hơn (là thất nghiệp chu kỳ) có thể được ước tính theo định luật Okun.
III. Mục tiêu và các công cụ trong kinh tế vĩ mô
1. Các mục tiêu kinh tế vĩ mô
1.1. Mục tiêu tổng quát
Thành tựu kinh tế vĩ mô của một quốc gia được đánh giá theo 3 dấu hiệu chủ
yếu sau:
- Ổn định nền kinh tế: Là kết quả của việc giải quyết tốt những vấn đề kinh tế
cấp bách như: lạm phát, suy thoái, thất nghiệp trong ngắn hạn, hạn chế mức độ dao
động của các chu kỳ kinh doanh.
- Tăng trưởng kinh tế: Muốn có tăng trưởng kinh tế đòi hỏi phải tăng năng lực
sản xuất của quốc gia, làm cho tốc độ tăng sản lượng quốc gia đạt mức cao nhất mà
10


nền kinh tế đó có thể thực hiện được.
- Công bằng trong phân phối: vừa là vấn đề xã hội, vừa là vấn đề kinh tế.
1.2. Mục tiêu cụ thể
a. Mục tiêu sản lượng:

+ Trong ngắn hạn: cần đạt mức sản lượng thực tế cao, tương ứng với mức sản
lượng tiềm năng Yp.
+ Trong dài hạn: đạt tốc độ tăng trưởng cao và vững chắc, tăng sản lượng tiềm
năng Yp.
b. Mục tiêu việc làm:
+ Hạ thấp tỷ lệ thất nghiệp, chỉ duy trì ở mức thất nghiệp tự nhiên Un.
+ Tạo nhiều chỗ làm việc mới với mức thu nhập cao cho người lao động.
c. Mục tiêu ổn định giá cả:
+ Cần ổn định mức giá đồng thời hạn chế sự đột biến về giá.
+ Kiểm soát được lạm phát.
d. Mục tiêu kinh tế đối ngoại:
+ Ổn định tỷ giá hối đoái.
+ Cân bằng cán cân thanh toán.
e. Mục tiêu phân phối công bằng:
Phải phân phối và phân phối lại của cải vật chất sao cho vừa tạo điều kiện thuận
lợi để sản xuất phát triển, vừa đảm bảo công bằng xã hội.
2. Các chính sách kinh tế vĩ mô chủ yếu
Để đạt được những mục tiêu kinh tế vĩ mô nêu trên, Chính phủ cần phải có
những công cụ nhất định.
2.1. Chính sách tài khoá (Fiscal Policy)
Chính sách tài khoá được thực hiện bằng cách thay đổi các khoản thu chi ngân
sách của Chính phủ, nhằm hướng nền kinh tế vào mức sản lượng và việc làm mong
muốn.
Chính sách tài khoá bao gồm 2 công cụ chủ yếu:
+ Chi tiêu của Chính phủ (G - Government): Chi tiêu của Chính phủ có ảnh
hưởng trực tiếp đến quy mô của chi tiêu công cộng, do đó có thể trực tiếp tác động đến
tổng cầu và sản lượng.
+ Thuế (T - Tax): Thuế làm giảm các khoản thu nhập, do đó làm giảm chi tiêu
của khu vực tư nhân, từ đó tác động tới tổng cầu và sản lượng.
Trong ngắn hạn, chính sách tài khoá có tác động đến sản lượng thực tế và lạm

phát, phù hợp với các mục tiêu ổn định kinh tế.
Trong dài hạn, chính sách tài khoá có thể có tác dụng điều chỉnh cơ cấu kinh tế,
11


giúp cho sự tăng trưởng và phát triển lâu dài.
2.2. Chính sách tiền tệ (Monetary Policy)
Chính sách tiền tệ do Ngân hàng Trung ương thực hiện, trên cơ sở thay đổi lượng
cung tiền ứng trên thị trường, nhằm tác động đến lãi suất và từ đó ảnh hưởng tới đầu tư.
Chính sách tiền tệ bao gồm 2 công cụ chủ yếu là:
+ Cung về tiền (MS - Money Supply)
+ Lãi suất (r - interest rate)
Khi Ngân hàng trung ương thay đổi lượng cung về tiền, lãi suất sẽ tăng hoặc
giảm, tác động đến đầu tư tư nhân, do đó ảnh hưởng đến tổng cầu và sản lượng.
Chính sách tiền tệ có tác động quan trọng đến GDP thực tế trong ngắn hạn,
song do tác động đến đầu tư nên nó cũng có ảnh hưởng lớn đến GDP tiềm năng trong
dài hạn.
2.3. Chính sách thu nhập (Incomes Policy)
Chính sách thu nhập bao gồm hàng loạt các biện pháp mà Chính phủ sử dụng
nhằm tác động trực tiếp đến tiền công, giá cả để kiềm chế lạm phát.
Chính sách này sử dụng nhiều loại công cụ, từ những công cụ mềm dẻo như
định hướng tiền lương theo ý muốn cho đến những công cụ có tính chất cứng rắn như
kiểm soát có tính chất bắt buộc đối với tiền lương,…
2.4. Chính sách kinh tế đối ngoại (Foreign Policy)
Chính sách kinh tế đối ngoại bao gồm việc can thiệp của Chính phủ nhằm ổn
định tỷ giá hối đoái và giữ cho thâm hụt cán cân thanh toán ở mức có thể chấp nhận
được.
Chính sách này bao gồm các biện pháp giữ cho thị trường hối đoái cân bằng,
các quy định về hàng rào thuế quan, bảo hộ mậu dịch và cả những biện pháp tài chính
và tiền tệ khác, tác động vào hoạt động xuất nhập khẩu


12


CHƯƠNG II
ĐO LƯỜNG SẢN LƯỢNG QUỐC GIA
I. Tổng sản phẩm trong nước GDP
1. Khái niệm
Tổng sản phẩm trong nước (GDP - Gross Domestic Product) là giá trị thị
trường của tất cả hàng hoá và dịch vụ cuối cùng được sản xuất ra trên phạm vi lãnh thổ
của một quốc gia hay một địa phương trong một thời kỳ nhất định.
Để hiểu thấu đáo định nghĩa này, chúng ta cần lưu ý đến nội dung chuyển tải
của từng cụm từ một:
+ “Giá trị thị trường” là giá trị tính bằng tiền hay tính theo giá cả của hàng hoá
được người mua và người bán chấp nhận trên thị trường hàng hoá và dịch vụ.
+ Cụm từ “của tất cả” ý nói GDP tìm cách tính toán hết tất cả các hàng hoá và
dịch vụ được sản xuất và bán hợp pháp trên thị trường.
Nó bao gồm giá trị thị trường không chỉ của các sản phẩm nông nghiệp như
gạo, ngô, khoai, sắn, thịt bò, thịt lợn,… các sản phẩm công nghiệp như quần áo, giày
dép,… mà còn của các loại dịch vụ như du lịch, giáo dục, y tế,…
Tuy nhiên, một số sản phẩm không được tính trong GDP do việc đo lường
chúng quá khó khăn như: các sản phẩm tự sản tự tiêu (tự cấp tự túc) trong các hộ gia
đình (ví dụ: rau quả trong vườn nhà, các dịch vụ sữa chữa nhỏ,…). GDP cũng không
tính tới giá trị giao dịch của một số sản phẩm lưu thông bất hợp pháp hay thuộc kinh tế
ngầm như ma tuý,…
+ Cụm từ “hàng hoá và dịch vụ cuối cùng” nhằm nhấn mạnh GDP chỉ tính giá
trị của các loại hàng hoá, dịch vụ cuối cùng, không tính giá trị của các loại hàng hoá,
dịch vụ trung gian.
Chúng ta cần phân biệt hàng hoá, dịch vụ cuối cùng và hàng hoá, dịch vụ trung
gian.

Hàng hoá, dịch vụ cuối cùng là những sản phẩm cuối cùng của quá trình sản xuất
và được người mua sử dụng dưới dạng sản phẩm hoàn chỉnh. Nói cách khác, một sản
phẩm được xem là hàng hoá, dịch vụ cuối cùng khi thoả mãn 2 điều kiện:
- Kết thúc quá trình sản xuất, phải là thành phẩm.
- Đáp ứng nhu cầu tiêu dùng cuối cùng của nền kinh tế như: ăn, mặc, đầu tư,
xuất khẩu,…Hàng hoá, dịch vụ trung gian là những sản phẩm đóng vai trò là yếu tố
đầu vào của quá trình sản xuất và được sử dụng hết trong quá trình đó.
Cần phân biệt hàng hoá, dịch vụ cuối cùng và hàng hoá, dịch vụ trung gian vì
đôi khi cùng một hàng hoá có thể là hàng hoá cuối cùng của ngành này nhưng lại là
hàng hoá trung gian của ngành khác. Ví dụ: Vải là sản phẩm cuối cùng của ngành dệt
13


nhưng lại là sản phẩm trung gian của ngành may.
Phân biệt hàng hoá, dịch vụ cuối cùng và hàng hoá, dịch vụ trung gian nhằm
khắc phục hiện tượng tính trùng trong đo lường GDP.
Ví dụ: Trong ngành sản xuất xe máy. Khi tính GDP, nếu chúng ta cộng tất cả
giá trị sản lượng của cao su, lốp xe và xe máy được tạo ra trong một nền kinh tế lại với
nhau thì sẽ là vô nghĩa vì giá trị của lốp xe đã tính đến giá trị của cao su dùng để sản
xuất ra lốp xe đưa vào xe máy. Ở đây, cao su và lốp xe là những hàng hoá trung gian.
+ “trong phạm vi một nước” có nghĩa là giá trị của tất các hàng hoá được sản
xuất ra trong phạm vi lãnh thổ nước nào thì tính vào GDP nước đó, bất kể hàng hoá đó
được tạo ra bởi công dân nước nào và doanh nghiệp thuộc sở hữu trong nước hay nước
ngoài. Như vậy, GDP xác định theo phạm vi lãnh thổ của một quốc gia hay một địa
phương được xác định theo 2 phần:
- Phần hàng hoá và dịch vụ cuối cùng mà công dân của một quốc gia hay địa
phương đó tạo ra.
- Phần hàng hoá và dịch vụ cuối cùng do người nước ngoài hay người địa
phương khác tạo ra ở quốc gia hay địa phương đó.
+ “trong một thời kỳ nhất định” nghĩa là GDP phản ánh giá trị sản lượng tạo ra

trong một khoảng thời gian cụ thể (năm, quý).
2. GDP danh nghĩa, GDP thực tế và chỉ số điều chỉnh GDP
2.1. GDP danh nghĩa (GDPn - Nomimal GDP)
GDP danh nghĩa là giá trị sản lượng hàng hoá và dịch vụ tính theo giá hiện
hành, hay là tổng của lượng hàng hoá và dịch vụ được sản xuất ra trong một năm nhân
với giá của hàng hoá và dịch vụ ấy trong năm đó.
Công thức:
GDPnt = ∑ qit pit

Trong đó: i: biểu hiện mặt hàng cuối cùng thứ i với i = 1,2,…,n
t: thời kỳ tính toán (năm, quý)
qi: lượng mặt hàng thứ i
pi: giá mặt hàng thứ i
2.2. GDP thực tế (GDPr - Real GDP)
GDP thực tế là giá trị sản lượng hàng hoá và dịch vụ hiện hành của nền kinh tế
được đánh giá theo mức giá cố định của năm cơ sở (năm gốc) hay là tổng của lượng
hàng hoá và dịch vụ được sản xuất ra trong một năm nhân với giá cố định của các
hàng hoá và dịch vụ ấy trong năm gốc.
Công thức:
GDPrt = ∑ qit pio

14


( pio giá cố định của hàng hoá, dịch vụ i ở năm cơ sở hay năm gốc)
Trong thực tế, nếu quan sát thấy GDP danh nghĩa tăng từ năm này sang năm
khác thì chưa thể kết luận sự tăng đó là do sản lượng hàng hoá và dịch vụ tăng hay do
mức giá tăng. Nhưng nếu quan sát thấy GDP thực tế tăng thì có thể khẳng định rằng
sản lượng hàng hoá và dịch vụ đã tăng vì mức giá được tính cố định theo năm gốc. Do
đó, chỉ tiêu GDP thực tế là thước đo tốt hơn về kết quả sản xuất của nền kinh tế theo

thời gian.
Lưu ý:
- Khi so sánh quan hệ tài chính, so sánh kết quả hoạt động của các nền kinh tế
với nhau, của các địa phương hoặc các ngành trong nền kinh tế với nhau thì nên dùng
GDP danh nghĩa.
- Khi so sánh GDP qua các năm, để đánh giá tốc độ tăng trưởng kinh tế thì phải
dùng GDP thực tế.
2.3. Chỉ số điều chỉnh GDP (GDP Deflator - DGDP)
Chỉ số điều chỉnh GDP đo lường mức giá trung bình của tất cả mọi hàng hoá và
dịch vụ được tính vào GDP.
Chỉ số điều chỉnh GDP được tính bằng tỷ số giữa GDP danh nghĩa và GDP
thực tế.
Chỉ số điều chỉnh GDP được tính bằng công thức sau:
DGDP =

GDPnt
* 100 =
GDPrt

∑q p
∑q p
t
i
t
i

t
i
0
i


* 100

Do GDP danh nghĩa phải bằng GDP thực tế ở năm cơ sở nên chỉ số điều chỉnh
GDP ở năm cơ sở luôn bằng 1. Tuy nhiên, để tiện lợi trong việc đọc, các nhà thống kê
kinh tế thường thể hiện giá trị của chỉ số điều chỉnh GDP hay chỉ số giảm phát ở năm
cơ sở là 100 thay vì là 1. Do đó, tỷ số giữa giữa giá trị của GDP danh nghĩa và GDP
thực tế được nhân với 100. (Nhân 100 ở công thức này là để dễ đọc chứ không phải để
tính %).
Ý nghĩa của chỉ số điều chỉnh GDP:
+ Dùng để qui đổi GDPn thành GDPr và ngược lại.
+ Dùng để tính tỷ lệ lạm phát (∏)
Πt =

t
t −1
DGDP
− DGDP
* 100 (%)
t −1
DGDP

Lưu ý: Trong công thức tính tỷ lệ lạm phát trên chỉ tính cho hai mốc thời gian
liền nhau (năm t và năm (t-1)). Trường hợp hai mốc thời gian so sánh cách nhau thì
15


công thức trên được gọi là tốc độ tăng giá, lấy tốc độ tăng giá này chia cho khoảng
cách thời gian chúng ta được tỷ lệ lạm phát trung bình trong khoảng thời gian đó.
2.4. Tăng trưởng kinh tế và quy tắc 70

Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng mức sản xuất mà nền kinh tế tạo ra theo thời
gian. Nó là tốc độ tăng của GDP thực tế.
Từ các chỉ tiêu GDP, chúng ta tính được các loại tốc độ tăng trưởng kinh tế:
GDPrt − GDPrt −1
*100(%)
Tốc độ tăng trưởng kinh tế liên hoàn: gt =
GDPrt −1

Tốc độ tăng trưởng kinh tế định gốc:
GDPrt 2 − GDPrt1
GDPrt2
*100(%) = (
− 1) *100(%)
g0 =
GDPrt1
GDPrt1

Trong đó: t1: năm gốc.
Tăng trưởng định gốc thường nhận giá trị dương, không nhận giá trị âm hoặc
bằng 0.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân: g = (t2 −t1

GDPrt2
− 1) *100(%)
GDPrt1

Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân phản ánh tốc độ tăng của năm sau so với
năm trước, tính bình quân cho một giai đoạn nhiều năm (từ t1 đến t2).
Lưu ý:
+ Độ lớn của các chỉ tiêu từ năm (t 1+1) cho đến năm (t2 -1) không ảnh hưởng

đến tốc độ tăng bình quân.
+ Trường hợp tốc độ tăng dân số không tương xứng với tốc độ tăng sản phẩm
thì tăng trưởng kinh tế được tính bằng GDP thực tế bình quân đầu người.
* Tăng trưởng kép và quy tắc 70:
Tốc độ tăng trưởng bình quân còn đưa chúng ta đến khái niệm tăng trưởng kép.
Khái niệm này được dùng để chỉ sự tăng trưởng tích luỹ qua mỗi thời kỳ. Tăng trưởng
kép làm cho GDP của một nước tăng rất nhanh sau một khoảng thời gian dài. Điều này
cũng hàm ý nếu các nước có tốc độ tăng trưởng kép khác nhau, thì sự khác biệt nhỏ
trong tốc độ tăng trưởng có thể dẫn tới sự khác biệt rất lớn trong GDP sau một thời
gian dài.
Để tính được tốc độ tăng trưởng kép, chúng ta phải khai căn, lấy logarit và phải
thực hiện nhiều phép toán. Các nhà kinh tế đã tìm ra một quy tắc đơn giản, gần đúng
để nhanh chóng hình dung ra được sau bao lâu GDP thực tế của một nước sẽ tăng gấp
đôi khi nó đạt một tốc độ tăng trưởng kép nào đó. Quá trình tìm kiếm đã dẫn các nhà
kinh tế tới quy tắc 70.
Quy tắc này nói rằng nếu một biến số tăng với tốc độ bình quân là x phần trăm
16


năm thì nó sẽ tăng gấp đôi sau 70/x năm.
Hệ quả: Hiệu ứng đuổi kịp (Catch - up effect)
Thuật ngữ này dùng để chỉ tình huống các nước có điểm xuất phát thấp thường
đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn các nước có điểm xuất phát cao và khoảng cách về thu
nhập bình quân đầu người giữa họ sẽ được thu hẹp.
Một quốc gia có xuất phát điểm tương đối thấp nhưng có tốc độ tăng trưởng
tương đối cao thì quốc gia đó có thể đuổi kịp quốc gia khác có xuất phát điểm cao hơn
nhưng tăng trưởng thấp hơn.
Hiệu ứng đuổi kịp có tác động đối với nước ta không? Có. So với các nước
khác trong khu vực, nước ta có điểm xuất phát thấp hơn. Số liệu thống kê cho thấy tỷ
lệ tăng trưởng của chúng ta cao hơn hầu hết các nước có trình độ phát triển cao trong

khu vực. Thực tế này chắc chắn làm cho khoảng cách về thu nhập bình quân đầu người
giữa nước ta và các nước có trình độ phát triển cao sẽ được thu hẹp, chứ không phải
“dãn ra” hay “ngày càng tụt hậu” như một số người lầm tưởng.
II. Phương pháp xác định GDP
1. Sơ đồ luân chuyển kinh tế vĩ mô
Sơ đồ luân chuyển kinh tế vĩ mô là sơ đồ mô tả luồng hàng hoá, dịch vụ và
luồng tiền tệ di chuyển giữa các chủ thể kinh tế với nhau. Để tìm được bản chất bên
trong của các giao dịch và đưa ra được các phương pháp tính toán GDP một cách có
cơ sở khoa học, chúng ta xét trường hợp đơn giản nhất: Nền kinh tế khép kín, chỉ bao
gồm 2 tác nhân là hộ gia đình và các doanh nghiệp.
Trong điều kiện đó, dòng luân chuyển kinh tế vĩ mô được trình bày ở hình 2.1:

Hình 2.1 : Dòng luân chuyển kinh tế vĩ mô
Các hộ gia đình cung cấp các yếu tố đầu vào sản xuất cho các doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp dùng yếu tố sản xuất này sản xuất ra hàng hoá, dịch vụ và bán hàng
hoá, dịch vụ cho hộ gia đình.
Các hộ gia đình dùng thu nhập từ các yếu tố sản xuất thanh toán cho doanh
17


nghiệp khi mua hàng hoá và dịch vụ.
Như vậy, dòng bên trong là sự luân chuyển các nguồn lực thực sự. Hàng hoá,
dịch vụ từ các doanh nghiệp sang hộ gia đình và dịch vụ yếu tố sản xuất từ hộ gia đình
sang các doanh nghiệp. Dòng bên ngoài là các giao dịch thanh toán bằng tiền. Các
doanh nghiệp trả tiền cho các dịch vụ yếu tố sản xuất, các hộ gia đình thanh toán các
khoản chi tiêu về hàng hoá, dịch vụ cho các doanh nghiệp.
Sơ đồ luân chuyển kinh tế vĩ mô đặt cơ sở cho các phương pháp tính toán tổng
sản phẩm trong nước GDP.
2. Phương pháp xác định GDP
2.1. Phương pháp chi tiêu (cung trên)

Phương pháp chi tiêu đo lường GDP bằng cách thu thập các dữ liệu về chi tiêu cho
tiêu dùng (C - Cosumption), đầu tư (I - Investment), chi mua hàng hoá và dịch vụ của
chính phủ hay chi tiêu của chính phủ (G - Government Purchases of goods and services)
và xuất khẩu ròng (NX - Net Exports). Đây cũng là bốn bộ phận cấu thành GDP xét về
cách thức sử dụng các nguồn lực khan hiếm của xã hội.
Do giá trị tổng sản lượng hàng hoá và dịch vụ của nền kinh tế (Y) phải bằng
tổng chi tiêu để mua lượng hàng hoá và dịch vụ đó nên tổng chi tiêu bằng GDP. Điều
này có thể viết dưới dạng phương trình sau:
Y = GDP = C + I + G + NX
a. Tiêu dùng của các hộ gia đình (C - Cosumption)
Tiêu dùng của các hộ gia đình bao gồm tổng giá trị các hàng hoá và dịch vụ
cuối cùng mà các hộ gia đình mua được trên thị trường để chi dùng cho mục đích đời
sống. Bao gồm những khoản chi cho:
+ Hàng hoá vật chất.
+ Giá trị của các hoạt động dịch vụ phục vụ đời sống.
Như vậy, C chỉ bao gồm những hàng hoá dịch vụ mà hộ gia đình mua vào để
phục vụ cho đời sống cá nhân, mà không bao gồm những hàng hoá, dịch vụ mà gia
đình tự sản xuất để tiêu dùng. Chi xây dựng và mua nhà ở mới không tính vào tiêu
dùng mà được hạch toán vào đầu tư tư nhân.
b. Đầu tư (I - Investment)
Đầu tư I phản ánh tổng đầu tư trong nước của khu vực tư nhân.
Nó bao gồm:
+ Nhà xưởng mới xây dựng
+ Trang thiết bị máy móc mới sản xuất
+ Chênh lệch hàng hoá tồn kho
Chênh lệch hàng hoá tồn kho thực chất là loại tài sản lưu động. Nó là những
18


hàng hoá được giữ lại để sản xuất hay tiêu thụ sau này. Nó được xem như vốn lưu

động sử dụng cho năm sau, vì vậy trong năm đó người ta cộng vào tổng số vốn đầu tư
của nền kinh tế.
Chênh lệch tồn kho = Giá trị tồn kho - Giá trị tồn kho
trong năm

cuối năm

đầu năm

Nếu giá trị hàng tồn kho cuối năm > giá trị hàng tồn kho đầu năm: các doanh
nghiệp tiêu thụ không hết sản phẩm sản xuất ra trong năm, do đó làm tăng tài khoản
đầu tư I dẫn đến tăng GDP.
Nếu giá trị hàng tồn kho cuối năm = giá trị hàng tồn kho đầu năm: các doanh
nghiệp tiêu thụ hết sản phẩm sản xuất ra trong năm. Do đó, không ảnh hưởng tới đầu
tư cũng như GDP.
Nếu giá trị hàng tồn kho cuối năm < giá trị hàng tồn kho đầu năm: các doanh
nghiệp tiêu thụ hết sản phẩm sản xuất ra trong năm đồng thời tiêu thụ một phần hàng
tồn kho năm trước chuyển sang. Do đó làm giảm tài khoản đầu tư I, dẫn đến giảm
GDP. Như vậy, chỉ được tính vào đầu tư đối với phần tồn kho của năm đang xét, tức là
lượng tồn kho tăng thêm hoặc giảm bớt mà thôi. Có thể thấy đây là một khoản điều
chỉnh rất tinh vi, khoa học và chính xác trong quá trình tính toán GDP, nó khắc phục
hiện tượng tính trùng và bỏ sót trong quá trình tính toán.
Ngoài ra, chúng ta cần phân biệt khái niệm tổng đầu tư và đầu tư ròng.
Tổng đầu tư bao gồm 2 bộ phận:
+ Đầu tư thay thế: là chi tiêu để bù đắp giá trị của bộ phận tư bản hiện vật đã
hao mòn, được gọi là khấu hao (De - Depreciation).
+ Đầu tư ròng (IN - Net Investment): là khoản chi tiêu để mở rộng quy mô của
tư bản hiện vật.
Do đó, đầu tư ròng bằng tổng đầu tư trừ đi khấu hao.
IN = I - De hay I = IN + De

c. Chi tiêu của Chính phủ G (Government)
Chi tiêu của Chính phủ bao gồm 2 khoản lớn: Chi mua hàng hoá, dịch vụ và chi
chuyển nhượng (Tr - Transfer payments). Nhưng chỉ tính vào GDP những khoản chi
mua hàng hoá, dịch vụ, còn các khoản chi chuyển nhượng không được tính vào GDP.
Chi chuyển nhượng Tr ví dụ như các khoản trợ cấp cho những người thuộc diện chính
sách xã hội (người già, người tàn tật, …), những khoản chi này không thể hiện việc
mua sắm hàng hoá và dịch vụ mà chỉ đơn thuần là việc chuyển tiền từ chính phủ sang
các hộ gia đình. Chuyển giao thu nhập như vậy làm thay đổi thu nhập của các hộ gia
đình nhưng không tác động đến giá trị sản xuất của nền kinh tế. Do đó, Tr không được
tính vào GDP.
19


* Các khoản chi mua hàng hoá, dịch vụ của Chính phủ bao gồm:
+ Xây dựng cơ sở hạ tầng
+ An ninh, quốc phòng
+ Y tế, giáo dục
+ Trả lương cho bộ máy quản lý nhà nước
Những khoản này được tính vào GDP.
* Chi chuyển nhượng (Tr) bao gồm:
+ Chi bảo hiểm thất nghiệp
+ Trợ cấp cho người tàn tật, mất sức
+ Trả lương hưu trí
+ Trả nợ của Chính phủ
+ Trợ giá công ty
Những khoản này không được tính vào GDP.
d. Xuất khẩu ròng NX (Net Export)
Xuất khẩu ròng về hàng hoá và dịch vụ (NX) là giá trị xuất khẩu (Export - X) trừ đi
giá trị nhập khẩu (Import - M) hay bằng khoản chi tiêu của người nước ngoài cho mua
hàng hoá và dịch vụ được sản xuất ra ở trong nước trừ đi khoản chi tiêu của người dân

trong nước cho mua hàng hoá và dịch vụ tạo ra ở nước ngoài.
NX = X - M
2.2. Phương pháp thu nhập (cung dưới)
Theo phương pháp này, GDP tính theo chi phí các yếu tố đầu vào của sản xuất
mà các doanh nghiệp phải thanh toán. Tổng chi phí mà doanh nghiệp phải thanh toán
trở thành thu nhập của công chúng. GDP tính theo phương pháp này bao gồm những
khoản sau:
- Tiền công, tiền lương (W - Wages): Là lượng thu nhập nhận được từ việc
cung cấp sức lao động.
- Tiền thuê nhà và đất (R - Rental).
- Lãi suất do công ty trả (i - interest): phụ thuộc vào lãi suất thị trường và lượng
vốn vay.
- Lợi nhuận công ty (Pr - Profit): là phần thu nhập còn lại của doanh thu sau khi
đã trừ đi chi phí sản xuất.
- Khấu hao TSCĐ (De - Depreciation): là khoản tiền dùng để bù đắp sự hao
mòn tài sản cố định.
- Thuế gián thu (Ti - Indirect Taxes): là những loại thuế gián tiếp đánh vào thu
nhập, người chịu thuế và người nộp thuế không phải là một.
Do đó, GDP theo phương pháp thu nhập được tính bằng công thức:
20


GDP = W + R + i + Pr + De + Ti
2.3. Phương pháp sản xuất
Phương pháp này có thể dùng để đo lường đóng góp của từng ngành vào GDP.
Song để đo lường giá trị sản xuất của mỗi ngành riêng biệt chúng ta phải thận trọng để
chỉ tính giá trị gia tăng của ngành đó. Do đó, phương pháp sản xuất còn được gọi là
phương pháp giá trị gia tăng.
GDP theo phương pháp sản xuất được tính bằng công thức:
GDP = ∑VAi

Giá trị gia tăng (VA) là khoản chênh lệch giữa giá trị sản lượng của một doanh
nghiệp với khoản mua vào về vật liệu và dịch vụ từ các doanh nghiệp khác, mà đã
được dùng hết trong việc sản xuất ra sản lượng đó.
VA = GO - IE
Trong đó:VA (Value Added) - Giá trị gia tăng
GO (Gross Output) - Tổng giá trị sản xuất
IE (Intermadiate Expenditure) - Chi phí trung gian
Tổng giá trị sản xuất (GO) là giá trị của toàn bộ lượng hàng hoá và dịch vụ mà
doanh nghiệp sản xuất ra trong năm, nó bao gồm cả phần hàng hoá đã tiêu thụ và hàng
tồn kho.
Chi phí trung gian (IE) bao gồm những chi phí vật chất và dịch vụ mua bên
ngoài được sử dụng một lần trong quá trình sản xuất như: chí phí nguyên nhiên vật
liệu, chi phí vận chuyển,… Chi phí trung gian không bao hàm khấu hao TSCĐ vì
TSCĐ được dùng nhiều lần trong quá trình sản xuất.
Phương pháp này loại trừ được sản phẩm trung gian của nền kinh tế trong quá
trình tính toán GDP.
Lưu ý: Về nguyên tắc, việc tính GDP theo các phương pháp khác nhau phải cho
cùng kết quả như nhau. Tuy nhiên, trên thực tế GDP tính theo 3 phương pháp trên có
thể cho kết quả khác nhau do sai số thống kê và tính phức tạp của GDP.
III. Một số tài khoản quốc dân cơ bản
1. Tổng sản phẩm quốc dân GNP - Gross National Product
Tổng sản phẩm quốc dân GNP đo lường tổng giá trị của các loại hàng hoá và
dịch vụ cuối cùng mà một quốc gia hay một địa phương tạo ra trong một thời kỳ nhất
định, thường là một năm.
Như vậy, cũng giống với GDP, GNP cũng chỉ tính giá trị của các loại hàng hoá và
dịch vụ cuối cùng, không tính đến giá trị của các loại hàng hoá và dịch vụ trung gian.
GNP khác với GDP là nó xét theo quyền sở hữu về tư liệu sản xuất nên GNP
bao gồm 2 phần:
21



+ Phần do người trong nước hay trong địa phương tạo ra từ trong nước hay địa
phương của họ.
+ Phần do người trong nước hay người địa phương tạo ra ở nước ngoài hay ở
địa phương khác.
Nói cách khác, GNP bằng GDP cộng với thu nhập yếu tố ròng từ nước ngoài (NIA Net factor Income from Abroad) hay chênh lệch giữa thu nhập được dân cư trong nước tạo
ra ở nước ngoài và thu nhập của người nước ngoài tạo ra ở trong nước.
GNP = GDP + NIA
NIA = Thu từ nước ngoài - Chi cho nước ngoài
Thu từ nước ngoài bao gồm các khoản như:
+ Xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ, sức lao động.
+ Lợi tức cổ phần do mua cổ phần ở nước ngoài.
+ Lợi nhuận do đầu tư ra nước ngoài,…
Chi cho nước ngoài bao gồm các khoản như:
+ Nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ, sức lao động.
+ Lợi tức cổ phần do người nước ngoài mua cổ phần ở trong nước.
+ Lợi nhuận do đầu tư nước ngoài vào trong nước,…
NIA có thể lớn hơn hoặc nhỏ hơn 0.
Nếu NIA > 0 thì GNP > GDP và ngược lại.
Trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam hiện nay mặc dù thu nhập của người Việt
Nam kiếm được từ nước ngoài có tăng lên nhưng do khu vực kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài khá lớn nên GDP của Việt Nam thường lớn hơn GNP (nghĩa là NIA < 0).
Tỷ lệ GDP so với GNP của Việt Nam phổ biến khoảng 98%.
2. Sản phẩm quốc nội ròng NDP - Net Domestic Product
NDP = GDP - De
3. Sản phẩm quốc dân ròng NNP - Net National Product
Sản phẩm quốc dân ròng là phần GNP còn lại sau khi trừ khấu hao:
NNP = GNP - De
4. Thu nhập quốc dân NI - National Income
Thu nhập quốc dân là phần NNP còn lại sau khi trừ thuế gián thu:

NI = NNP - Ti
NI phản ánh thu nhập từ các yếu tố sản xuất: lao động, vốn, đất đai, tài nguyên
thiên nhiên,... hay đồng thời cũng là thu nhập của các hộ gia đình trong nền kinh tế.
5. Thu nhập cá nhân PI - Personal Income
Thu nhập cá nhân là khoản thu nhập mà các hộ gia đình và doanh nghiệp phi
công ty (non - corporate businesses) nhận được từ các doanh nghiệp cho các dịch vụ
22


yếu tố và từ các chương trình trợ cấp của chính phủ về phúc lợi và bảo hiểm xã hội.
PI = NI - Lợi nhuận nộp, không chia + Tr
Tr (Transfer payment): Trợ cấp của Chính phủ
6. Thu nhập khả dụng Yd - Disposible Income
Yd = PI - Tcá nhân
Thu nhập khả dụng bằng thu nhập cá nhân trừ thuế thu nhập cá nhân và các
khoản phí ngoài thuế phải nộp cho Chính phủ (như lệ phí giao thông,…).
Các chỉ tiêu đo lường thu nhập của nền kinh tế kể trên tuy ít nhiều có khác
nhau. Song nhìn chung, chúng có mối liên hệ chặt chẽ và tăng, giảm cùng chiều với
GDP tuy không nhất thiết theo cùng một tỷ lệ.
Mối quan hệ đó được tổng hợp qua sơ đồ sau:

GNP

NIA
NX
G
I
C

De

GDP

Ti
NNP

NI

Td - Tr
Yd

IV. Chỉ số giá tiêu dùng CPI (Consumer Price Index)
1. Khái niệm
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) đo lường mức giá trung bình của giỏ hàng hoá và
dịch vụ mà một người tiêu dùng điển hình mua.
Chỉ số giá tiêu dùng là một chỉ tiêu tương đối, phản ánh xu thế và mức độ biến
động của giá bán lẽ hàng hoá tiêu dùng và dịch vụ dùng trong sinh hoạt của dân cư và
các hộ gia đình. Do đó, nó được dùng để theo dõi sự thay đổi của chi phí sinh hoạt
theo thời gian.
Khi chỉ số giá tiêu dùng tăng nghĩa là mức giá trung bình tăng. Kết quả là người
tiêu dùng phải chi nhiều tiền hơn để có thể mua được một lượng hàng hoá và dịch vụ
như cũ nhằm duy trì mức sống trước đó của họ.
Ở Việt Nam, hàng tháng tổng cục Thống kê tính toán và công bố những số liệu
mới về CPI. Trên cơ sở những con số thống kê này các nhà phân tích nhanh chóng đưa
ra những bình luận về nguyên nhân thay đổi giá cả, đồng thời dự báo triển vọng thay
đổi giá cả trong tương lai trên các mặt báo hằng ngày hoặc đưa lên tivi. Chúng ta có
thể đọc thấy những con số thống kê này trong các Niên giám thống kê do Tổng Cục
Thống kê phát hành hằng năm.
Công thức tính chỉ số giá tiêu dùng CPI:
Chúng ta có thể sử dụng 2 công thức sau để tính chỉ số giá tiêu dùng CPI:


23


∑ p q *100 (%)
∑p q
= ∑ i d (%)
t o
i i
0 0
i i

t
* Công thức 1: CPI =

* Công thức 2: CPI

t

i
p

i
0

i

Trong đó: i p : gọi là chỉ số giá cá biệt của hàng hoá i.
i ip =

pit

×100
pi0

d 0i : gọi là tỷ trọng hàng hoá i ở năm gốc
pi0 qi0
d =
∑ pi0 qi0
i
0

Nhận xét:
Đối với công thức 1:
+ Ưu điểm: Nhìn vào công thức 1 cho chúng ta biết được tổng chi tiêu mà
người tiêu dùng bỏ ra là bao nhiêu.
+ Nhược điểm: Không cho chúng ta biết sự biến động giá cả từng mặt hàng.
Đối với công thức 2:
+ Ưu điểm: Cho chúng ta biết được biến động tỷ trọng của từng mặt hàng cá
biệt.
+ Nhược điểm: Không cho biết tổng chi tiêu mà người tiêu dùng bỏ ra là bao
nhiêu.
Do đó, cách 2 ưu điểm hơn, nên được sử dụng nhiều hơn.
2. Xây dựng chỉ số giá tiêu dùng CPI
Để xây dựng chỉ số giá tiêu dùng, trước hết các nhà thống kê kinh tế chọn năm
cơ sở (năm gốc). Tiếp đó, họ tiến hành các cuộc điều tra tiêu dùng trên khắp các vùng
của đất nước để xác định “giỏ” hàng hoá và dịch vụ điển hình mà dân cư mua trong
năm cơ sở.
Hiện nay, giỏ hàng đặc trưng để tính CPI của Việt Nam được hình thành bởi 10
nhóm hàng cấp 1; 34 nhóm hàng cấp 2 và 86 nhóm hàng cấp 3.
Các bước tính CPI:
Bước 1: Chọn năm cơ sở và xác định giỏ hàng cho năm cơ sở (q i) với t biểu thị

năm hay thời kỳ thứ t, t = 0 ở năm cơ sở và i là mặt hàng tiêu dùng thứ i trong giỏ hàng cơ
t
0
sở: qi = qi

Bước 2: Xác định giá của từng mặt hàng trong giỏ hàng cố định cho các năm
(pi).
Bước 3: Tính chi phí mua giỏ hàng cố định theo giá thay đổi ở các năm.
Chi phí cho giỏ hàng của mỗi năm được tính bằng cách nhân giá của từng mặt
24


hàng của năm tương ứng với lượng cố định của các mặt hàng ấy ở năm cơ sở, sau đó
cộng các giá trị tìm được với nhau.
Chi phí giỏ hàng ở năm t = ∑ pi qi
t

0

Bước 4: Tính chỉ số giá tiêu dùng cho các năm.
CPI

t

pq
=∑
∑p q

t o
i i

0 0
i i

* 100

Bước 5: Tính tỷ lệ lạm phát (л)
Đây là công việc cuối cùng giúp chúng ta hiểu được ứng dụng của CPI trong
phân tích kinh tế, cụ thể là dùng CPI để tính tỷ lệ lạm phát.
Tỷ lệ lạm phát hay tốc độ tăng giá của giỏ hàng tiêu dùng năm sau so với năm
trước được tính bằng công thức sau:
Πt =

CPI t − CPI t −1
*100(%)
CPI t −1

Trong đó: лt là tỷ lệ lạm phát ở năm t.
CPIt là chỉ số giá tiêu dùng ở năm t.
CPIt-1là chỉ số giá tiêu dùng ở năm (t -1).
Bên cạnh việc tính chỉ số giá tiêu dùng, các nhà thống kê kinh tế còn tính chỉ số
giá sản xuất PPI (Producer Price Index).
Chỉ số giá sản xuất PPI là giá trung bình của hàng hoá do người sản xuất bán ra
bao gồm một số hàng bán ra cho những người sản xuất khác chứ không phải bán cho
các hộ gia đình. PPI phản ánh sự biến động giá cả đầu vào, thực chất là biến động giá
cả chi phí sản xuất. Xu hướng biến động giá cả chi phí tất yếu sẽ tác động đến xu
hướng biến động giá cả hàng hoá trên thị trường. Cách tính PPI hoàn toàn giống cách
tính CPI.
3. Những vấn đề phát sinh khi đo lường chi phí sinh hoạt
3.1. Lệch do hàng hoá mới
Hàng hoá mới luôn xuất hiện thay thế hàng hoá cũ. Hàng hoá mới xuất hiện tạo

cho người tiêu dùng có sự lựa chọn đa dạng hơn, điều này cũng có nghĩa là mỗi một
đồng trở nên có giá trị hơn. Tuy nhiên, vì CPI chỉ tính dựa trên một giỏ hàng hoá và dịch
vụ cố định, không tính đến hàng hoá mới được người tiêu dùng mua nên nó không phản
ánh được sự thay đổi về sức mua của đồng tiền trong đó.
3.2. Lệch do chất lượng hàng hoá thay đổi
Hầu hết các hàng hoá và dịch vụ đều trải qua sự cải thiện chất lượng không ngừng
theo thời gian. Khi chất lượng hàng tiêu dùng tăng thì giá trị của đồng tiền cũng tăng theo.
Đương nhiên, nếu chất lượng hàng hoá nào đó thuộc giỏ hàng tiêu dùng giảm liên tục
trong khi giá của hàng hoá ấy không thay đổi thì giá trị của đồng tiền cũng giảm đi. Tuy
25


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×