Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức; ý nghĩa phương pháp luận rút ra và liên hệ thực tiễn vận dụng các quan điểm phương pháp luận đó trong hoạt động thực tiễn của cá nhân hoặc ngành, đơn vị đồng chí.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.82 KB, 13 trang )

BÀI THI MÔN TRIẾT HỌC
Câu 1: (Cách 1) Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức; ý nghĩa
phương pháp luận rút ra và liên hệ thực tiễn vận dụng các quan điểm phương pháp luận đó trong
hoạt động thực tiễn của cá nhân hoặc ngành, đơn vị đồng chí.
(Cách 2 Trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Đảng ta xác định một
trong những bài học kinh nghiệm quan trọng là “Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải
xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan”. Bằng kiến thức triết học Mác – Lênin,
đồng chí hãy phân tích làm rõ cơ sở lí luận của bài học trên và nêu ý nghĩa phương pháp luận
trong thực tiễn công tác của các nhân hoặc ngành, đơn vị đồng chí).
Bài làm
Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi ra đời đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam trải qua những
chặng đường đấu tranh gian khổ và giành được những thắng lợi vẻ vang. Trong thời kỳ mới, Đảng
đã lãnh đạo nhân dân VN tiến hành công cuộc đổi mới và tích cực tham gia hội nhập quốc tế, đưa
Việt Nam trở thành một trong những nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao, ổn định và liên
tục trong nhiều năm được cộng đồng thế giới đánh giá cao. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng
nước ta, Đảng đã rút ra nhiều bài học kinh nghiệm quan trọng, một trong những bài học đó là
“Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan”.
Bài học kinh nghiệm trên của Đảng xuất phát từ cơ sở lí luận triết học về mối quan hệ biện chứng
giữa vật chất và ý thức. Để hiểu rõ hơn, chúng ta cùng tìm hiểu.
Theo quan điểm của triết học Mác: Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại
khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác chúng ta chép lại, chụp
lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.
Từ định nghĩa cho thấy, vật chất là tất cả những gì tồn tại khách quan, không lệ thuộc vào
ý thức con người và loài người, đồng thời con người có thể nhận thức được vật chất trong quá
trình phản ánh chúng vào bộ óc minh thông qua các giác quan.
Vậy ý thức là gì? Triết học Mác khẳng định, ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan
vào bộ óc con người một cách tích cực, chủ động, sáng tạo, là hình ảnh chủ quan của thế giới
khách quan. Nói cách khác, ý thức là hình ảnh tinh thần, hình ảnh phi cảm tính của các đối tượng
vật chất cảm tính. Ý thức là sản phẩm của quá trình phát triển của tự nhiên và lịch sử xã hội.
Quan điểm trên đã khẳng định ý thức không có đặc tính vật chất như quan niệm của chủ
nghĩa duy vật tầm thường, cũng không phải cái gì thần bí, siêu tự nhiên, một thực thể độc lập như


quan niệm của chủ nghĩa duy tâm. Ý thức chỉ là đặc tính của một dạng vật chất sống có tổ chức
cao là bộ óc con người.
Thực tế triết học nhân loại cho thấy, khi giải thích quan hệ giữa vật chất và ý thức, chủ
nghĩa duy tâm và duy vật siêu hình đã cường điệu vai trò của ý thức, hoặc coi ý thức chỉ là sản
phẩm thụ động đối với vật chất.
Đối lập với những quan điểm trên, khi bàn về mối quan hệ vật chất và ý thức, chủ nghĩa
duy vật mác xít luôn khẳng định, giữa chúng có mối quan hệ biện chứng, tác động và chuyển hoá
lẫn nhau, trong đó, vật chất quyết định nguồn gốc, nội dung và khuynh hướng vận động của ý
thức. Biểu hiện :
Thứ nhất, vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức. Vật chất sinh ra ý thức vì ý thức chỉ
là kết quả của quá trình phát triển, tiến hóa lâu dài của thế giới vật chất, là thuộc tính của một thực
thể vật chất sống có tổ chức cao nhất đó là bộ óc con người.
Thứ hai, vật chất quyết định nội dung của ý thức. Ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất
vào bộ óc người, là hình ảnh của thế giới khách quan. Cho nên, nội dung của ý thức là do thế giới
vật chất khách quan quyết định. Vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức trong đời sống xã

1


hội được biểu hiện ở mối quan hệ giữa kinh tế với chính trị, giữa đời sống vật chất và đời sống
tinh thần, giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
Thứ ba, vật chất quyết định khuynh hướng biến đổi của ý thức. Do vật chất liên tục vận
động, biến đổi mà ý thức chỉ là sự phản ánh nên vận động biến đổi theo sự vận động biến đổi của
vật chất. Trong xã hội, khi đời sống vật chất thay đổi thì sớm muộn đời sống tinh thần cũng thay
đổi theo.
Như vậy, không chỉ được “sinh” ra từ vật chất mà mọi sự tồn tại, phát triển của ý thức đều
gắn liền với vật chất và quá trình biến đổi của những điều kiện vật chất nhất định.
Trong khi khẳng định vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức, chủ nghĩa duy vật
biện chứng đồng thời còn chỉ ra sự tác động trở lại vô cùng quan trọng của ý thức đối với vật chất.
Ý thức tuy bị quyết định bởi vật chất, nhưng nó có tính độc lập tương đối (vì ý thức là sự phản ánh

sáng tạo của bộ óc người về vật chất; mặt khác, ý thức luôn chịu sự tác động của quy luật phản
ánh) và có vai trò tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
Ý thức có sự tác động trở lại đối với vật chất vì một số nguyên nhân sau:
Một là, ý thức luôn định hướng, chi phối, quy định hoạt động thực tiễn của con người. ý
thức phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc người giúp con người hiểu được bản chất, quy luật
vận động phát triển của sự vật, hiện tượng. Trên cơ sở đó, hình thành phương hướng, mục tiêu và
những phương pháp, cách thức thực hiện mục tiêu.
Hai là, trong hoạt động thực tiễn, sự vật bộc lộ nhiều khả năng mà nhờ có ý thức, con
người sẽ lựa chọn được những khả năng đúng phù hợp để tác động, thúc đẩy sự vật phát triển.
Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất thường theo hai khuynh hướng:
Thứ nhất, nếu ý thức phản ánh đúng thì có tác dụng thúc đẩy hoạt động cải tạo vật chất của
con người.
Thứ hai, nếu ý thức phản ánh không đúng thì sẽ kìm hãm hoạt động cải tạo vật chất của
con người.
Từ việc giải quyết đúng đắn, khoa học mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trên quan điểm
thực tiễn, đòi hỏi trong nhận thức cũng như trong hoạt động thực tiễn phải luôn luôn vận dụng
quan điểm khách quan. Quán triệt quan điểm khách quan, cần:
Thứ nhất, khi xem xét đánh giá một sự vật, một hiện tượng, một quá trình kinh tế - xã hội
nào đó phải xuất phát từ bản thân sự vật, hiện tượng, quá trình đó; phải xem xét gắn với điều kiện
hoàn cảnh thực tế đã sản sinh ra nó; mặt khác, không được áp đặt cho sự vật cái mà vốn nó không
có hoặc chưa thể có.
Thứ hai, mọi chủ trương, phương hướng, chính sách, mục tiêu, kế hoạch, biệm pháp…phải
căn cứ vào hoàn cảnh thực tế, phù hợp với các điều kiện vật chất khách quan.
Thứ ba, phải luôn tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan.
Thứ tư, Chống bệnh chủ quan duy ý chí (đưa ra mục tiêu, phương pháp hoạt động không
căn cứ vào thực tế khách quan), chống chủ nghĩa khách quan (quá dề cao vật chất, ỷ lại, thiếu sự
năng động sáng tạo).
Thứ năm, phải phát huy vai trò của ý thức – vai trò nhân tố con người (nâng cao ý thức,
trình độ nhận thức, năng lực tổ chức thực tiễn, tình cảm, ý chí, trách nhiệm…lựa chọn biện pháp
thực hiện có hiệu quả nhất).

Liên hệ ?

2


Câu 2: Đồng chí hãy phân tích nội dung hai nguyên lí của phép biện chứng duy vật; ý
nghĩa phương pháp luận rút ra và liên hệ thực tiễn vận dụng các quan điểm phương pháp luận đó
trong hoạt động thực tiễn của các nhân hoặc ngành, đơn vị đồng chí.
(Cách 2: Từ thực tiễn quá trình đổi mới, Đảng ta đã rút ra những bài học lớn, một
trong những bài học đó là: “Đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức và
cách làm phù hợp”. Bằng kiến thức triết học Mác – Lênin, đồng chí hãy phân tích cơ sở lí luận
của bài học trên và nêu ý nghĩa phương pháp luận trong thực tiễn công tác của cá nhân hoặc
ngành, đơn vị đồng chí).
Bài làm
Học thuyết Mác - Lênin là một học thuyết cách mạng và khoa học, gồm một hệ thống tri
thức cơ bản bao quát mọi lĩnh vực của thế giới, trang bị cho con người những nguyên lý xuất phát
điểm và những nguyên tắc phương pháp luận trong việc nhận thức cũng như cải tạo thế giới. Vì
vậy, trong quá trình lãnh đạo cách mạng nước ta, Đảng ta luôn lấy học thuyết Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động, thành quả cách mạng
nước ta đã chứng minh đường lối đó của Đảng ta là đúng đắn. Trong quá trình vận dụng những
nguyên lý của học thuyết Mác-Lênin, Đảng ta đã rút ra những bài học lớn. Một trong những bài
học đó là “Đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp ”
Để nhận thức đúng bài học đó và vận dụng tốt vào hoạt động thực tiễn, trước hết cần làm
rõ cơ sở lý luận triết học của nó. Đó là nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát
triển - hai nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật.
Trước tiên, chúng sẽ tìm hiểu nguyên lí về mối liên hệ phổ biến
Liên hệ là một phạm trù triết học dùng dể chỉ sự quy định, ràng buộc, tác động, chuyển
hóa lẫn nhau giữa các sự vật. hiện tượng hay giữa các nhân tố tạo thành sự vật, hiện tượng. Từ
khái niệm cho thấy liên hệ phổ biến có đặc trưng cơ bản là sự quy định, ràng buộc, tác động,
chuyển hóa lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng.

Trong lịch sử triết học có các quan niệm khác nhau về sự tồn tại của thế giới, như: quan
điểm siêu hình cho rằng, các sự vật và hiện tượng tồn tại tách rời nhau, giữa chúng không có sự
phụ thuộc, ràng buộc lẫn nhau; có chăng chỉ là những liên hệ hời hợt bên ngoài, mang tính ngẫu
nhiên; chủ nghĩa duy tâm cho cơ sở của sự liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng ở các lực lượng siêu
tự nhiên hay ở ý thức, cảm giác của con người.
Đối lập với những quan điểm đó, chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định mọi sự vật,
hiện tượng trong thế giới tồn tại trong sự liên hệ, ràng buộc, tác động qua lại, chuyển hóa lẫn
nhau.
Mối liên hệ mang tính khách quan, vốn có của thế giới. Nguyên nhân là do tính thống nhất
vật chất của thế giới.
Mối liên hệ mang tính phổ biến, không chỉ diễn ra giữa các mặt, các nhân tố tạo thành sự
vật, hiện tượng mà còn diễn ra giữa các sự vật, hiện tượng trong mọi lĩnh vực của thế giới cả tự
nhiên, xã hội và tư duy con người.
Cùng với việc khẳng định tính khách quan, tính phổ biến của mối liên hệ, quan điểm duy
vật biện chứng còn thừa nhận tính đa dạng của mối liên hệ. Có mối liên hệ bên ngoài, mối liên hệ
bên trong; có mối liên hệ chủ yếu, có mối liên hệ thứ yếu; có mối liên hệ bản chất và mối liên hệ
không bản chất; có mối liên hệ trực tiếp, có mối liên hệ gián tiếp,… Sự vật, hiện tượng nào cũng
vận động và phát triển qua nhiều giai đoạn khác nhau, giữa các giai đoạn đó cũng có mối liên hệ
với nhau tạo thành lịch sử phát triển hiện thực của các sự vật, hiện tượng. Tuy nhiên, sự phân loại
các mối liên hệ mang tính tương đối, vì mỗi mối liên hệ chỉ là một bộ phận, một mặt, một khia
cạnh trong toàn bộ mối liên hệ phổ biến nói chung.

3


Do các sự vật, hiện tượng trong thế giới luôn có mối liên hệ và tác động qua lại làm cho
chúng luôn vận động và phát triển. Vì vậy, chúng ta tìm hiểu nguyên lí về sự phát triển.
Trong lịch sử triết học, bàn về sự phát triển, quan điểm siêu hình xem phát triển chỉ là sự
tăng lên hay giảm đi thuần túy về lượng, không có sự thay đổi về chất, nếu có thay đổi về chất thì
đó cũng chỉ diễn ra theo một vòng khép kín.

Quan điểm duy tâm nếu có thừa nhận sự phát triển thì lại cho nguồn gốc của sự phát triển
là ở các lực lượng siêu tự nhiên hay ở ý thức con người.
Đối lập với những quan điểm đó, quan điểm duy vật biện chứng cho rằng Phát triển là
một phạm trù triết học dùng để chỉ quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến
phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
Phát triển là quá trình vận động tiến lên làm nảy sinh cái mới có trình độ cao hơn về chất,
phức tạp hơn về kết cấu, tổ chức, hoàn thiện hơn về chức năng. Nguồn gốc của sự phát triển nằm
ngay trong bản thân sự vật, do mâu thuẫn của sự vật quy định. Do vậy, phát triển là khuynh hướng
tất yếu và khách quan của thế giới.
Quan điểm duy vật biện chứng không chỉ thừa nhận tính khách quan mà còn khẳng định
tính phổ biến và tính đa dạng của sự phát triển.
Phát triển là khuynh hướng phổ biến diễn ra ở mọi sự vật, hiện tượng, trong mọi lĩnh vực
của thế giới cả tự nhiên, xã hội và tư duy.
Mỗi sự vật, hiện tượng có quá trình phát triển không giống nhau. Bởi vì, tồn tại ở không
gian khác nhau, thời gian khác nhau sự vật khác triển sẽ khác nhau. Đồng thời, trong quá trình
phát triển của mình, sự vật còn chịu sự tác động của các sự vật, hiện tượng khác, của rất nhiều yếu
tố, điều kiện. Sự tác động đó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của sự vật, đôi khi có thể
làm thay đổi chiều hướng phát triển của sự vật, thậm chí làm cho sự vật thụt lùi.
Từ việc nghiên cứu nội dung hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật, đòi hỏi trong
nhận thức và hoạt động thực tiễn cần phải vận dụng quan điểm toàn diện, quan điểm lịch sử - cụ
thể và quan điểm phát triển .
Quan điểm toàn diện yêu cầu:
Thứ nhất, khi nghiên cứu xem xét một sự vật, hiện tượng, một quá trình kinh tế - xã hội
nào đó đòi hỏi phải xem xét mối liên hệ giữa các mặt, các nhân tố cấu thành nên mỗi sự vật, hiện
tượng; đồng thời phải xem xét mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng đó với các sự vật, hiện
tượng khác.
Thứ hai, Phải phân loại các mối liên hệ của sự vật, hiên tượng để đánh giá đúng vị trí, vai
trò của từng nhân tố, từng mối liên hệ đối với sự vận động, phát triển của sự vật; tránh xem xét
một cách dàn đều, bình quân.
Thứ ba, trong hoạt động thực tiễn khi đề ra một chủ trương, một mục tiêu hoạt động cần

phải điều tra, khảo sát các mối liên hệ có liên quan đảm bảo tính khả thi của mục tiêu. Mặt khác,
trong cải tạo sự vật phải sử dụng đồng bộ nhiều biện pháp, nhiều phương tiện khác nhau.
Quan điểm lịch sử - cụ thể yêu cầu:
Khi xem xét một sự vật, hiện tượng nào đó phải đặt trong không gian, thời gian, điều liện,
hoàn cảnh cụ thể với những mối liên hệ xác định để tìm ra đâu là mối liên hệ cơ bản quyết định sự
vận động, phát triển của nó.
Quan điểm phát triển yêu cầu:
Thứ nhất, khi xem xét, đánh giá một sự vật, hiện tượng phải đặt nó trong sự vận động, phát
triển để tìm ra xu hướng vận động của nó.
Thứ hai, phải tìm tòi phát hiện ra cái mới, tiến bộ và tạo điều kiện cho nó phát triển; phải
phát hiện nhân tố hợp lí trong cái cũ để kế thừa trong quá trình cải tạo.

4


Liên hệ ?

Câu 3: Phân tích mối quan hệ giữa lí luận và thực tiễn; ý nghĩa phương pháp luận và liên
hệ thực tiễn vận dụng các quan điểm phương pháp luận đó trong hoạt động thực tiễn của cá nhân
hoặc ngành, đơn vị đồng chí.
(Cách 2 Phân tích cơ sở lí luận của nguyên tắc “Thống nhất giữa lí luận và thực tiễn”;
ý nghĩa phương pháp luận và giải pháp trong thực tiễn để thực hiện nguyên tắc đó của cá
nhân, địa phương hoặc đơn vị đồng chí.)
Bài làm
Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin. Đó là
một nội dung có vị trí đặc biệt quan trọng trong học thuyết Mác. Bởi vi, nó là một trong những
nguyên tắc phương pháp luận thực sự khoa học giúp cho con người nâng cao hiệu quả trong hoạt
động nhận thức và thực tiễn. Trên lập trường duy vật và phương pháp luận biện chứng, triết học
Mác đã đưa phạm trù thực tiễn vào lý luận nhận thức, phân tích làm rõ vai trò của thực tiễn đối
với nhận thức, mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn trong hoạt động nhận thức, cải tạo thế giới

của con người. Từ đó đã đặt nền móng cơ sở khoa học cho nguyên tắc “ Thống nhất giữa lý luận
và thực tiễn” định hướng cho việc nhận thức những vấn đề lịch sử xã hội … và là nguyên tắc chỉ
đạo xuyên suốt thực tiễn cách mạng của các chính đảng vô sản nói chung và Đảng Cộng sản Việt
Nam nói riêng. Khẳng định điều đó, Bác Hồ đã từng nói: Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là
một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác- Lênin. Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì
thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông.
Để nhận thức và vận dụng đúng nguyên tắc trên, trước hết chúng ta cần làm rõ cơ sở lý
luận triết học mác xít của nó.
Theo triết học Mác, thực tiễn là những hoạt động vật chất, mang tính lịch sử - xã hội của
con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội.
Là hoạt động vật chất có mục đích của con ngưòi, thực tiễn là hoạt động đặc thù của xã
hội, gắn liền với sự phát triển của xã hội. Thực tiễn là những hoạt động bằng sức mạnh vật chất
con người để cải tạo, biến đổi các đối tượng vật chất nhằm thoả mản nhu cầu. Thực tiễn luôn vận
động, biến đổi theo sự vận động của lịch sử. Thực tiễn mang tính lịch sử - xã hội, không tách rời
điều kiện môi trường xã hội. Đó là hoạt động của vô vàn cá nhân gắn với các điều kiện môi
trường xã hội cụ thể, và các nấc thang phát triển của lịch sử.
Thực tiễn được biểu hiện bởi nhiều hình thức sinh động, khái quát trên 3 hình thức cơ bản
nhất: lao động sản xuất vật chất; đấu tranh chính trị xã hội và nghiên cứu, ứng dụng khoa học
công nghệ, trong đó lao động sản xuất vật chất là cơ bản và quyết định. Nói cách khác, hoạt động
của đông đảo quần chúng là nhân tố cơ bản nhất biểu hiện sự phát triển của thực tiễn.
Lý luận là hệ thống những tri thức được khái quát từ kinh nghiệm thực tiễn, phản ánh những
mối liên hệ bản chất, những tính quy luật của thế giới khách quan.
Như vậy, lý luận thực chất là hệ thống tri thức được hệ thống hóa từ kinh nghiệm thực tiễn dựa
trên hoạt động của các nhà lí luận và luôn được bổ sung, phát triển bởi những kinh nghiệm mới
của thực tiễn.
Theo triết học Mác, thực tiễn và lý luận có mối liên hệ biện chứng với nhau, luôn tác động
và chuyển hoá lẫn nhau. Trong quan hệ và tác động đó, thực tiễn đóng vai trò quyết định. Biểu
hiện:
Thực tiễn là cơ sở chủ yếu và trực tiếp của nhận thức, lý luận. Bằng hoạt động thực tiễn
con người hoàn thiện dần các giác quan của mình để hoàn thiện năng lực phản ánh, tiếp nhận


5


thông tin từ đối tượng một cách chính xác. Mặt khác, thông qua quá trình hoạt động thực tiễn, con
người tác động vào các đối tượng trong thế giới khách quan làm cho chúng bộc lộ những thuộc
tính, những quy luật, bản chất,... Từ đó, con người phản ánh và tạo nên tri thức. Vì vậy, thực tiễn
là cơ sở cung cấp tài liệu cho quá trình nhận thức.
Thực tiễn còn là động lực, mục đích nhận thức, lý luận. Vì, thực tiễn không ngừng vận
động và biến đổi, phát triển trên nhưng nấc thang trình độ khác nhau. Do đó, để tương xứng với
thực tiễn mới đòi hỏi con người phải có những tri thức mới đáp ứng thực tiễn và định hướng cho
hoạt động thực tiễn tiếp theo. Cho nên, thực tiễn là động lực thúc đẩy nhận thức của con người.
Hơn nữa mục đích cuối cùng của nhận thức không phải là thuần túy tạo ra tri thức mà là nhằm
phục vụ cho hoạt động thực tiễn đáp ứng nhu cầu hoạt động thực tiễn.
Thực tiễn là tiêu chuẩn kiểm nghiệm kết quả nhận thức, đánh giá tính chân lí của lí luận.
Vì thông qua sự vận dụng tri thức vào thực tiễn, thông qua diễn biến và hiệu quả thu được trong
hoạt động thực tiễn mới chứng minh được tri thức là đúng đắn hay sai lầm.
Tuy nhiên, khi tìm hiểu vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, lí luận, chúng ta phải lưu ý
điểm sau:
Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lí vừa có tính tuyệt đối vừa có tính tương đối
Tiêu chuẩn thực tiễn có tính tuyệt đối vì thực tiễn là tiêu chuẩn khách quan nhất để kiểm
nghiệm chân lí, thực tiễn ở mỗi giai đoạn lịch sử có thể xác nhận được chân lí.
Tiêu chuẩn thực tiễn có tính tương đối vì thực tiễn luôn biến đổi, phát triển. vì vậy, những
tri thức đã được chứng minh ở một giai đoạn lịch sử trước đây vẫn phải được thực tiễn tiếp theo
kiểm nhiệm, bổ sung, điều chỉnh, phát triển để trở nên hoàn thiện hơn.
Trong khi khẳng định vai trò quyết định của thực tiễn đối với nhận thức, lý luận, Triết học
Mác cũng đồng thời chỉ rõ, lý luận có vai trò to lớn đối với hoạt động thực tiễn, đó là:
Thứ nhất, lí luận hướng dẫn, chỉ đạo thực tiễn, lí luận khoa học là “kim chỉ nam” cho thực
tiễn. Nó giúp thực tiễn hoạt động đúng hướng, có hiệu quả, tránh mò mẫm, tự phát. Lý luận khoa
học giúp con người xác định đúng đắn nhu cầu, lợi ích, mục đích và tìm kiếm phương tiện phù

hợp cải tạo có hiệu quả thế giới.
Thứ hai, lý luận do nắm được bản chất, quy luật của thế giới, phản ánh thế giới một cách
chủ động, sáng tạo nên nó có thể dự kiến được xu hướng vận động và phát triển của sự vật trong
tương lai, từ đó định hướng cho thực tiễn trong hiện tại, vạch ra những phương hướng mới cho
thực tiễn.
Thứ ba, lý luận phát huy vai trò đặc biệt to lớn đối với thực tiễn mỗi khi nó thâm nhập vào
quần chúng biến thành niềm tin và phong trào thực tiễn của quần chúng.
Chủ nghĩa Mác – Lênin khẳng định lí luận và thực tiễn có mối quan hệ biện chứng với
nhau. L/luận có vai trò to lớn, là kim chỉ nam hướng dẫn hoạt động t/tiễn. Ngược lại, t/tiễn là cơ
sở hình thành l/luận, là tiêu chuẩn để kiểm tra l/luận. Vì vậy, không được tách rời lý luận và
t/tiễn.Tức là phải quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa l/luận và t/tiễn. Thực hiện nguyên tắc này
đòi hỏi trong mọi hoạt động phải vận dụng quan điểm thực tiễn.. Đó là:
Nhận thức đề ra đường lối, chủ trương, chính sách… phải dựa trên cơ sở thực tiễn xuất phát
từ thực tiễn, từ những cầu của thực tiễn.
Theo sát sự biến đổi và phát triển của thực tiễn, tăng cường tổng kết thực tiễn để sửa đổi,
bổ sung, phát triển nhận thức và hành động cho phù hợp với thực tiễn.
Tôn trọng thực tiễn, căn cứ vào thực tiễn mà kiểm tra tính đúng đắn của nhận thức lí luận,
cũng như những chủ trương, chính sách, biện pháp…
Nếu vi phạm nguyên tắc thống nhất giữa lí luận và thực tiễn dẫn đến hai sai lầm cực đoan
là bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều.

6


Bệnh kinh nghiệm là khuynh hướng tư tưởng tuyệt đối hóa kinh nghiệm, coi thường lí luận
khoa học. Nguyên nhân của căn bệnh kinh nghiệm là do yếu kém về lí luận, cụ thể: dễ thỏa mãn
với kinh nghiệm bản thân, ngại học lí luận, không chịu nâng cao trình độ lí luận, coi thường khoa
học kỹ thuật, thiếu nhìn xa trông rộng, dễ bảo thủ trì trệ…
Bệnh giáo điều là khuynh hướng tư tưởng cường điệu hóa vai trò lí luận, coi nhẹ thực tiễn,
tách rời lí luận khỏi thực tiễn, thiếu quan điểm lịch sử - cụ thể, áp dụng kinh nghiệm một cách rập

khuôn, máy móc. Biểu hiện của bệnh giáo điều là bệnh sách vở, nắm lí luận chỉ dừng lại ở câu chữ
theo kiểu “tầm chương trích cú”; hiểu lí luận một cách phiến diện, hời hợt, áp dụng lí luận một
cách máy móc; vận dụng sai lí luận vào thực tiễn, không bổ sung, điều chỉnh lí luận.
Vì vậy, để khắc phục triệt để bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều, chúng ta cần quán triệt
nguyên tắc thống nhất giữa lí luận và thực tiễn trong triết học Mác – Lênin. Cụ thể:
Bám sát thực tiễn, lí luận phải gắn liền với thực tiễn, thường xuyên kiểm tra trong thực
tiễn, tăng cường học tập nâng cao trình độ lí luận, bổ sung,vận dụng lí luận phù hợp với thực tiễn.
Phải coi trọng lí luận và công tác lí luận, nâng cao dân trí, đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục và
đào tạo, phổ biến rộng rãi tri thức khoa học – công nghệ.
Phải đổi mới công tác lí luận của Đảng dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh. Quán triệt nhiệm vụ, hướng nghiên cứu chủ yếu và phương châm lớn chỉ đạo
hoạt động lí luận của Đảng.
Liên hệ ?

Nội dung 4: Phân tích nội dung quy luật “Quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất”; liên hệ sự vận dụng quy luật đó trong thực tiễn đổi mới ở
nước ta; đồng thời nêu nhiệm vụ và giải pháp phát triển lực lượng sản xuất trong giai đoạn
hiện nay.
Bài làm
Theo triết học Mác, cơ sở phát triển của lịch sử xã hội là từ sản xuất vật chất. Tuy nhiên,
trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định, do bị quy định bởi nhiều yếu tố mà xã hội loài người có
cách thức sản xuất riêng. Cách thức sản xuất đó được gọi là phương thức sản xuất (PTSX).
Phương thức sản xuất là cái mà nhờ nó người ta có thể phân biệt được sự khác nhau của những
thời đại kinh tế khác nhau. Phương thức sản xuất được cấu thành bởi hai yếu tố là lực lượng sản
xuất (LLSX) và quan hệ sản xuất (QHSX).
Theo quan điểm triết học Mác, LLSX là phạm trù dùng để chỉ mối quan hệ giữa con người
với tự nhiên trong việc con người chinh phục thế giới tự nhiên; là phương thức kết hợp giữa người
lao động với tư liệu sản xuất và kinh nghiệm sản xuất của họ.
LLSX bao gồm người lao động; tư liệu sản xuất và ngày nay khoa học đã trở thành lực
lượng sản xuất trực tiếp. Bởi vì khoa học đã thâm nhập vào mọi yếu tố của quá trình sản xuất, làm

cho nền sản xuất rất phát triển.
Người lao động là chủ thể sáng tạo và sử dụng công cụ lao động để tiến hành sản xuất tạo
ra của cải vật chất cho XH; là lực lượng sản xuất cơ bản và quan trọng nhất, có vai trò quyết định
quá trình sản xuất vật chất, bảo đảm sự tồn tại và phát triển của XH.
Tư liệu sản xuất là toàn bộ những điều kiện, phương tiện để con người tạo ra sản phẩm. Tư
liệu sản xuất gồm 2 yếu tố là đối tượng lao động và tư liệu lao động.

7


Đối tượng lao động là tất cả những gì mà con người tác động vào thông qua các công cụ
lao động, để tạo ra của cải như đất, nước, tài nguyên... và các tư liệu sản xuất đầu vào của nền sản
xuất công nghiệp.
Tư liệu lao động gồm 2 yếu tố là phương tiện lao động và công cụ lao động. Phương tiện
lao động là những yếu tố vật chất phục vụ cho hoạt động sản xuất như nhà kho, bến bãi, đường sá,
cầu cảng, hệ thống đồ chứa,...; công cụ lao động là những yếu tố vật chất mà con người sử dụng
để tác động vào đối tượng lao động tạo ra sản phẩm.
Công cụ lao động có vị trí quyết định trong tư liệu sản xuất. Là yếu tố quan trọng nhất
trong LLSX. Vì công cụ liên tục được cải tiến làm cho trình độ người lao động phát triển, đối
tượng lao động được đa dạng hóa. Từ đó, ngành nghề mới xuất hiện và phân công lao động XH
ngày càng cao làm cho nền sản xuất XH phát triển. Trình độ phát triển của công cụ lao động là
thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của con người và là tiêu chuẩn để phân biệt sự khác nhau
giữa các thời đại kinh tế, kĩ thuật trong lịch sử.
Trình độ của LLSX là trình độ chinh phục tự nhiên của con người, được biểu hiện ở trình
độ người lao động (trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất, kinh nghiệm và kĩ năng lao động,
trình độ tổ chức lao động XH và trình độ phân công lao động XH) và trình độ công cụ lao động.
Tính chất của LLSX là tính chất cá nhân hay tính chất XH trong việc sử dụng tư liệu sản
xuất, mà chủ yếu là công cụ lao động của con người để chế tạo sản phẩm.
Yếu tố thứ hai cấu thành nên phương thức sản xuất là QHSX. QHSX là phạm trù dùng để
chỉ mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất.

QHSX được cấu thành từ 3 quan hệ. Đó là, quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan
hệ trong tổ chức và quản lý sản xuất, quan hệ trong phân phối sản phẩm lao động.
Ba yếu tố của QHSX tạo thành một hệ thống mang tính ổn định tương đối so với LLSX.
Giữa chúng có sự tác động lẫn nhau, trong đó quan hệ sở hữu giữ vai trò quyết định.
Trong mỗi phương thức sản xuất, LLSX và QHSX là hai mặt có mối quan hệ biện chứng
tác động lẫn nhau, trong đó LLSX là nội dung - yếu tố quyết định, QHSX là hình thức - yếu tố bị
quyết định, nhưng có sự tác động trở lại LLSX. Quan hệ này biểu hiện thành quy luật cơ bản nhất
của nền sản xuất XH “ quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất”; đồng thời là cơ sở khoa học để xác lập các hình thức tổ chức kinh tế và cơ
chế vận hành của nền kinh tế.
Triết học Mác đã khẳng định, trong mối quan hệ giữa LLSX và QHSX, LLSX giữ vai trò
quyết định.
LLSX quyết định sự hình thành QHSX. Biểu hiện trình độ LLSX như thế nào thì QHSX
phải như thế ấy để đảm bảo sự phù hợp với nó.
LLSX còn quyết định sự biến đổi QHSX. Biểu hiện đó là, quá trình sản xuất XH luôn biến
đổi, bắt đầu từ sự biến đổi và phát triển của LLSX. Cụ thể là, từ sự biến đổi của công cụ lao động,
làm thay đổi trình độ, kĩ năng, kinh nghiệm...của người lao động; làm thay đổi đối tượng lao động,
thay đổi tính chất sử dụng tư liệu sản xuất. Trong khi đó, QHSX mang tính ổn định tương đối,
thay đổi chậm hơn. Vì vậy, tạo nên mâu thuẫn giữa LLSX phát triển với QHSX lạc hậu. Khi đó,
QHSX hiện tại sẽ cản trở sự phát triển của LLSX. Cho nên, muốn LLSX tiếp tục phát triển thì
phải thay đổi QHSX cũ bằng QHSX mới phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX.
QHSX phù hợp với LLSX khi nó tạo ra những tiền đề, điều kiện cho các yếu tố của LLSX
như người lao động, tư liệu lao động, đối tượng lao động kết hợp với nhau một cách thuận lợi để
cho sản xuất diễn ra bình thường. Cụ thể là phải thiết lập một QHSX sao cho nơi nào có đối tượng
lao động thì phải có người lao động và người lao động phải được sử dụng đối tượng lao động để
sản xuất; đồng thời công cụ lao động phải tương ứng với trình độ, kĩ năng của người lao động.

8



QHSX bị quyết định bởi LLSX, được xây dựng trên cơ sở trình độ, tính chất của LLSX.
Nhưng khi được xác lập nó có sự tác động trở lại sự phát triển của LLSX. Bởi vì, QHSX quy định
mục đích của sản xuất; quy định cách thức tổ chức, quản lý, phân công sản xuất; quy định sự phát
triển và ứng dụng khoa học công nghệ; quy định cơ chế thực hiện lợi ích của con người. Vì vậy
tác động đến thái độ của con người trong sản xuất... Từ đó, hình thành những yếu tố thúc đẩy hoặc
kìm hãm sự phát triển của LLSX.
Trong thực tế, QHSX tác động trở lại LLSX thường theo hai khuynh hướng. Nếu QHSX
phù hợp với tính chất, trình độ phát triển của LLSX thì sẽ trở thành động lực thúc đẩy LLSX phát
triển. Ngược lại, nếu QHSX không phù hợp(lạc hậu hoặc vượt trước quá xa) thì sẽ kìm hãm sự
phát triển của LLSX.
(Liên hệ sự vận dụng quy luật ở nước ta trong thời kỳ đổi mới)
Nghiên cứu mối quan hệ giữa LLSX và QHSX, đòi hỏi phải nhận thức và vận dụng
đúng biện chứng giữa LLSX và QHSX. Cụ thể là phải xuất phát từ trình độ thực tế của
LLSX để xây dựng, điều chỉnh QHSX cho phù hợp.
Ở nước ta, thời kỳ trước đổi mới trong nhận thức và vận dụng đã vi phạm quy luật. Đó là,
trong khi LLSX ở trình độ thấp và không đều, tính chất phổ biến là cá nhân thì lại xây dựng một
QHSX tiên tiến. Cụ thể là về quan hệ sở hữu có một chế độ là công hữu; về quan hệ tổ chức quản
lý nặng về quy mô lớn, thực hiện cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp; về quan hệ
phân phối, thực hiện quan hệ phân phối bình quân. Đặc biệt trong xác lập quan hệ sở hữu tuyệt
đối hóa vai trò của công hữu. Chính sự vi phạm quy luật đó đã đẩy nền kinh tế nước ta rơi vào
tình trạng trì trệ, khủng hoảng.
Trong đổi mới, Đảng ta đã chủ trương điều chỉnh QHSX cho phù hợp với trình độ thực tế
của LLSX. Cụ thể là, về quan hệ sở hữu tồn tại nhiều hình thức sở hữu như nhà nước, tập thể, tư
nhân. Từ đó hình thành nhiều thành phần kinh tế. Về quan hệ tổ chức quản lý, hình thành nhiều
quy mô sản xuất (như các tập đoàn kinh tế lớn, các doanh nghiệp, công ty cổ phần, hợp tác xã,
kinh tế hộ...) và thực hiện cơ chế thị trường. Về quan hệ phân phối, đa dạng hình thức, căn cứ vào
mức đóng góp vốn, hiệu quả sản xuất, trình độ năng lực và điều tiết an sinh XH.
Sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo quy luật về sự phù hợp giữa QHSX với trình độ phát triển
của LLSX trong thời kỳ đổi mới đã làm cho nền kinh tế nước ta có những bước phát triển vượt
bậc. Nền kinh tế thoát khỏi tình trạng khủng hoảng, tạo đà cho sự phát triển, tốc độ tăng trưởng

kinh tế cao.
Trong giai đoạn hiện nay để phát triển LLSX, chúng ta cần phải:
CNH, HĐH đất nước;
Phát triển khoa học kỹ thuật, khoa học công nghệ;
Phát triển nguồn lực con người. cụ thể là nâng cao dân trí, phát triển mạnh giáo dục đào
tạo và văn hóa;
Phát triển kinh tế nhiều thành phần định hướng XHCN;
Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của nhà nước;
Mở rộng quan hệ quốc tế.
Liên hệ ?
Khi trình độ LLSX còn thủ công thì tính chất của nó là cá nhân. Nó thể hiện ở
chỗ chỉ một người có thể sử dụng được nhiều công cụ khác nhau trong quá trình sản
xuất để tạo ra sản phẩm. Khi sản xuất bằng máy ra đời trình độ LLSX công nghiệp thì
một người không thể sử dụng nhiều mà chỉ một công cụ, một bộ phận, chức năng, như
vậy quá trình sản xuất phải nhiều người tham gia, sản phẩm lao động là thành quả của

9


nhiều người.
Là một chuyên viên PGD &ĐT cá nhân tôi phụ trách mảng CNTT, như trên phân tích khi
TLSX càng hiện đại bao nhiêu thì LLSX phải đáp ứng được hoặc phải chủ động làm chủ được bấy
nhiêu. Với chức năng quản lý chuyên môn tin học cá nhân tự nhận định được : Phương tiện CNTT
( máy tính) là những công cụ rất hiện đại mà nước ngoài( các nhà khoa học) đã nghiên cứu ra và
hiện tại mình đang sở hữu nó vận dụng nó, để sử dụng hết chức năng của nó thật vô vàn, nhận
định được điều này cá nhân tôi luôn phải nghiên cứu, tìm tòi và cuối cùng tìm ra lập luận để vận
dụng cho các cấp trường học Mầm non, TH , THCS trong huyện.
Muốn được theo như ý muốn thì cần phải xâu sát cơ sở( tầng cấp học) xem tình hình thực
tế về TLSX ( máy tính ) của cấp học đó như thế nào ? con người (LLSX) sử dụng đang ở trình độ
ra sao để có phương hướng đào tạo, chỉnh sửa ..nhằm giúp các đơn vị vận dụng đúng trúng mục

đích việc ứng dụng CNTT vào dạy học.
Từ năm 2008 Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có quyết định lấy việc « ứng dụng CNTT làm
chủ đề năm học » chính vì thế việc chỉ đạo, giám sát của cá nhân tôi phụ trách mảng CNTT phải
có sự sát sao với cơ sở hơn nữa nhằm đáp ứng được : Máy tính và người sử dụng máy tính một
cách thuần thục đáp ứng cho dạy và học không để có sự chênh lệch quá lớn, đó cũng chính là mục
tiêu của câu hỏi : « Quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển lực lượng sản xuất
môn tin học » của ngành Giáo dục và Đào tạo huyện Nga Sơn nói riêng

Câu hỏi 5 : Phân tích tích độc lập tương đối của ý thức xã hội so với tồn tại xã hội, ý
nghĩa của vấn đề này trong xây dựng đời sống văn hóa tinh thần thời kỳ CNH, HĐH ở nước ta.
( Cách 2: Bác Hồ viết: “ Để cải tạo xã hội, một mặt phải cải tạo vật chất, như tăng gia sản
xuất , một mặt phải cải tạo tư tưởng. Nếu không có tư tưởng xã hội chủ nghĩa (XHCN)thì không
làm việc xã hội chủ nghĩa được”.Bằng lý luận triết học Mác – Lê – Nin về mối quan hệ biện
chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội , đồng chí hãy giải thích luận điểm trên và nêu ý nghĩa
của vấn đề đối với việc nâng cao ý thức tư tưởng trong thời kỳ CNH, HĐH ở nước ta.

Trả lời
10


Như chúng ta đã biết, các nhà duy tâm về lịch sử cho rằng, động lực của sự phát triển xã
hội là do ý thức xã hội, là do ý chí của con người hay một lực lượng tinh thần siêu nhiên, như: ý
niệm tuyệt đối, tinh thần thế giới quyết định.
Đối lập với những quan điểm sai lầm trên, Chủ nghĩa Mác chỉ ra quy luật tồn tại xã hội
quyết định ý thức xã hội là một trong những quy luật cơ bản, chi phối và thúc đẩy tiến trình vận
động của lịch sử; đời sống tinh thần của xã hội được hình thành và phát triển trên cơ sở của đời
sống vật chất; các hiện tượng tinh thần tư tuởng của con người và xã hội được nảy sinh từ hiện
thực vật chất. Đó là cơ sở lý luận khoa học giúp cho giai cấp vô sản và các lực lượng tiến bộ xã
hội xây dựng các chính sách, biện pháp nhằm cải tạo xã hội và xây dựng một chế độ xã hội mới
tiến bộ nhất.

Theo triết học Mác, tồn tại xã hội (TTXH) là phạm trù chỉ đời sống vật chất cùng toàn bộ
những điều kiện sinh hoạt vật chất và quan hệ vật chất của xã hội. Tồn tại xã hội bao gồm các yếu
tố: phương thức sản xuất vật chất, điều kiện tự nhiên - hoàn cảnh địa lý, dân số và mật độ dân số.
Trong đó, phương thức sản xuất là yếu tố quan trọng nhất, vì phương thức sản xuất vật chất là cơ
sở khách quan để xác lập và duy trì sự tồn tại của xã hội.
Ý thức xã hội (YTXH) là mặt tinh thần của đời sống xã hội, bao gồm toàn bộ những quan
điểm, tư tưởng cùng những tình cảm, tâm trạng... của những cộng đồng xã hội, nảy sinh từ tồn tại
xã hội của họ và phản ánh tồn tại xã hội đó trong những giai đoạn lịch sử cụ thể nhất định.
Ý thức xã hội là một hiện tượng phức tạp, được xem xét ở các góc độ khác nhau. Như, phân
loại theo nội dung và lĩnh vực phản ánh, YTXH bao gồm ý thức chính trị, ý thức pháp quyền, ý
thức đạo đức, ý thức tôn giáo, ý thức thẩm mỹ. Theo mức độ khái quát YTXH bao gồm ý thức
thông thường, ý thức lý luận. Theo trình độ phản ánh, YTXH bao gồm tâm lý XH và hệ tư tưởng.
Tâm lý xã hội là hiện tượng tinh thần của đời sống xã hội, bao gồm toàn bộ những tình
cảm, tâm trạng, thói quen, tập quán... của con người, của một bộ phận xã hội hoặc của toàn xã hội
được hình thành một cách tự phát dưới tác động trực tiếp của điều kiện sống hàng ngày của họ,
phản ánh điều kiện sống, cũng như bản thân đời sống đó.
Từ khái niệm cho thấy, tâm lý XH là sự phản ánh trực tiếp, tự phát điều kiện sinh sống
hàng ngày của con người nên còn mang nặng dấu ấn kinh nghiệm. Gắn chặt với xúc cảm, tình
cảm, phong tục, tập quán nên tồn tại dai dẳng. Mặt khác, tâm lý xã hội rất đa dạng, phong phú,
phức tạp, dễ lây lan và biến đổi thường xuyên.
Hệ tư tưởng là những tư tưởng, quan điểm đã được hệ thống hoá thành lý luận, thành các
học thuyết về xã hội, phản ánh lợi ích của một giai cấp nhất định như hệ thống quan điểm triết
học, chính trị, pháp luật, kinh tế...
Khác với tâm lý xã hội, hệ tư tưởng là những tư tưởng, quan điểm đã được khái quát thành
học thuyết từ sự phản ánh gián tiếp. Trong xã hội có giai cấp, hệ tư tưởng của giai cấp thống trị
luôn là hệ tưởng thống trị xã hội. Trong thực tế hệ tư tưởng phản ánh tồn tại xã hội có hai khả
năng:
P/ánh đúng tồn tại xã hội là hệ tư tưởng khoa học
P/ánh sai tồn tại xã hội là hệ tư tưởng phản khoa học.
Theo quan điểm triết học Mác, tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, ý thức xã hội phản

ánh tồn tại xã hội và phụ thuộc tồn tại xã hội, vì ý thức xã hội hoàn toàn không có đời sống độc
lập, mà nó chính là cái phản ánh tồn tại xã hội. Vì vậy, tồn tại xã hội như thế nào thì ý thức xã hội
như thế ấy, khi tồn tại xã hội (nhất là phương thức sản xuất) thay đổi thì những tư tưởng, quan
điểm về chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức, văn học, nghệ thuật, v.v. sớm muộn sẽ thay đổi
theo.

11


Mặc dù YTXH là sự phản ánh TTXH, do TTXH quyết định nhưng trong quá trình tồn tại,
phát triển, YTXH không phụ thuộc một cách máy móc vào TTXH mà có tính độc lập tương đối.
Bởi vì, trong quá trình phản ánh YTXH vừa chịu quy định của quy luật TTXH, vừa chịu quy định
của quy luật phản ánh. Mặt khác, YTXH phản ánh TTXH bởi nhiều hình thái ý thức, mỗi hình
thái có quy luật vận động riêng của nó. Biểu hiện tính độc lập tương đối của YTXH so với TTXH.
Một là, ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội, điều đó thể hiện khi tồn tại xã hội
cũ đã mất đi, tồn tại xã hội mới đã ra đời, nhưng toàn bộ ý thức xã hội cũ chưa mất đi, toàn bộ ý
thức xã hội mới chưa ra đời kịp thời. Nguyên nhân sự lạc hậu của YTXH:
Thứ nhất, sự vận động biến đổi của TTXH nhanh do tác động của con người nhưng YTXH
phản ánh không kịp và trở nên lạc hậu. Mặt khác, ý thức xã hội là cái phản ánh TTXH, nên nhìn
chung chỉ biến đổi sau khi có sự biến đổi của tồn tại xã hội.
Thứ hai, do sức mạnh của thói quen, truyền thống, tập quán cũng như do tính lạc hậu, bảo
thủ của một số hình thái ý thức xã hội.
Thứ ba, YTXH luôn gắn với lợi ích của những nhóm, những tập đoàn người, những giai cấp
nhất định trong xã hội.Vì vậy, những tư tưởng cũ, lạc hậu thường được các lực lượng xã hội phản
tiến bộ lưu giữ, truyền bá nhằm chống lại các lực lượng tiến bộ.
Hai là, ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội
Trong khi khẳng định tính lạc hậu hơn của ý thức xã hội so với tồn tại xã hội, triết học Mác Lênin đồng thời thừa nhận rằng, trong những điều kiện nhất định một bộ phận của tư tưởng con
người có tính vượt trước. Đó là những tư tưởng lý luận khoa học, những tư tưởng dự báo được
tương lai và có tác dụng chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người, hướng hoạt động của con
người vào giải quyết những nhiệm vụ mới do sự vận động của thực tiễn đòi hỏi.

Tuy nhiên, khi nói, tư tưởng tiên tiến có thể vượt trước tồn tại xã hội dự kiến được quá trình
khách quan của sự phát triển xã hội thì không có nghĩa là trong trường hợp này ý thức xã hội
thoát ly khỏi tồn tại xã hội, không còn bị tồn tại xã hội quyết định nữa.lại, tư tưởng khoa học tiên
tiến vẫn gắn chặt với tồn tại xã hội, phản ánh chính xác, sâu sắc tồn tại xã hội.
Trong thực tế sự vượt trước của YTXH so với TTXH có hai khả năng xảy ra
Vượt trước nhưng phản ánh phù hợp với quy luật vận động của TTXH (nhận thức đúng) thì
đó là sự vượt trước khoa học sẽ thúc đẩy tồn tại xã hội phát triển.
Vượt trước nhưng phản ánh không phù hợp với quy luật của TTXH gọi là sự vượt trước
mang tính ảo tưởng (nhiều khi xuất phát từ tình cảm chủ quan thuần tuý) sẽ kìm hãm sự phát triển
của TTXH.
Ba là, ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển
Kế thừa là một quy luật khách quan trong sự vận động phát triển của các sự vật, hiện
tượng. Không có sv, ht nào trong quá trình vận động, phát triển lại bắt đầu từ mảnh đất trống
không mà bao giờ cũng có sự tiếp thu, kế thừa những yếu tố nhất định.Vì vậy, trong quá trình vận
động phát triển, YTXH của mỗi thời đại không chỉ phản ánh TTXH của thời đại đó, mà luôn có sự
kế thừa những tư tưởng, giá trị văn hoá của các thế hệ trước, thời đại trước để lại. Thí dụ, chủ
nghĩa Mác đã kế thừa những tinh hoa tư tưởng của loài người mà trực tiếp là nền triết học cổ điển
Đức, kinh tế chính trị học cổ điển Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp
Sự kế thừa YTXH trong xã hội có giai cấp luôn mang tính g/c. Nội dung kế thừa do mục
đích và lợi ích của g/c chi phối, quyết định. Các g/c tiên tiến kế thừa những di sản tư tưởng tiến bộ
của XH cũ để lại. Thí dụ, khi làm cuộc cách mạng tư sản chống phong kiến, các nhà tư tưởng của
giai cấp tư sản đó khôi phục những tư tưởng duy vật và nhân bản của thời đại cổ đại. Ngược lại,
những g/c lỗi thời, phản động lại khôi phục những tư tưởng phản tiến bộ của các thế hệ trước.
Bốn là, sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội trong sự phát triển của chúng

12


Ý thức xã hội bao gồm nhiều bộ phận, nhiều hình thái ý thức khác nhau, trong quá trình
tồn tại, một mặt, các hình thái YT luôn bị qui định bởi tồn tại xã hội, mặt khác, giữa các hình thái

YT lại có sự tác động lẫn nhau. Đồng thời, lịch sử phát triển của YTXH cho thấy, thông thường ở
mỗi thời đại, tuỳ theo những hoàn cảnh LS cụ thể có những hình thái YT nào đó nổi lên hàng đầu
và tác động mạnh đến các hình thái YT khác. Chẳng hạn ở thời cổ đại Tây Âu thì triết học và nghệ
thuật đóng vai trò đặc biệt. Thời Trung Cổ ở Tây Âu thì tôn giáo ảnh hưởng mạnh mẽ đến triết
học, nghệ thuật, pháp quyền...
Trong xã hội có giai cấp, hình thái ý thức chính trị chi phối các hình thái YTXH
khác(đường lối chính trị định hướng cho pháp luật, đạo đức, khoa học, nghệ thuật …).
Năm là, YTXH tác động trở lại TTXH, sự tác động đó diễn ra theo hai khả năng
Thứ nhất, tác động tích cực đối với TTXH. Nếu YTXH phản ánh đúng quy luật vận động,
phát triển của TTXH thì thông qua hoạt động thực tiễn của con người nó thúc đẩy PTSX phát
triển, góp phần cải biến điều kiện tự nhiên, hoàn cảnh địa lý theo đúng hướng có lợi cho con
người và SXVC, điều chỉnh dân số và các điều kiện dân cư phù hợp với điều kiện kinh tế, địa
lý…trên cơ sở đó, thúc đẩy XH phát triển theo hướng tiến bộ.
Thứ hai, tác động tiêu cực đối với tồn tại xã hội: Nếu ý thức xã hội phản ánh không đúng
quy luật vận động, phát triển của tồn tại xã hội (lạc hậu, phản tiến bộ, hoặc vượt trước ảo tưởng,
duy ý chí...) thì thông qua hoạt động thực tiễn của con người sẽ cản trở sản xuất vật chất phát
triển, huỷ hoại môi trường sống tự nhiên, làm mất cân bằng về dân số và mật độ dân cư... tức là
kìm hãm sự phát triển của xã hội theo hướng tiến bộ.
Mức độ, tính chất và hiệu quả tác động của YTXH đối với TTXH phụ thuộc vào nhiều yếu
tố như:
Tính tiến bộ, cách mạng hay lạc hậu, phản động của chủ thể mang YTXH;
Tính khoa học hay không của YTXH;
Mức độ thâm nhập của YTXH vào quảng đại quần chúng nhân dân;
Năng lực triển khai, hiện thực hóa YTXH vào hoạt động thực tiễn của chủ thể lãnh đạo,
quản lý.
Nghiên cứu mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội cho chúng ta ý
nghĩa thực tiễn. Đó là, ý thức xã hội do tồn tại xã hội quyết định; mặt khác, ý thức xã hội tác động
trở lại tồn tại xã hội thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Do đó muốn xây dựng đời sống
tinh thần, xây dựng nền văn hóa mới và con người mới XHCN Việt Nam thì phải cải tạo tồn tại xã
hội của nó, đồng thời phải phát huy được năng lực tinh thần của toàn xã hội. Cụ thể:

Không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, trong đó yêu cầu phát
triển kinh tế là nhiệm vụ hàng đầu để tạo tồn tại xã hội mới. Trên thực tế, để phát triển kinh tế
phải phát huy vai trò của tinh thần, văn hoá (phải có tri thức kinh tế, tri thức khoa học kỹ thuật...).
Vì vậy, cùng với phát triển kinh tế phải nâng cao đời sống tinh thần, nâng cao đạo đức, tư tưởng.
Phải đẩy mạnh cách mạng tư tưởng văn hoá, bằng việc từng bước làm cho chủ nghĩa Mác
– Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tinh thần xã hội;đồng thời nâng cao tri thức văn hoá,
khoa học làm động lực phát triển kinh tế.
Liên hệ? (tập trung vào liên hệ thực tiễn việc xây dựng đạo đức mới, tư tưởng mới như:
học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, xây dựng các giá trị đạo đức mới, đưa
pháp luật vào quần chúng, nâng cao trình độ dân trí; xoá bỏ tư tưởng lạc hậu... ở ngành, địa
phương, đơn vị)

13



×