Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Nói về vị thế và vai trò của người nông dân Việt Nam trong xã hội hiện đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (626.57 KB, 20 trang )

Trên con đường thành công không có dấu chân của kẻ lười biếng … ^^

I.

NỘI DUNG CÂU HỎI:

1. Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến sự di động xã hội. Làm rõ sự di
động theo giới có tác động như thế nào đến sự phân công lao động trong xã
hội Việt Nam hiện nay? (có liên hệ thực tế)
2. Theo Anh (chị), ở khu vực nông thôn nước ta hiện nay có những hiện
tượng bất bình đẳng xã hội nào còn tồn tại? Hãy phân tích nguyên nhân của
hiện tượng và nêu những ý tưởng hành động của anh (chị) để góp phần giảm
bớt bất bình đẳng xã hội (có thể liên hệ thực tế ở chính quê hương anh (chị))?
3. Phân tích sự biến đổi các chức năng của gia đình Việt Nam từ truyền
thống đến hiện đại?
4. Vị thế và vai trò của người nông dân Việt Nam trong xã hội hiện đại?
(Có liên hệ thực tế địa phương)
5. Văn minh đô thị và trách nhiệm của sinh viên Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay? (Có liên hệ thực tế).

1


Trên con đường thành công không có dấu chân của kẻ lười biếng … ^^

II.

DANH SÁCH CÁC THÀNH VIÊN TRONG NHÓM 7:

STT


MSSV

HO DEM TEN

1

DTN 1553060014

CAO VĂN ĐỈNH

2

DTN 1553060009

LÒ VĂN CHUNG

3

DTN 1553060037

GIÀNG A PHÒNG

4

DTN 1553060017

QUÁCH THANH HẢI

5


DTN 1553060051

HOÀNG VĂN ĐIỀU

6

DTN 1553060015

SÙNG A GIÀNG

7

DTN

TRẦN TRUNG DŨNG

8

DTN 1553060012

BÙI HOÀNG DŨNG

III.

TRẢ LỜI NỘI DUNG CÂU HỎI:

2


Trên con đường thành công không có dấu chân của kẻ lười biếng … ^^


1. Những yếu tố ảnh hưởng đến sự di động xã hội. Sự
di động theo giới có tác động đến sự phân công lao
động trong xã hội Việt Nam hiện nay:
Di động xã hội,còn gọi là sự cơ động xã hội hay dich chuyển xã hội, là
khái niệm xã hội học dung để chỉ sự chuyển động của những cá nhân, gia
đình,nhóm xã hội trong cơ cấu xã hội và hệ thống xã hội.
Thực chất di động xã hội là sự thay đổi vị trí trọng hệ thống phân tầng xã
hội. Vấn đề di động xã hội lien quan tới việc các cá nhân gia đình vị trí,địa vị
xã hội, liên quan tới điều kiện ảnh hưởng tới sự biến đổi cơ cấu xã hội.
Hình thức xã hội học người ta có thể phân biệt di động xã hội theo hai
khía cạnh khác nhau.
Di động giữa các thế hệ: thế hệ con gái có địa vị cao hôn hoặc thấp hơn
so với địa vị thế hệ cha mẹ của họ.đây là những hình thức di động quang
trọng trong xã hội.
Di động trong thế hệ: trong trường hợp này, một người thay đổi vị trí
nghề nghiệp, vị trí xã hội, thời cơ trú trọng cuộc đời của mình,có thể thấp hơn
hoặc kém hơn với chính mình.
Di động xã hội được xác định như là sự vận động của cá cá nhân hay
một nhóm xã hội từ vị trí địa vị xã hội này sang vị trí, địa vị xã hội khác. Vì
vậy khi nghiên cứu di động xã hội, các nhà xã hội học còn chú ý tới các hình
thức di động xã hội khác:
Di động theo chiều ngang và di động theo chiều dọc.
Di động theo chiệu ngang: chỉ sự vận động của cá nhân giữ các nhóm xã
hội, giai cấp xã hội tới một vị trí ngang bằng về mặt vị thế xã hội.
Di động theo chiều dọc: chỉ sự vận động của các cá nhân giữa các nhóm
xã hội giai cấp xã hội tới vị trí,đị vị xã hội có giá trị cao hơn hoặc thấp
hơn.Biệu hiện của hình thức di động này là sợ thăng tiến, đề bạt (di động lên)
và miễn nhiệm, rút rui, thất bại (di chyển xuống ).
Những yếu tố ảnh hưởng đến di động xã hội: Di động xã hội phụ thuộc

vào nhiều yếu tố khác nhau. Theo cách của nhà xã hội học P.sorokin trong
cuốn sách “di dộng xã hội’’(1927), những nhân tố ảnh hưởng đến sự di động
là các “ kânh dẫu” và các “ cơ chế cáng lọc” liên quan tới hoàn cảnh kinh tế xã hội chung và đặc thù ở mỗi vùng miền,và cá đặc điểm của cá nhân,như
hoàn cảnh của gia đình,trình độ học vấn, lứa tuổi giới tính…
3


Trên con đường thành công không có dấu chân của kẻ lười biếng … ^^

Có thể dẫn ra một số yếu tố ảnh hưởng đến sự di động xã hội sau đây:
Điều kiện kinh tế - xã hội tùy thuộc vào sự phát triển xã hội ra sao mà di
động xã hội diễn ra ít hoặc nhiều.
VD: Trong xã hội phong kiến hay trong xã hội cá đẳng cấp, với sư xác
định những địa vị xã hội một cách vững chắc do đấy là những địa vị gắn chô
(đại vị thừa hưởng từ thế hệ trước truyền lại ). Về mặt lý thuyết thì trong xã
hội như vậy, địa vị không bị thay đổi bởi sự cố gắng duy trì địa vị của những
người giữa tầng lớp đó. Như vậy thứ bậc vị trí xã hội được cố định, cứng
nhắc và được truyền từ đời này sang đời khác.
Ngược lại, trong xã hội công nghiệp địa vị xã hội thường được mô tả rất
khác nhau. Nhiều nhà xã hội học cho rằng địa vị xã hội do cá nhân giành
được bằng những thành tựu cá nhân hơn là sự thừa kế theo dòng dõi, ta gọi
đó là địa vị đạt được. Vì thế , những vị trí xã họi trong xã hội Công Ngiệp có
tính mềm dẻo, linh hoạt hơn nhờ sự nỗ lực của các cá nhân, có sự cạnh tranh
các địa vị dựa trên năng lực của họ.
Nói tóm lại, nếu một xã hội khéo kín thì các cá nhân ít có cơ hội thay
đổi vị trí của mình trong xã hội. Còn với xã hội mở thì cơ hội đó nhiều hơn và
các cá nhân có thể đạt được những địa vị. Vị trí cao hay thấp tùy thuộc vào
năng lực của mình. Trong xã hội mở, sự di động xã hội diễn ra nhanh hơn.
Trong xã hôi công nghiệp thuộc loại xã hội mở.
Trình độ học vấn là một trong những yếu tố tác động mạnh nhất đến sự

di động xã hội. Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng, những cá nhân có trình độ
học vấn cao hơn thì năng động hơn hẳn những cá nhân có trình độ học vấn
thấp hơn. Nhờ có trình độ học vấn cao mà người lao động có khả năng vận
hành những công việc đòi hỏi có chuyên môn cao. Họ cũng có nhiều điều
kiện để tương tác với những loại hình cao hơn. Loại hình lao động có nội
dung phong phú hơn. Ngày nay , nhiều vị trí xã hội , nhiều công việc đòi hỏi
có học vấn cao. Vì vậy cá nhân lao động nào được đào tạo để có học vấn thì
đễ có cơ hội để vào những ví trí xã hội cao.
Nơi cư trú : khu vực mà người sinh sống cũng ảnh hưởng đến di dộng xã
hội.Chẳng hạn , những cơ may trong cuộc đời của những cá nhân sống ở đô
thị sẽ nhiều hơn so với cá nhân sống ở nông thôn. Với những ai có thế cư trú
ở vùng sâu , vùng xa , vùng núi thì cơ may càng hiếm hoi hơn. Trên thực tế,
nơi sinh sống có những khả năng lựa chọn công việc và môi trường khác nhau
ảnh hưởng đến sự thăng tiến của mỗi cá nhân.
Ngoài các yếu tố trên đây, còn có hàng loạt các yếu tố ảnh hưởng đến sự
di động của xã hội. Chẳng hạn như thành phần xuất khẩu, thâm niên, công
tác, lứa tuổi, tôn giáo...
4


Trên con đường thành công không có dấu chân của kẻ lười biếng … ^^

Yếu tố giới cho đến nay vẫn còn nhiều phân biệt giữa nam và nữ về
những khía cạnh khác nhau trong đời sống xã hội.Nhìn chung sự di động xã
hội của nữ, thường thấp hơn ở nam. Đó một phần là các yếu tố kinh tế
nhường phần lớn là do những yếu tố liên quan đến giới như dư luận xã hội,
các chuẩn mực xã hội, các quan niệm, các thiết chế nên có sự phân biệt giữa
nam và nữ. Các bạn nữ thường có ít điều kiện để bộc lộ cao hơn nam.
Sự phân công hợp lí trong gia đình là một vấn đề mang tính cấp thiết,
thiết thực không những là chìa khóa để đảm bảo cho sự ổn định bền chặt, êm

ấm của gia đình tạo điều kiện cho sự phát triển toàn diện của nam và nữ về
mặt xã hội mà còn giúp cải thiện địa vị mỗi giới, đặc biệt là người phụ nữ.

2. Khái niệm – những hiện tượng bất bình đẳng.
Là sự không bình đẳng (không bằng nhau) về các cơ hội hoặc lợi ích đối
với những cá nhân khác nhau trong một nhóm hoặc nhiều nhómtrong xã hội.
Ở khu vực nông thôn nước ta hiện nay còn có những hiện tượng bất bình
đẳng xã hội như: Bất bình đẳng giới, bất bình đẳng kinh tế, bất bình đẳng theo
tuổi, bất bình đẳng chủng tộc.
5


Trên con đường thành công không có dấu chân của kẻ lười biếng … ^^

2.1. Khái quát về các hiện tượng:
2.1.1. Bất bình đẳng giới:
Là dạng phổ biến nhất. Nó dựa trên sự đánh giá của xã hội về vai trò của
hai giới, trong đó, nam giới thường được đề cao và có quyền uy hơn nữ giới.
Chính vì vậy, trong mọi công việc, cơ hội của phụ nữ bao giờ cũng kém hơn
nam giới. Nữ giới có xu hướng bị phân bố vào những công việc có lương
thấp, uy tín thấp. Theo một số nghiên cứu, phụ nữ chỉ kiếm được 63% thu
nhập so với nam giới. Số lượng lao động nội trợ khổng lồ vẫn tiếp tục thực
hiện bởi phụ nữ, ngay cả khi hai vợ chồng cùng lao động…..
Xã hội có bất bình đẳng giới xuất phát từ quan niệm: chỉ có nam giới
mới là trụ cột gia đình, nam kiếm tiền, nữ làm nội trợ nên phụ thuộc vào nam
giới. Do đó, phụ nữ bị hạn chế nhiều trong quyền lựa chọn công việc, có
những công việc dường như chỉ dành cho nam giới.

Ví dụ, phụ nữ rất ít khi được bình đẳng với nam giới về quyền lực: các
nhà lãnh đạo chính trị luôn là nam giới, thủ lĩnh các dòng họ luôn là nam

giới…Trong gia đình, đa số các bà vợ luôn phải đối mặt với nạn bạo hành,
đàn ông có quyền chi phối vợ mình, phụ nữ ít có quyền đối với đời sống hôn
nhân và tình dục, người vợ luôn phải thể hiện sự tôn kính đối với chồng…

2.1.2. Bất bình đẳng kinh tế:
Theo Marx, bất bình đẳng kinh tế tồn tại do sự chiếm hữu tư nhân về tư
liệu sản xuất. Trong khi đó, Max Weber cho rằng, khả năng chiếm lĩnh thị
trường là nhân tố gây ra bất bình đẳng.

2.1.3. Bất bình đẳng theo địa lý lãnh thổ:
6


Trên con đường thành công không có dấu chân của kẻ lười biếng … ^^

Là sự khác biệt về cơ hội trong cuộc sống của người dân giữa các tỉnh
hay các huyện cũng như giữa thành thị và nông thôn.

2.1.4. Bất bình đẳng dân tộc và chủng tộc:
Tồn tại do quan niệm có những chủng tộc ưu việt hơn, từ đó mà có sự
phân biệt chủng tộc giữa các chủng tộc khác nhau. Thậm chí trong cùng một
xã hội, các chủng tộc cũng không có cơ hội giống nhau.
Ngày nay sự kì thị về dân tộc và chủng tộc đã không còn sự phân biệt về
chủng tộc.

Ngoài ra, còn có những bất bình đẳng khác như về nơi cư trú, dân
tộc….Những dạng bất bình đẳng này thể hiện trong các khu vực của đời sống
xã hội như: điều kiện làm việc, sức khoẻ, nhà ở, giáo dục, công lý…..
Ví dụ như bất bình đẳng giáo dục ở các nước phát triển: cơ hội về giáo
dục cho trẻ em của các giai cấp khác nhau là khác nhau. Các trẻ em giai cấp

công nhân ít có cơ may vào các trường chất lượng cao so với con em giai cấp
trung lưu và lớp trên; cơ hội về giáo dục cho trẻ em nam cao hơn trẻ em nữ;
có sự khác nhau về cơ hội giáo dục cho trẻ em các dân tộc khác nhau; sự
phân phối về địa vị, nghề nghiệp và tiền thưởng của người lao động không
được quyết định bởi kết quả giáo dục, cùng một thành quả giáo dục như nhau
(cùng trình độ, bằng cấp) thì con trai thu nhập cao hơn con gái.

7


Trên con đường thành công không có dấu chân của kẻ lười biếng … ^^

2.2. Nguyên nhân của hiện tượng bất bình đẳng:
Nguyên nhân dẫn đến bất bình đẳng xã hội là sự đa dạng và khác nhau
giữa các xã hội và nền văn hoá, gắn liền với những đặc điểm của giai cấp xã
hội, giới tính, chủng tộc, tôn giáo, lãnh thổ…Tuy nhiên, theo các nhà Xã hội
học, dù cho những nguyên nhân dẫn đến bất bình đẳng xã hội có đa dạng và
khác nhau thì người ta vẫn có thể quy chúng về 3 nhóm cơ sở chủ yếu tạo nên
bất bình đẳng:

2.2.1. Cơ sở chủ yếu tạo nên bất bình đẳng
1) Những cơ hội trong cuộc sống:
Là những thuận lợi vật chất có thể cải thiện chất lượng cuộc sống như
của cải, tài sản, thu nhập, công việc, lợi ích chăm sóc sức khoẻ hay đảm bảo
an ninh xã hội. Trong xã hội, một nhóm người có thể có những cơ hội, trong
khi các nhóm khác lại không, mặc dù các thành viên trong nhóm có nhận thức
được điều đó hay không. Đây là cơ sở khách quan của bất bình đẳng.
2) Do sự khác nhau về địa vị xã hội:
Bất bình đẳng về địa vị xã hội do thành viên của các nhóm xã hội tạo nên
và thừa nhận chúng. Nó có thể là bất cứ cái gì mà một nhóm xã hội cho là ưu

việt và được các nhóm xã hội khác thừa nhận. Tuy nhiên, địa vị xã hội chỉ có
thể được giữ vững bởi những nhóm nắm giữ địa vị đó và các nhóm xã hội
khác tự giác thừa nhận sự ưu việt đó.
3) Ảnh hưởng chính trị:
Bất bình đẳng do ảnh hưởng
chính trị là khả năng của một nhóm
xã hội thống trị những nhóm khác
hay có ảnh hưởng mạnh mẽ trong
việc ra quyết định và thu được lợi
từ các quyết định đó.
Bất bình đẳng trong ảnh
hưởng chính trị có thể được nhìn
nhận như là có được từ những ưu
thế về vật chất hoặc địa vị xã hội
cao. Trên thực tế, bản thân chức vụ chính trị có thể tạo ra cơ sở để đạt được
địa vị và những cơ hội trong cuộc sống, đặc biệt đối với các cá nhân có chức
vụ chính trị cao..
Gốc rễ của bất bình đẳng có thể nằm trong mối quan hệ kinh tế, địa vị xã
hội, hay trong các mối quan hệ thống trị về chính trị của các giai cấp trong xã
hội.
8


Trên con đường thành công không có dấu chân của kẻ lười biếng … ^^

2.3. Những ý tưởng hành động để góp phần giảm bớt bất bình
đẳng xã hội:
Để thay đổi hiện trạng xã hội theo hướng bình đẳng hơn, chúng ta cần
phải tập trung vào 2 nhóm giải pháp chính:


2.3.1.Giải pháp 1:
Giáo dục ý thức yêu chuộng sự công bằng ở mọi người dân, bắt đầu từ
giáo dục ở cấp tiểu học.
Chúng ta cần sửa đổi chương trình và phương pháp giảng dạy để giúp
các em học sinh có ý thức yêu chuộng sự công bằng. Không những bằng bài
giảng, mà phải áp dụng trong các công việc cụ thể, như: biết xếp hàng chờ
đến lượt mình, biết dừng đèn đỏ, có quy định phạt đối với những em vi phạm
tính công bằng, như chen ngang, vượt đèn đỏ…

Phụ huynh cũng phải góp phần vào công tác giáo dục này, bằng cách
không chạy trường, chạy điểm, cho con em học thêm… Muốn giáo dục các
em về sự công bằng, chính thầy cô, nhà trường, và phụ huynh phải là những
tấm gương tôn trọng nề nếp, kỷ luật chung, không vì lợi mình mà vi phạm tới
lợi ích của người khác.

2.3.2. Giải pháp 2:
Sửa đổi hiến pháp và pháp luật sao cho phản ánh được tiếng nói của mọi
thành phần trong xã hội, đảm bảo sự giám sát chéo, hạn chế sự lạm quyền,
cho phép sự chỉnh sửa hệ thống theo hướng tiến bộ hơn. Ngoài ra, chúng ta
cũng cần 1 nhà lãnh đạo biết yêu chuộng sự công bằng, có tài lãnh đạo và
quyết tâm thay đổi xã hội theo hướng tiến bộ hơn, công bằng hơn.

9


Trên con đường thành công không có dấu chân của kẻ lười biếng … ^^

Chúng ta cần xây dựng một xã hội pháp trị, trong đó cơ quan hành pháp,
lập pháp và tư pháp có vai trò giám sát lẫn nhau, đồng thời có sự giám sát của
người dân thông qua các cơ quan thông tấn, báo chí độc lập. Trước mắt, cần

xây dựng được một quốc hội đúng nghĩa, gồm những người đại diện xứng
đáng của dân, có tâm, có tầm là bước cơ bản để thay đổi các thiết chế sai lầm
hiện tại, đề ra các quy định hợp lý, đảm bảo quyền lợi của mọi người dân, hạn
chế sự lạm quyền của cơ quan hành pháp. Từ đó, làm cơ sở để xây dựng một
hệ thống pháp luật vững mạnh, phù hợp với thông lệ quốc tế, nêu cao tính
gương mẫu của pháp luật, công bằng với mọi đối tượng.

10


Trên con đường thành công không có dấu chân của kẻ lười biếng … ^^

3. Sự biến đổi các chức năng của gia đình Việt Nam từ
truyền thống đến hiện đại:
Gia đình là một môi trường vi mô có vai trò quan trọng nhất trong giai
đoạn xã hội hóa ban đầu. là một trong những thiết chế cơ bản của xã hội, gia
đình đảm nhận chức năng tái sản xuất ra con người. trong sự phát triển lịch
sử, các chức năng của gia đình đã có nhiều biến động một số chức năng của
gia đình truyền thống bị mất hay bị thay thế bằng các chức năng khác, phù
hợp hơn, khi xã hội chuyển từ xã hội nông nghiệp sang xã hội công nghiệp.
trong thực tế đã có rất nhiều tranh luận và các khái niệm được đưa ra xung
quanh vấn đề phân loại chức năng của gia đình, chúng tôi xin đề cập tới 4
cách chia chức năng của gia đình như sau:
Chức năng tái sản xuất con người.
Chức năng kinh tế tổ chức đời sống gia đình.
Chức năng giáo dục.
Chức năng thõa mãn nhu cầu tâm lý tình cảm.
Do thời lượng bài học có hạn, chúng tôi xin trình bày thẳng vào trọng
tâm chức năng xã hội hóa để làm rõ sự biến đổi chức năng của gia đình việt
nam truyền thống khi xã hội việt nam chuyển từ xã hội công nghiệp sang xã

hội nông nghiệp.

3.1. Các khái niệm liên quan:
3.1.1.Gia đình:
Gia đình là một thiết chế xã hội đặc thù, một hình ảnh thu nhỏ cơ bản
nhất của xã hội, là một nhóm xã hội được gắn bó với nhau bởi quan hệ hôn
nhân và huyết thống. các thành viên trong gia đình gắn bó mật thiết với nhau
bởi tránh nhiệm và quyền lợi.

3.1.2. Gia đình Việt Nam truyền thống:
11


Trên con đường thành công không có dấu chân của kẻ lười biếng … ^^

Là hình thái gia đình gắn liền với xã hội nông thôn - nông nghiệp, nói
cách khác nó là con đẻ của xã hội nông nghiệp, ít biến đổi qua chuyên biến
lịch sử. ở Việt Nam hình thái gia đình này chiếm vị trí độc tôn và tồn tại cho
đến trước khi Việt Nam tiếp xúc với phương tây, tức là tiếp xúc với văn minh
đô thị và công nghiệp vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Là sản phẩm của
xã hội nông nghiệp trồng lúa nước mà tiêu biểu là ở đồng bằng Bắc Bộ.
Nông nghiệp trồng lúa nước trong điều kiện công cụ sản xuất thô sơ, lạc hậu,
phù hợp với những đơn vị sản xuất nhỏ, đó là gia đình hơn thế nữa, đó là loại
gia đình nhỏ.

3.1.3.Xã hội hóa (socialization):
Là 1 khái niệm, 1 phạm trù xã hội học, chỉ quá trình các cá thể tiếp
thu, học tập của nền văn hóa xã hội mà anh ta được sinh ra và sống tức là
lĩnh hội các kinh nghiệm xã hội, học những cái gì phải làm và những cái gì
không được làm, học ngôn ngữ, học các chuẩn mực, giá trị xã hội để thích

ứng được với xã hội.

3.1.4. Xã hội hóa gia đình:
Mỗi cá nhân từ khi sinh ra đến khi chết đi đều phải trải qua quá trình
xã hội hóa gia đình. Và xã hội hóa gia đình là một chức năng quan trọng
trong việt giáo dục và giúp cá nhân lĩnh hội các kinh nghiệm trong cuộc
sống.

3.1.5. Chức năng gia đình:
Chức năng gia đình là một trong những khái niệm then chốt, một
phạm trù quan trọng trong xã hội học gia đình, chức năng của gia đình chỉ
phương thước biểu hiện hoạt động sống của gia đình gắn liền với những nhu
cầu của xã hội đối với gia đình(với tư cánh là thiết chế xã hội) và nhu cầu
của cá nhân đối với gia đình( với tư cánh là thiết chế xã hội ) và nhu cầu của
cá nhân đối với gia đình.

3.2. Các chức năng xã hội cơ bản của gia đình gồm có 4 chức
năng chính:
3.2.1. Chức năng tái sản xuất ra con người:
Đây là chức năng riêng có của gia đình, nhằm duy trì nòi giống, cung
cấp sức lao động cho xã hội, cung cấp công dân mới, người lao động mới,
thế hệ mới đảm bảo sự phát triển liên tục và trường tồn của xã hội loài người.
Chức năng này đáp ứng nhu cầu của xã hội và nhu cầu tự nhiên của con
người. Nhưng khi thực hiện chức năng này cần dựa vào trình độ phát triển
kinh tế – xã hội của mỗi quốc gia và sự gia tăng dân số để có chính sách
phát triển nhân lực cho phù hợp. Đối với nước ta, chức năng sinh đẻ của gia
đình đang được thực hiện theo xu hướng hạn chế, vì trình độ phát triển kinh
tế nước ta còn thấp, dân số đông.
12



Trên con đường thành công không có dấu chân của kẻ lười biếng … ^^

3.2.2. Chức năng kinh tế và tổ chức đời sống gia đình:
Đây là chức năng cơ bản của gia đình, bao gồm hoạt động sx kinh
doanh và hoạt động tiêu dùng để thõa mãn các yêu cầu của mỗi thành viên
của gia đình. Sự tồn tại của kinh tế gia đình còn phát huy một cách có hiệu
quả mọi tiềm năng về vốn, sức lao động của từng gia đình, tăng thêm của cải
cho gia đình và cho xã hội.
Trong thời kỳ quá độ lên CNXH, với sự tồn tại của nền kinh tế nhiều
thành phần, các gia đình đã trở thành một đơn vị kinh tế tự chủ. Đảng và Nhà
nước đã đề ra các chính sách kinh tế – xã hội tạo mọi điều kiện cho cách gia
đình làm giàu chính đáng từ lao động của mình. Ở nước ta hiện nay, kinh tế
gia đình được đánh giá đúng với vai trò của nó. Đảng và Nhà nước có những
chính sách khuyến khích và bảo vệ kinh tế gia đình, vì vậy mà đời sồng của
gia đình và của xã hội được cải thiện đáng kể
Thực hiện chức năng kinh tế tốt sẽ tạo ra tiền đề và cuộc sống vật chất
cho tổ chức đời sống gia đình.
Việc tổ chức đời sống gia đình chình là việc sử dụng hợp lý các khoản
thu nhập của các thành viên và thời gian nhàn rỗi để tạo ra môi trường văn
hóa lành mạnh trong gia đình, đời sống vật chất của mỗi thành viên được
đảm bảo sẽ nâng cao sức khỏe của các thành viên đồng thời cũng duy trì sắc
thái, sở thích riêng của mỗi người.
Thực hiện tốt tổ chức đời sống gia đình không những đảm bảo hạnh
phúc gia đình, hạnh phúc từng cá nhân mà còn góp phần vào sự tiến bộ xã
hội.

3.2.3. Chức năng giáo dục:
Nội dung của giáo dục gia đình bao gồm cả tri thức, kinh nghiệm, đạo
đức, lối sống, nhân cách, thẩm mỹ … phương pháp giáo dục gia đình cũng

đa dạng, song chủ yếu bằng phương pháp nêu gương, thuyết phục về lối
sống, gia phong của gia đình truyền thống.
Chủ thể giáo dục gia đình chủ yếu là cha mẹ, ông bà đối với con cháu,
cho nên giáo dục gia đình con bao hàm cả tự giáo dục.

13


Trên con đường thành công không có dấu chân của kẻ lười biếng … ^^

Giáo dục gia đình là một bộ phận và sự quan hệ hỗ trợ, bổ sung cho
giáo dục nhà và xã hội, trong đó giáo dục gia đình đóng vai trò quan trọng
được coi là thành tố của nền giáo dục xã hội nói chung. Dù giáo dục xã hội
đóng vai trò ngày càng quan trọng, nhưng có những nội dung và phương
pháp giáo dục gia đình mang lại hiệu quả lớn không thể thay thế được.

3.2.4. Chức năng thõa mãn các nhu cầu tâm – sinh lý, tình
cảm.
Đây là chức năng có tính văn hóa – xã hội của gia đình. Chức năng này
kết hợp với cách chức năng khác tạo ra khả năng thực tế cho việc xây dựng
gia đình hạnh phúc.
Nhiều vấn đề phức tạp liên quan đến giới tính, tuổi tác, sự căng thẳng
mệt mỏi về thể xác và tâm hồn trong lao động và công tác … thì môi trường
gia đình là nơi giải quyết có hiệu quả nhất.
Trong gia đình, mọi thành viên đều có quyền và nghĩa vụ thực hiện các
chức năng trên, trong đó người phụ nữ có vai trò đặc biệt quan trọng, bởi họ
đảm nhận một số thiên chức không thể thay thế đươc. Vì vậy, việc giải
phóng phụ nữ được coi là mục tiêu quan trọng của cm xhcn, cần phải bắt đầu
từ gia đình.
Tóm lại: gia đình, thông qua việc thực hiện các chức năng vốn có của

mình, có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của xã hội. Các chức
năng này có quan hệ mật thiết với nhau, tác động lẫn nhau. Việc phân chia
chúng là tương đối. Cần tránh tư tưởng coi trọng chức năng này coi nhẹ chức
năng kia, hoặc tư tưởng hạ thấp chức năng gia đình. Mọi quan điểm tuyệt đối
hóa, đề cao quá hay phủ nhận, hạ thấp vai trò của gia đình đều là sai lầm.

14


Trên con đường thành công không có dấu chân của kẻ lười biếng … ^^

4. Vị thế và vai trò của người nông dân Việt Nam
trong xã hội hiện đại:
1.1.

Vị thế của người nông dân Việt Nam trong xã hội hiện
đại:

Người nông dân giữ vị trí là “chủ thể”, đây là sự khẳng định đúng đắn,
cần thiết, nhằm phát huy nhân tố con người, khơi dậy và phát huy mọi tiềm
năng của nông dân vào công cuộc xây dựng nông thôn cả về kinh tế, văn hóa
và xã hội đồng thời bảo đảm những quyền lợi chính đáng của họ.
Phát huy vai trò nông dân là thực hiện đồng bộ, có hệ thống các biện
pháp về kinh tế, chính trị, văn hoá, giáo dục, y tế, môi trường… nhằm khơi
dậy, sử dụng, phát triển trên tất cả các yếu tố cấu thành: số lượng, chất lượng,
cơ cấu đội ngũ nông dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng NTM hiện nay, góp phần
to lớn vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.

4.2.


Vai trò của người nông dân Việt Nam trong xã hội hiện

đại:
1, Chủ thể tích cực tham gia vào quá trình xây dựng quy hoạch và thực
hiện quy hoạch xây dựng nông thôn mới;
2, Chủ thể chủ động và sáng tạo trong xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã
hội ở nông thôn;
3, Chủ thể trực tiếp trong phát triển kinh tế và tổ chức sản xuất CNH- HĐH
nông nghiệp, nông thôn;
4, Chủ thể tích cực, sáng tạo trong xây dựng và gìn giữ đời sống văn hoá –
xã hội, môi trường ở nông thôn;
5, Là nhân tố góp phần quan trọng vào xây dựng hệ thống chính trị - xã hội
vững mạnh, bảo đảm an ninh trật tự xã hội ở cơ sở.
Xây dựng nông thôn mới là nhiệm vụ chiến lược, đang đặt ra nhiều vấn
đề cần tập trung nỗ lực của Nhà nước và nhân dân, giải quyết những vấn đề
cấp bách, đồng thời tạo ra tiền đề cho những giai đoạn tiếp theo.
Chính vì vậy, phát huy vai trò nông dân trong xây dựng nông thôn mới ở
nước ta hiện nay theo thường tập trung làm tốt một số vấn đề cơ bản sau:

15


Trên con đường thành công không có dấu chân của kẻ lười biếng … ^^

Thứ nhất là:
Đẩy mạnh CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn, tích cực xoá đói giảm
nghèo. Đây là vấn đề có ý nghĩa quyết định, do đó cần thực hiện rà soát, bổ
sung, điều chỉnh quy hoạch xây dựng NTM, quy hoạch sử dụng đất, quy
hoạch phát triển nông, lâm, ngư nghiệp theo hướng xây dựng nền nông
nghiệp toàn diện, hiện đại. Đồng thời phát triển mạnh công nghiệp và dịch vụ

ở nông thôn; tiếp tục đổi mới và tổ chức lại sản xuất nông, lâm nghiệp; tăng
cường áp dụng tiến bộ KH- CN và chuyển giao tiến bộ kỹ thuật, kết hợp có
hiệu quả giữa “4 nhà”; đẩy mạnh đầu tư và hỗ trợ tín dụng cho hoạt động sản
xuất nông nghiệp, đồng thời tiếp tục đẩy nhanh quá trình xây dựng, hoàn
thiện và phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội ở nông thôn, như: giao thông, thuỷ
lợi, điện, trường học, cơ sở vật chất văn hoá, chợ, bưu điện và nhà ở dân cư
nông thôn. Tiếp tục thực hiện tốt công cuộc xoá đói, giảm nghèo; tạo việc làm
nhằm ổn định đời sống cho nông dân.

Thứ hai là:
Đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở
ở nông thôn. Cần giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với
hệ thống chính trị và toàn xã hội trong quá trình xây dựng NTM. Nâng cao
trình độ của đội ngũ cán bộ, công chức địa phương. Tăng cường hiệu lực quản
lý điều hành của chính quyền cơ sở. Củng cố tổ chức, đổi mới phương thức
hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội ở nông thôn, nhất là tổ chức Hội
Nông dân. Tạo mọi điều kiện thuận lợi để nông dân phát huy vai trò chủ thể
của mình trong xây dựng NTM.

Thứ ba là:
Đổi mới hoàn thiện chính sách đối với nông dân, bảo đảm lợi ích, phát
huy dân chủ và mọi tiềm năng của nông dân trong xây dựng NTM. Thực hiện
có hiệu quả giữa chính sách kinh tế, chính sách xã hội, an sinh xã hội trong
quá trình phát triển nền kinh tế bền vững của tỉnh. Giải quyết tốt những bức
xúc trong nhân dân trong quá trình phát triển công nghiệp và đô thị hoá, bảo
đảm lợi ích cho người nông dân. Phát huy dân chủ ở cơ sở theo phương châm
“dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra và dân được hưởng”. Khơi dậy, sử
dụng và phát huy tốt mọi tiềm năng của nông dân, như: nguồn nhân lực tại
chỗ, ngành nghề đa dạng, kinh nghiệm trong sản xuất và sự gắn bó với quê
hương.


Thứ tư là:
Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo nghề, nâng cao
dân trí, tiến tới trí thức hoá đội ngũ cán bộ cơ sở. Nâng cao chất lượng đời
sống văn hoá - xã hội ở nông thôn văn mình, hiện đại. Đẩy mạnh công tác
16


Trên con đường thành công không có dấu chân của kẻ lười biếng … ^^

tuyên truyền, cổ động nhằm chuyển biến và nâng cao nhận thức trọng nông
dân về chương trình xây dựng NTM. Xây dựng NTM mang lại lợi ích thiết
thân cho người dân sống ở nông thôn. Từ đó lôi cuốn họ tham gia tích cực với
vai trò là chủ thể chân chính của quá trình này.
Tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo các bậc học,
nhất là giáo dục phổ thông nhằm nâng cao trình độ dân trí, trí thức hoá đội
ngũ cán bộ cơ sở ở nông thôn. Song trước hết là đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn
tay nghề cho nông dân để họ tự mình sản xuất, kinh doanh trên chính quê
hương mình, đặc biệt những hộ nông dân mất đất do phát triển công nghiệp
và đô thị hoá.
Xây dựng môi trường văn hoá, đội ngũ cán bộ văn hoá thông tin cơ sở,
các đội văn hoá, văn nghệ, thể thao quần chúng… thực hiện dân chủ hoá đời
sống tinh thần ở nông thôn. Nâng cao chất lượng và hiệu quả khám chữa bệnh
cho nhân dân, đồng thời bảo vệ môi trường sinh thái xanh - sạch - đẹp, hiện
đại ở nông thôn; giữ vững an ninh trật tự và an toàn xã hội.
Những giải pháp trên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, trong quá trình
thực hiện phải giải quyết đồng bộ và toàn diện nhằm khơi dậy và phát huy tốt
vai trò người nông dân trong công cuộc xây dựng NTM văn minh, hiện đại ở
nước ta hiện nay giành thắng lợi.


17


Trên con đường thành công không có dấu chân của kẻ lười biếng … ^^

5. Văn minh đô thị và trách nhiệm của sinh viên Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay:
5.1. Văn minh đô thị có thể giải thích theo khía cạnh sau:
Xã hội đô thị là kết quả tất yếu của quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá. Vì vậy, văn minh đô thị - biểu hiện tập trung của văn hóa đô thị
vừa nói lên trình độ phát triển cao về kinh tế - xã hội của đô thị, vừa là một
nguồn tài nguyên, vừa như tác nhân, như bộ phận điều chỉnh, đảm bảo cho sự
phát triển bền vững của đô thị.
Với những giá trị vĩnh hằng của Chân – Thiện – Mỹ, văn minh đô thị tác
động tới con người một cách tự nhiên, hình thành nên những phẩm chất văn
hoá mới, điều chỉnh hành vi của con người trong quá trình công nghiệp hoá đô thị hoá. Tốc độ đô thị hoá càng nhanh, xã hội vận động càng gấp gáp, đời
sống đô thị càng cần đến văn minh đô thị như con người cần một bầu không
khí trong lành và ấm áp nghĩa tình.
Văn minh đô thị đã có những chuyển biến tích cực, nhanh chóng trong
những năm gần đây nhưng nhìn chung các đô thị ở nước ta vẫn còn yếu kém
về cơ sở vật chất, kỹ thuật, nhất là cơ sở hạ tầng lẫn lối sống, nếp sống của
con người đô thị. Cụ thể như tỷ lệ đất dành cho giao thông đô thị chỉ đạt
khoảng 13% đất xây dựng đô thị (trong khi yêu cầu là 20-25%), hay tỷ lệ đất
dành cho giao thông tĩnh chỉ đạt dưới 1% đất xây dựng đô thị (yêu cầu từ 3
đến 3,5%). Bên cạnh đó, tăng trưởng kinh tế chưa cân đối với sự phát triển đô
thị và tăng trưởng dân số; công tác lập quy hoạch, phát triển đô thị có tầm
nhìn dài hạn, bền vững còn nhiều hạn chế; phát triển đô thị chưa phản ánh rõ
nét bản sắc văn hóa, đặc trưng của từng vùng, miền, các đặc thù sinh thái
nhân văn trong quy hoạch và kiến trúc đô thị. Đời sống đô thị vẫn tồn tại các
vấn đề bức xúc kéo dài mà không giải quyết được như: Ùn tắc giao thông, ô

nhiễm môi trường, tệ nạn xã hội…
Văn minh đô thị không phải là việc làm của một hay hai năm, không phải
việc có thể làm theo phong trào, mà là cả một quá trình tích lũy, hình thành
giá trị xã hội đô thị của quốc gia dân tộc với những chuẩn mực đạo đức
18


Trên con đường thành công không có dấu chân của kẻ lười biếng … ^^

chung, những quy tắc sinh hoạt xã hội, trật tự công cộng và chuẩn tắc giao
thông đô thị.
Để có được văn minh đô thị chúng ta cần phải có giải pháp văn hóa, tập
trung vào những vấn đề sau:
- Thứ nhất, giáo dục ý thức văn minh đô thị. Trong giáo dục ý thức văn
minh đô thị cho mọi cư dân, đặc biệt chú trọng đến công tác tuyên truyền,
giáo dục cho thế hệ trẻ, nhất là đối tượng học sinh, sinh viên. Có thể lồng
ghép chương trình giáo dục “Tác phong văn minh đô thị Việt Nam” vào
chương trình giáo dục công dân các cấp trường học, vào các hoạt động ngoại
khóa, bao gồm cả lý thuyết lẫn thực hành, ngay từ tiểu học. Đây là tiền đề có
ý nghĩa phương pháp luận và chúng ta cũng đã đề cập tới nhiều lần, song giáo
dục như thế nào để đạt được hiệu quả như mong muốn, cần tham khảo cách
làm của các nước tiên tiến trên thế giới và trong khu vực.
- Thứ hai, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật. Hiện tại chúng ta đã
có nhiều những quy định, luật lệ về nếp sống văn minh đô thị với nội dung
phong phú, kế thừa được kinh nghiệm của các nước phát triển đã đô thị hóa
nhiều thế kỷ.
- Thứ ba, cán bộ làm tấm gương văn minh đô thị. Muốn dân tôn trọng
pháp luật thì trước hết cán bộ phải hành xử theo hiến pháp và pháp luật, phải
tạo điều kiện cho người dân chấp hành pháp luật và chính mình phải sống và
làm việc theo hiến pháp và pháp luật.

Năm 2010, Luật Quy hoạch đô thị đã được Quốc hội thông qua và đã có
hiệu lực thi hành. Đây chính là cơ sở để văn minh đô thị hình thành và phát
triển. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
hiện nay, người cán bộ, nhất là cán bộ quản lý đô thị càng cần phải là một tấm
gương “tinh thần luật pháp”, đề cao dân chủ, kiên quyết không để lợi ích cá
nhân hay lợi ích nhóm có hành vi lách luật xâm hại đến văn minh đô thị.
Văn minh đô thị, thực chất nhằm hướng đến xây dựng môi trường văn hóa
lành mạnh, thiết lập các mối quan hệ ứng xử hài hòa, bền vững giữa con
người với con người, con người với tự nhiên trong quá trình đô thị hóa. Văn
minh đô thị hoàn thiện các chuẩn mực giá trị của con người Việt Nam, tạo
điều kiện để phát triển về nhân cách, đạo đức, trí tuệ, năng lực sáng tạo, thể
chất, tâm hồn, trách nhiệm xã hội, nghĩa vụ công dân, đề cao tinh thần yêu
nước, tự hào dân tộc, lương tâm, trách nhiệm của mỗi người với bản thân
mình, với gia đình, cộng đồng xã hội và đất nước.

19


Trên con đường thành công không có dấu chân của kẻ lười biếng … ^^

5.2. Trách nhiệm của sinh viên Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay:
Bước vào thời kỳ chiến lược mới trong bối cảnh thế giới đang thay đổi rất
nhanh, phức tạp và khó lường, Đất nước ta đứng trước nhiều khó khăn, thử
thách. Toàn cầu hóa kinh tế tiếp tục phát triển về quy mô, mức độ và hình
thức thể hiện những tác động tích cực và tiêu cực, cơ hội và thách thức đan
xen, phức tạp. Cùng với sự phát triển của khoa học và công nghệ đã làm gia
tăng các tội phạm có yếu tố nước ngoài, tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm
công nghệ cao và làm phát sinh một số phương thức, thủ đoạn mới. Những
vấn đề trên đặt ra nhiều yêu cầu mới trong công cuộc đấu tranh bảo vệ Tổ

quốc đòi hỏi mỗi người dân đặc biệt là thế hệ trẻ trong đó có sinh viên cần
nhận thức rõ trách nhiệm của mình đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
Là lực lượng tri thức trẻ, năng động, sáng tạo, là trụ cột của nước nhà, sinh
viên có vai trò to lớn đối với sự phát triển của đất nước. Thế nhưng hiện nay,
nhiều sinh viên không nhận thức được điều đó. Vì thiếu chín chắn, bồng bột
trong suy nghĩ và hành động, đặc biệt trong tiếp thu, học hỏi cái mới nên dễ
dàng tiếp nhận thiếu chọn lọc văn hóa không phù hợp với chuẩn mực xã hội,
với truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Đi ra đường thấy lũ càn quét không ai
dám ngăn cản, thấy bạn bị đánh đập thì đứng ngoài cỗ vũ, quay phim,… Lối
sống thực dụng, ích kỉ, thờ ơ, vô cảm, vô trách nhiệm, thiếu nhiệt tình và
niềm tin đang là một căn bệnh của thế giới hiện đại.
Một thực trạng đáng báo động, theo thống kê của cơ quan Công an, mỗi
năm ở các trường đại học ít nhất có hàng chục vụ sinh viên phạm pháp hình
sự với tính chất, mức độ ngày càng nghiêm trọng. Nhiều tệ nạn như lô đề,
nghiện ngập, rượu chè, sống thử… đã chui vào tận ngõ ngách nơi có sinh viên
thuê trọ. Có nhiều sinh viên sau vài năm học đã là “đệ tử lưu linh”. Tiền đóng
học phí rót hết vào… rượu. Có sinh viên học đến 7 năm trong trường mà chưa
tốt nghiệp vì vi phạm về đạo đức và học tập,…
Bên cạnh đó, một số sinh viên mới ra trường, chưa có việc làm dễ bị lôi
kéo, lợi dụng tham gia các tổ chức phản động, tuyên truyền chống phá Nhà
nước. Một số do yếu kém về nhận thức chính trị hoặc lập trường tư tưởng
không vững vàng nên dễ bị các thế lực thù địch lợi dụng kích động, mua
chuộc, dụ dỗ tham gia biểu tình, gây rối trật tự công cộng. Bề ngoài các cuộc
biểu tình có hình thức ủng hộ những vấn đề chính trị của Đất nước như vấn đề
biển Đông, vấn đề Dân tộc, tôn giáo,… nhưng thực chất các thế lực thù địch
lợi dụng để kích động gây rối trật tự, chống phá chính quyền./.

20




×