Tải bản đầy đủ (.doc) (67 trang)

Thực trạng công tác xây dựng nông thôn mới của huyện đảo cô tô, tỉnh quảng ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (639.68 KB, 67 trang )

LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên cho phép tôi gửi lời cảm ơn sâu sắc tới toàn thể các thầy, cô
giảng viên của Trường Đại học Nội vụ Hà Nội, đặc biệt là các thầy, cô giảng
viên Khoa Tổ chức và Quản lý nhân lực đã dìu dắt và trang bị cho tôi những
kiến thức cần thiết, để từ đó tôi có thể vận dụng vào thực tiễn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của giáo viên hướng dẫn
PGS.TS.Nguyễn Minh Phương, người thầy đã giúp đỡ bản thân tôi rất nhiều
trong quá trình làm đề tài.
Trong quá trình thực hiện đề tài, tôi còn nhận được sự giúp đỡ của các cô
chú tại địa điểm thực tập, tôi xin chân thành cảm ơn bạn bè và gia đình đã tạo
điều kiện mọi mặt để tôi hoàn thành nghiên cứu này.
Bài khóa luận dưới đây của tôi không tránh khỏi những thiếu sót do kiến
thức và thời gian có hạn, tôi rất mong nhận được sự giúp đỡ, đánh giá và đóng
góp của quý thầy cô để bài khóa luận của tôi có thể hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Cô Tô, ngày 24 tháng 04 năm 2016
Sinh viên

Nguyễn Thị Phương


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CNH - HĐH
2. CN,TTCN, XD
3. GTVT
4. HĐND
5. KT - XH
6. NTM
7. UBND
8. TMDV, DL
9. XHCN


10.VH - TT - DL
1.

Công nghiệp hóa - hiện đại hóa
Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xây dựng
Giao thông vận tải
Hội đồng nhân dân
Kinh tế - xã hội
Nông thôn mới
Ủy ban nhân dân
Thương mại dịch vụ, du lịch
Xã hội chủ nghĩa
Văn hóa - thể thao - du lịch


DANH MỤC CÁC BẢNG

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ở Việt Nam, nông thôn có vai trò rất quan trọng trong suốt quá trình xây
dựng và phát triển đất nước. Nông thôn đã đi trước mở đường trong quá trình
đổi mới, tạo điều kiện để đất nước vươn lên. Xây dựng NTM là một mục tiêu
quan trọng của Đảng Cộng sản Việt Nam về nông nghiệp, nông dân và nông
thôn, được xác định trong Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 5/8/2008 của Hội
nghị Trung ương 7 (khóa X). Để thực hiện nhiệm vụ mà Nghị Quyết 26NQ/TW đề ra, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 491/QĐ-TTg
ngày 16/4/2009 ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về NTM và Quyết định
800/QĐ-TTg ngày 4/6/2010 phê duyệt Chương trình Mục tiêu Quốc gia về

xây dựng NTM 2010 - 2020.
Cô Tô là huyện đảo nằm ở phía đông tỉnh Quảng Ninh, cách đất liền 100
km về phía đông bắc Vịnh Bắc Bộ. Huyện gồm 3 đơn vị hành chính là 2 xã và
1 thị trấn trên 50 đảo lớn nhỏ, trong đó có 3 đảo lớn: Đảo Cô Tô, đảo Thanh
Lân và đảo Trần. Thực hiện Quyết định 800/QĐ-TTg ngày 4/6/2010 về việc
phê duyệt Chương trình Mục tiêu Quốc gia về xây dựng NTM giai đoạn 2010
- 2020. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh đã ban hành Nghị quyết 01NQ/TW ngày 27/10/2010 về xây dựng NTM tỉnh Quảng Ninh đến năm 2020.
Nhờ đó huyện Cô Tô đã tiếp nhận và triển khai chương trình xây dựng NTM
một cách đồng bộ, có sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị và sự tham gia
của người dân, giúp người dân nhận thức rõ nhiệm vụ và quyền lợi của mình
trong xây dựng NTM. Sau 5 năm thực hiện (từ năm 2010) huyện đã có nhiều
thay đổi tích cực. Để đạt được các tiêu chí trong bộ tiêu chí NTM nhiều dự án
đã được hoàn thành như: Hệ thống lưới điện quốc gia, xây dựng trường mầm
non, tu sửa lại trường tiểu học, xây dựng cảng biển, hồ chứa nước ngọt, làm
đường bê tông thôn xóm, bê tông hóa kênh mương nội đồng, tu bổ lại chợ

1


cũng như trung tâm y tế huyện......
Để đánh giá chính xác thực trạng xây dựng NTM ở huyện, chỉ rõ các
thành tựu đạt được, những khó khăn, vướng mắc và rút ra những bài học kinh
nghiệm từ đó đề xuất các giải pháp thúc đẩy quá trình xây dựng NTM ở
huyện Đảo Cô Tô trong thời gian tới, tôi đã chọn đề tài: “Thực trạng công
tác xây dựng nông thôn mới của huyện Đảo Cô Tô, tỉnh Quảng Ninh” làm
khóa luận của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu
Liên quan đến đề tài xây dựng NTM đã có nhiều công trình khoa học,
sách tham khảo, các luận văn, luận án, các bài báo, tạp chí đề cập đến nhiều
góc độ khác nhau, điển hình là:

Cù Ngọc Hường (2006) Lý luận và thực tiễn xây dựng NTM xã hội chủ
nghĩa; Đặng Kim Sơn (2008) Nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam,
Hôm nay và Ngày mai; Phạm Ngọc Dũng (2011) Công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nông nghiệp, nông thôn từ lý luận đến thực tiễn ở Việt Nam hiện nay;
Nguyễn Ngọc Luân (2011) Nghiên cứu kinh nghiệm huy động nguồn lực
cộng đồng trong xây dựng NTM nhằm đề xuất cơ chế, chính sách cho xây
dựng NTM; Ban Chỉ đạo TW xây dựng NTM (2012). Kỷ yếu tổng kết
chương trình xây dựng thí điểm mô hình NTM (2009 - 2011).
Vũ Văn Phúc, trong cuốn sách "Xây dựng NTM những vấn đề lý luận và
thực tiễn" [16] với nhiều bài viết của các nhà khoa học, lãnh đạo các cơ quan
trung ương, các địa phương, các ngành, các cấp về xây dựng NTM, với những
nội dung như: Những vấn đề lý luận chung và kinh nghiệm quốc tế về xây
dựng NTM, đặc biệt thực tiễn xây dựng NTM ở Việt Nam được trình bày khá
phong phú về thực tiễn triển khai xây dựng NTM ở một số tỉnh: Lào Cai,
Nghệ An, Phú Thọ, Ninh Bình, Thái Nguyên, Lai Châu...
Hồ Xuân Hùng: “Xây dựng NTM là sự nghiệp cách mạng lâu dài của

2


Đảng và nhân dân ta”[13] đã nêu rõ nội dung nông thôn và NTM được thể
hiện ở ba chức năng: Chức năng về sản xuất nông nghiệp; gìn giữ bản sắc
truyền thống văn hóa dân tộc và bảo đảm môi trường sinh thái. Tác giả cũng
nhấn mạnh một số biện pháp và điều kiện nhằm thực hiện 19 tiêu chí Quốc
gia về xây dựng NTM trong giai đoạn hiện nay.
Phan Xuân Sơn và Nguyễn Cảnh với bài viết: “Xây dựng mô hình NTM
ở nước ta hiện nay” [19] phân tích chủ yếu ba vấn đề: Thứ nhất, nông thôn
Việt Nam trước yêu cầu mới. Thứ hai, hình dung ban đầu về những tiêu chí
của mô hình NTM. Thứ ba, về những nhân tố chính của mô hình NTM như:
Kinh tế, chính trị, văn hóa, con người, môi trường... Các nội dung trên trong

cấu trúc mô hình NTM có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Nhà nước đóng vai
trò chỉ đạo, tổ chức điều hành quá trình hoạch định và thực thi chính sách, xây
dựng đề án, cơ chế, tạo hành lang pháp lý, hỗ trợ vốn, kỹ thuật, nguồn lực, tạo
điều kiện, động viên tinh thần. Nhân dân tự nguyện tham gia, chủ động trong
thực thi và hoạch định chính sách.
Các công trình nghiên cứu trực tiếp về vấn đề NTM tuy không nhiều
nhưng đã đề cập đến một số khía cạnh cơ bản như: Khái niệm, đặc trưng của
NTM; kinh nghiệm xây dựng NTM ở một số nước châu Á; kinh nghiệm thực
tiễn trong triển khai xây dựng NTM ở một số tỉnh trong thời gian gần đây về
các mặt: Thành công, hạn chế, những khó khăn vướng mắc trong việc triển
khai thực hiện các tiêu chí xây dựng NTM tại từng địa phương. Đây là những
tài liệu tham khảo hữu ích khi phân tích cơ sở lý luận, thực tiễn về xây dựng
NTM.
Mặc dù đề cập đến những khía cạnh khác nhau của vấn đề NTM sau khi
Nghị quyết số 26-NQ/TW được ban hành, nhưng trên thực tế các kết quả
nghiên cứu về vấn đề này còn khá khiêm tốn, trong khi đó từ lý luận đến thực
tiễn triển khai xây dựng NTM đang đặt ra nhiều vấn đề cần làm sáng tỏ.

3


Trong giới hạn, phạm vi nghiên cứu, khóa luận tiếp tục làm rõ những vấn đề
đặt ra như sau: Thứ nhất, phân tích cơ sở lý luận - pháp lý triển khai xây dựng
NTM ở địa phương cấp huyện. Thứ hai, đánh giá những kết quả đạt được, hạn
chế, vướng mắc và nguyên nhân trong quá trình triển khai thực hiện xây dựng
NTM ở huyện Đảo Cô Tô. Thứ ba, phương hướng và giải pháp đẩy mạnh việc
thực hiện xây dựng NTM ở huyện Đảo Cô Tô từ nay đến năm 2020.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Trên cơ sở đánh giá thực trạng triển khai xây dựng NTM trên địa bàn
huyện Đảo Cô Tô, tỉnh Quảng Ninh. Chỉ ra những khó khăn, thuận lợi, cơ hội

và thách thức, khóa luận đề xuất các giải pháp đẩy mạnh quá trình xây dựng
NTM toàn diện và hiệu quả.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu trên, khóa luận tập trung giải quyết các nhiệm vụ
sau:
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận và pháp lý liên quan đến xây dựng NTM ở
nước ta hiện nay.
- Phân tích các điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến quá
trình xây dựng NTM ở huyện Đảo Cô Tô.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng xây dựng NTM ở huyện Đảo Cô Tô giai
đoạn 2010 - 2015.
- Đề xuất một số giải pháp đẩy mạnh xây dựng NTM ở huyện Đảo Cô
Tô giai đoạn 2016 - 2020.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu những vấn đề có tính lý luận và thực
tiễn về xây dựng NTM.
Phạm vi nghiên cứu:
- Phạm vi không gian: Nghiên cứu xây dựng NTM trên địa bàn huyện

4


Đảo Cô Tô, tỉnh Quảng Ninh.
- Phạm vi thời gian: Tập trung đánh giá thực trạng xây dựng NTM ở
huyện Đảo Cô Tô từ năm 2010 - 2015 và đề xuất giải pháp đẩy mạnh xây
dựng NTM ở huyện Đảo Cô Tô giai đoạn 2016 - 2020.
6. Giả thuyết nghiên cứu
- Việc triển khai tổ chức thực hiện Chương trình xây dựng NTM trên địa
bàn huyện Đảo Cô Tô, tỉnh Quảng Ninh đã huy động được sức mạnh tổng
hợp của cả hệ thống chính trị và sự tham gia tích cực của người dân ở địa

phương hay chưa?
- Có thể đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả thực hiện Chương trình xây
dựng NTM trên địa bàn huyện Đảo Cô Tô, tỉnh Quảng Ninh bằng những giải
pháp nào?
7. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử: Nhằm xem xét
các sự vật và hiện tượng, sự vận động và biến đổi của nó trong mối quan hệ
chặt chẽ với nhau, từ đó tìm ra bản chất các sự vật hiện tượng trong điều kiện
cụ thể tại địa bàn nghiên cứu.
Phương pháp điều tra, thu thập số liệu thứ cấp: Thu thập các số liệu đã
được công bố liên quan đến vấn đề nghiên cứu tại huyện Đảo Cô Tô, tỉnh
Quảng Ninh như: Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội; báo cáo tổng kết hàng
năm của UBND huyện; Các báo cáo liên quan đến việc thực hiện xây dựng
NTM của các phòng thuộc UBND huyện như: Lao động - Thương binh và Xã
hội, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Văn hóa, Giáo dục, Y tế, Chi cục
Thống kê,…; Báo cáo của 2 xã về kết quả thực hiện xây dựng NTM.
Phương pháp điều tra: Phỏng vấn, tham vấn cán bộ, công chức và người
dân nhằm bổ sung và chính xác hóa các thông tin thu thập được.
Phương pháp xử lý số liệu: Bằng phần mềm Excel để xử lý các số liệu đã

5


thu thập được.
Phương pháp thống kê so sánh: So sánh, đối chiếu giữa các năm.
8. Kết cấu khóa luận
Ngoài lời cảm ơn, danh mục các từ viết tắt, mục lục, phần mở đầu, kết
luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của khóa luận kết cấu thành 3
chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về xây dựng nông thôn mới ở nước ta hiện

nay
Chương 2: Những kết quả và hạn chế trong xây dựng nông thôn mới
ở huyện Đảo Cô Tô hiện nay
Chương 3: Các giải pháp đẩy mạnh xây dựng nông thôn mới ở
huyện Đảo Cô Tô, tỉnh Quảng Ninh.

6


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở
NƯỚC TA HIỆN NAY
1.1. Khái niệm nông thôn và xây dựng nông thôn mới
1.1.1. Khái niệm nông thôn
Nông thôn (Theo Quyết định số 800/QĐ-TTg ngày 4/6/2010 của Thủ
tướng Chính phủ) là phần lãnh thổ không thuộc nội thành, nội thị các thành
phố, thị xã, thị trấn được quản lý bởi cấp hành chính cơ sở là UBND xã [24].
Nông dân là những người lao động cư trú ở nông thôn, tham gia sản
xuất nông nghiệp. Nông dân sống chủ yếu bằng ruộng vườn, sau đó đến các
ngành nghề mà tư liệu sản xuất chính là đất đai. Tùy từng quốc gia, từng thời
kì lịch sử, người nông dân có quyền sở hữu khác nhau về ruộng đất. Họ hình
thành nên giai cấp nông dân, có vị trí, vai trò nhất định trong xã hội.
Đặc trưng cơ bản của nông thôn
Hệ thống xã hội nông thôn được xác định theo ba đặc trưng cơ bản sau:
- Về các nhóm giai cấp, tầng lớp xã hội: Ở nông thôn, đặc trưng chủ yếu
ở đây là nông dân, ngoài ra ở từng xã hội còn có các giai cấp, tầng lớp như địa
chủ, phú nông, nhóm thợ thủ công nghiệp, buôn bán nhỏ…..
- Về lĩnh vực sản xuất: Đặc trưng rõ nét nhất của nông thôn là sản xuất
nông nghiệp; ngoài ra, còn có thể kể đến cấu trúc phi nông nghiệp bao gồm:
Dịch vụ, buôn bán, tiểu thủ công nghiệp mà có vai trò rất lớn đối với lĩnh vực
sản xuất nông nghiệp.

- Về lối sống, văn hóa của từng loại cộng đồng: Nông thôn thường rất
đặc trưng với lối sống văn hóa của cộng đồng làng xã. Đặc trưng này bao gồm
rất nhiều khía cạnh như từ hệ thống dịch vụ, sự giao tiếp, đời sống tinh thần,
phong tục, tập quán, hệ giá trị, chuẩn mực cho hành vi,... đến khía cạnh dân
số, lối sống gia đình, sinh hoạt kinh tế,... ngay cả đến hệ thống đường xá,
năng lượng, nhà ở,...

7


Đó là những đặc trưng cơ bản nhất về mặt xã hội học để nhận diện nông
thôn. Chính đặc trưng thứ ba đã tạo ra bản sắc riêng, diện mạo riêng cho hệ
thống xã hội nông thôn.
1.1.2. Xây dựng nông thôn mới
Theo tinh thần Nghị quyết 26-NQ/TW của Trung ương, NTM là khu vực
nông thôn có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội từng bước hiện đại; cơ cấu kinh
tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển
nhanh công nghiệp, dịch vụ; gắn phát triển nông thôn với đô thị theo quy
hoạch; xã hội nông thôn dân chủ, ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc; môi
trường sinh thái được bảo vệ; an ninh trật tự được giữ vững; đời sống vật chất
và tinh thần của người dân ngày càng được nâng cao; theo định hướng xã hội
chủ nghĩa [4].
Với tinh thần đó, NTM có năm nội dung cơ bản. Thứ nhất là nông thôn
có làng xã văn minh, sạch đẹp, hạ tầng hiện đại. Hai là sản xuất bền vững,
theo hướng hàng hóa. Ba là đời sống vật chất và tinh thần của người dân ngày
càng được nâng cao. Bốn là bản sắc văn hóa dân tộc được giữ gìn và phát
triển. Năm là xã hội nông thôn được quản lý tốt và dân chủ.
Để xây dựng nông thôn với năm nội dung đó, Thủ tướng Chính phủ đã
ký Quyết định số 491/QĐ-TTg ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về NTM bao
gồm 19 tiêu chí [22].

Sự khác biệt giữa xây dựng nông thôn trước đây với xây dựng nông
thôn mới
Có thể nói, xây dựng nông thôn cũng đã có từ lâu tại Việt Nam. Trước
đây, có thời điểm chúng ta xây dựng mô hình nông thôn ở cấp huyện, cấp
thôn, nay chúng ta xây dựng NTM ở cấp xã. Sự khác biệt giữa xây dựng nông
thôn trước đây với xây dựng NTM chính là ở những điểm sau:
Thứ nhất, xây dựng NTM là xây dựng nông thôn theo tiêu chí chung cả

8


nước được định trước.
Thứ hai, xây dựng nông thôn địa bàn cấp xã và trong phạm vi cả nước,
không thí điểm, nơi làm nơi không, 9111 xã cùng làm.
Thứ ba, cộng đồng dân cư là chủ thể của xây dựng NTM, không phải ai
làm hộ, người nông dân tự xây dựng.
Thứ tư, đây là một chương trình khung, bao gồm 11 chương trình mục
tiêu quốc gia và 13 chương trình có tính chất mục tiêu đang diễn ra tại nông
thôn.
- Mục tiêu xây dựng nông thôn mới
+ Mục tiêu tổng quát
Không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của dân cư nông
thôn, hài hoà giữa các vùng, tạo sự chuyển biến nhanh hơn ở các vùng còn
nhiều khó khăn; nông dân được đào tạo có trình độ sản xuất ngang bằng với
các nước tiên tiến trong khu vực và đủ bản lĩnh chính trị, đóng vai trò làm chủ
NTM.
Xây dựng nền nông nghiệp phát triển toàn diện theo hướng hiện đại, bền
vững, sản xuất hàng hoá lớn, có năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng
cạnh tranh cao, đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia cả trước mắt
và lâu dài.

Xây dựng NTM có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại; cơ cấu kinh
tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển
nhanh công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn ổn định,
giàu bản sắc văn hoá dân tộc; dân trí được nâng cao, môi trường sinh thái
được bảo vệ; hệ thống chính trị ở nông thôn dưới sự lãnh đạo của Đảng được
tăng cường. Xây dựng giai cấp nông dân, củng cố liên minh công nhân - nông
dân - trí thức vững mạnh, tạo nền tảng thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và
chính trị vững chắc cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và

9


bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
+ Mục tiêu đến năm 2020
Tốc độ tăng trưởng nông, lâm, thuỷ sản đạt 3,5 - 4%/năm; sử dựng đất
nông nghiệp tiết kiệm và hiệu quả; duy trì diện tích đất lúa đảm bảo vững
chắc an ninh lương thực quốc gia trước mắt và lâu dài. Phát triển nông nghiệp
kết hợp với phát triển công nghiệp, dịch vụ và ngành nghề nông thôn, giải
quyết cơ bản việc làm, nâng cao thu nhập của dân cư nông thôn gấp trên 2,5
lần so với hiện nay.
Lao động nông nghiệp còn khoảng 30% lao động xã hội, tỉ lệ lao động
nông thôn qua đào tạo đạt trên 50%; số xã đạt tiêu chuẩn NTM khoảng 50%.
Phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn, trước hết là hệ
thống thuỷ lợi đảm bảo tưới tiêu chủ động cho toàn bộ diện tích đất lúa 2 vụ,
mở rộng diện tích tưới cho rau màu, cây công nghiệp, cấp thoát nước chủ
động cho diện tích nuôi trồng thủy sản, làm muối; đảm bảo giao thông thông
suốt 4 mùa tới hầu hết các xã và cơ bản có đường ô tô tới các thôn, bản; xây
dựng cảng cá, khu neo đậu tàu thuyền và hạ tầng nghề cá; cấp điện sinh hoạt
cho hầu hết dân cư, các cơ sở công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn; đảm bảo
cơ bản điều kiện học tập chữa bệnh, sinh hoạt văn hoá, thể dục thể thao ở hầu

hết các vùng nông thôn tiến gần tới mức các đô thị trung bình.
Nâng cao chất lượng cuộc sống của dân cư nông thôn; thực hiện có hiệu
quả, bền vững công cuộc xoá đói, giảm nghèo; nâng cao trình độ giác ngộ và
vị thế chính trị của giai cấp nông dân, tạo điều kiện để nông dân tham gia
đóng góp và hưởng lợi nhiều hơn trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước.
Nâng cao năng lực phòng chống, giảm nhẹ thiên tai, hoàn chỉnh hệ thống
đê sông, đê biển và rừng phòng hộ ven biển, cơ sở hạ tầng giao thông, thuỷ
lợi, cụm dân cư đáp ứng yêu cầu phòng chống bão, lũ, ngăn mặn và chống

10


nước biển dâng; tạo điều kiện sống an toàn cho nhân dân đồng bằng sông Cửu
Long, miền Trung và các vùng thường xuyên bị bão, lũ, thiên tai; chủ động
triển khai một bước các biện pháp thích ứng và đối phó với biến đổi khí hậu
toàn cầu. Ngăn chặn, xử lý tình trạng ô nhiễm môi trường, từng bước nâng
cao chất lượng môi trường nông thôn.
- Chủ thể xây dựng nông thôn mới
Có người cho rằng chủ thể xây dựng nông thôn phải là chính quyền. Tuy
nhiên, trên thực tế, người nông dân mới thực sự là chủ thể xây dựng nông
thôn. Đó không phải là do nhà nước không có đủ tiềm lực kinh tế để đóng vai
trò chủ thể này, mà cho dù tiềm lực kinh tế của nhà nước có mạnh đi chăng
nữa thì cũng không thể thiếu sự tham gia đóng góp tích cực của chính tầng
lớp nông dân. Hiển nhiên nói người nông dân ở đây không phải chỉ đơn thuần
là cá thể nông dân, mà phải được hiểu là các tổ chức nông dân.
Trong công cuộc xây dựng NTM, người nông dân phải tham gia từ khâu
quy hoạch, đồng thời góp công, góp của và phần lớn trực tiếp lao động sản
xuất trong quá trình làm ra của cải vật chất, giữ gì bản sắc văn hóa dân tộc,
đồng thời cũng là người hưởng lợi từ thành quả của NTM. Chính vì vậy, nông

dân là chủ thể xây dựng NTM là yếu tố vừa đảm bảo cho sự nghiệp xây dựng
NTM thành công, vừa đảm bảo phát huy được vai trò tích cực của nông dân.
- Nguyên tắc xây dựng nông thôn mới
Điều 2 Thông tư liên tịch số 26/2011/TTLT-BNNPTNT-BKHĐT-BTC
ngày 13 tháng 4 năm 2011 của Bộ Nông nghiệp Phát triển nông thôn, Bộ Kế
hoạch đầu tư, Bộ Tài chính hướng dẫn một số nội dung thực hiện Quyết định
800/QĐ-TTg ngày 04 tháng 6 năm 2010 của Thủ tướng Chính phủ về phê
duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng NTM giai đoạn 2010 - 2020
đã đề ra 6 nguyên tắc trong xây dựng NTM như sau:
Các nội dung, hoạt động của Chương trình xây dựng NTM phải hướng

11


tới mục tiêu thực hiện 19 tiêu chí của Bộ tiêu chí quốc gia về NTM ban hành
tại Quyết định số 491/QĐ-TTg ngày 16 tháng 4 năm 2009 của Thủ tướng
Chính phủ[22].
Phát huy vai trò chủ thể của cộng đồng dân cư địa phương là chính, Nhà
nước đóng vai trò định hướng, ban hành các tiêu chí, quy chuẩn, chính sách,
cơ chế hỗ trợ, đào tạo cán bộ và hướng dẫn thực hiện. Các hoạt động cụ thể
do chính cộng đồng người dân ở thôn, xã bàn bạc dân chủ để quyết định và tổ
chức thực hiện.
Kế thừa và lồng ghép các chương trình mục tiêu quốc gia, chương trình
hỗ trợ có mục tiêu, các chương trình, dự án khác đang triển khai trên địa bàn
nông thôn.
Thực hiện Chương trình xây dựng NTM phải gắn với kế hoạch phát triển
kinh tế xã hội của địa phương, có quy hoạch và cơ chế đảm bảo thực hiện các
quy hoạch xây dựng NTM đã được cấp có thẩm quyền xây dựng.
Công khai, minh bạch về quản lý, sử dụng các nguồn lực; tăng cường
phân cấp, trao quyền cho cấp xã quản lý và tổ chức thực hiện các công trình,

dự án của Chương trình xây dựng NTM; phát huy vai trò làm chủ của người
dân và cộng đồng, thực hiện dân chủ cơ sở trong quá trình lập kế hoạch, tổ
chức thực hiện và giám sát đánh giá.
Xây dựng NTM là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội; cấp
ủy đảng, chính quyền đóng vai trò chỉ đạo, điều hành quá trình xây dựng quy
hoạch, đề án, kế hoạch, và tổ chức thực hiện. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức
chính trị, xã hội vận động mọi tầng lớp nhân dân phát huy vai trò chủ thể
trong xây dựng NTM.
- Tiêu chí xây dựng nông thôn mới
Căn cứ Quyết định số 491/QĐ-TTg ngày 16/4/2009 của Thủ tướng
Chính phủ về việc ban hành Bộ tiêu chí Quốc gia về NTM.

12


Căn cứ Thông tư số 54/2009/TT-BNNPTNT ngày 21/8/2009 của Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về việc Hướng dẫn thực hiện Bộ tiêu chí
Quốc gia về NTM.
Căn cứ vào Quyết định số 342/QĐ-TTg ngày 20/02/2013 của Thủ tướng
Chính phủ về việc sửa đổi một số tiêu chí của bộ tiêu chí của bộ tiêu chí quốc
gia về NTM.
* Các nhóm tiêu chí: Gồm 5 nhóm
Nhóm I: Quy hoạch (có 01 tiêu chí)
Nhóm II: Hạ tầng kinh tế - xã hội (có 08 tiêu chí)
Nhóm III: Kinh tế và tổ chức sản xuất (có 04 tiêu chí)
Nhóm IV: Văn hóa - xã hội - môi trường (có 04 tiêu chí)
Nhóm V: Hệ thống chính trị (có 02 tiêu chí)
- Các bước xây dựng nông thôn mới
Điều 3 Thông tư liên tịch số 26/2011/TTLT-BNNPTNT-BKHĐT-BTC
ngày 13 tháng 4 năm 2011 của Bộ Nông nghiệp Phát triển nông thôn, Bộ Kế

hoạch đầu tư, Bộ Tài chính quy định các bước xây dựng NTM như sau:
Bước 1: Thành lập hệ thống quản lý, thực hiện.
Bước 2: Tổ chức thông tin tuyên truyền về thực hiện Chương trình xây
dựng NTM.
Bước 3: Khảo sát đánh giá thực trạng nông thôn theo 19 tiêu chí của Bộ
tiêu chí quốc gia NTM.
Bước 4: Xây dựng quy hoạch NTM của xã.
Bước 5: Lập, phê duyệt đề án xây dựng NTM của xã.
Bước 6: Tổ chức thực hiện đề án.
Bước 7: Giám sát đánh giá và báo cáo về tình hình thực hiện Chương
trình.
1.2. Tầm quan trọng của xây dựng nông thôn mới và các nhân tố

13


ảnh hưởng đến xây dựng nông thôn mới ở nước ta hiện nay
1.2.1. Tầm quan trọng của xây dựng nông thôn mới
Qua gần 30 năm thực hiện đường lối đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng,
nông nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta đã đạt nhiều thành tựu to lớn. Tuy
nhiên, nhiều thành tựu đạt được chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế.
+ Nông nghiệp phát triển còn kém bền vững, sức cạnh tranh thấp,
chuyển giao khoa học - công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực còn hạn chế.
+ Nông nghiệp, nông thôn phát triển thiếu quy hoạch, kết cấu hạ tầng
như giao thông, thủy lợi, trường học, trạm y tế, cấp nước… còn yếu kém, môi
trường ngày càng ô nhiễm.
+ Đời sống vật chất, tinh thần của người nông dân còn thấp, tỷ lệ hộ
nghèo cao, chênh lệch giàu nghèo giữa nông thôn và thành thị còn lớn, phát
sinh nhiều vấn đề xã hội bức xúc.
Không thể có một nước công nghiệp nếu nông nghiệp và nông thôn còn

lạc hậu và đời sống nhân dân còn thấp. Vì vậy, xây dựng NTM là một trong
những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá quê hương, đất nước. Đồng thời, góp phần cải thiện, nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần cho người dân sinh sống ở địa bàn nông thôn.
Xây dựng NTM là cuộc cách mạng và cuộc vận động lớn để cộng đồng
dân cư ở nông thôn đồng lòng xây dựng thôn, xã, gia đình của mình khang
trang, sạch đẹp; phát triển sản xuất toàn diện (nông nghiệp, công nghiệp, dịch
vụ); có nếp sống văn hoá, môi trường và an ninh nông thôn được đảm bảo;
thu nhập, đời sống vật chất, tinh thần của người dân được nâng cao.
Xây dựng NTM là sự nghiệp cách mạng của toàn Đảng, toàn dân, của cả
hệ thống chính trị. NTM không chỉ là vấn đề kinh tế - xã hội, mà là vấn đề
kinh tế - chính trị tổng hợp. Xây dựng NTM giúp cho nông dân có niềm tin,
trở nên tích cực, chăm chỉ, đoàn kết giúp đỡ nhau xây dựng nông thôn phát

14


triển giàu đẹp, dân chủ, văn minh.
Xây dựng NTM vừa là mục tiêu, vừa là yêu cầu của phát triển bền vững,
vừa là nhiệm vụ cấp bách, vừa là chủ trương có tầm chiến lược đặc biệt quan
trọng trong sự nghiệp cách mạng mang tính nhân văn của sắc của Đảng, Nhà
nước và nhân dân Việt Nam. Qua đó tạo được sự đồng thuận và sức mạnh
tổng hợp của các hệ thống chính trị, sự đồng tâm hiệp lực của toàn xã hội
trong triển khai thực hiện xây dựng NTM.
1.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến xây dựng nông thôn mới ở nước ta
hiện nay
- Chính sách của Đảng và Nhà nước
Vai trò lãnh đạo, định hướng của Đảng là kim chỉ nam để thực hiện
thắng lợi 3 mục tiêu cốt yếu cho nông dân: Trở thành lực lượng lao động tiên
tiến, là lực lượng chính trị vững mạnh và phát triển mạnh mẽ, có những thay

đổi về chất. Trước hết, Nhà nước phải có chính sách phát triển nông thôn toàn
diện, không phải chỉ tập trung vào nông nghiệp. Thứ hai, Nhà nước phải hỗ trợ
việc tăng cường năng lực cho các cộng đồng nông thôn để nông dân có thể
tham gia vào việc phát triển nông thôn, xây dựng các thể chế nông thôn dựa
vào cộng đồng: Hợp tác xã và các tổ chức dân sự, nghề nghiệp của nông dân
[27].
- Trình độ phát triển kinh tế - xã hội
Nước ta xây dựng NTM trong điều kiện trình độ phát triển kinh tế còn
thấp; chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh còn kém, quy mô sản xuất nhỏ
bé, nguồn lực còn hạn hẹp; mức thu nhập và tiêu dùng của dân cư thấp, chưa
đủ tạo sức bật mới đối với sản xuất và phát triển thị trường. Lĩnh vực xã hội
tồn tại nhiều vấn đề bức xúc. Cải cách hành chính tiến hành còn chậm.
Những tồn tại, hạn chế này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến quá trình và kết quả xây
dựng NTM [18].

15


- Trình độ dân trí, đời sống và thu nhập của người dân
Thực trạng học vấn, dân trí và chuyên môn kỹ thuật đang còn thấp kém
đã gây rất nhiều khó khăn trong việc đưa các tiến bộ khoa học và công nghệ
vào quá trình lao động sản xuất ở khu vực nông nghiệp - nông thôn. Thực
trạng này cũng đã và đang là những nguyên nhân quan trọng làm cho nhiều
vấn đề trong nông nghiệp, nông thôn, nông dân chậm được giải quyết.
Thu nhập bình quân của người dân nông thôn hiện nay trên dưới
500.000 đồng/tháng, trong khi đó việc chi cho ăn, mặc chiếm tới 80 - 90%.
Hiện trạng về khoảng cách giàu, nghèo có xu hướng tăng lên, tỷ lệ hộ nghèo
(theo chuẩn mới) vẫn còn ở mức 18% (ở nhiều vùng sâu, vùng xa tới 40%)
[17].
- Năng lực, trình độ và kinh nghiệm xây dựng nông thôn mới của cán bộ

địa phương
Một số cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân có nhận thức chưa
đầy đủ về Chương trình xây dựng NTM. Họ cho rằng đó là dự án phát triển
sản xuất, đầu tư cơ sở hạ tầng; hoặc là biến đổi nông thôn thành thị trấn, thị
tứ để đô thị hóa; hoặc xây dựng NTM là trách nhiệm của Nhà nước phải làm
cho dân nên nảy sinh tâm lý trông chờ, thụ động, ỷ lại, là sắp có NTM. Vì
vậy, vấn đề đổi mới tư duy để nâng cao nhận thức, hiệu quả công tác lập kế
hoạch, tổ chức thực hiện Chương trình mục tiêu xây dựng NTM của cán bộ,
đảng viên và quần chúng nhân dân là hết sức cần thiết [1].
Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã là lực lượng tiên phong, đi đầu trong
xây dựng NTM. Trước tiên họ phải đổi mới tư duy để nhận thức đúng về chủ
trương của Đảng, Chương trình mục tiêu xây dựng NTM của Chính phủ; từ
đó tuyên truyền, vận động, hướng dẫn nhân dân tham gia.
- Sự phối hợp của các tổ chức đoàn thể, doanh nghiệp
Sự phối kết hợp thể hiện: Thứ nhất, quán triệt và thống nhất trong tổ chức

16


về ý nghĩa và nhiệm vụ trong công tác xây dựng NTM. Thứ hai, là cầu nối
hiệu quả giữa chính quyền và người dân. Thứ ba, tuyên truyền, vận động và tổ
chức các phong trào thi đua nhằm huy động nhân lực, vật lực giải quyết các
công việc cụ thể. Thứ tư, gương mẫu, trách nhiệm và đi đầu trong việc triển
khai, thực hiện và duy trì sử dụng các công trình, thành quả của công tác xây
dựng NTM.
- Thu hút đầu tư vào nông thôn
Các doanh nghiệp ít quan tâm đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, nông
thôn vì đây là ngành sản xuất có nhiều rủi ro, đầu tư lớn mà hiệu quả thấp và
mâu thuẫn giữa thị trường lớn trong khi sản xuất nhỏ. Nếu không giải quyết
được các mâu thuẫn này thì việc thu hút đầu tư nguồn lực vào nông nghiệp,

nông thôn sẽ không mang lại hiệu quả.
- Những nhân tố thuộc về điều kiện tự nhiên
Xét về mặt cơ cấu, hoạt động nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn ở khu vực
nông thôn, trong khi đó sản xuất nông nghiệp nước ta phụ thuộc chặt chẽ vào
điều kiện tự nhiên. Điều kiện tự nhiên thuận lợi sẽ tác động tích cực đến phát
triển sản xuất nông nghiệp và ngược lại. Do đó, mọi sự biến đổi trong tự
nhiên ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất nông nghiệp và đời sống của cư dân
nông thôn.

17


CHƯƠNG 2: NHỮNG KẾT QUẢ VÀ HẠN CHẾ TRONG XÂY DỰNG
NÔNG THÔN MỚI Ở HUYỆN ĐẢO CÔ TÔ HIỆN NAY
2.1. Khái quát đặc điểm tự nhiên và kinh tế - xã hội cơ bản của
huyện Đảo Cô Tô
2.1.1. Điều kiện tự nhiên
- Vị trí địa lý
Cô Tô là một huyện đặc biệt của tỉnh Quảng Ninh, được thành lập năm
1994 trên cơ sở quần đảo Cô Tô thuộc huyện Cẩm Phả trước đây. Nằm ở phía
Đông tỉnh Quảng Ninh, Phía Bắc giáp đảo Cái Chiên (huyện Hải Hà), đảo
Vĩnh Thực (Thành phố Móng Cái). Phía Nam giáp vùng biển đảo Bạch Long
Vĩ - Hải Phòng. Phía Tây giáp huyện Vân Đồn tỉnh Quảng Ninh. Huyện Cô
Tô là một quần đảo, trong đó có 3 đảo lớn: Đảo Cô Tô, đảo Thanh Lân và đảo
Trần. Diện tích tự nhiên toàn huyện thường xuyên thay đổi, do có sự tích tụ
và bồi đắp đất đai. Diện tích tự nhiên của huyện là 47,4337km2 (4.743,37ha)
chiếm 0,8% diện tích đất đai tự nhiên của tỉnh Quảng Ninh. Cô Tô có 3 đơn vị
hành chính gồm 2 xã và 1 thị trấn [29].
Đảo Cô Tô cách đất liền khoảng 60 hải lý, gần ngư trường khai thác hải
sản lớn của cả nước; nằm trong khu vực cửa khẩu, cách đường hàng hải quốc

tế Hải Phòng - Bắc Hải 30 km.Với vị trí địa lý nêu trên, Cô Tô là một huyện
đảo nằm ở vị trí có nhiều tiềm năng phát triển kinh tế trên biển, du lịch, giao
lưu kinh tế với nhân dân Trung Hoa.
Quần đảo Cô Tô có vị trí chiến lược, đặc biệt quan trọng về an ninh quốc
phòng để làm cơ sở vạch đường cơ bản khi hoạch định đường biên giới trên
biển của nước ta. Có vị trí thuận lợi để phát triển dịch vụ cứu hộ cứu nạn trên
biển.
Huyện Đảo Cô Tô chịu nhiều thách thức lớn trước sóng gió, bão tố của

18


thiên nhiên, nằm cách xa đất liền và phải thường xuyên đối mặt với những vi
phạm chủ quyền lãnh thổ trên biển và vùng biển của nước ta.
- Tài nguyên rừng
Huyện Đảo Cô Tô hiện nay có 2.090,57 ha rừng chiếm 44,0% diện tích
đất tự nhiên của huyện. Trong đó rừng tự nhiên là 1.082,37 ha chiếm 51,77%
diện tích rừng. Rừng trồng là 1.008,2 ha chiếm 48,23% diện tích rừng. Tính
chung toàn huyện độ che phủ của rừng mới chỉ đạt 44,0% .
- Tài nguyên nước
Tài nguyên mặt nước của huyện được quy hoạch phân thành 3 vùng:
Vùng bãi triều có tổng diện tích là 187 ha được quy hoạch thành 2 khu, khu
có khả năng xây dựng, cải tạo để nuôi thủy hải sản và khu các đối tượng bảo
vệ, khai thác tự nhiên. Khu nội đồng 21 ha: Gồm diện tích hoang hoá 13 ha và
diện tích ruộng chuyển đổi là 8 ha. Vùng nuôi thuỷ sản nước ngọt: Diện tích
được quy hoạch toàn huyện 30 ha, đạt 100 % diện tích tiềm năng có thể khai
thác được.
Tài nguyên nước: Tài nguyên nước của huyện khoảng 11,65 x 106 m3;
Trong đó: Nước ngầm có trữ lượng ước tính 10,65 x 106 m3, nước bề mặt nếu
được khai thác tốt có thể đạt 1,0 triệu m3. Đây là điều kiện thuận cho khai

thác nước ngọt phục vụ cho sản xuất, sinh hoạt, phục vụ du lịch và phục vụ
dịch vụ hậu cần nghề cá.
Tài nguyên biển: Cô Tô nằm sát ngư trường khai thác Bắc vịnh Bắc bộ
theo hiệp định nghề cá Việt Nam - Trung Quốc, diện tích ngư trường bao gồm
vùng đặc quyền kinh tế và vùng đánh cá, ước tính trên 800 km2; với nguồn hải
sản phong phú, đa dạng, có trữ lượng lớn, với nhiều loài có giá trị kinh tế và
xuất khẩu cao.
2.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội
Dân số toàn huyện Đảo Cô Tô năm 2015 là 5.927 người, tốc độ tăng

19


trưởng dân số năm 2010 - 2013 là 1,36%. Mật độ dân số phân bố không đều
trung bình khoảng 122 người/km2 . Điều này ảnh hưởng tới quy hoạch đầu tư
và phát triển kinh tế xã hội của vùng. Đây chính là vấn đề cần giải quyết của
huyện trong những năm tới.
Bảng 2.1: Tình hình biến động dân số qua các năm huyện Cô Tô
STT
1
2
3
4

Chỉ tiêu

Đơn vị

Năm 2010
Năm 2015

tính
Dân số trung bình
người
5.500
5.927
Tổng số hộ gia đình
hộ
1.429
1.501
Lao động trong độ tuổi
người
3.200
3.654
Tỷ lệ tăng dân số
%
1,40
1,32
Nguồn: Chi cục Thống kê huyện Cô Tô và điều tra, tính toán của nhóm

tư vấn,Quảng Ninh [14]
Từ bảng 2.1 cho thấy dân số của huyện là dân số trẻ, nguồn lao động dồi
dào là lợi thế nhưng cũng là một thách thức trong sử dụng nguồn nhân lực cho
phát triển kinh tế - xã hội của huyện. Tỷ lệ tăng dân số tương đối thấp năm
2015 là 1,32% thấp hơn 0,08% so với năm 2010 chứng tỏ công tác dân số ở
huyện được triển khai có hiệu quả.
Cơ cấu kinh tế và kết quả sản xuất của các ngành
Về cơ cấu kinh tế của huyện có sự chuyển dịch theo hướng tích cực, tăng
dần tỷ trọng thương mại dịch vụ và du lịch; giảm nông lâm thuỷ sản và công
nghiệp xây dựng trong đó ngành nông, lâm và thủy sản và ngành công nghiệp
xây dựng.


20


Biểu đồ 2.1: Cơ cấu các ngành kinh tế huyện Cô Tô giai đoạn 2010 2013
Nguồn: Chi cục Thống kê huyện Cô Tô và điều tra, tính toán của nhóm
tư vấn,Quảng Ninh năm 2010 - 2013[14]
Qua biểu đồ 2.1 ta thấy đã có sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của
huyện nhưng tốc độ chuyển dịch chậm. Năm 2013 tỷ trọng ngành nông, lâm
và thủy sản là 56,3% giảm 1,9% so với năm 2010 còn ngành CN, TTCN, XD
giảm 2,2 % so với năm 2010. Trong khi đó tỷ trọng ngành TMDV và DL năm
2013 là 32,4% tăng 4,1% so với năm 2010. Vì vậy, trong thời gian tới huyện
cần xây dựng và thực hiện có hiệu quả hơn nữa các chính sách để phát triển
kinh tế nhằm thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu các ngành kinh tế của
huyện.
Mặc dù nền kinh tế huyện Cô Tô có những bước tăng trưởng và phát
triển, nhưng Cô Tô vẫn là một huyện thuần nông, sản xuất mang tính tự
cung tự cấp. Điều này được thể hiện trong bảng 2.2 giá trị sản xuất của các
ngành kinh tế giai đoạn 2010 - 2013 như sau:

21


Bảng 2.2: Giá trị sản xuất qua các năm huyện Cô Tô (giá 2010)
Đơn vị tính: Giá trị - Tỷ đồng
STT
I
1

Chỉ tiêu

Tổng GTSX (giá cố định)
Ngành nông, lâm và thủy

Năm

Năm

2010

2013

41,8
24,3

62,9
35,4

Tốc độ
tăng trưởng
(%)
14,6
12,9

sản
2
Ngành CN, TTCN, XD
5,6
7,1
8,0
3

Ngành TMDV và DL
11,8
20,4
19,9
Nguồn: Chi cục thống kê, phòng Tài nguyên môi trường - Nông nghiệp huyện
Cô Tô[14]
2.2. Những kết quả trong xây dựng nông thôn mới ở huyện Đảo Cô
Tô và nguyên nhân
2.2.1. Kết quả xây dựng nông thôn mới ở huyện Đảo Cô Tô
Thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng;
Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X về nông nghiệp,
nông dân, nông thôn; Quyết định 800/QĐ-TTg ngày 04/6/2010 của Thủ tướng
Chính phủ về việc phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng
NTM giai đoạn 2010 - 2020. Sau khi Quyết định 800/QĐ-TTg của Thủ tướng
Chính phủ về triển khai thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về xây
dựng NTM được triển khai đến các địa phương trong cả nước, tỉnh Quảng
Ninh đã ban hành các văn bản triển khai thực hiện chương trình mục tiêu
quốc gia xây dựng NTM.
Ngày 27/10/2010, Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh đã ban hành
Nghị quyết số 01-NQ/TW về xây dựng NTM tỉnh Quảng Ninh đến năm 2020.
Huyện ủy, Ban chỉ đạo xây dựng NTM, HĐND - UBND huyện Cô Tô đã xây
dựng các chương trình, kế hoạch, triển khai thực hiện toàn diện các nội dung,
tiêu chí xây dựng NTM. Từ khi triển khai xây dựng NTM đến nay, Huyện Cô

22


×