Tải bản đầy đủ (.pdf) (52 trang)

Đánh giá ảnh hưởng của độ dốc tới mức độ bị bệnh do nấm ceratocystis hại trên keo lai (acacia hybrid) tại xã khe mo huyện đồng hỷ tỉnh thái nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.36 MB, 52 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
----------o0o----------

TRĂNG CHIẾN TRƢỜNG
ĐÁNH GIÁ ẢNH HƢỞNG CỦA ĐỘ DỐC TỚI MỨC ĐỘ BỊ BỆNH DO
NẤM CERATOCYSTIS HẠI TRÊN KEO LAI (ACACIA HYBRID) TẠI
XÃ KHE MO, HUYỆN ĐỒNG HỶ, TỈNH THÁI NGUYÊN

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Hệ đào tạo

: Chính quy

Chuyên ngành

: Nông lâm kết hợp

Khoa

: Lâm nghiệp

Khoá học

: 2011 – 2015

Thái Nguyên – 2015


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN


TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
----------o0o----------

TRĂNG CHIẾN TRƢỜNG
ĐÁNH GIÁ ẢNH HƢỞNG CỦA ĐỘ DỐC TỚI MỨC ĐỘ BỊ BỆNH DO
NẤM CERATOCYSTIS HẠI TRÊN KEO LAI (ACACIA HYBRID) TẠI
XÃ KHE MO, HUYỆN ĐỒNG HỶ, TỈNH THÁI NGUYÊN

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Hệ đào tạo

: Chính quy

Chuyên ngành

: Nông lâm kết hợp

Lớp

: K43 - NLKH

Khoa

: Lâm nghiệp

Khoá học

: 2011 – 2015


Giảng viên hƣớng dẫn : ThS. Trịnh Quang Huy

Thái Nguyên - 2015


i

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi,
công trình được thực hiện trong thời gian từ tháng 1 tới tháng 5 năm 2015.
Các kết quả và số liệu trình bày trong khóa luận là trung thực.
Thái Nguyên, ngày tháng năm 2015
Xác nhận của giáo viên hƣớng dẫn

Ngƣời viết cam đoan

Trăng Chiến Trƣờng
Xác nhận của giáo viên phản biện


ii

LỜI CẢM ƠN
Thực tập tốt nghiệp là thời gian rất quan trọng đối với mỗi sinh viên.
Đây là thời gian để củng cố và hệ thống lại những kiến thức đã học và vận
dụng lý thuyết vào thực tiễn, đồng thời giúp em hoàn thiện hơn về mặt kiến
thức luận, phương pháp làm việc năng lực công tác nhằm đáp ứng yêu cầu
thực tiễn sản xuất, nghiên cứu khoa học.
Được sự nhất trí của Ban giám hiệu nhà trường, Ban chủ nhiệm khoa
Lâm Nghiệp, em đã tiến hành nghiên cứu đề tài: Đánh giá ảnh hưởng của độ

dốc tới mức độ bị bệnh do nấm Ceratocystis hại trên keo lai (Acacia hybrid)
tại xã Khe Mo, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên.
Với lòng biết ơn vô hạn, em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo Khoa
Lâm nghiệp đã truyền cho em những kiến thức quý báu trong suốt quá trình học
tập và rèn luyện tại trường, giúp em hoàn thiện năng lực công tác, nhằm đáp ứng
yêu cầu của người cán bộ khoa học sau khi ra trường.
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Th.s Trịnh Quang Huy đã tận tình
chỉ bảo, hướng dẫn cho em hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này.
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới người dân địa phương, cán bộ tại
UBND xã Khe Mo đã tạo điều kiện cho em trong suốt quá trình thực tập.
Do thời gian có hạn, năng lực còn hạn chế nên bản luận văn không thể
tránh khỏi những thiết sót, em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp
của quý thầy cô và các bạn để bản luận văn của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, ngày 26 tháng 05 năm 2015
Sinh viên
Trăng Chiến Trƣờng


iii

DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang

Bảng 2.1: Chiều cao và đường kính của 5 loại keo ........................................ 10
Bảng 3.1: Bảng phân cấp mức độ bị bệnh ...................................................... 25
Bảng 3.2: Phiếu điều tra bệnh hại keo do nấm Ceratocystis........................... 26
Bảng 4.1: Kết quả phân lập và kích thước bào tử hữu tính các chủng nấm
Ceratocystis ........................................................................................... 30
Bảng 4.2: tỷ lệ bệnh và mức độ bệnh nấm hại keo lai phân cấp theo độ dốc . 32

Bảng 4.3: Giá trị trung bình tỷ lệ bị bệnh và mức độ bị bệnh ....................... 33
Descriptives Statistics ..................................................................................... 33
Bảng 4.4: Bảng tính giá trị trung bình của tỷ lệ bị bệnh và mức độ bị bệnh của
bệnh nấm hại Keo lai theo các cấp độ dốc .............................................. 34
Bảng 4.5: Thể hiện các đại lượng thống kê mô tả Descriptives .................... 37
Bảng 4.6: Thể hiện kết quả kiểm định ANOVA ............................................. 38
Bảng 4.7: bảng thể hiện kết quả kiểm định Variances Test of Homogeneity of
Variances ................................................................................................. 38


iv

DANH MỤC CÁC HÌNH
Trang

Hình 4.1: Cây bị bệnh chết héo ...................................................................... 28
Hình 4.2: Vết đen trên thân ............................................................................. 28
Hình 4.3: Nấm bệnh thường xâm nhập vào cây qua vết cắt tỉa cành ............. 28
Hình 4.4: Nấm phát triển trong thân cây làm gỗ biến màu ............................ 28
Hình 4.5: Hệ sợi nấm trên môi trường PDA ................................................... 31
Hình 4.6: Thể quả phun bào tử màu vàng cam ............................................... 31
Hình 4.7: Tỷ lệ bị bệnh trung bình % bệnh nấm Ceratocystis.ps gây hại trên
Keo lai ..................................................................................................... 33
Hình 4.8: Mức độ bị bệnh nấm Ceratocystis.ps hại Keo lai trung bình % ..... 34
Hình 4.9: Biểu đồ biểu diễn tỷ lệ bệnh trung bình % giữa các cấp độ dốc tại
xã Khe Mo, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên ..................................... 35
Hình 4.10: Biểu đồ biểu diễn mức độ bị bệnh trung bình % giữa các cấp độ
dốc tại xã Khe Mo, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên ......................... 36



v

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
OTC

Ô tiêu chuẩn

UBND

Ủy ban nhân dân

PAM

Tổ chức lương thực thế giới

TCN

Trước công nguyên


1

PHẦN 1
MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Rừng là tài nguyên vô cùng quý giá của con người, không những là cơ sở
cho sự phát triển kinh tế xã hội mà còn giữ chức năng sinh thái cực kì quan
trọng, rừng tham gia vào quá trình điều hòa khí hậu đảm bảo chu chuyển oxi,
hạn chế lũ lụt hạn hán, ngăn chặn xói mòn đất, giảm nhẹ sức tàn phá khốc liệt
của thiên tai, bảo tồn nguồn nước và giảm ô nhiễm không nghiệp phát triển kinh

tế - xã hội của nước ta hiện nay đã và đang được Đảng nhà nước quan tâm.
Hiện nay rừng ở trên thế giới nói chung và rừng tại nước ta nói riêng đang
bị suy giảm nghiêm trọng về số lượng, chất lượng do rất nhiều nguyên nhân đặc
biệt là do các loại bệnh hại cây rừng ở rừng trồng dẫn đến diện tích rừng bị suy
giảm. Những hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên rừng vào những mục đích
kinh tế của con người đang làm rừng biến mất khỏi trái đất, diễn biến ấy sẽ gây
ra những ảnh hưởng hết sức bất lợi đến cuộc sống của con người.
Rừng trồng sản xuất tập trung nhằm đáp ứng nhu cầu của các nhà máy
giấy các nhà máy sợi, xí nghiệp chế biến ván dăm, các nhà máy chế biến gỗ
khác. Để đáp ứng nhu cầu nguyên liệu cho các nhà máy xí nghiệp gỗ và bảo
vệ môi trường, Đảng và nhà nước đã ban hành nhiều chính sách chủ trương
nâng cao độ che phủ của rừng, với nhiều dự án đề ra như dự án 661, dự án
327, dự án PAM và các dự án đầu tư và bảo vệ rừng khu vực miền núi. Ở
nước ta với diện tích trồng rừng lớn số lượng cây nhiều và trồng thuần loài,
cách chăm sóc cây trồng người dân còn ở mức độ thấp nên ở giai đoạn cây
phát triển thường bị sâu bệnh hại, để rừng trồng phát triển tốt và đạt năng suất
cao thì phải nhận biết được các loại sâu, nấm hại cây, để có biện pháp tiến
hành phòng trừ sâu bệnh hại cây một cách hiệu quả.
Xuất phát từ những vấn đề trên, với nguyện vọng đóng góp một phần
nhỏ của bản thân về bệnh hại cây rừng nói chung và bệnh hại trong rừng trồng


2

nói riêng, em tiến hành thực hiện đề tài: “Đánh giá ảnh hưởng của độ dốc
tới mức độ bị bệnh do nấm Ceratocystis hại trên Keo lai (Acacia hybrid) tại
xã Khe Mo, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên”.
1.2. Mục tiêu và yêu cầu của đề tài
- Nhận biết và xác định được cây bị bệnh, cấp bệnh cho từng cây trong
OTC, nguyên nhân gây bệnh, do nấm Ceratocystis gây hại cho Keo lai.

- Nghiên cứu các đặc tính sinh thái điển hình về nấm bệnh.
- Điều tra, đánh giá được tình hình, thực trạng, vấn đề bệnh do nấm
Ceratocystis gây ra với rừng trồng Keo lai ở xã Khe Mo, huyện Đồng Hỷ, tỉnh
Thái Nguyên.
- Đề xuất một số biện pháp phòng trừ giảm thiểu nấm bệnh gây hại.
1.3. Ý nghĩa việc thực hiện đề tài
1.3.1. Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu khoa học
- Củng cố kiến thức môn học, bổ sung kiến thức còn thiếu, áp dụng
những kiến thức lý thuyết vào trong thực tiễn.
- Rèn luyện các kỹ năng thu tập số liệu, viết báo cáo bổ sung tài liệu
tham khảo về công tác khuyến nông khuyến lâm cho xã Khe Mo .
- Tạo cơ hội cho sinh viên làm quen, tìm hiểu kiến thức điều tra ngoài
thực tế làm tiền đề cho công việc sau này.
- Điều tra đánh giá bệnh hại do nấm Ceratocystis gây ra ở rừng trồng.
Đồng thời đây cũng là cơ hội để giúp sinh viên học tập tích lũy kinh nghiệm,
nâng cao rèn luyện kỹ năng làm đề tài cho bản thân.
1.3.2. Ý nghĩa trong thực tiễn
Từ những kết của nghiên cứu tìm ra được bệnh nấm hại cây Keo lai,
trên cơ sở đó giúp cho người trồng rừng có thể tìm ra giải pháp phòng bệnh
nấm hại cây Keo lai trên rừng trồng tại xã Khe Mo, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái
Nguyên nhằm nâng cao năng suất và chất lượng rừng trồng.


3

PHẦN 2
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CƢ́U
2.1. Cơ sở khoa học
2.1.1. Nghiên cứu về gây trồng Keo lai
Keo lai là tên gọi viết tắt của giống lai tự nhiên giữa Keo tai tượng

(Acacia mangium) và Keo lá tràm (Acacia auriculiformis). Giống keo lai tự
nhiên này được phát hiện đầu tiên bởi messir Herbern và Shim vào năm 1972.
Ngoài ra, Keo lai tự nhiên còn được phát hiện ở vùng Balamuk và Old
Tonda của Papua New Guinea (Turnbull, 1986, Gun và cộng sự 1987, Griffin,
1988), ở một số nơi khác tại Sabah (Rufelds 1987), và Ulu kukut (Darus và
Rasip 1989) của Malaysia,…
Nghiên cứu về hình thái cây Keo lai có thể kể đến các công trình
nghiên cứu của Rufelds (1988) Gan.E Sim Boom Liang (1991) các tác giả đã
chỉ ra rằng: Keo lai xuất hiện lá giả sớm hơn Keo tai tượng và muộn hơn Keo
lá tràm. Ở cây con lá giả đầu tiên của keo lá tràm thường xuất hiện ở lá thứ 4 5. Keo tai tượng thường xuất hiện ở lá thứ 8-9 còn ở Keo lai thường xuất hiện
ở lá thứ 5 - 6. Bên cạnh đó là sự phát hiện về tính chất trung gian giữa Keo tai
tượng và Keo lá tràm ở các bộ phận sinh sản (Bowen 1981).
Theo nghiên cứu của Rufeld (1987) thì không tìm thấy một sự sai khác nào
đáng kể của Keo lai so với bố mẹ. Các tính trạng của chúng đều thể hiện tính
trung gian giữa 2 loài bố mẹ mà không có ưu thế lai thực sự. Tác giả đã chỉ ra rằng
Keo lai hơn Keo tai tượng về độ tròn đều của thân, có đường kính cành nhỏ hơn
và khả năng tỉa cành tự nhiên khá hơn Keo tai tượng, song độ thẳng thân, hình
dạng tán lá và chiều cao dưới cành lại kém hơn Keo tai tượng.
Tuy nhiên, theo kết quả nghiên cứu của Pinso Cyril và Robert Nasi
(1991) thì trong nhiều trường hợp cây Keo lai có xuất xứ ở Sabah vẫn giữ
được hình dáng đẹp của Keo tai tượng. Về ưu thế lai thì có thể có nhưng


4

không bắt buộc vì có thể bị ảnh hưởng của cả hai yếu tố di truyền lẫn điều
kiện lập địa. Nghiên cứu cũng cho thấy rằng sinh trưởng của Keo lai tự nhiên
đời F1 là tốt hơn, còn từ đời F2 trở đi cây sinh trưởng không đồng đều và trị
số trung bình còn kém hơn cả Keo tai tượng. Khi đánh giá về các chỉ tiêu chất
lượng của cây Keo lai, Pinso và Nasi (1991) thấy rằng độ thằng của thân,

đoạn thân dưới cành, độ tròn đều của thân... đều tốt hơn giống bố mẹ và cho
rằng Keo lai rất phù hợp với các chương trình trồng rừng thương mại.
2.1.2. Nghiên cứu về bệnh hại keo
Bệnh cây rừng là một môn khoa học còn rất non trẻ đã được bắt đầu
nghiên cứu trên 150 năm nay, tuy vậy sự cống hiến cho công tác nghiên cứu
khoa học, phục vụ cho đời sống sản xuất thực tiễn của các nhà bệnh cây hết
sức to lớn.
Lịch sử phát triển môn bệnh cây từng trải qua 3 giai đoạn, theo G.H. Heptig
- nhà bệnh cây rừng nước Mỹ mỗi một giai đoạn thường khoảng 30 - 40 năm.
Thời kì đầu là nghiên cứu chủng loại, phân bố, mức độ bị hại, quy luật
phát bệnh và biên pháp phòng trừ.
Thời kì thứ hai đã chuyển hướng sang nghiên cứu thăm dò đặc tính sinh
thái các bệnh có tính hủy diệt, các biện pháp chọn giống và kĩ thuật lai tạo các
loài cây chống chịu bệnh. Các quan hệ bệnh hại và ô nhiễm môi trường, các
bệnh do Mycoplasma gây ra.
Thời kì thứ ba từ năm 1970 đến nay, bệnh cây rừng bước vào nghiên
cứu sâu hơn về đánh giá tổn thất, dự tính dự báo hiệu quả kinh tế thông qua
toán học hiện đại, quản lí thông tin và đưa việc “Quản lí tổng hợp sâu bệnh
hại rừng” (IPM) đến với những người làm công tác lâm nghiệp.
Sử sách đã ghi chép các hiện tượng tự nhiên gây ra những tổn thất cho
kinh tế, trong đó có bệnh cây rừng. Hơn 300 năm trước công nguyên (TCN),
người Cổ Hi Lạp Theophrastus đã mô tả khả năng chống chịu bệnh của cây


5

gỗ. Trong cuốn “Thần nông bản thảo kinh” TCN người Trung Quốc đã mô tả
bệnh thối nâu quả đào. Có những tài liệu thống kê cho biết từ đời Chu đến đời
Thanh đã có 5000 điều ghi chép về bệnh hại cây gỗ. Trước thế kỉ 19 một số
nhà bệnh cây Châu Âu đã có những thăm dò vật gây bệnh trên cây gỗ. Trong

đó có G.L.Hartig và con ông T.Hartig đã có những mô tả về nguyên nhân gỗ
bị mục, nhưng học thuyết đó chưa được xác lập do nhiều kết luận sai. Cho
nên Những quan sát, thí ngiệm và phân tích bước đầu về bệnh cây rừng đầu
thế kỉ 19 được xem là phôi thai của khoa học bệnh cây rừng.
Bệnh cây rừng dã trở thành môn học độc lập từ năm 1980 và được phát
triển trên cơ sở khoa học lâm sinh học và bệnh cây thực vật. Năm 1996 nhà
thực vật học người Đức M.Willkom kẻ thù nhỏ của cây rừng, đã có tác dụng
thúc đẩy ngành khoa học này phát triển và Robert Hartig người cháu ruột của
G.Lhartig đã được công nhận là người đặt nên móng cho khoa học bệnh cây
rừng. Năm 1974 đến 1975 ông phát biểu các tài liệu chuyên khảo về bệnh cây
rừng như “bệnh hại cây chủ yếu cây rừng”, “hiện tượng tổn thương cây gỗ”.
Năm 1982, ông xuất bản cuốn “khoa học bệnh cây” đó là cuốn giáo trình bệnh
cây rừng. R.hartig còn bồi dưỡng nhiều nhà khoa hoc nội tiếng và trở thành
các nhà sáng lập bệnh cây rừng ở các nước châu Âu, châu Mĩ.
Những năm 50 của thế kỷ XX, nhiều nhà bệnh cây đã tập trung vào
viêc xác định loài, mô tả nguyên nhân gây bệnh, điều kiện phát sinh, phát
triển bệnh. Đặc biệt ở các nước nhiệt đới, L.loger (1953) đã nghiên cứu các
loại bệnh hại cây rừng được mô tả trong cuốn bệnh hại cây rừng nhiệt đới.
Trong đó có một số bệnh hại cây thông, bạch, đàn keo.
Đầu thế kỷ XX đến nay khoa học công nghệ ngày càng phát triển nên
nền sản xuất nông lâm nghiệp đòi hỏi kỹ thuật ngày càng cao cần các nghiên
cứu tìm hiểu quá trình phát sinh phát triển các loại bệnh gây hại để tìm ra các
biện pháp phòng trừ có hiệu quả nhất.


6

Theo kết quả nghiên cứu của Pedlay năm 1978 và Baland 1986 với tổng số
1200 loài Keo acacia là một loài chi thực vật quan trọng với nhiều nước.
Theo các ghi chép của trung tâm rừng giống Úc thì các loài keo acacia

của Úc đã đươc trồng ở trên 70 nước với diện tích là 1.750.000 ha vào thời
điểm đó. Nhiều loài đã đáp ứng được yêu cầu sử dụng cho mục đích công
nghiệp, xã hội và môi trường (Maslin và Mcdonald 1996). Các loài có tiếng
về cung cấp nguyên liệu bột giấy là Keo lá tràm A.auriculiformid, Keo tai
tượng acacia mangium, Keo lá liềm A.crassicarpa còn các loài khác như
Acolei, A.tumida lại có tiềm năng cung cấp gố củi chống gió làm thức ăn cho
con người ở một số vùng.
Năm 1961-1968 John Boyce nhà bệnh cây rừng người Mỹ đã mô tả một số
bệnh cây rừng trong cuốn “Forest pathology” trong đó có bệnh hại keo.
Năm 1952-1954 Roger đã nghên cứu một số bệnh hại trên cây Bạch
đàn và Keo trong cuốn “Phytopathalogie des pays chauds”.
Theo Shaama nghiên cứu năm 1994 cây trồng bị khô héo và tàn lụi từ
trên xuống (chết ngược), là do nấm hại glomerlla (giai đoạn vô tính là nấm
cellototrichum gleosporioides), đó là sự thiệt hại với loài Keo tai tượng acacia
mangium trong vườn giống ở Papua New Guinea Ấn Độ (fao 1981). Theo
nghiên cứu của Lee loài nấm này còn gây hại cho các loài Keo acacia.
Theo nghiên cứu của Chris Lang (1996) trong thực tế một số loài nấm
bệnh đã được phân lập từ một số loài keo. Đó là nấm Glomerella cingulata
gây bệnh đốm lá ở A.simsii, nấm Uromycladium robinsonii gây bệnh rỉ sắt ở
lá già loài A.melanoxylon; nấm Oidium sp có trên các loài A.mangium và
A.auriculiformaur ở Trung Quốc nhưng loài A.confusa (Đài Loan tương tự)
địa phương lại không bị bệnh.
Năm 2000 Old et.al đã phát hiện, mô tả bệnh hại Keo ở Đông Nam Á
và Ấn Độ các bệnh, thường gặp là bệnh phấn trắng (powdery mildew), bệnh


7

đốm lá, bệnh bồ hóng, bệnh phấn hồng và bệnh rống ruột (heart rot).
Với tổng số trên dưới 1200 loài, chi Keo acacia là một chi thực vật

quan trọng đối với đời sống xã hội ở nhiều nước (Bo land,1989). Theo các ghi
chép của trung tâm giống cây rừng Ôxtrâylia (Maslin và Mcdonald, 1996) thì
các loài keo Acacia của Ôxtrâylia được giao trồng trên 70 quốc gia trên thế
giới với diện tích 1.750.000 ha. Nhiều loài trong số đó đã đáp ứng được
nhu cầu sự dụng cho các mục tiêu công nghiệp, xã hội và môi trường, xã
hội và môi trường G.F. Browm (người Anh 1968) đã đề cập đến một số
bệnh hại keo:
Cây trồng bị khô héo, rụng lá và tàn lụi từ trên xuống dưới do nấm hại lá
Glomerlla cingulate (giai đoạn vô tính là nấm (Colletotrichum gleosporioides)
đó là nguyên nhân chủ yếu của sự thiệt hai đối với loài keo acacia mangium
trong vườn giống ở Papua New Guinea (Fao 1981) và Ấn Độ theo nghiên cứu
của Lee và Goh năm 1989 loài nấm này còn gây hại với các loài Acacia ssp,
đặc biệt dưới điều kiện tự nhiên khí hậu ẩm ướt.
Nhiều nhà nghiên cứu của Ấn độ, Malaysia, Philipin và Trung Quốc
cũng công bố nhiều loài nấm bệnh gậy hại đối với keo như các công trình của
Vannhin, L Rogen (1953), Spauding(1961).
Tại hội nghị thứ 3 nhóm tư vấn và phát triển của các loài acacia, họp tại
Đài Loan cuối tháng 6 năm 1964 nhiều đại biểu kể cả các tổ chức quốc tế như
CIFOR (trung tâm nghiên cứu lâm nghiệp quốc tế) cũng đã đề cập đến các
bệnh hại loài acacia.
Năm 1988 – 1990 Benergee R . (Ấn Độ ) đã nghiên cứu vùng trồng keo
lá tràm ở Kalyani Nadia và đã phát hiện nấm bồ hóng Oidium sp. Gây hại trên
cây non từ 1 – 15 tuổi Florece E.J và đồng nghiệp ở viện Nghiên cứu Lâm
nghiệp Kerela Ấn Độ đã phát hiện ra bệnh phấn hồng do nấm Corticium
salmonicolor gây hại trên vùng trồng A. auricuformis bang Kerela, tỷ cây chết


8

khoảng 10%. Ganapathy N và các đồng nghiệp ở trung tâm nghiên cứu quốc

gia cây họ đậu ở Vamban Ấn Độ, phát hiện sự rụng lá nghiêm trọng của cây
non Acacia spp trồng tại vùng đất khô hạn và vùng đất đỏ đá ong (pH = 5,5 6,0) tại Tamilladu do bọ vòi

voi

Mylloceros.sp

gây ra ở 4 loại

A.

auriculiformis, A. mangium, A. crassicarpa và A. holosericea.Meshram P. và
đồng nghiệp ở viện cây rừng Madhya Pradesh Ấn Độ nghiên cứu về sâu và
bệnh gây thiệt hại cho cây A. auriculiformis vườn ươm, Lucgo J.N. thuộc
phòng môi trường và tài nguyên thành phố Cebu, Philippin đã phát hiện thấy
một số bệnh trên A. mangium…
Trong thực tế có một số nấm bệnh đã được phân lập từ một số loài keo.
Đó là nấm

Glomerella cingulata

gây bệnh đốm lá ở

A. simsii; nấm

Uromycladium robinsonii gây bệnh rỉ sắt ở lá giả loài A. melanoxylon; nấm
Oidium sp. có trên các loài A. mangium và A. auriculiformis ở Trung
Quốc nhưng loài A. confusa (Đài Loan tương tự) địa phương lại không bị
bệnh 25. Các nghiên cứu về các loại bệnh ở keo Acacia cũng đã được tập hợp
khá đầy đủ vào cuốn sách “Cẩm nang bệnh keo nhiệt đới ở Ôxtrâylia, Đông

Nam Á và Ấn Độ” (A Manual of Diseases of Tropical Acacias in Australia,
South -east Asia and India. Old et al, 2000) trong đó có các bệnh khá quen
thuộc đã từng gặp ở nước ta như bệnh bệnh phấn trắng (Powdery mildew),
bệnh đốm lá, bệnh phấn hồng và rỗng ruột (Heart rot).
2.1.3. Nghiên cứu về nấm Ceratocystis
Ceratocystis là những loài nấm gây hại nguy hiểm cho nhiều loài cây,
là nguyên nhân gây nên bệnh thối rễ, gốc, loét thân cành và gây thối quả trên
nhiều loại cây trồng nhiệt đới (Kile, 1993). Đặc biệt là loài Ceratocystis
fibriata ellis& Halstsensu lato (s.1) gây chết hàng loạt bạch đàn ở cộng hòa
Công gô và Braxin (Roux etal, 2000); cây cà phê (coffe sp.) ở Colombia và
Venezuela (Marin et al, 2003. Pontis,1951).


9

Đây cũng chính là loài gây bệnh trên cây xoài ở Braxin (Ploetz, 2003;
Ribero,1980; viegas, 1960) và là một trong những bệnh nguy hiểm nhất trong
ngành nông nghiệp và cây trồng ở Nam Mỹ. Ở Indonesia ceraticystis lần đầu
tiên được ghi nhân khi ceratocystis fimbriata (còn có tên là Rostrella cofeae)
được công bố năm 1900 trên cây cà phê ( coffea arabica) ở đảo Java
(zimmerman, 1900).
Sau đó nhiều loài Ceratocystis đã được tìm thấy trên nhiều cây chủ
khác nhau trên nhiều nhiều hòn đảo ở Indonesia. Gần đây nhất là phát hiện 5
loài nấm Ceratocystis mới gây hại trên cây Keo.
Nấm Ceratocystis là nấm gây bệnh nguy hiểm cho nhiều loài cây gỗ, có
phân bố toàn thế giới nhưng gây hại nặng ở các nước nhiệt đới (Kile, 1993).
Loài nấm này được xác định là một mối đe dọa mới cho rừng trồng các loài
keo ở Châu Á và Úc (Wingfield et al. 2009). Mới đây, trong quá trình điều tra
bệnh hại Keo tai tượng ở Indonesia, cây bị chết héo với tỷ lệ lớn và nguyên
nhân gây bệnh được xác định là Ceraticystis manginecans và C. acaciivora

(Tarigan et al. 2010b).
2.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam
2.2.1. Nghiên cứu về gây trồng Keo lai
Ở Việt Nam cây Keo lai được Lê Đình Khả, Phạm Văn Tuấn và các
cộng sự thuộc trung tâm nghiên cứu giống cây rừng (RCFTI) phát hiện đầu
tiên tại Ba Vì, (Hà Tây cũ) và vùng Đông Nam Bộ vào năm 1992. Tiếp theo
đó từ năm 1993 cho đến nay Lê Đình Khả và các cộng sự đã tiến hành nghiên
cứu về cải thiện giống Keo lai, đồng thời đưa vào khảo nghiệm một số giống
Keo lai có năng suất cao tại Ba Vì được kí hiệu là BV.
Lê Đình Khả và các cộng sự (1993, 1995, 1997, 2006) khi nghiên cứu
về đặc trưng hình thái và ưu thế lai của Keo lai đã kết luận Keo lai có tỉ trọng
gỗ và nhiều đặc điểm hình thái trung gian giữa 2 loài bố mẹ. Keo lai có ưu thế


10

lai về sinh trưởng so với Keo tai tượng và Keo lá tràm, điều tra sinh trưởng tại
rừng trồng khảo nghiệm 4,5 năm tuổi ở Ba Vì cho thấy Keo lai sinh trưởng
nhanh hơn Keo tai tượng từ 1,2 - 1,6 lần về chiều cao và từ 1,3 - 1,8 lần về
đường kính, gấp 2 lần thể tích. Tại Sông Mây (Đồng Nai) ở rừng trồng sau 3
năm tuổi Keo lai sinh trưởng nhanh hơn Keo lá Tràm 1,3 lần về chiều cao; 1,5
lần về đường kính. Một số dòng vừa sinh trưởng nhanh vừa có các chỉ tiêu
chất lượng tốt đã được công nhận là giống Quốc gia và giống tiến bộ kĩ thuật
là các dòng giống BV5, BV10, BV16, BV32, BV33. Khi nghiên cứu về sự
thoái hóa và phân li của cây Keo lai, Lê Đình Khả (1997) đã khẳng định:
Không nên dùng hạt của cây Keo lai để gây trồng rừng mới. Keo lai đời F1 có
hình thái trung gian giữa 2 loài bố mẹ và tương đối đồng nhất, đến đời F2 Keo
lai có biểu hiện thoái hóa và phân li rõ rệt, cây lai F2 sinh trưởng kém hơn so
với cây lai F1 và có biến động lớn về sinh trưởng.
Đầu năm 1990 trung tâm nghiên cứu giống cây rừng đã triên khai một

khảo nghiện gồm 39 xuất xứ của 5 loài keo tại Ba Vì, sau 6 tháng sinh trưởng
của năm loài keo được xếp theo chiều cao (m), và đường kính (cm) như sau:
Bảng 2.1: Chiều cao và đƣờng kính của 5 loại keo
Loài

H (m)

D (cm)

A.uriculiformis

1,12

1,29

A.crassoccarpa

0,96

1,26

A.mangium

0,85

1,19

A.aulacocarpa

0,76


0,80

A.cincinnata

0,67

0,86

2.2.2. Nghiên cứu về nấm Ceratocystis
Bệnh hai cây Keo lai do nấm Ceratocystis là bệnh mới hại các loài keo
đã xuất hiện với triệu chứng héo lá, loét thân, nấm làm gỗ bị biến màu và cuối


11

cùng cây chết. Phân lập nấm bệnh bằng phương pháp nuôi cấy đơn bào tử, các
mẫu gỗ bị bệnh được cắt thành các mẫu nhỏ, một số mẫu để trong hộp lồng
ẩm, một số mẩu kẹp vào giữa 2 lát cà rốt mỏng và đặt trong túi bóng giữ ẩm
trong 3 - 5 ngày để hình thành bào tử hoặc cho đến khi thể quả của nấm được
hình thành (Moller và De Vay, 1968). Đây là loài nấm gây bệnh nguy hiểm
cho nhiều loài cây gỗ, có phân bố toàn thế giới nhưng gây hại nặng ở các
nước nhiệt đới (Kile, 1993). Loài nấm này được xác định là một mối đe dọa
mới cho rừng trồng các loài keo ở Châu Á và Úc (Wingfield et al. 2009).
Trên các diện tích rừng trồng keo lai ở một số địa phương của nước ta
đã xuất hiện hiện tượng cây keo chết héo và được xác định là một loài nấm
thuộc chi Ceratocystis. Các loài nấm thuộc chi này không phải mới xuất hiện
ở Việt Nam, các kết quả nghiên cứu trước đây đã ghi nhận loài nấm
Ceratocystis fimbriata gây bệnh thối mốc mặt cạo cây Cao su (Hội Nông dân
Việt Nam, 2011). Nấm Ceratocystis fimbriata cũng được ghi nhận gây hại

trên cây Ca cao gây nên bệnh héo rũ và được mô tả bệnh thường đi kèm với
cây bị mọt đục thân hoặc cành, lúc đầu có một số cành bị héo lá ngả sang màu
nâu sau đó toàn bộ cây bị héo và chết.
Ở nước ta với điều kiện khí hậu nóng ẩm tạo điều kiện cho nhiều loài
nấm phát triển đặc biệt là Ceratocystis đã bắt đầu xuất hiện trên cây Keo tại
một số nơi như Đồng Nai, Bình Dương, Bình Phước, Thừa Thiên Huế, Lâm
Đồng, Tuyên Quang và Quảng Ninh. Những cây bị bệnh, gỗ bị biến màu, xì
nhựa mủ ở vỏ, toàn bộ những cây bị nhiễm bệnh chỉ sau một thời gian ngắn là
chết ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng rừng trồng keo. Việc nghiên cứu
và phát hiện sớm bệnh ở một số vùng trồng keo trọng điểm nước ta là rất quan
trọng nhằm lập kết hoạch ngăn chặn bệnh dịch phát triển và lan rộng giảm
nguy cơ thiệt hại về kinh tế và môi trường.


12

Nấm Ceratosystis xâm nhập qua các vết thương vết cắt ở các bộ phận
của cây như thân, cành, lá làm cây bị chết héo.
2.2.3. Nghiên cứu về biện pháp phòng trừ bệnh
Nên phòng trừ bệnh ngay tại vườn ươm, phát hiện biểu hiện cây bị
bệnh trước tiên nên xịt Rovral từ 2-3 lần, nhất là giai đoạn gần xuất cây
đi trồng.
Nên tiến hành gieo hạt thẳng vào túi bầu thay vì gieo trực tiếp rồi mới
tiến hành nhổ cây vì làm như vậy để tránh nguồn bệnh có thể có sẵn trong líp
gieo, gieo thẳng trong túi bầu có bệnh cũng sẽ dễ phòng ngừa.
Tăng cường bón phân P và K (P phải có tỷ lệ nhất định trong hỗn hợp
ruột bầu) để tăng tính kháng bệnh. Đặc biệt là K để chống sự xâm nhiễm qua
vách tế bào. Tuyệt đối không nên dùng đơn phân nhất là N (Urê) ở lần bón
thứ nhất (7 -10 ngày sau khi trồng) vì khi phát bệnh bón N thì lá non sẽ phát
triển mạnh, ngọn rất mềm và yếu, tạo ra môi trường xâm nhiễm nấm.

Thường xuyên theo dõi giai đoạn đầu sau khi trồng nếu thấy xuất hiện
bệnh với tỷ lệ 5% thì nên tiến hành nhổ bỏ và đi đốt nơi khác.
Biện pháp canh tác: chăm sóc cây đầy đủ, cung cấp dinh dưỡng hợp lý
cho vườn cây; sau khi thu hoạch, tiến hành cắt tỉa và tiêu huỷ những cành sâu
bệnh, cành vô hiệu bên trong tán, vệ sinh vườn sạch sẽ. Bệnh có thể lây lan
qua dụng cụ cắt tỉa, do đó sau mỗi lần cắt tỉa cũng như khi sử dụng dụng cụ từ
cây bị bệnh sang cây khoẻ nên khử trùng dụng cụ bằng cách ngâm dụng cụ
trong dung dịch cồn 900 trong 10 phút nhằm tiêu diệt mầm bệnh cũng như
tránh sự lây lan; cắt bỏ cành, cây bị bệnh nặng, tiêu huỷ tập trung. Quét thuốc
trừ nấm hoặc nước ngay vết cắt để tránh nhiễm bệnh ngay vết thương. Lưu ý:
nếu vết cắt vẫn còn ứa ra lớp nhựa đen có chứa bào tử nấm thì tiếp tục cắt sâu
vào và tiếp tục quan sát cho đến khi vết cắt khô hẳn.


13

Rải vôi xung quanh tán cây, 2 lần/năm (đầu mùa mưa và đầu mùa
nắng); không được chiết cành hoặc sử dụng mắt ghép trên cây nhiễm bệnh
làm vật liệu ghép vì có nấm có khả năng lây nhiễm qua cách nhân giống bằng
phương pháp vô tính.
Biện pháp sinh học: bón phân hữu cơ, phân chuồng đã ủ hoai kết hợp
với nấm đối kháng Trichoderma để cải thiện hệ vi sinh vật đất đồng góp phần
làm giảm mầm bệnh lưu tồn trong đất.
Biện pháp hoá học: phun thuốc diệt trừ kiến đen, mối và bọ cánh cứng
trên cây. Đối với việc khoanh vỏ xử lý ra hoa: không nên mở vết khoanh quá
lớn và nếu được có thể dùng thuốc trừ nấm (Coc 85, Mancozeb) quét quanh
vết khoanh để hạn chế sự tấn công cuả bệnh. Phun ngừa thuốc trừ nấm có phổ
rộng như: Coc 85, Norshield, Zineb, Mancozeb hay Gomi, Pysaigon, TopsinM, Agotop. Cây bị bệnh xử lý bằng Mancozeb (Dithane M45, Pencozeb),
Carbendazim (Bavistin, Benzimidine).
2.3. Thông tin chung về Keo lai

Tên khoa học: Acacia mangium x Acacia auriculiformis
Họ thực vật: Đậu (Leguminosae)
Họ phụ: Trinh nữ (Mimosoidae).
Đặc điểm hình thái
Cây gỗ nhỡ, cao tới 25 - 30m, đường kính tới 30 - 40cm, cao và to hơn
Keo tai tượng và Keo lá tràm, các đặc tính khác có dạng trung gian giữa 2 loài
bố mẹ. Thân thẳng, cành nhánh nhỏ, tỉa cành khá, tán dày và rậm.
Từ khi hạt nẩy mầm tới hơn 1 tháng hình thái lá cũng biến đổi theo 3
giai đoạn lá mầm, lá thật và lá giả. Lá giả mọc cách tồn tại mãi. Chiều rộng lá
hẹp hơn chiều rộng lá keo tai tượng nhưng lớn hơn chiều rộng lá keo lá tràm.
Hoa tự bông 5 - 6 hoa/1 hoa tự vàng nhạt mọc từng đôi ở nách lá. Quả
đậu dẹt, khi non thẳng khi già cuộn hình xoắn ốc. Mùa hoa tháng 3-4, quả


14

chín tháng 7 - 8. Vỏ quả cứng, khi chín màu xám và nứt. Mỗi quả có 5 - 7 hạt
màu nâu đen, bóng. Một kg hạt có 45.000 - 50.000 hạt, thu được từ 3 - 4kg
quả.
Đặc tính sinh thái
Keo lai tự nhiên được phát hiện lần đầu vào năm 1972 trong số các cây
keo tai tượng trồng ven đường ở Sabah – Malaixia. Ở Thái Lan đầu tiên cũng
tìm thấy Keo lai được trồng thành đám ở Muak-Lek, Salaburi.
Ở nước ta giống Keo lai ở Ba Vì có nguồn gốc cây mẹ là Keo tai tượng
xuất xứ Pain-tree bang Queensland – Australia. Cây bố là Keo lá tràm xuất xứ
Darwin bang Northern Territory – Ôxtrâylia. Ở Đông Nam Bộ hạt giống lấy
từ cây mẹ Keo tai tượng xuất xứ Mossman và cây bố Keo lá tràm cũng ở
Ôxtrâylia nhưng không rõ xuất xứ. Về cơ bản các giống Keo lai đã phát hiện
ở nước ta đều có cây mẹ cùng vùng sinh thái giống nhau: Vĩ độ 12o20’-16o20’
Bắc, kinh độ 132o16’-145o30’ Đông, lượng mưa 800-1900mm.

Keo lai có sức sinh trưởng nhanh hơn rõ rệt so với loài keo bố mẹ. Với
một số dòng Keo lai đã chọn lọc trồng thâm canh 3 tuổi đạt trung bình 8,6 9,8m về chiều cao, 9,8 - 11,4cm về đường kính, 19,4 - 27,2 m3/ha/năm về
lượng sinh trưởng và 50 - 77m3/ha về sản lượng gỗ. Rừng Keo lai 7 - 8 tuổi
đạt 150 - 200m3 gỗ/ha, có thể nhiều hơn 1,5 - 2 lần rừng Keo tai tượng và Keo
lá tràm.
Keo lai có nhiều hạt và khả năng tái sinh tự nhiên bằng hạt rất mạnh.
Rừng trồng 8 - 10 tuổi sau khi khai thác trắng, đốt thực bì và cành nhánh, hạt
nẩy mầm và tự tái sinh hàng vạn cây trên 1 ha. Tuy nhiên không trồng rừng
Keo lai bằng cây con từ hạt mà phải bằng cây hom.
Keo lai là một trong các loài cây chủ lực cung cấp gỗ nguyên liệu
giấy. Tỷ trọng gỗ 0,542, hàm lượng xenlulô 45,36%, tổng các chất sản xuất
bột giấy 95,2%, hiệu suất bột giấy 52,8%, độ nhớt của bột 36,6, độ chịu gấp,


15

chịu đập cao hơn hoặc trung gian của 2 loài keo bố mẹ. Ngoài ra Keo lai còn
dùng làm gỗ dán, ván dán cao cấp, gỗ xẻ dùng trong xây dựng và xuất khẩu.
Keo lai mọc nhanh, cành lá phát triển mạnh, xanh quanh năm, sau khi
trồng 1 - 2 năm rừng đã khép tán, cải thiện được tiểu khí hậu, đất đai nơi
trồng, che chắn hạn chế dòng chảy, trả lại 1 lượng cành khô lá rụng cho đất.
Cây con 3 tháng tuổi có 40 - 80 nốt sần cộng sinh, chứa hàng triệu vi khẩu cố
định đạm nhiều gấp 3 - 12 lần so với Keo tai tượng và Keo lá tràm. Trong 1
gam đất dưới rừng Keo lai 5 tuổi có lượng vi sinh vật gấp 5 - 17 lần các loài
keo bố mẹ và gấp 96 lần ở nơi đất trống.
Với mục đích trồng rừng cung cấp gỗ nguyên liệu giấy, ván dăm áp
dụng khai thác chính là chặt trắng và tiếp tục trồng lại rừng mới bằng cây
hom, mô. Năng suất rừng đạt 20 - 25m3/ha/năm hoặc hơn, tương đương với
sản lượng khai thác được 150 - 200m3 gỗ cho 1ha rừng với chu kỳ 7 - 8 năm.
Với mục đích trồng rừng kinh doanh gỗ nhỏ kết hợp gỗ xẻ, đến tuổi 4 5 tỉa những cây sâu bệnh, sinh trưởng kém, hình thân xấu với cường độ 40%

số cây, giữ lại 700 - 800 cây/ha nuôi dưỡng, đến tuổi 10 - 12 khai thác trắng.
Ở nước ta Keo lai được trồng ở hầu hết các tỉnh từ Miền Bắc, Miền
Trung, Tây Nguyên và Đông Nam Bộ với mục đích chủ yếu làm nguyên
liệu cho công nghiệp sản xuất giấy. Tuy nhiên gần đây tại một số vùng
trồng Keo trọng điểm trên đã xuất hiện những cây Keo lai bị chết héo từ
trên ngọn xuống hay còn gọi là hiện tượng cây chết ngược, bệnh rất khó
phát hiện ở giai đoạn đầu. Các mẫu bệnh đã được phòng Bảo vệ rừng
Viện Khoa học Lâm Nghiệp giám định nguyên nhân là do loài nấm
Ceratocystis sp gây ra.


16

2.4. Tổng quan khu vực nghiên cứu
2.4.1. Vị trí địa lí
Khe Mo là 1 xã thuộc huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên. Xã có diện
tích 30.24 km2, xã nằm tại phần giữa của huyện và có tuyến tỉnh lộ chạy qua
phần phía Tây Nam.
Tọa độ: 21o39’39’’B 105o52’26’’Đ.
Phía Tây Bắc giáp với thị trấn Sông Cầu và xã Quang Sơn
Phía Bắc giáp với xã La Hiên của huyện Võ Nhai
Phía Đông giáp với xã Văn Hán
Phía Nam giáp với xã Linh Sơn
Phía Tây Nam giáp xã Hóa Trung và xã Hóa Thượng.
2.4.2. Địa hình địa chất
Xã Khe Mo thuộc vùng núi, tỷ lệ đồi núi chiếm khoảng 60% diện tích
tự nhiên.
Nhìn chung xã có địa hình phức tạp, nhấp nhô không bằng phẳng, cơ
cấu đất chủ yếu là đất Feralit vàng đỏ rất phù hợp cho sự phát triển của nhiều
loại cây công nghiệp lâu năm như chè, các loại cây lâm nghiệp cung cấp lâm

sản cho nhu cầu kinh doanh công nghiệp và đời sống nhân dân, ngoài ra còn
phù hợp cho một số loại cây ăn quả.
Do cấu trúc địa chất nên địa hình của xã nghiêng dần từ đông sang tây,
độ cao trùng bình khoảng 150m. Phía Đông là những dãy núi đất có độ cao
trung bình từ 200 – 300m, tầng đất dày, tuy nhiên lớp phủ thực vật kém nên
hiện tượng xói mòn rửa trôi diễn ra phổ biến. Phía nam là dãy núi đất xen với
những đồi thấp có độ cao trung bình từ 100 – 250m. Các dãy núi trên địa bàn
xã nằm trải dài nên tạo ra các thung lũng rộng, xen kẽ là những cánh đồng có
khả năng phát triển nông nghiệp tốt.
2.4.3. Khí hậu, thủy văn


17

2.4.3.1. Khí hậu
Xã có khí hậu nhiệt đới thuộc tiểu vùng Đông Bắc của tỉnh Thái
Nguyên, mùa đông lạnh ít mưa, mùa hè nắng ẩm mưa nhiều.
* Nhiệt độ: Nhiệt độ trung bình năm 23,8oC.
- Nhiệt độ cao trung bình cao 35oC - 37oC nhiệt độ cao nhất lên đến
40oC vào các tháng 7 kèm theo mưa to.
- Nhiệt độ trung bình thấp nhất của năm xuống dưới 10oC (tháng 12
đến tháng 1), thấp nhất là tháng 1 nhiệt độ xuống dưới 8oC, có khi kèm theo
sương muối.
* Gió: Hướng gió chủ đạo: gió Đông Nam về mùa hè, gió Đông Bắc về
mùa đông. Vận tốc gió trung bình 2m/s. Ngoài ra hàng năm vào mùa đông
còn chịu ảnh hưởng khá mạnh của gió mùa Đông Bắc.
* Mưa: Lượng mưa trung bình năm từ 1600mm ÷ 1800mm. Mưa theo
mùa, mùa mưa từ tháng 4 đến tháng 9, lượng mưa tập trung chủ yếu vào từ
cuối tháng 6 ÷ tháng 9, có đợt mưa kéo dài 2 - 3 ngày chiếm đến 70% lượng
mưa cả năm. Mùa khô từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau. Vào các tháng 1, 2

thường có mưa phùn và giá rét kéo dài do ảnh hưởng của các đợt gió mùa
Đông Bắc. Lượng mưa mùa khô thấp chỉ khoảng 17 - 24 mm.
Mùa khô: kéo dài từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau, hướng gió chủ yếu
là hướng Bắc và hướng Đông Bắc. Mùa này thường có rét kéo dài, nhiệt độ
thấp, lượng nước bốc hơi lớn.
Mùa mưa: kéo dài từ tháng 5 đến tháng 9, hướng gió chính là Nam và Đông
Nam, mùa này lượng mưa lớn gần như lượng mưa tập trung vào cả mùa nóng.
* Độ ẩm không khí: Độ ẩm không khí trung bình 80 ÷ 90%. Độ ẩm
tháng cao nhất khoảng 90%, tháng thấp nhất 60%.
* Nắng: Số giờ nắng trung bình 1.600giờ ÷ 1.800giờ/năm. Mùa hè
khoảng 6 - 7 tiếng/ngày, mùa đông 3 - 4 tiếng/ ngày.


18

Nhìn chung khí hậu thời tiết thuận lợi cho việc phát triển nông lâm nghiệp,
tuy nhiên do lượng mưa phân bố đồng đều nên vào mùa mưa hiện tượng xói mòn,
rửa trôi diễn ra mạnh mẽ, ngược lại vào mùa khô lại thiếu nước phục vụ cho sản
xuất, điều đó đã ảnh hưởng đến năng suất và sản lượng cây trồng.
2.4.3.2. Thủy văn
Toàn xã có 19 ha đất sông suối và mặt nước chuyên dùng, trong đó có
một hệ thống suối và khe lạch dày đặc, đây chính là điều kiện tự nhiên thuận
lợi cho việc cung cấp nước để sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, trữ lượng
nước của suối, hồ đập lại phụ thuộc vào lượng mưa hàng năm. Do lượng mưa
tập trung chủ yếu từ tháng 5 đếnn tháng 10 làm cho chế độ dòng chảy nhiều
khi thay đổi gây ra hiện tượng xói mòn, sạt lở, lũ lụt vào mùa mưa, khô hạn
về mùa đông, gây ảnh hưởng đến các loài cây trồng.
2.4.4. Các nguồn tài nguyên
2.4.4.1. Tài nguyên đất
Theo số liệu kiểm kê đất đai năm 2011, tổng diện tích tự nhiên của xã

Khe Mo là 2967,76 ha, chiếm 6,63% tổng diện tích tự nhiên toàn huyện.
Đất nông nghiệp của xã là nhóm đất có quy mô diện tích lớn nhất với 2603,2
ha, chiếm 87,72% tổng diện tích tự nhiên.
Đất phi nông nghiệp (bao gồm cả đất ở) của xã là 341,66 ha chiếm
11,51% tổng diện tích tự nhiên.
- Đất phù sa: đây là lọai đất tốt hiện sử dụng chủ yếu và sản xuất
nông nghiệp.
- Đất dốc tụ: đất được hình thành do tích tụ các sản phẩm phong hoá do đó
có độ phì khá cao, hiện được sử dụng cho sản xuất nông nghiệp là chủ yếu.
- Đất Feralit vàng nhạt phát triển trên đá cát: loại đất này thích hợp với
sản xuất nông – lâm nghiệp.
- Đất Fralit đỏ vàng trên đá macma: Loại đất này có tính chua.
Đất chưa sử dụng: còn 22,9 ha chiếm 0,77% tổng diện tích đất tự nhiên.


×