Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

TIỂU LUẬN BÌNH ĐẲNG GIỚI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.2 MB, 20 trang )

MỤC LỤC

Trang
MỞ ĐẦU

2

NỘI DUNG

3

1. Một số khái niệm

3

1.1. Giới

3

1.2. Bình đẳng xã hội

3

1.3. Bình đẳng giới

3

2. Thực trạng về bất bình đẳng giới trong giáo dục

4


2.1. Trên thế giới

4

2.2. Ở Việt Nam

5

3. Những hệ quả của bất bình đẳng giới trong giáo dục

8

4. Một số nguyên nhân

9

5. Một số giải pháp cho vấn đề bất bình đẳng giới ở Việt Nam

10

KẾT LUẬN

13

TÀI LIỆU THAM KHẢO

14

1



MỞ ĐẦU

Bình đẳng giới là vấn đề được cả xã hội quan tâm. Nếu vấn đề giải phóng phụ
nữ là vấn đề cơ bản nhất trong các vấn đề của phụ nữ thì quyền bình đẳng giữa nam
và nữ lại là nội dung quan trọng nhất, cốt lõi nhất của vấn đề này. Chính vì vậy mà
Bác Hồ đã khẳng định: “Công dân đều bình đẳng trước pháp luật. Đàn bà có quyền
bình đẳng với đàn ông về các mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và gia đình”.
Trong lĩnh vực giáo dục, vấn đề bình đẳng giới càng có ý nghĩa sâu sắc.
Giáo dục có vị trí, vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống xã hội của con
người. Nhà xã hội học Pháp Emile Durkheim từng nói: “Giáo dục có chức năng xã
hội hóa cá nhân, giáo dục giúp cho các thế hệ trẻ được chuẩn bị để bước vào cuộc
sống xã hội, giáo dục có chức năng củng cố sự đoàn kết xã hội và duy trì trật tự xã
hội.
Nghiên cứu bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục là một việc làm cần thiết
trong xã hội hiện nay, nhằm mục đích tìm ra các biện pháp nâng cao bình đẳng giới
trong giáo dục và trong xã hội. Với tư cách là một bộ phận của xã hội, sự nghiệp
phát triển giáo dục hiện nay không thể không tính đến vấn đề giới.
Chính vì những lí do cấp thiết đó mà tôi chọn nghiên cứu vấn đề bất bình đẳng
giới trong lĩnh vực giáo dục.

2


NỘI DUNG

1. Một số khái niệm
1.1. Giới
“Giới (gender): là một thuật ngữ chỉ vai trò, trách nhiệm và quyền lợi mà xã
hội quy định cho nam và nữ nhìn từ góc độ xã hội; giới đề cập đến sự phân công

lao động, các kiểu phân chia nguồn lực và lợi ích giữa nam và nữ trong một bối
cảnh xã hội cụ thể”.
Đặc trưng cơ bản nhất của giới là do dạy và học mà có, Vì vậy, những đặc
trưng về giới mang tính xã hội, do xã hội quy định. Giới thể hiện các đặc trưng của
xã hội của phụ nữ và nam giới nên rất đa dạng. Nó phụ thuộc vào đặc điểm văn
hóa, chính trị, kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia, các khu vực, các giai tầng xã hội.
Các quan niệm, hành vi, chuẩn mực xã hội về giới hoàn toàn có thể thay đổi được.
1.2. Bình đẳng xã hội
“Bình đẳng xã hội: là nói tới sự thừa nhận và sự thiết lập các định kiến, các cơ
hội và các quyền lợi ngang nhau cho sự tồn tại và phát triển của các cá nhân, các
nhóm xã hội”. Trên lý thuyết, bất bình đẳng xã hội có nghĩa là không bằng nhau,
không ngang nhau về các khía cạnh cơ bản của đời sống xã hội giữa các cá nhân,
các nhóm người. Trên thực tế, khái niệm bất bình đẳng xã hội được dùng chủ yếu
để chỉ mối tương quan xã hội nào không ngang bằng nhau đến mức gây tổn hại đén
quyền và lợi ích của bên yếu thế.
1.3. Bình đẳng giới
“Là một cách tiếp cận giải quyết các vấn đề đang đối diện với cả nam và nữ
theo cách chia sẻ các lợi ích của phát triển một cách bình đẳng, bảo đảm chóng lại
gánh nặng thiên lệch của những tác động tiêu cực”.
3


Trong đó, nam giới và nữ giới được bình đẳng với nhau về:
- Các điều kiện để phát huy đầy đủ tiềm năng
- Các cơ hội tham gia đóng góp và hưởng lợi từ các nguồn lực xã hội và quá
trình phát triển.
- Quyền tự do và chất lượng cuộc sống bình đẳng.
- Được hưởng thành quả bình đẳng trong mội lĩnh vực của xã hội.
2. Bình đẳng giới trong giáo dục:
2.1. Khái niệm bình đẳng giới trong giáo dục:

Bình đẳng giới trong lĩnh vực GD-ĐT là việc nam, nữ bình đẳng về độ tuổi đi
học, đào tạo, bồi dưỡng; bình đẳng trong việc lựa chọn ngành, nghề học tập, đào
tạo; bình đẳng trong việc tiếp cận và hưởng thụ các chính sách về giáo dục, đào tạo,
bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ. Nữ cán bộ, công chức, viên chức khi tham gia
đào tạo, bồi dưỡng mang theo con dưới 36 tháng tuổi được hỗ trợ theo qui định của
Chính phủ.
2.2.

Ý

nghĩa

của

bất

bình

đẳng

giới

trong

giáo

dục:

Bình đẳng giới trong giáo dục làm tăng chất lượng nguồn nhân lực trung bình
của xã hội.

Bình đẳng giới trong giáo dục làm tăng chất lượng nguồn nhân lực trung bình của


hội.

Nếu chúng ta giả định rằng, trẻ em trai và gái có khả năng thiên bẩm như nhau và
những đứa trẻ có khả năng hơn sẽ được học tập và đào tạo nhiều hơn, thì việc thiên
vị trẻ em trai có nghĩa là những trẻ em trai có tiềm năng thấp hơn trẻ em gái lại
được học hành nhiều hơn, như thế, chất lượng nguồn nhân lực trong nền kinh tế sẽ
thấp hơn mức có thể đạt được và kìm hãm tiềm năng tăng trưởng kinh tế.
Bình đẳng giới trong giáo dục có ảnh hưởng tích cực đến chất lượng nguồn nhân
lực

của

tương

lai.

Khi mức độ bất bình đẳng giới trong giáo dục giảm đi, tức là ở mỗi cấp đào tạo, tỷ
4


lệ nữ so với nam tăng lên và khi trình độ và nhận thức của phụ nữ trong gia đình
được cải thiện, số lượng và chất lượng đầu tư cho giáo dục đối với con cái sẽ được
cải thiện trực tiếp thông qua sự dạy dỗ của người mẹ cũng như khả năng thuyết
phục hoặc quyền của người mẹ trong việc đầu tư nhiều hơn cho giáo dục đối với
con

cái.


Ngoài ra, trình độ của người mẹ cao hơn, đóng vai trò quyết định trong việc chăm
sóc và dinh dưỡng đối với con cái. Về lâu dài, các tác động này sẽ làm cho chất
lượng nguồn nhân lực được cải thiện và năng suất lao động trung bình của toàn xã
hội sẽ được nâng lên.
2.3.

Bình

đẳng

giới

trong

lĩnh

vực

giáo

dục



đào

tạo

- Nam, nữ bình đẳng về độ tuổi đi học, đào tạo, bồi dưỡng.

- Nam, nữ bình đẳng trong lựa chọn ngành, nghề học tập, đào tạo.
- Nam, nữ bình đẳng trong việc tiếp cận và hưởng thụ các chính sách về giáo dục,
đào

tạo,

bồi

dưỡng

chuyên

môn,

nghiệp

vụ.

- Nữ cán bộ, công chức, viên chức khi tham gia đào tạo, bồi dưỡng mang theo con
dưới

36

tháng

tuổi

được

hỗ


trợ

theo

quy

định

của

Chính

phủ.

Biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo bao gồm:
-

Quy

định

tỷ

lệ

nam,

nữ


tham

gia

học

tập,

đào

tạo

- Lao động nữ khu vực nông thôn được hỗ trợ dạy nghề theo quy định của pháp
luật.
3. Vai trò của người phụ nữ trong xã hội nói chung
Lịch sử cổ, trung và cận đại luôn coi người phụ nữ là nguồn hạnh phúc, là chủ thể
quan trọng trong việc chăm sóc chồng con, đỡ đần cho cha mẹ khi già yếu, là chỗ
dựa cho gia đình trong nhiều phương diện cuộc sống. Đã từng có người cho rằng:
“Nếu một người đàn ông hư hỏng thì chỉ hư hỏng một người, nhưng một người phụ
nữ hư hỏng thì hư hỏng cả nhà”. Từ xưa đến nay, với vai trò người yêu, người vợ,
người mẹ - người phụ nữ luôn được yêu thương và chiếm vị trí quan trọng trong
5


mọi tầng lớp xã hội. Lịch sử đã từng chứng minh rằng, vai trò của người phụ nữ,
không phải bây giờ chúng ta mới đề cập đến, mà trước đây vai trò của người phụ
nữ đã từng được xác định trong xã hội. Quốc mẫu Âu Cơ, Trưng Trắc và Trưng
Nhị, Triệu Thị Trinh,Thái hậu Dương Vân Nga, Nguyên phi Ỷ Lan (Lê Thị Ỷ Lan),
Huyền Trân Công, Bùi Thị Xuân, Nữ sĩ Đoàn Thị Điểm, Bà Huyện Thanh Quan ,
Thái hậu Từ Dũ … Ngoài ra, với phụ nữ là dân thường, không ít phụ nữ lam lũ với

những số phận, cuộc sống eo hẹp nhưng cũng đã được lưu lại những hình ảnh đẹp,
được ghi chép sử sách, kể cả thời kỳ Nho giáo được đề cao.
Maxim Gorki – nhà văn lớn của nước Nga – Xô Viết đã có những lời lẽ ca
tụng người phụ nữ: “Không có mặt trời thì hoa không nở, không có tình yêu thì
không có hạnh phúc, không có đàn bà thì không có tình yêu, không có người mẹ thì
cả nhà thơ và anh hùng đều không có”.
Trong cuộc chiến tranh giành độc lập và thống nhất đất nước, phụ nữ Việt
Nam đã cống hiến rất nhiều và từ các cuộc đấu tranh giành độc lập đó, đã sản sinh
rất nhiều nữ anh hùng: Nguyễn Thị Minh Khai, Võ Thị Sáu, Hoàng Ngân, Mạc Thị
Bưởi, Nguyễn Thị Chiên, Nguyễn Thị Lét, Tạ Thị Kiều, Kan Lịch, Lê Thị Hồng
Gấm, Nguyễn Thị Định, Nguyễn Thị Bình, Nhất Chi Mai, Nguyễn Thị Út (Út
Tịch). Trước đây, trong chiến tranh giành độc lập chống xâm lăng, Hai Bà Trưng
cùng thề: “Một xin rửa sạch nước thù, Hai xin dựng lại nghiệp xưa họ Hùng, Ba
giải oan ức cho chồng, Bốn xin vẹn vẹn sở công lệnh này”. Vài thế kỷ sau, người
thiếu nữ Triệu Thị Trinh đã tự khẳng định mình là một nhi nữ hào kiệt: “Tôi muốn
cưỡi cơn gió mạnh, đạp làn sóng lớn, chém cá kình ngoài biển Đông”.
Trong các cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ, đã xuất hiện nhiều phụ
nữ tiêu biểu. Họ là những con người lòng son dạ sắt, không quản gian nguy, vừa
lao động, vừa sản xuất, vừa chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Ý chí của họ được thể
hiện trong khẩu hiệu “Ruộng rẫy là chiến trường, cuốc cày là vũ khí”, trong đó
hàng vạn nữ nông dân và công nhân “tay cày, tay súng”, “tay búa, tay súng” tạo thế
một hậu phương vững chắc, trên đồng ruộng, công trường, nhà máy, hầm mỏ,…

6


Trong chiến tranh, người phụ nữ Việt Nam được tôn vinh là những anh hùng
và những Bà Mẹ Việt Nam Anh hùng, được Bác Hồ tặng 8 chữ vàng “Anh hùng,
Bất khuất, Trung hậu, Đảm đang”.
Hiện nay chưa phải đã hết những định kiến, nghi ngại, thậm chí là kỳ thị đối

với phụ nữ, song nhìn toàn diện đều có sự thống nhất về nhận xét đối với người phụ
nữ Việt Nam, đã có vai trò to lớn đối với sự phát triển mọi mặt của đời sống kinh tế
và xã hội: Tỷ lệ nữ tham gia lực lượng lao động xã hội chiếm đến 78,2% so với
nam giới là 86%. Có nhiều lĩnh vực trước đây chỉ dành riêng cho nam giới như
nghiên cứu, ứng dụng khoa học kỹ thuật, các ngành công nghệ mới thì ngày nay
không còn là lĩnh vực nào mà người phụ nữ không có mặt. Phụ nữ đã và đang tham
gia một cách tích cực vào đời sống xã hội trên những phương diện khác nhau. Tỷ lệ
đại biểu quốc hội nữ đã tăng từ 3% trong nhiệm kỳ đầu lên gần xấp xỉ 26% trong
nhiệm kỳ 12. Mặc dù vậy, khoảng cách về giới trong hoạt động xã hội hiện còn lớn,
tỷ lệ nữ có học hàm, học vị chưa cao. Đây cũng chính là nguyên nhân gây nên sự
bất bình đẳng trong xã hội.
Trong xu thế hội nhập và phát triển, phụ nữ tiếp tục phát huy và khẳng định
vai trò to lớn của mình đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Một khi nền kinh tế
càng phát triển thì phụ nữ càng có nhiều cơ hội tham gia vào quá trình biến đổi
cách mạng và sâu sắc, tạo điều kiện để phụ nữ tham gia vào quá trình biến đổi đó.
Nhìn chung, vai trò của người phụ nữ ở phần lớn các nước trên thế giới và ở
nước ta trong những thế kỷ qua đã có những thay đổi đáng kể. Phụ nữ đã có mặt
trong nhiều lĩnh vực, ngoài phạm vi gia đình và nghề nghiệp, mặc dù sự tham gia
đó còn khiêm tốn và thiếu đồng bộ. Không chỉ với vai trò là một công dân, người
phụ nữ còn làm tốt vai trò người vợ, người mẹ, người con trong gia đình, có trách
nhiệm lớn lao trong chia sẻ trách nhiệm và giữ gìn giá trị truyền thống văn hóa, bản
sắc của mỗi một dân tộc.
Trong điều kiện đời sống còn gặp nhiều khó khăn, cùng những tác động phản
diện của nền kinh tế thị trường, phụ nữ đã thể hiện tình thương và trách nhiệm,
lòng nhân ái, đức hy sinh, kết hợp với sự hiểu biết, ứng xử khéo léo trong các mối
quan hệ gia đình, họ tộc, trọn đạo hiếu thảo, là điểm tựa vững chắc cho chồng con
7


công thành danh toại, trong đó có việc nuôi dạy con cái. Họ chính là những người

phụ nữ có đầy đủ đức tính tốt đẹp, xứng đáng với sự đánh giá: “Phúc đức tại mẫu,
nhân hiền tại mẫu”.

4. Thực trạng vấn đề bất bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục
2.1. Ý nghĩa của bình đẳng giới trong giáo dục
Bình đẳng giới trong giáo dục làm tăng chất lượng nguồn nhân lực trung bình
của



hội.

Nếu chúng ta giả định rằng, trẻ em trai và gái có khả năng thiên bẩm như nhau và
những đứa trẻ có khả năng hơn sẽ được học tập và đào tạo nhiều hơn, thì việc thiên
vị trẻ em trai có nghĩa là những trẻ em trai có tiềm năng thấp hơn trẻ em gái lại
được học hành nhiều hơn, như thế, chất lượng nguồn nhân lực trong nền kinh tế sẽ
thấp hơn mức có thể đạt được và kìm hãm tiềm năng tăng trưởng kinh tế.
Bình đẳng giới trong giáo dục có ảnh hưởng tích cực đến chất lượng nguồn nhân
lực

của

tương

lai.

Khi mức độ bất bình đẳng giới trong giáo dục giảm đi, tức là ở mỗi cấp đào tạo, tỷ
lệ nữ so với nam tăng lên và khi trình độ và nhận thức của phụ nữ trong gia đình
được cải thiện, số lượng và chất lượng đầu tư cho giáo dục đối với con cái sẽ được
cải thiện trực tiếp thông qua sự dạy dỗ của người mẹ cũng như khả năng thuyết

phục hoặc quyền của người mẹ trong việc đầu tư nhiều hơn cho giáo dục đối với
con

cái.

Ngoài ra, trình độ của người mẹ cao hơn, đóng vai trò quyết định trong việc chăm
sóc và dinh dưỡng đối với con cái. Về lâu dài, các tác động này sẽ làm cho chất
lượng nguồn nhân lực được cải thiện và năng suất lao động trung bình của toàn xã
hội sẽ được nâng lên.
2.2. Thực trạng:
2.2.1. Trên thế giới
8


Theo một báo cáo của UNICEF, vào tháng 12 năm 2006, nhân dịp kỉ niệm 60
năm ngày thành lập của tổ chức này, việc loại bỏ sự phân biệt đối xử về giới và
nâng cao vị thế của phụ nữ sẽ tạo ra một sự tác động sâu sắc và tích cực đến sự
sống còn và phát triển của trẻ em. Bà Ann M. Veneman – Giám đốc điều hành
UNICEF phát biểu: “Khi vị thế của người phụ nữ được nâng lên để có một cuộc
sống đầy đủ và hữu ích, trẻ em và giáo dục họ sẽ trở nên thịnh vượng”. Theo báo
cáo này, mặc dù trong những thập kỉ gần đây đã có một số tiến về vị thế của phụ nữ
nhưng cuộc sống của hàng triệu “trẻ em gái và phụ nữ vẫn bị đe dọa bởi sự phân
biệt đối xử, việc bị tước quyền và nghèo khổ. Hậu quả của sự phân biệt đối xử là
trẻ em gái ít có cơ hội được học hơn. Ở các nước đang phát triển, gần như 1/100 trẻ
em gái đi học ở trường tiểu học sẽ không theo học được hết cấp. Trình độ học vấn,
theo báo cáo, tương quan đến sự cải thiện về các nguồn lực đầu tự cho sự sống còn
và phát triển của trẻ em.
Sự phân biệt giới trong lĩnh vực giáo dục thường diễn ra gay gắt nhất trong
nhóm nước nghèo. Một nghiên cứu gần đây về tỉ lệ đến trường của các bé gái và bé
trai ở 41 quốc gia đã cho thấy, trong những nước này, sự phân biệt về giới trong tỉ

lệ đến trường giữa nhóm nghèo thường lớn hơn giữa những nhóm không nghèo.
Tuy sự bình đẳng trong giáo dục đã có sự cải thiện rõ rệt trong vòng 30 năm qua ở
các nước ngày nay còn phụ thuộc diện thu nhập thấp, nhưng sự chênh lệch về số
nam và nữ đến trường ở những nước này vẫn lớn hơn ở các nước có thu nhập trung
bình và cao. Mặc dù giữa phát triển kinh tế và bình đẳng giới có mối quan hệ nhất
định, sự hiện diện của phụ nữ trong thu nhập quốc nội vẫn còn khiêm tốn.
2.2.2. Tại Việt Nam
Phụ nữ và trẻ em gái được tạo điều kiện bình đẳng với nam giới trong nâng cao
trình độ văn hóa và trình độ học vấn. Tỷ lệ phụ nữ so với nam giới trong số người
biết chữ đã tăng lên đáng kể. Chênh lệch về tỷ lệ học sinh nam - nữ trong tất cả các
cấp bậc học được thu hẹp. Về cơ bản, Việt Nam có thể đạt được mục tiêu xóa bỏ
9


cách biệt giới ở các cấp học trước năm 2015. Có bốn loại hình giáo dục không
chính quy, chủ yếu dành cho người lớn, trong đó có phụ nữ. Các chương trình này
đã tạo nhiều cơ hội học tập đối với phụ nữ hơn rất nhiều so với trước.
Nhận thức được thực trạng và tầm quan trọng của người phụ nữ, đặc biệt là vai trò
của giáo dục đối với xã hội, ngành Giáo dục & Đào tạo đã thực hiện tương đối tốt
vấn đề bình đẳng giới. Cựu Thứ trưởng Bộ Giáo dục & Đào tạo Đặng Huỳnh Mai
đã khẳng định vai trò to lớn của giới nữ: “Chiếm hơn 70% đội ngũ toàn ngành, giới
nữ đóng vai trò đáng kể vào sự phát triển của sự nghiệp Giáo dục & Đào tạo nước
nhà”. Một số cơ sở đào tạo lớn vốn có truyền thống nam giới lãnh đạo như Đại học
Bách khoa Hà Nội nay đã có nữ giới giữ vị trí Phó hiệu trưởng. Nhiều nữ nhà giáo
được phong danh hiệu Nhà giáo nhân dân, được công nhận chức danh Phó Giáo sư.
Đặc biệt, nhiều học sinh nữ, sinh viên nữ tự khẳng định vai trò của giới mình bằng
cách tích cực học tập và rèn luyện, đạt kết quả xuất sắc. Trong các kỳ tuyển sinh
vào cao đẳng, đại học nhiều thủ khoa là học sinh nữ. Còn trong các kỳ thi tốt
nghiệp, nhiều sinh viên nữ nhận bằng cử nhân với thành tích xuất sắc: thủ khoa.
Tuy nhiên, thực chất bình đẳng giới trong Giáo dục và Đào tạo còn nhiều vấn

đề cần xem xét. Về khách quan, việc nhìn nhận vai trò của nữ giáo viên chưa đúng,
nhiều Hiệu trưởng không muốn nhận giáo viên là nữ vì sợ liên quan đến chế độ
nghỉ sinh nở, con đau ốm ảnh hưởng đến việc giảng dạy, hoặc khi đề bạt, cử đi học
còn e dè trong việc chọn nữ giáo viên. Trẻ em gái ít cơ hội được đến trường so với
nam giới. Nếu tính trung bình cho tất cả các quốc gia đang phát triển, tỷ lệ phụ nữ
biết chữ thấp hơn 29% so với nam giới, số năm đến trường trung bình thấp hơn
45% so với nam giới và tỷ lệ nhập học tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ
thông của nữ thấp hơn tương ứng là 9%, 28% và 49% so với nam.
Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng về bình đẳng giới. Tuy
nhiên, theo kết quả điều tra chọn mẫu của Ngân hàng Thế giới, năm 1997 – 1998, tỉ
lệ dân số nữ từ 15 tuổi trở lên chưa đến trường là 13,4%, nhiều hơn hai lần tỉ lệ
10


nam: 5,2%. Số năm đi học trung bình của dân số nam từ 6 tuổi trở lên là 6,7 năm,
nhiều hơn số năm đi học của nữ: 5,6%.

Bảng 1: Số học sinh phổ thông tại thời điểm 31/12/2011 trên cả nước:
Năm

2007

2008

2009

2010

2011


Nam

Nữ

Nam

Nữ

Nam

Nữ

Nam

Nữ

Nam

Nữ

Tiểu học

3.576.136

3.284.206

3.500.903

3.230.700


3.585.874

3.322.113

3.651.246

3.392.061

3.653.296

3.447.654

THCS

2.972.821

2.830.440

2.807.694

2.661.017

2.647.973

2.515.272

2.528.679

2.416.499


2.538.229

2.388.172

THPT

1.464.867

1.556.774

1.384.593

1.542.967

1.340.944

1.499.938

1.308.544

1.495.801

1.288.055

1.466.155

(Nguồn số liệu: Tổng cục Thống kê, www.gso.gov.vn)
Biểu đồ 1: Số học sinh phổ thông tại thời điểm 31/12/2011 trên cả nước:

Nhận xét: Nhìn chung số lượng nữ học sinh qua các năm tăng hoặc giảm

không đáng kể.
Bảng 2: Số giáo viên phân theo giới tính trên cả nước từ năm 2007 – 2011
Đơn vị: Nghìn người
2007

2008

2009

2010

2011

Nam

30,8

32,4

36,8

39,2

43,1

Nữ

25,3

28,3


32,8

35,4

41,1

11


(Nguồn số liệu: Tổng cục Thống kê, www.gso.gov.vn)
Biểu đồ 2: Số giáo viên phân theo giới tính trên cả nước từ năm 2007 –
2011

Nhận xét: Số lượng nữ giáo viên ( đại học và cao đẳng ) từ năm 2007 đến năm
2011 dều tăng. Cho thấy sự đầu tư về giáo dục khá lớn.
Sự bất bình đẳng bén rễ ngay trong hệ thống giáo dục và biểu hiện ở tỷ lệ học
sinh nữ tham gia ở cấp tiểu học và THCS thấp hơn tỷ lệ học sinh nam, nhất là ở các
vùng nghèo và vùng dân tộc thiểu số. Học sinh nam có nhiều cơ hội quay trở lại
học tiếp hơn học sinh nữ. Tỷ lệ trẻ em gái ở các tỉnh miền núi đi học còn thấp, chủ
yếu là các em phải ở nhà giúp gia đình, trường nội trú ở quá xa nhà và một vài nơi
vẫn còn tục lệ lấy chồng sớm. Báo cáo 'Ðánh giá tình hình giới ở Việt Nam 122006' do các tổ chức quốc tế: WB, ADB, DFID và CIDA phối hợp thực hiện cho
thấy, trong quá trình đổi mới nội dung, chương trình sách giáo khoa, mặc dù đã có
nhiều cố gắng trong việc lồng ghép giới vào chương trình và các hoạt động ngoài
giờ lên lớp, nhưng hiện nay vẫn còn có các định kiến giới trong các tài liệu giáo
dục và sách giáo khoa trong việc chia sẻ việc nhà, phân biệt đối xử trong lực lượng
lao động và các hành vi mang lại rủi ro cho nam và nữ thanh niên (khảo sát sách
giáo khoa Giáo dục Công dân lớp 9 mới cho thấy: nữ nhân vật xuất hiện trong 5/20
12



trường hợp nghiên cứu hoặc câu chuyện kể được xem xét tới, nam nhân vật xuất
hiện 11/20 và nhân vật trung tính xuất hiện 4/20).
Bảng 3: Tỉ lệ học sinh phổ thông thuộc các dân tộc ít người tại thời điểm 31/12
phân theo địa phương
Năm

2009

2010

2011

Tiểu học

52,67%

51,71%

53,68%

THCS

35,10%

34,29%

33,4%

THPT


12,23%

14%

12,92%

Biểu đồ 3: Tỉ lệ học sinh phổ thông thuộc các dân tộc ít người tại thời điểm
31/12 phân theo địa phương

3. Những hệ quả của bất bình đẳng trong giáo dục
Khi có những bất bình đẳng giữa phụ nữ và nam giới trong việc tiếp cận các
nguồn lực cuộc sống thì tất yếu dẫn đến những hệ quả tiêu cực. Thực tế đã cho thấy
điều này diễn ra ở cả trên thế giới và ở Việt Nam.

13


Có rất nhiều bằng chứng cho thấy trẻ em chịu thiệt thòi trực tiếp từ việc mẹ
chúng mù chữ hoặc không được đến trường. Không được đi học dẫn đến chất
lượng chăm sóc con cái thấp, điều này lại khiến tỉ lệ tử vong và suy dinh dưỡng ở
trẻ em và trẻ sơ sinh cao. Những bà mẹ có trình độ học vấn cao thường có hành vi
bảo vệ sức khỏe cho con cái phù hợp hơn, chẳng hạn như cho con cái đi tiêm
chủng.
Ngoài ra, trình độ của người mẹ cao hơn đóng vai trò quyết định trong việc
chăm sóc và nuôi dưỡng con cái. Về lâu dài, các tác động này sẽ làm cho chất
lượng nguồn nhân lực được cải thiện và năng suất lao động trung bình của toàn xã
hội sẽ được nâng lên.
Mặt khác, kể cả các nước có nền kinh tế mới phát triển như Trung Quốc, Hàn
Quốc, khi vấn đề bình đẳng giới không được giáo dục cũng ảnh hưởng rất lớn khi

những định kiến “trọng nam” trong xã hội cộng với chính sách chỉ đẻ một con của
Trung Quốc đã khiến tỉ lệ tử vong của bé gái cao hơn của bé trai. Theo một số ước
tính, số phụ nữ đang sống hiện nay ít hơn từ 60 – 100 triệu người so với con số khi
không có sự phân biệt đối xử theo giới.
Bất bình đẳng giới trong giáo dục làm giảm chất lượng nguồn nhân lực trung
bình của xã hội. thực vậy, nếu chúng ta giả định rằng, trẻ em trai và gái có khả năng
thiên bẩm như nhau và những đứa trẻ có khả năng hơn sẽ được học tập và đào tạo
nhiều hơn, thì việc thiên vị trẻ em trai có nghĩa là những trẻ em trai có tiềm năng
thấp hơn, như thế, chất lượng nguồn nhân lực trong nền kinh tế sẽ thấp hơn mức có
thể đạt được và kìm hãm tiềm năng tăng trưởng kinh tế.
4. Một số nguyên nhân của bất bình đẳng giới trong giáo dục
Hiện tượng bất bình đẳng tạo ra những hệ quả xã hội to lớn. Ảnh hưởng từ
quá trình tiếp cận nguồn lực của nam giới và phụ nữ đến sự phát triển của xã hội là
một thực tế đã được chứng minh. Vậy, nguyên nhân tại sao sự phân biệt đó vẫn cứ
tồn tại dai dẳng? Một số kiểu bất bình đẳng giới còn khó thủ tiêu hơn cả các hiện
14


tượng xấu khác của xã hội? Dưới đây là một số yếu tố ảnh hưởng đến các quan hệ
giới và bất bình đẳng xã hội.
Các thể chế xã hội, các chuẩn mực xã hội, tập quán xã hội, quyền hạn, luật lệ
- cũng như các thể chế kinh tế như thị trường… tác động rất lớn đến loại nguồn lực
nào mà họ được tiếp cận, hoạt động nào mà giới nào được phép tham gia, giới nào
được phép tham gia nền kinh tế - xã hội dưới hình thức nào. Chính những thể chế
đó đã quy định động cơ khuyến khích hay không khuyến khích các định kiến giới.
ngay cả khi chúng không công khai phân biệt thì những thể chế chính thức hay
không chính thức đó vẫn thường chịu sự tác động bởi các chuẩn mực xã hội về
những vai trò thích hợp theo giới. Có rất nhiều thể chế có những sức người nhất
định của nó, khiến rất khó và rất chậm để có thể thay đổi được.
Một nguyên nhân nữa là do các hộ gia đình. Các hộ gia đình đã định hình các

mối quan hệ giới ngay từ đầu của quá trình xã hội hóa cá nhân và còn truyền tải
chúng từ thế hệ này sang thế hệ khác. Có những định kiến giới của cha mẹ biểu
hiện như: quan niệm cho rằng các em gái không cần phải học nhiều mà cần phải
làm việc nội trợ giúp gia đình.
Đời sống kinh tế cũng ảnh hưởng rất nhiều đến bình đẳng giới trong giáo dục.
Tình trạng đói nghèo của gia đình, trình độ học vấn thấp của cha mẹ, các nghiên
cứu xã hội học về giáo dục cho thấy một tỉ lệ bỏ học rất đáng kể của những trẻ em
xuất thân từ gia đình nghèo, cha mẹ ít học thậm chí là không biết chữ sống ở vùng
nông thôn, vùng sâu, vùng xa.
Một nguyên nhân nữa là các chính sách phát triển về giới vẫn có thể tạo ra
những kết cục phân biệt về giới. Các chính sách, cùng với các chuẩn mực xã hội
hay phân công đồng đều có thể dẫn đến việc tiếp cận các nguồn lực không đồng
đều giữa nam và nữ. Việc không nhận thức được hoặc bỏ qua sự khác biệt về giới
khi thiết kế các chính sách có thể có hại cho hiệu lực của các chính sách đó, xét cả
trên khía cạnh công bằng lẫn hiệu quả.

15


Như vậy, các thể chế xã hội, thể chế kinh tế, hộ gia đình và các chính sách
phát triển sẽ cùng nhau quyết định các cơ hội cuộc sống – xét trên khía cạnh giới –
của con người. chúng cũng thể hiện những điểm đột phá quan trọng cho chính sách
công cộng nhằm giải quyết sự bất bình đẳng giới.
5. Định hướng đẩy mạnh công tác nữ và bình đẳng giới
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động đội ngũ cán bộ, nhà giáo và người
lao động trong ngành nói chung, chị em nói riêng tổ chức thực hiện mục tiêu, các
nhiệm vụ và giải pháp của Nghị quyết 11 Bộ Chính trị về công tác nữ; chương trình
hành động của Tổng LĐLĐ Việt Nam và chương trình hành động của ngành về
thực hiện Luật Bình đẳng giới, Luật Phòng chống bạo lực gia đình.
Tổ chức những hoạt động mang màu sắc nữ để động viên, tôn vinh nữ cán bộ,

nhà giáo và nữ học sinh, sinh viên trong ngành và trong xã hội.
Tiếp tục đẩy mạnh và đổi mới nội dung, hình thức phong trào thi đua “Dạy tốt
- Học tốt”, phong trào “Giỏi việc trường - Đảm việc nhà” phù hợp với nữ nhà giáo
ở mỗi cấp học, bậc học; thực hiện cuộc vận động xây dựng gia đình nhà giáo văn
hóa, lồng ghép với phong trào “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây
dựng gia đình hạnh phúc” để chị em không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn
và bản lĩnh chính trị, tích cực tham gia các lớp bồi dưỡng công tác quản lý; đồng
thời tổ chức tốt cuộc sống của gia đình theo tiêu chí: ít con, no ấm, tiến bộ, hạnh
phúc. Phấn đấu đạt chuẩn mực người phụ nữ ngành Giáo dục: “Yêu nước; Có trình
độ chuyên môn vững vàng, năng động, sáng tạo hoàn thành tốt nhiệm vụ được
giao; Có sức khoẻ; Có lối sống văn hoá và tấm lòng nhân hậu; Quan tâm đến lợi ích
xã hội và cộng đồng và 4 phẩm chất: Tự trọng, tự tin, đảm đang, trung hậu”.
Tham mưu cho lãnh đạo các cấp về công tác nữ và cán bộ nữ: Phát hiện, giới
thiệu cán bộ nữ vào các vị trí lãnh đạo các ở đơn vị, phấn đấu đến năm 2015 đạt các
chỉ tiêu kế hoạch bình đẳng giới ngành Giáo dục giai đoạn 2012-2015 đề ra. Củng
16


cố, kiện toàn và tăng cường hoạt động của Ban Nữ công thuộc CĐGD các cấp;
đồng thời tổ chức các lớp tập huấn bồi dưỡng phương pháp, kỹ năng đổi mới
phương thức hoạt động nữ công, bồi dưỡng cán bộ Ban Nữ công thời kỳ hội nhập.
6. Một số giải pháp về bất bình đẳng giới
Thứ nhất, thể hiện bình đẳng giới trong các chủ trương, chính sách của Đảng
và Nhà nước, tạo mọi điều kiện cho trẻ em được học hành, phát triển.Ví dụ Nghị
quyết số 11 của Bộ chính trị - BCHTW Đảng khoá X Về công tác phụ nữ trong thời
kỳ đẩy mạnh Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa đất nước.
Thứ hai, bình đẳng giới trong chăm sóc sức khỏe: Đổi mới và phát triển mạng
lưới tư vấn sức khỏe, nhất là sức khỏe sinh sản; giáo dục giới tính và tình dục an
toàn vị thành niên; vận động nam, nữ áp dụng các biện pháp tránh thai; tuyên
truyền, hướng dẫn phụ nữ biết cách chăm sóc sức khỏe bản thân và gia đình; phòng

trừ bệnh dịch.
Thứ ba, đẩy mạnh hơn nữa việc lồng ghép giới vào chương trình dạy học trong
các nhà trường.
Thứ tư, tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục truyền thông, nâng cao
nhận thức về bình đẳng giới.
Thứ năm, tăng cường năng lực và hiệu quả hoạt động của Uỷ ban Quốc gia Vì
sự tiến bộ của Phụ nữ và hệ thống các ban Vì sự tiến bộ của Phụ nữ và năng lực của
Hội Phụ nữ các cấp.
Thứ sáu, bản thân chị em phải tự lực tự cường phấn đấu để vươn lên, rèn luyện
theo các tiêu chí: có sức khoẻ, tri thức, kỹ năng nghề nghiệp, năng động sáng tạo,
có lối sống văn hoá, có lòng nhân đạo để khẳng định mình.
Cần một lộ trình tiến tới bình đẳng giới. Trong cuốn “Tình hình trẻ em thế
giới 2007” đưa ra bảy giải pháp chính nhằm cải thiện vấn đề bình đẳng giới, xin
được nêu ra để tham khảo:
17


+ Giáo dục: Các hành động chính bao gồm bãi bỏ học phí vá khuyến khích cha
mẹ và cộng đồng đầu tư vào giáo dục trẻ em gái.
+ Tài chính: Các nguồn lực cần thiết để thực hiện mục đích về bình đẳng giới
và nâng cao vị thế của phụ nữ chưa nhận được sự chú ý đầy đủ. Đầu tư để loại trừ
sự phân biệt đối xử về giới phải được đưa vào trong kế hoạch và ngân sách của các
Chính phủ.
+ Pháp luật: Luật pháp quốc gia về luật tài sản và quyền thừa kế phải bao gồm
người phụ nữ cùng với các biện pháp để phòng và xử lý bạo lực gia đình và bạo lực
xuất phát từ giới.
+ Hạn ngạch pháp lý: hạn ngạch là một cách để đảm bảo sự tham gia của phụ
nữ vào chình trường. trong số 20 quốc gia mà nữ giới chiếm đa số trong quốc hội
có 17 quốc gia sử dụng hạn ngạch.
+ Phụ nữ nâng cao vị thế cho phụ nữ: Hoạt động của phụ nữ cấp cơ sở là tiếng

nói tiên phong cho sự bình đẳng và nâng cao vị thế cho nên được đưa vào giai đoạn
đầu của sự hình thành chính sách để các chương trình được thiết kế phù hợp với
nhu cầu của phụ nữ và trẻ em.
+ Sự tham gia của nam giới và trẻ em trai: Giáo dục nam giới và trẻ em trai,
cũng như phụ nữ và trẻ em gái, về lợi ích của bình đẳng giới và cùng đưa ra quyết
định có thể giúp tạo ra mối quan hệ hợp tác tốt hơn.
+ Cải thiện nghiên cứu và số liệu: Số liệu và phân tích tốt hơn rất quan trọng,
đặc biệt là về tỉ lệ tử vong của các bà mẹ, bạo lực đối với phụ nữ, giáo dục, việc
làm, lương bổng, công việc không lương và thời gian sử dụng và sự tham gia vào
chính trị.

18


KẾT LUẬN

Lợi ích của vấn đề bình đẳng giới vượt xa hơn nhiều những tác động trực tiếp
của chúng tới trẻ em. Báo cáo Tình hình Trẻ em Thế giới 2007 chỉ ra việc khuyếnh
khích bình đẳng giới và nâng cao vị thế phụ nữ - Mục tiêu thiên niên kỉ thứ 3 – sẽ
thúc đẩy những mục tiêu khác từ giảm đói nghèo đến cứu vớt sự sống còn của trẻ
em, tăng cường sức khỏe, bảo đảm giáo dục phổ cập, phòng chống HIV/AIDS,
bệnh sốt rét và các căn bệnh khác, và bảo đảm sự bền vững về môi trường.

19


TÀI LIỆU THAM KHẢO

- TS. Trần Thị Kim Xuyến, tài liệu giảng dạy: “Giới và các vấn đề đô thị”.
- Lê Ngọc Hùng, Nguyễn Thị Mỹ Lộc, Xã hội học về giới và phát triển, Nxb.

ĐHQG HN
- Báo cáo Quốc gia của Việt Nam, tháng 8 - 2005.
- Ngân hàng Thế giới, Báo cáo phát triển Việt Nam năm 2000. Tấn công nghèo đói,
Hà Nội, 1999.
- Tài liệu: “Đưa giới vào phát triển”
- Lê Thúy Hằng: “Khác biệt giới trong dự định đầu tư của bố mẹ cho việc học của
con cái” – Tạp chí Xã hội học số 2 – 2006.

20



×