Tải bản đầy đủ (.pdf) (204 trang)

Nhóm động từ chỉ hoạt động nhận thức trong tiếng việt (liên hệ với tiếng anh)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.72 MB, 204 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
--*--

NGUYỄN THỊ THU HÀ

NHÓM ĐỘNG TỪ CHỈ HOẠT ĐỘNG
NHẬN THỨC TRONG TIẾNG VIỆT
(LIÊN HỆ VỚI TIẾNG ANH)

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC

HUẾ - 2016


ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
--*--

NGUYỄN THỊ THU HÀ

NHÓM ĐỘNG TỪ CHỈ HOẠT ĐỘNG
NHẬN THỨC TRONG TIẾNG VIỆT
(LIÊN HỆ VỚI TIẾNG ANH)

Chuyên ngành : Ngôn ngữ học
Mã số

: 62 22 02 40

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC



Người hướng dẫn khoa học:
1. GS.TSKH. Lý Toàn Thắng
2. TS. Nguyễn Thị Bạch Nhạn

HUẾ - 2016


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan những nội dung được trình bày trong luận án là kết quả
nghiên cứu của bản thân.
Nghiên cứu sinh

Nguyễn Thị Thu Hà


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến thầy giáo - GS. TSKH Lý Toàn
Thắng và cô giáo - TS. Nguyễn Thị Bạch Nhạn cùng quý thầy cô trong, ngoài trường
đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn tôi trong suốt quá trình thực hiện luận án này.
Xin cảm ơn Giáo sư Frank Concilus đã giúp tôi tiếp cận nhiều tài liệu tiếng Anh
quý giá ở thư viện Trường Đại học Maryland, Mĩ.
Xin cảm ơn những động viên tinh thần, niềm tin yêu, cùng những sẻ chia thiết
thực mà gia đình và người thân yêu đã dành tặng tôi.


DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU



chuyển nghĩa

=>

suy ra



nghĩa tương đương, xấp xỉ



nghĩa khác nhau, không tương đương

><

nghĩa đối lập nhau, trái nghĩa

>

khả năng chuyển nghĩa nhiều hơn

<

khả năng chuyển nghĩa ít hơn

>>

mức độ xác tín cao hơn

hoán đổi vị trí cho nhau

*

câu đi sau * không được chấp nhận

&



a+b

a và b, a đi cùng với b, a kết hợp với b

[+/- x]

có/không có thuộc tính x

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
AMDV:

Ăn mày dĩ vãng, Chu Lai

CONK:

Cung oán ngâm khúc, Nguyễn Gia Thiều

Cd:

ca dao


Đg:

động từ

GBBT:

Giã biệt bóng tối, Tạ Duy Anh

HPNT:

Hoàng Phủ Ngọc Tường

HTBDGT:

Hồn Trương Ba da hàng thịt, Lưu Quang Vũ

ML:

Mê lộ, Phạm Thị Hoài

NBCT:

Nỗi buồn chiến tranh, Bảo Ninh

P:

mệnh đề

PS:


phóng sự

PV:

phỏng vấn

T:

tính từ

TA:

tiếng Anh


TB:

thông báo

TGĐ:

tiền giả định

TK:

Truyện Kiều, Nguyễn Du

TL:


trả lời

TS&SN:

Mục Thời sự và Suy nghĩ, Báo Tuổi trẻ

TV:

tiếng Việt

TVH:

Tướng về hưu, Nguyễn Huy Thiệp

TXV:

Thời xa vắng, Lê Lựu

TTTN NHT: Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp
Vd:

ví dụ


MỤC LỤC
Trang phụ bìa

Trang

Lời cam đoan

Lời cảm ơn
Danh mục các kí hiệu và chữ viết tắt
Mục lục
Danh mục các bảng và mô hình
MỞ ĐẦU................................................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài .......................................................................................................... 1
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .............................................................................. 1
3. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................................. 2
4. Ngữ liệu nghiên cứu .................................................................................................... 2
5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................................. 3
6. Đóng góp của luận án .................................................................................................. 3
7. Bố cục của luận án ....................................................................................................... 4
CHƯƠNG 1 . TỔNG QUAN VÀ CƠ SỞ LÍ THUYẾT ................................................... 5
1.1. Tổng quan ................................................................................................................. 5
1.1.1. Tình hình nghiên cứu động từ chỉ hoạt động nhận thức ở nước ngoài ................ 5
1.1.2. Tình hình nghiên cứu động từ chỉ hoạt động nhận thức ở Việt Nam ................. 12
1.2. Cơ sở lí thuyết ........................................................................................................ 16
1.2.1. Hoạt động nhận thức từ một số phương diện tiếp cận ......................................... 16
1.2.3. Cơ sở lí thuyết cho việc nghiên cứu động từ chỉ hoạt động nhận thức ............... 20
1.3. Tiểu kết ................................................................................................................... 33
CHƯƠNG 2. ĐẶC ĐIỂM NGỮ PHÁP CỦA NHÓM ĐỘNG TỪ CHỈ HOẠT
ĐỘNG NHẬN THỨC TRONG TIẾNG VIỆT ................................................................ 36
(LIÊN HỆ VỚI TIẾNG ANH) ............................................................................................ 36
2.1. Dẫn nhập ................................................................................................................. 36
2.2. Cách tiếp cận “đường hướng nhiều tiêu chí” của ngữ pháp cấu trúc ..................... 38
2.2.1. Về từ loại ............................................................................................................. 38
2.2.2. Ý nghĩa khái quát................................................................................................. 39
2.2.3. Khả năng kết hợp ................................................................................................. 40



2.2.4. Chức năng cú pháp .............................................................................................. 45
2.3. Cách tiếp cận của ngữ pháp chức năng .................................................................. 49
2.3.1. Cấu trúc tham tố của động từ nhận thức .............................................................. 49
2.3.2. Phân loại động từ nhận thức theo tham số ngữ nghĩa [+/- động] và [+/chủ ý] .................................................................................................................. 53
2.4. Tiểu kết ................................................................................................................... 58
CHƯƠNG 3. ĐẶC ĐIỂM NGỮ NGHĨA CỦA NHÓM ĐỘNG TỪ CHỈ HOẠT
ĐỘNG NHẬN THỨC TRONG TIẾNG VIỆT ................................................................ 60
(LIÊN HỆ VỚI TIẾNG ANH) ............................................................................................ 60
3.1. Cấu trúc ngữ nghĩa của nhóm động từ chỉ hoạt động nhận thức trong tiếng Việt ...... 60
3.1.1. Dựa vào tiêu chí [+/- nét nghĩa đánh giá hoạt động] trong cấu trúc nghĩa của
động từ ................................................................................................................ 60
3.1.2. Dựa vào tiêu chí [+/- TGĐ] trong cấu trúc nghĩa của động từ chỉ hoạt động
nhận thức ............................................................................................................ 63
3.2. Quan hệ ngữ nghĩa của một số động từ chỉ hoạt động nhận thức tiêu biểu
trong tiếng Việt ..................................................................................................... 65
3.2.1. Hiện tượng đa nghĩa của động từ nghĩ ................................................................ 65
3.2.2. Hiện tượng đồng nghĩa, gần nghĩa, bao nghĩa của nhóm biết - hiểu ................... 74
3.3. Một số đặc điểm ngữ nghĩa đặc thù của nhóm động từ chỉ hoạt động nhận
thức ....................................................................................................................... 82
3.3.1. Hiện tượng trung gian giữa động từ chỉ hoạt động nhận thức và động từ chỉ
tâm lí - tình cảm .................................................................................................. 82
3.3.2 Sự chuyển nghĩa của động từ tri giác vào động từ nhận thức và trường hợp
của động từ thấy.................................................................................................. 92
3.3.3. Khả năng biểu thị nghĩa tình thái của động từ chỉ hoạt động nhận thức và
trường hợp Tôi nghĩ .......................................................................................... 108
3.4. Tiểu kết ................................................................................................................. 114
CHƯƠNG 4. ĐẶC ĐIỂM NGỮ DỤNG CỦA MỘT SỐ BIỂU THỨC NGÔN NGỮ
CÓ CHỨA ĐỘNG TỪ CHỈ HOẠT ĐỘNG NHẬN THỨC........................................116
TRONG TIẾNG VIỆT (LIÊN HỆ VỚI TIẾNG ANH) ...............................................116
4.1. Dẫn nhập ............................................................................................................... 116

4.2. Khả năng ngữ dụng hóa để trở thành tác tử ngữ dụng ......................................... 117


4.3. Chức năng của các tác tử ngữ dụng có chứa động từ nhận thức .......................... 119
4.3.1. Chức năng tổ chức và tương tác hội thoại ......................................................... 119
4.3.2. Chức năng nối kết chủ quan (intersubjectivity) ................................................ 126
4.3.3. Chức năng cộng tác hội thoại ............................................................................ 128
4.3.4. Chiến lược lịch sự .............................................................................................. 129
4.3.5. Hàm ngôn quy ước và hàm ngôn hội thoại ....................................................... 133
4.4. Tiểu kết ................................................................................................................. 136
KẾT LUẬN ..........................................................................................................................138
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC LIÊN QUAN ĐÃ CÔNG BỐ ....142
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................................143
TỪ ĐIỂN TRA CỨU
NGỮ LIỆU KHẢO SÁT VÀ MINH HỌA
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC BẢNG VÀ MÔ HÌNH
DANH MỤC CÁC BẢNG (20 bảng)
Chương 2
2.1.

Một số đặc điểm của nhóm động từ nhận thức

2.2.

Tần số xuất hiện của 8 động từ nhận thức phổ biến trong tiếng Việt

2.3.


Bổ ngữ của động từ tri giác và động từ nhận thức

2.4.

Diễn tố điển hình đảm nhận vai tác thể, nghiệm thể, phát ngôn thể

2.5.

Phân loại động từ nhận thức theo tham số ngữ nghĩa [+/-động] và [+/chủ ý]

Chương 3
3.1.

Cấu trúc ngữ nghĩa của động từ nhận thức theo tiêu chí [+/- nét nghĩa
đánh giá hoạt động]

3.2.

Cấu trúc ngữ nghĩa của động từ nhận thức theo tiêu chí [+/- tiền giả
định]

3.3.

Sự tổ chức ý niệm NGHĨ của người Việt, người Anh và sự thể hiện qua
ngôn ngữ

3.4.

Các phạm vi nghĩa của động từ biết trong tiếng Việt và hình thức tương

ứng trong tiếng Anh

3.5.

Động từ nhận thức và động từ đan xen nhận thức - tình cảm

3.6.

Sự phân bố của động từ thấy, nghĩ, tin ở phạm vi nghĩa đánh giá trong
tiếng Việt và hình thức tương ứng trong tiếng Anh

3.7.

Các phạm vi nghĩa của động từ thấy

3.8.

Sự phân bố của động từ thấy trong các phạm vi nghĩa

3.9.

Cấu trúc cú pháp - ngữ nghĩa của thấy - động từ tri giác và thấy - động
từ nhận thức

3.10. Bổ ngữ của thấy - động từ tri giác và thấy - động từ nhận thức
3.11. Các kiểu bổ ngữ của động từ thấy ở phạm vi nghĩa nhận thức
3.12. Mức độ sử dụng các cấu trúc đánh giá trong bài phỏng vấn trên báo năm
2012
3.13. Sự chuyển nghĩa của động từ thấy trong tiếng Việt và động từ see trong
tiếng Anh vào lĩnh vực nhận thức

Chương 4
4.1.

Tần số xuất hiện của các cấu trúc đánh giá ở bài phỏng vấn trong tiếng
Việt

4.2.

Tần số xuất hiện của các cấu trúc đánh giá trong tiếng Anh


DANH MỤC CÁC MÔ HÌNH (10 mô hình)
Chương 1
1.1.

Mô hình phạm trù đường rọi

1.2.

Mô hình tính hữu chứng

1.3.

Mô hình ngữ pháp hóa và ngữ dụng hóa

Chương 2
2.1.

Sự giao nhau giữa động từ chỉ hành động nhận thức và động từ chỉ trạng
thái nhận thức


2.2.

Sự giao nhau giữa động từ chỉ trạng thái nhận thức và động từ chỉ quá
trình nhận thức

Chương 3
3.1.

Cấu trúc đa nghĩa của động từ think theo cách tiếp cận của ngữ nghĩa
học truyền thống

3.2.

Cấu trúc đa nghĩa của think theo cách tiếp cận của ngữ nghĩa học tri
nhận

3.3.

Cấu trúc đa nghĩa của nghĩ theo mô hình phạm trù đường rọi

3.4.

Thang độ xác tín của người nói đối với tính chân thực của mệnh đề

Chương 4
4.1.

Thang độ của tính hữu chứng



MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Hoạt động nhận thức là hoạt động bản chất và đặc thù của con người. Thời nào,
ở đâu cũng thế, con người không thể tồn tại và phát triển nếu không có nhận thức.
Hoạt động này vì vậy là đối tượng thu hút sự quan tâm của nhiều khoa học: triết học,
logic học, tâm lí học, nhân học, sinh học, thần kinh học, v.v. Tuy nhiên, nó có tính tinh
thần, hoàn toàn trừu tượng, nhờ phương tiện ngôn ngữ mà được di chuyển ra bên
ngoài. Ở đây, trong quá trình sáng tạo ngôn ngữ, con người đã gọi tên hoạt động nhận
thức một cách đầy đủ, phong phú và tinh tế bằng một số các từ gọi chung là từ chỉ hoạt
động nhận thức như: biết, nghĩ, hiểu, tưởng, nhớ, quên, v.v. Điều này sẽ được khẳng
định khi chúng ta đi vào tìm hiểu những đặc điểm ngôn ngữ của nhóm động từ nhận thức
trong tiếng Việt.
Từ bình diện ngữ nghĩa, gần đây, ngữ nghĩa học đã có được năng lực giải thích
lớn cho các đơn vị từ vựng khi kết hợp ngữ nghĩa học hướng hệ thống với ngữ nghĩa
học hướng lời nói, cũng như cách tiếp cận với nhiều kiến giải thú vị của ngữ nghĩa học
tri nhận. Nhiều trường phái xuất hiện với lí thuyết trường nghĩa, phương pháp phân
tích nghĩa vị, những thử nghiệm phân tích logic ngôn ngữ tự nhiên, nghĩa của lời, của
văn bản, v.v. đã mang lại tiến bộ đáng kể cho khoa học ngôn ngữ thì việc lựa chọn ngữ
nghĩa học từ vựng cùng việc vận dụng những thành tựu của ngữ nghĩa học tri nhận để
nghiên cứu nhóm từ này là một công việc hợp lí.
Thêm vào đó, trong mấy chục năm qua, hướng nghiên cứu đối chiếu các ngôn
ngữ đã đem lại nhiều thành tựu về lí thuyết cũng như ứng dụng, vậy nên trong quá
trình triển khai vấn đề, việc liên hệ đối chiếu với tiếng Anh ở những điểm cần thiết là
điều có ý nghĩa, nhằm làm nổi bật những đặc điểm về ngữ pháp, ngữ nghĩa, ngữ dụng
của nhóm từ này trong tiếng Việt, đồng thời góp phần phục vụ cho những nhu cầu thiết
thực của xã hội như: học tiếng, dịch thuật, biên soạn từ điển, v.v.
Ngoài ra, khó có một hình dung đầy đủ, một hiểu biết trọn vẹn về các trường
nghĩa cơ bản trong tiếng Việt nếu như bỏ qua trường nghĩa chỉ hoạt động nhận thức,
hoạt động phức tạp nhưng là hoạt động mang tính loài, góp phần định tính con người

về mặt xã hội. Sự thiếu vắng những công trình nghiên cứu về bộ phận từ ngữ này trong
giới Việt ngữ học cho thấy đề tài của chúng tôi là thực sự cần thiết.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu: Nhóm động từ chỉ hoạt động nhận thức trong tiếng Việt
và một số động từ tiếng Anh tương ứng.
1


2.2. Phạm vi nghiên cứu
- Chúng tôi chỉ nghiên cứu những động từ biểu thị hoạt động nhận thức lí tính
hoặc ít nhiều liên quan đến lí tính, có tư cách của một nguyên tố ngữ nghĩa hoặc xuất
hiện với tần số lớn, trong đó chủ yếu tập trung vào các động từ: biết, nghĩ, hiểu, tin,
cho rằng/là, ngờ, tưởng, sợ, nhớ, quên, v.v;
- Chúng tôi chỉ nghiên cứu tư cách từ thường dùng, không tính đến tư cách thuật
ngữ của một số động từ như: tư duy, suy luận, v.v;
- Chúng tôi không nghiên cứu động từ biểu thị hoạt động nhận thức cảm tính
như: nghe, sờ, nếm, ngửi, trông, thấy, nhìn, xem, v.v. (trừ khi nó đã chuyển nghĩa để
biểu thị nhận thức lí tính như trường hợp của thấy); không nghiên cứu những trường
hợp chuyển nghĩa từ tri giác vào nhận thức nhưng có tính khẩu ngữ hoặc địa phương
như: ngó, coi bộ, v.v;
- Những trường hợp có nghĩa phái sinh mà tư cách từ hay cụm từ vẫn còn chưa
thống nhất trong giới nghiên cứu nhưng xuất hiện nhiều, được giải nghĩa trong từ điển
như: cho là/rằng, nhận ra, nhận thấy, v.v. vẫn nằm trong phạm vi khảo sát của chúng tôi.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Đặc điểm ngữ pháp của nhóm động từ chỉ hoạt động nhận thức trong tiếng
Việt theo hướng tiếp cận của ngữ pháp cấu trúc và ngữ pháp chức năng;
- Đặc điểm ngữ nghĩa của nhóm động từ chỉ hoạt động nhận thức trong tiếng
Việt theo hướng của ngữ nghĩa học truyền thống, bước đầu vận dụng một số nội dung
nghiên cứu của ngữ nghĩa học tri nhận (trong việc chỉ ra cơ sở tri nhận của con người
liên quan đến hiện tượng chuyển nghĩa và đa nghĩa của một số động từ nhận thức);

- Đặc điểm và chức năng ngữ dụng của một số biểu thức ngôn ngữ có chứa
động từ chỉ hoạt động nhận thức trong tiếng Việt;
- Việc liên hệ tiếng Anh được xác định không phải là nhiệm vụ xuyên suốt mà
chỉ được thực hiện ở những điểm cơ bản và cần thiết nhằm làm nổi bật đặc thù về ngữ
pháp, ngữ nghĩa, ngữ dụng của động từ chỉ hoạt động nhận thức trong tiếng Việt.
4. Ngữ liệu nghiên cứu
- Việc thống kê động từ chỉ hoạt động nhận thức trong tiếng Việt dựa vào Từ
điển tiếng Việt (2011, Hoàng Phê chủ biên), trong tiếng Anh dựa vào từ điển dành cho
người học Oxford Advanced Learner's Dictionary of Current English (2005, Hornby)
và từ điển trực tuyến dành cho người bản ngữ, đó là: Từ điển Merriam Webster của Mĩ
và Từ điển Oxford của Anh (xem địa chỉ trang web ở phần Từ điển tra cứu).
- Ngữ liệu được lấy từ các nguồn sau: từ điển, từ các tác phẩm văn học, ấn
phẩm báo chí với nhiểu thể loại và thuộc nhiều lĩnh vực, lấy từ khẩu ngữ, từ các
2


phương tiện thông tin đại chúng, ví dụ dẫn lại của các nhà nghiên cứu đi trước. Ngoài
ra, việc nghiên cứu ngôn ngữ đặc biệt cần tới ngữ cảm của người nghiên cứu, do đó có
một số ít các ví dụ là những câu thông dụng, được chúng tôi đặt ra.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu nêu trên, luận án sử dụng những phương
pháp và thủ pháp nghiên cứu sau:
5.1. Phương pháp miêu tả: là phương pháp chủ đạo với các thủ pháp:
+ Thủ pháp trường nghĩa được chúng tôi vận dụng để tập hợp 211 động từ nhận
thức vào một trường từ vựng - ngữ nghĩa;
+ Thủ pháp thống kê được sử dụng để tìm hiểu số lượng, tần số xuất hiện, tỉ lệ
phần trăm của các động từ theo nhiều tiêu chí khác nhau;
+ Thủ pháp phân tích vị từ - tham tố được vận dụng để xem xét các tham tố bắt
buộc và không bắt buộc của một động từ nhận thức;
+ Thủ pháp phân tích văn cảnh được chúng tôi sử dụng để xem xét tư cách đa

nghĩa, phân chia các nghĩa cho một từ dựa vào khả năng kết hợp của nó với những từ
bao quanh;
+ Thủ pháp phân tích nguyên tử/nguyên tố - ngữ nghĩa giúp chúng tôi xác định
được một số các từ chìa khóa để làm siêu ngôn ngữ nhằm giải thích, minh họa cho các
từ phức tạp trong nhóm động từ nhận thức;
+ Thủ pháp phân tích nét nghĩa dùng để miêu tả cấu trúc ngữ nghĩa của một số
động từ nhận thức hoặc là cơ sở để tập hợp chúng vào các tiểu nhóm dựa trên những
nét nghĩa chung;
+ Thủ pháp thay thế được áp dụng cho những động từ có liên hệ về nghĩa để
góp phần xác định quan hệ đồng nghĩa giữa chúng.
5.2. Phương pháp so sánh - đối chiếu: là phương pháp bổ trợ, được vận dụng để liên
hệ, so sánh nhóm động từ này trong tiếng Việt với tiếng Anh ở các bình diện.
6. Đóng góp của luận án
6.1. Về lí thuyết
- Sự phân tích khá đầy đủ nhóm từ này sẽ góp phần bổ sung một trường nghĩa
quan trọng vào bức tranh nghiên cứu ngữ nghĩa của tiếng Việt;
- Sự liên hệ có hiệu quả trường từ vựng này trong tiếng Việt với tiếng Anh sẽ
góp phần làm nổi bật những đặc điểm của tiếng Việt, đồng thời chỉ ra được những
tương đồng và khác biệt trong quá trình người Việt và người Anh ngôn ngữ hóa hoạt
động nhận thức của họ;

3


- Bước đầu tiếp cận và giới thiệu một số thuật ngữ và khái niệm mới về ngữ
dụng như: ngữ dụng hóa, tác tử ngữ dụng, v.v.
6.2. Về thực tiễn
Kết quả đối chiếu trực tiếp phục vụ cho những nhu cầu thiết thực của xã hội
như: học tiếng, dịch thuật, biên soạn từ điển, phục vụ công tác giảng dạy ngôn ngữ
trong nhà trường cũng như quá trình các cá nhân vận dụng ngôn ngữ vào hoạt động

giao tiếp và tư duy.
7. Bố cục của luận án
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận án được triển khai trong 4 chương:
- Chương 1. Tổng quan và cơ sở lí thuyết
- Chương 2. Đặc điểm ngữ pháp của nhóm động từ chỉ hoạt động nhận thức
trong tiếng Việt (liên hệ với tiếng Anh)
- Chương 3. Đặc điểm ngữ nghĩa của nhóm động từ chỉ hoạt động nhận thức
trong tiếng Việt (liên hệ với tiếng Anh)
- Chương 4. Đặc điểm ngữ dụng của một số biểu thức ngôn ngữ có chứa động
từ chỉ hoạt động nhận thức trong tiếng Việt (liên hệ với tiếng Anh)
Trong đó:
- Chương 1 có tác dụng tổng quan lịch sử nghiên cứu trong và ngoài nước, tạo
cơ sở cho chúng tôi đánh giá những kết quả đạt được cũng như hạn chế của các công
trình đi trước, từ đó có sự kế thừa và đặt nhiệm vụ nghiên cứu một cách hệ thống
những vấn đề còn bỏ ngỏ; đây cũng là chương đặt nền tảng lí thuyết cho việc triển khai
các nội dung cụ thể ở những chương tiếp theo;
- Ở chương 2, chúng tôi đặt tiêu điểm ở việc chỉ ra những cấu trúc ngữ pháp đặc
thù của nhóm động từ nhận thức, phân biệt đặc điểm ngữ pháp của nó với những nhóm
động từ khác, tập trung hơn cả là sự phân biệt với nhóm động từ tri giác;
- Ở chương 3, bên cạnh những nghiên cứu trên diện rộng về đặc điểm ngữ nghĩa
của cả nhóm, chúng tôi còn có những nghiên cứu khá sâu về nghĩa, quan hệ ngữ nghĩa
của những động từ đại diện;
- Chương 4 không đi vào miêu tả đặc điểm ngữ dụng của từng động từ nhận
thức vì điều này đòi hỏi một ngữ liệu quá rộng, thay vào đó, chúng tôi chỉ ra đặc điểm
và chức năng ngữ dụng tiêu biểu của những động từ điển hình.

4


CHƯƠNG 1 . TỔNG QUAN VÀ CƠ SỞ LÍ THUYẾT

1.1. Tổng quan
1.1.1. Tình hình nghiên cứu động từ chỉ hoạt động nhận thức ở nước ngoài
1.1.1.1. Các bình diện nghiên cứu
i) Từ bình diện ngữ pháp - ngữ nghĩa
- Động từ chỉ hoạt động nhận thức được nghiên cứu với tư cách là động từ
chêm xen (parenthetical verbs)
Urmson (1952) đã nghiên cứu những cấu trúc tiếng Anh bao gồm ngôi thứ nhất
số ít I (tôi) đi với động từ tinh thần (mental verbs) như: regret (tiếc), rejoice (mừng,
vui mừng), believe (tin), guess (đoán), suppose (cho rằng), suspect (nghi), v.v. Trong
số này, chúng ta nhận thấy sự có mặt động từ chỉ hoạt động nhận thức (cognition
verbs) như: believe, guess, suppose, suspect. Ông xem việc sử dụng những cấu trúc
như thế này trong câu là một cách sử dụng chêm xen và ông gọi những động từ này là
động từ chêm xen (parenthetical verbs). Ông giải thích, sở dĩ chúng được gọi là chêm
xen vì vị trí linh hoạt của chúng ở trong câu: có thể đứng đầu, giữa hoặc cuối câu.
Mackenzie (1987) đánh giá rằng, phát hiện của Urmson về khả năng chêm xen
với đặc điểm ngữ nghĩa mới của nhóm động từ này đã góp phần hạn chế ngộ nhận của
các nhà triết học đương thời khi họ khăng khăng giữ suy nghĩ rằng những động từ như
thế luôn miêu tả những sự kiện tinh thần đang diễn ra trong đầu óc của người nói.
Urmson, ngược lại, đã chứng minh rằng người nói không tường trình bất cứ hoạt động
tinh thần nào mặc dù họ đang sử dụng những động từ có nghĩa gốc chỉ hoạt động nhận thức.
Cũng từ đây, qua các năm 1963, 1965, 1987, lần lượt các tác giả Barners,
Charlesworth, Mackenzie tiếp tục đi sâu nghiên cứu cách sử dụng chêm xen của các
động từ chỉ hoạt động nhận thức như: know, believe, guess. Nhìn chung, các tác giả
tiếp cận động từ chỉ hoạt động nhận thức theo cách này, về cơ bản, đều dựa trên nền
tảng lí thuyết động từ chêm xen của Urmson, từ đó chỉ ra đặc điểm chung về ngữ pháp
của chúng và phân biệt ngữ nghĩa cho những cấu trúc này.
Đến năm 1991, không dừng lại ở việc miêu tả, Thompson và Mulac đã vận dụng
lí thuyết ngữ pháp hóa (grammaticalization) để giải thích cho khả năng chêm xen của
những cấu trúc trên. Các tác giả cho rằng những cấu trúc như thế đã trải qua một quá
trình ngữ pháp hóa: ngữ nghĩa “bị tẩy trắng”, nó thay đổi từ cấu trúc mệnh đề thành

một cấu trúc chêm xen, hoạt động và thực hiện chức năng như là những trạng từ tình
thái (modal abverbs): probably, possibly, maybe, v.v.
5


Trong công trình I think - an English modal particle, Aijmer (1997) tiến thêm
một bước khi nghiên cứu cấu trúc này. Theo ông, I think “đã đi một bước khá xa”
được ngữ pháp hóa để trở thành một tiểu từ tình thái (modal particles). Tiểu từ tình
thái là một phương tiện thể hiện nghĩa tình thái, “là yếu tố có nghĩa, thường rất ngắn,
xuất hiện đâu đó trong phát ngôn, biểu thị những ý nghĩa bổ trợ cho phát ngôn”. (Platt
1987, dẫn theo Nguyễn Văn Hiệp 2008)
Vẫn thừa nhận tư cách động từ của think nhưng là những động từ yếu (weak
verbs) đó là Mindt (2003) và Blanche & Willems (2007, 2008) (dẫn theo Van 2011).
Tóm lại, dù cách gọi tên có khác nhau nhưng về cơ bản các tác giả đều thống
nhất quan điểm: Động từ nhận thức khi đi vào những cấu trúc như thế thường không
phản ánh nghĩa miêu tả mà thể hiện nghĩa tình thái, phản ánh thái độ, mức độ cam kết
của người nói đối với tính chân thực của nội dung mệnh đề đi theo sau. Cần lưu ý, đây
không phải là nghĩa ban đầu của động từ nhận thức mà là quá trình phát triển nghĩa về
sau. Điều này thực ra cũng dễ hiểu bởi việc sử dụng ngôn ngữ có tác động đến cấu trúc
ngôn ngữ, cho nên, tất yếu trong ngôn ngữ có những nhân tố ngữ dụng được mã hóa.
Một hình thức ngôn ngữ như: I think/believe/guess, v.v. tỏ ra “rất nhạy” với nhu cầu
giao tiếp của con người, càng được sử dụng nhiều chúng càng có xu hướng ổn định về
cấu trúc và mã hóa thái độ của người nói.
- Động từ nhận thức được nghiên cứu với tư cách là động từ hàm thực (factive
verbs) hoặc động từ vô hàm (non - factive verbs)
Dựa vào sự khác biệt về ngữ pháp và ngữ nghĩa, một số tác giả đã có sự phân
biệt động từ hàm thực và động từ vô hàm. Trong danh sách động từ hàm thực và vô
hàm của Kiparsky (1971), của Leech (1974), chúng ta nhận thấy sự góp mặt của một
số động từ chỉ hoạt động nhận thức tiêu biểu như: know, realize, forget (được xếp vào
động từ hàm thực) và think, believe, suppose (được xếp vào động từ vô hàm). Đặc

điểm chung của động từ hàm thực là khẳng định tính xác thực của thông tin trong
mệnh đề (P), nói cách khác, những động từ này tiền giả định (TGĐ) sự tình được
truyền đạt ở P là đúng với hiện thực, đối lập với nó là các vị từ vô hàm - không chứa
TGĐ, do đó không cho biết sự tình được truyền đạt ở P là đúng hay không đúng với
hiện thực.
- Động từ nhận thức khi đi vào cú được xếp vào quá trình tri nhận
Từ cách tiếp cận của ngữ pháp chức năng, Halliday (1985, bản dịch 2004) khi
nghiên cứu nghĩa của cú như là một sự thể hiện các quá trình đã có sự phân biệt quá
trình vật chất (build - xây, run - chạy, do- làm, v.v) với quá trình tinh thần (know - biết,
think - nghĩ, like - thích, v.v.). Trong quá trình tinh thần, ông xếp những động từ think 6


nghĩ, know - biết, v.v. vào quá trình tri nhận và chỉ ra một số đặc điểm ngữ pháp - ngữ
nghĩa của nhóm này:
+ Luôn có tham thể là người - đó là người cảm giác, tri nhận;
+ Thành phần được tri nhận không bị giới hạn: có thể là một sự vật, có thể là một
sự kiện;
+ Các động từ thuộc nhóm này là động từ ngoại động, do đó hai tham thể: cảm
thể (senser) và hiện tượng (phenomenon) phải cùng xuất hiện.
Ở Việt Nam, Hoàng Văn Vân (2002) là tác giả tiếp thu rõ nét tinh thần của
Halliday vào việc miêu tả quá trình tri nhận của cú tiếng Việt.
ii) Từ bình diện ngữ nghĩa
- Trường nghĩa trí tuệ đã được quan tâm từ rất sớm - từ năm 1931, trong
nghiên cứu của Trier. Tuy nhiên, bấy giờ, Trier chỉ đề cập đến tính từ đánh giá hoạt
động nhận thức trong tiếng Đức chứ chưa nghiên cứu động từ nhận thức.
- Một trong những động từ chỉ hoạt động nhận thức đầu tiên được nghiên
cứu trong tiếng Anh là động từ think.
Căn cứ vào tiêu chí [+/- thời gian], Vendler (1967) đã phân biệt hai nghĩa của
động từ này đó là:
+ Think chỉ một quá trình nhận thức được xác định về thời gian.

Vd: 1) He is thinking about Jones. (Anh ta đang nghĩ đến Jones.)
+ Think chỉ một trạng thái nhận thức không được xác định về thời gian.
Vd: 2) He thinks that Jones is a rascal. (Anh ta nghĩ Jones là một kẻ bất lương.)
Thoạt nhìn qua, việc lấy tiêu chí thể thời gian để phân biệt nghĩa cho think của
Vendler có vẻ thuyết phục, tuy nhiên, theo Wierbiczka (1998), đó chỉ là một sự nhầm
tưởng. Một ý kiến đánh giá (như vd 2) thường không được xác định về thời gian,
không bị ảnh hưởng bởi yếu tố thời gian, tuy nhiên vẫn có những đánh giá được xác
định vị rõ về mặt thời gian (thời gian nhất thời) như ở vd: 3) I think that someone is
knocking at the door (Tôi nghĩ ai đó đang gõ cửa). Bà đặt ra câu hỏi liệu có nên tách
think (trong ngữ liệu trên) thành hai nghĩa hay thực chất chỉ là một. Trên thực tế cũng
có nhiều tác giả chủ trương phân biệt think như Vendler (chẳng hạn Persson 1993,
Aijmer 1997). Chúng ta sẽ trở lại quan niệm của hai tác giả này ở phần sau, họ đi theo
hai hướng tiếp cận khác nhau về hiện tượng đa nghĩa của think (Aijmer đi theo hướng
của ngữ nghĩa học tri nhận, còn Persson đi theo hướng nghiên cứu phiếm thời luận
(panchronic perspective)).

7


- Động từ nhận thức được nghiên cứu với tư cách là những nguyên tố ngữ
nghĩa: Năm 1972, 1992, 1996, 1998 khi nghiên cứu về siêu ngôn ngữ, Wierzbicka đã
công bố một danh sách các semantic primitives (nguyên tố ngữ nghĩa, Hoàng Dũng,
Cao Xuân Hạo 2005), trong đó có các động từ chỉ hoạt động nhận thức bao gồm: think
và know. Đặc điểm của các nguyên tố ngữ nghĩa là tính phổ quát trong vốn từ vựng
của mọi ngôn ngữ tự nhiên.
- Động từ chỉ hoạt động nhận thức được nghiên cứu ở quan hệ ngữ nghĩa
như đa nghĩa, đồng nghĩa, gần nghĩa, chuyển nghĩa
+ Với hiện tượng đồng nghĩa, gần nghĩa, Apresjan có hai bài nghiên cứu về
một số vị từ nhận thức trong tiếng Nga, bao gồm schitat' (to consider- cân nhắc, xem,
xem xét) và znat' (to know- biết).

Ở bài viết thứ nhất “The synonymy of mental predicates: schitat’ [to consider]
and its synonyms”, Apresjan (1993) đã khảo sát quan hệ đồng nghĩa, gần nghĩa giữa
schitat' (cân nhắc, xem xét) với những động từ nhận thức khác như: dumat' (nghĩ ),
polagat (có tính sách vở, cho là/ rằng), nakhodit' (có tính sách vở, nhận thấy),
rassmatrivat' (cho rằng/là ), smotret' (xem như, coi như), videt' (thấy). Tác giả đã chỉ
ra những tương đồng và khác biệt về ngữ nghĩa giữa các động từ này căn cứ vào nghĩa
của mỗi từ trong hệ thống cũng ý nghĩa của chúng trong hoạt động hành chức. Sử
dụng phương pháp đồng đại, tác giả chỉ ra hình thức ngữ pháp và hoạt động của các từ
này trong sự so sánh, tuy nhiên khi cần giải thích cho sự phân hoá ngữ nghĩa của
chúng trong thế kỉ XIX - đầu XX, tác giả đã vận dụng thêm phương pháp lịch đại.
Ở bài viết thứ hai: “The problem of factivity: znat’ [to know] and its
synonyms”, Apresjan (1995) đi vào khảo sát ngữ nghĩa của znat' và vedat' trong mối
quan hệ với các vị từ nhận thức khác trong tiếng Nga như: schitat' (xem xét), verit'
(tin), ponimat' (hiểu), dumat' (nghĩ), nakhodit' (nhận thấy) để chỉ ra “giao điểm” cũng
như "ngã rẽ" về ngữ nghĩa của chúng. Sau đó, ông tập trung phân biệt sự giống nhau
và khác nhau về ngữ nghĩa, ngữ dụng, cấu trúc cú pháp giữa động từ znat' với vedat'.
Có thể thấy, mặc dù trọng tâm nghiên cứu của Apresjan chỉ đặt ở znat' nhưng
khá nhiều động từ nhận thức của tiếng Nga có cơ hội "nhập cuộc" trong sự liên hệ, so
sánh với znat'.
+ Ở hiện tượng trái nghĩa, từ một mô hình phủ định khá phổ biến trong văn
nói tiếng Anh: I don’t believe so, I know so (Không phải tôi tin mà là tôi biết), Cappelli
(2008) đã đặt vấn đề trái nghĩa giữa know với think và believe. Dĩ nhiên tác giả cũng
lưu ý, trái nghĩa ở đây không đi theo quan niệm của truyền thống mà là một kiểu trái
8


nghĩa có phần linh hoạt hơn, nằm giữa hai cực hệ thống và lời nói, giữa ngữ nghĩa
hướng hệ thống và ngữ nghĩa hướng sử dụng, không chỉ đặt cơ sở trái nghĩa trong từ
điển mà còn trên thực tế sử dụng và điều tra thực nghiệm.
+ Với hiện tượng đa nghĩa, những nghiên cứu đối chiếu gần đây đã cho thấy

bên cạnh tính phổ quát như đã nói, trong quá trình phái sinh ngữ nghĩa, các nguyên tố
ngữ nghĩa có thể mở rộng ý nghĩa để trở thành một từ đa nghĩa, sự mở rộng này có thể
không giống nhau ở các ngôn ngữ và các nguyên tố ngữ nghĩa chỉ hoạt động nhận thức
cũng không phải là ngoại lệ. Đây là cơ sở để Goddard (2003), theo cách tiếp cận của
ngôn ngữ học tri nhận, bước đầu xem xét sự mở rộng ngữ nghĩa của think (nghĩ) trong
tiếng Anh, tiếng Quan thoại, tiếng Yupik Eskimo, tiếng Samoan, tiếng Nhật. Một phát
hiện khá thú vị là: động từ think có xu hướng mở rộng ngữ nghĩa vào lĩnh vực tâm lí tình cảm.
Ngoài ra, các tác giả còn chú ý đến hiện tượng chuyển nghĩa của những từ
thuộc trường ngữ nghĩa khác vào trường nghĩa chỉ hoạt động nhận thức. Tiêu
biểu cho quá trình này là sự phát triển ngữ nghĩa của những động từ biểu thị tri giác
(perception verbs) sang biểu thị hoạt động nhận thức (cognition verbs). Có thể kể đến
công trình nghiên cứu sự chuyển nghĩa của các động từ tri giác trong tiếng Anh, Tây
Ban Nha và tiếng Basque vào địa hạt nhận thức của Iraide (1999) hay nghiên cứu sự
mở rộng ngữ nghĩa của động từ tri giác sang phạm vi nhận thức trong một số ngôn ngữ
ở Australia của Evans và Wilkins (2000). Đây là gợi ý tốt để chúng tôi nghiên cứu một
số động từ tri giác tiếng Việt chuyển nghĩa vào lĩnh vực nhận thức mà điển hình là
động từ thấy.
iii) Nghiên cứu động từ chỉ hoạt động nhận thức từ bình diện ngữ dụng
- Phần lớn nghiên cứu tập trung xem xét chức năng tổ chức và tương tác hội
thoại của các tác tử ngữ dụng (pragmatic markers) có chứa động từ chỉ hoạt động
nhận thức xuất hiện với tần số cao trong hội thoại, đó là:
+ I don’t know (Tôi không biết): Cấu trúc này có mặt trong nghiên cứu của
Tsui (1991), Scheiman (1999), Diana, Potter (2004), Woffitt (2005), Aijmer (2009),
Grant (2010);
+ You know (Anh biết đấy) lại thu hút sự quan tâm của Schiffrin (1987, 1996),
Macaulay (2002), Fox Tree & Schrock (2002), Aijmer (2009);
+ I know (Tôi biết) tuy không được nghiên cứu phong phú như You know nhưng
vẫn là sự quan tâm của Irwin (2006).

9



- Nghiên cứu những lực ngữ dụng (pragmatic force) khác nhau khi các tác tử
ngữ dụng đi kèm với các kết tử diễn ngôn (discourse connectives) như: well, and, but,
so, because, yeah, yes, no, of course, then, v.v.
- Nghiên cứu chức năng liên nhân (interpersonal), khả năng nối kết chủ quan
(intersubjectivity), hàm ý hội thoại, chiến lược lịch sự của những biểu thức như I
think/guess, v.v.
- Đáng chú ý hơn cả là việc nghiên cứu biểu thức I think: Những nghiên cứu
về cấu trúc này đều thừa nhận đó là một cấu trúc đa nghĩa điển hình (Thompson &
Mulac 1991, Aijmer 1997, Vandenbergen 2000, Van 2011), vì vậy có thể xem xét nó
từ bình diện ngữ pháp, ngữ nghĩa và ngữ dụng.
Nếu ở bình diện ngữ pháp, như đã nói, khả năng chêm xen cho thấy sự linh hoạt
về vị trí của I think ở trong câu và hoạt động như một trạng từ tình thái (modal abverb)
thì việc thể hiện tính chủ quan của người nói đối với nội dung mệnh đề là điển hình
cho nghĩa tình thái của cấu trúc này và có thể nghiên cứu ở bình diện nghĩa học. Ngoài
ra, khả năng kết nối chủ quan, hàm ý hội thoại, thể hiện lịch sự hay khả năng tổ chức,
tương tác hội thoại cũng cho thấy chức năng ngữ dụng phong phú của cấu trúc này.
1.1.1.2. Hướng nghiên cứu
i) Hướng nghiên cứu phiếm thời luận: Đó là hướng nghiên cứu những vấn đề
ngôn ngữ có sự kết hợp giữa cách tiếp cận đồng đại và lịch đại. Mục đích của việc
nghiên cứu này là nêu bật những nhân tố lịch sử vẫn còn dấu vết ở trạng thái hiện tại
nhưng đã bị mờ đi và do đó dễ dàng bị những nghiên cứu thuần túy đồng đại bỏ qua.
Person (1993) đã nỗ lực nghiên cứu cấu trúc ngữ nghĩa của động từ think theo hướng
này. Căn cứ vào đặc điểm ngữ pháp - ngữ nghĩa, tác giả đã phân biệt ít nhất ba ý nghĩa
khác nhau của think trong sử dụng:
- Thứ nhất, think diễn tả một quá trình nhận thức, bấy giờ think tương đương
với to cogitate (ngẫm) và mang những đặc điểm ngữ pháp như: có thể xuất hiện ở thể
tiếp diễn, ở cấu trúc mệnh lệnh, ở cấu trúc gây khiến, có thể đi cùng trạng từ chỉ thể
cách, mệnh đề tường thuật (trực tiếp hoặc gián tiếp) có thể theo sau.

- Thứ hai, khi think diễn tả một trạng thái nhận thức về một khả năng
(probability), nghĩa của think rất gần với nghĩa của believe, lúc này nó thường xuất
hiện ở thì hiện tại đơn hoặc quá khứ đơn, đáng chú ý là cấu trúc I think và I thought
(Tôi tưởng). Khi hoạt động ở nghĩa này, phần lớn những đặc điểm ngữ pháp của một
động từ chỉ hoạt động, quá trình bị khóa lại.
- Thứ ba, think diễn tả một nhận định chủ quan (subjective evaluation) dựa vào
ấn tượng quan sát được, bấy giờ think không gần nghĩa với believe nữa mà gần với
10


find, seem, vd: 4) Look at that girl, I think she is beautiful. (Nhìn cô gái đó kìa, tôi thấy
cô ta xinh.).
Tác giả cho rằng, việc think có nghĩa chỉ quá trình (như 1) hay trạng thái (như
2+3) trong tiếng Anh hiện đại có thể giải thích về mặt nguồn gốc: think 1 bắt nguồn từ
pencan, think 2+3 bắt nguồn từ pyncan. Như vậy khi tìm hiểu lai nguyên của think
trong tiếng Anh cổ, có thể hình dung think bắt nguồn từ hai động từ khác nhau pyncan
(có nghĩa như seem ‘có vẻ như’ trong tiếng Anh hiện đại) và pencan (có nghĩa như to
think - cogitate ‘ngẫm’ trong tiếng Anh hiện đại).
ii) Hướng nghiên cứu so sánh đối chiếu (về ngữ nghĩa)
Hướng nghiên cứu này xuất hiện trong công trình Re-thinking THINK:
Contrastive semantics of Swedish and English của Goddard và Karlsson (2003). Theo
tác giả, trong tiếng Thụy Điển, có ba động từ chỉ hoạt động nhận thức có thể chuyển
dịch cho những nghĩa khác nhau của think trong tiếng Anh là: tanka (think - cogitate:
nghĩ - ngẫm) , tro (think - belive: nghĩ - tin) và tycka (think - find: nghĩ - thấy: diễn đạt
sự đánh giá dựa trên ấn tượng chủ quan). Tuy nhiên, tanka “bỏ xa” hai động từ còn lại
về khả năng sản sinh hình thái và ngữ cú (morphological and phraseological
productivity). Có rất nhiều từ phái sinh đến từ tanka, bởi vậy, có thể nói tanka là “ứng
cử viên sáng giá nhất” cho tư cách nguyên tố ngữ nghĩa để diễn tả khái niệm THINK
(NGHĨ) trong tiếng Thụy Điển chứ không phải là tro hay tycka.
Từ khẳng định trên tác giả đi vào nghiên cứu đối chiếu ngữ nghĩa giữa tanka

(think - cogitate: nghĩ - ngẫm) trong tiếng Thụy Điển với think trong tiếng Anh và
nhận thấy có những mô hình ngữ pháp - ngữ nghĩa chung cho cả think và tanka trong
hai ngôn ngữ, song cũng có những vùng ngữ nghĩa phát triển về sau lại được chia cắt
không giống nhau giữa tanka và think (đó là vùng ngữ nghĩa mà tro và tycka sẽ bù
vào cho tanka).
iii) Hướng nghiên cứu của ngôn ngữ học tri nhận
Cách đây gần ba thập kỉ, D’Andrade (1987) đã bàn đến mô hình có tính dân
gian về trí tuệ, trước đó rất lâu Vendler (1967) cũng đã chỉ ra trí tuệ được phạm trù hóa
trong tiếng Anh là cái máy và vật chứa, thế nhưng việc nghiên cứu cách thức con
người nói về suy nghĩ của họ lại tỏ ra quá khiêm tốn so với lĩnh vực tâm lí - tình cảm.
Những đề tài đầu tiên về hoạt động nhận thức được nghiên cứu theo hướng tri nhận
xuyên ngôn ngữ có thể kể đến là đề tài về lí thuyết dân tộc học về con người
(ethnotheories of the person) của Junker, Lee, Yu, Palmer, Goddard (dẫn theo Palmer
2003); về sự hòa trộn giữa nhận thức và tình cảm của Junker, Lee, Yu, Palmer (dẫn
theo Palmer 2003); ẩn dụ tri nhận về suy nghĩ của Yu (2003); hay hiện tượng đa nghĩa
11


của nhóm từ chỉ hoạt động nhận thức của Amberber, Junker, Goddard (dẫn theo
Palmer 2003).
Thực chất lí thuyết về siêu ngôn ngữ tự nhiên ngữ nghĩa (natural semantic
metalanguage) của Wierzbicka (1972) là một nghiên cứu tri nhận xuyên ngôn ngữ đầu
tiên về động từ chỉ hoạt động nhận thức. Ở đó chúng ta bắt gặp danh sách một số các
nguyên tố ngữ nghĩa trong 17 ngôn ngữ khác nhau, trong đó có những động từ chỉ hoạt
động nhận thức trong tiếng Anh như: think, know, feel.
Fortescue (2001, dẫn theo Palmer 2003) xem xét hiện tượng đa nghĩa và cung
cấp một danh sách nói về suy nghĩ, hiểu biết trong 73 ngôn ngữ (trong đó có tiếng
Anh). Tác giả chỉ ra các cấu trúc ẩn dụ sau: UNDERSTANDING IS
GRASPING/SEEING/HEARING (HIỂU LÀ CHỘP LẤY/LÀ NHÌN THẤY/LÀ NGHE
THẤY); KNOWING IS TOUCHING (BIẾT LÀ CHẠM).


Năm 2003, trong công trình "Thinking across languages and cultures: six
dimensions of variation", Goddard đã nghiên cứu đối chiếu sự biểu đạt suy nghĩ qua
ngôn ngữ - văn hoá của người Anh, Tây Ban Nha, Trung Quốc, v.v. Ở đó tác giả chỉ ra
sự khác nhau trong cách mỗi cộng đồng người ngôn ngữ hoá hoạt động nhận thức của
họ thông qua hệ thống từ vựng và thông qua cách nói năng của họ về chính hoạt động
này. Ông chỉ ra, một từ được gọi là từ nguyên sơ, tồn tại trong tất cả các ngôn ngữ vẫn
có sự phát triển ngữ nghĩa theo những hướng khác nhau, điều đó phản ánh cách tri
nhận và những "kịch bản văn hoá" khác nhau của mỗi cộng đồng người.
Đi theo đề tài lí thuyết dân tộc học về con người như Goddard, một phần quan
trọng trong công trình “Chinese metaphors of thinking”, Yu (2003) đặt vấn đề người
Trung Quốc định vị suy nghĩ của họ ở đâu, trong tim hay trong trí óc (thinking in the
heart or mind).
Có thể thấy, việc nghiên cứu nhóm từ này và nghiên cứu sự biểu đạt hoạt động
nhận thức trong ngôn ngữ ở các công trình nước ngoài phong phú về bình diện nghiên
cứu: bình diện ngữ pháp, ngữ nghĩa, ngữ dụng; đa dạng về hướng tiếp cận: hướng so
sánh đối chiếu, hướng nghiên cứu đồng đại, lịch đại, hướng nghiên cứu tri nhận.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu động từ chỉ hoạt động nhận thức ở Việt Nam
1.1.2.1. Ở bình diện ngữ pháp
Ở Việt Nam, trường từ vựng biểu thị hoạt động nhận thức chưa được nghiên
cứu mà chỉ dừng lại ở lại ở việc mô tả đặc điểm ngữ pháp của chúng trong những công
trình ngữ pháp của Hoàng Tuệ (1962), Nguyễn Tài Cẩn (1977, 1983), Nguyễn Kim
Thản (1977), Nguyễn Thị Quy (1995), Hoàng Văn Vân (2002).

12


i) Theo hướng ngữ pháp truyền thống, Hoàng Tuệ, Nguyễn Tài Cẩn, Nguyễn
Kim Thản đã đề cập đến đặc điểm ngữ pháp của nhóm động từ này như sau:
- Hoàng Tuệ (1962) đã xếp biết, hiểu, nhớ, nghĩ vào động từ, với ý nghĩa khái

quát của biết, hiểu, nhớ là trạng thái tâm lí - ý thức, còn nghĩ lại có ý nghĩa hoạt động.
- Nguyễn Tài Cẩn (1977) dựa vào khả năng kết hợp với thành tố phụ xong để
đối lập những động từ có khả năng kết thúc như: ăn, đọc, mở, v.v. với những động từ
chỉ sự việc không có khả năng kết thúc như: biết, hiểu, v.v. Tác giả dựa vào khả năng
kết hợp với phụ tố chỉ mức độ như: rất, hơi, quá, lắm để phân biệt những động từ có
khả năng tăng giảm mức độ như: tin, ngờ, v.v. với những động từ không có khả năng
tăng giảm mức độ như: đánh, ngồi, v.v. Ông gọi nhóm động từ gồm: biết, nhớ, tin,
nghi ngờ là nhóm động từ cảm nghĩ. Những động từ này khi làm chính tố thì sau nó
phải có phụ tố chỉ sự vật bị tác động mới đủ nghĩa và trước chúng có thể xuất hiện phụ
tố chỉ mức độ.
- Nguyễn Kim Thản (1977) dựa vào sự phân phối các từ hư phục vụ động từ để
chia động từ tiếng Việt ra làm 6 nhóm. Theo đó, nhóm 5 - nhóm động từ tình cảm
bao gồm: biết, hiểu, tin (yêu, ghét, giận, kính trọng, v.v.) không thể kết hợp với những
cặp phó động từ biểu thị sự lặp lại của hoạt động đi... lại nhưng có thể kết hợp với phó
từ biểu thị mức độ (như rất) và phó động từ chỉ phương hướng. Nhóm 6 - nhóm động
từ tri giác như: am tường, am hiểu có đặc trưng không thể kết hợp với những phó từ
biểu thị sự lặp lại của hoạt động và phó động từ chỉ phương hướng nhưng lại có thể kết
hợp với phó từ chỉ mức độ.
Cách phân chia này có một số điểm bất hợp lí: Tác giả sử dụng những tiêu chí
hình thức để phân chia, rồi mỗi loại được đặt một cái tên có nội dung ngữ nghĩa đã đưa
đến những chồng chéo. Chẳng hạn, nhiều động từ cùng một trường nghĩa và cùng một
đặc tính ngữ pháp lại được xếp vào nhiều loại khác nhau (vd: hiểu là động từ tình cảm
mà am hiểu lại là động từ tri giác), trong nhóm động từ tình cảm lại có cả biết, hiểu, tin
- vốn là những động từ nhận thức tiêu biểu nhất.
ii) Ngữ pháp chức năng với cách tiếp cận của Nguyễn Thị Quy, Hoàng Văn
Vân đã bước đầu miêu tả nhóm động từ này như sau:
- Căn cứ vào số lượng diễn tố, Nguyễn Thị Quy (1995) chia vị từ thành những
tiểu loại khác nhau. Đáng chú ý là vị từ tạo tác hai diễn tố, nó bao gồm hai loại: tạo
tác ra vật chất (vẽ, xây, đóng, v.v.) và tạo tác trong lĩnh vực tinh thần (nghĩ, đoán,
v.v.). Theo tác giả, “nhận thức ra một điều gì, nghĩ ra một điều gì cũng là tạo tác dù

trong lĩnh vực tinh thần”. [32, tr.109]

13


Áp dụng cách phân loại sự thể của Dick (1978) dựa vào hai tiêu chí cơ bản [+/động] và [+/- chủ ý], tác giả xếp nghĩ, đoán, v.v. vào vị từ hành động đặc trưng bởi
[+động] và [+chủ ý], còn biết, hiểu, nhớ, quên, lầm, v.v. là những vị từ trạng thái được
đặc trưng bởi [- động] và [- chủ ý], đồng thời tác giả cũng nhận thấy có những vị từ
dao động giữa hai đặc điểm [-chủ ý] và [+chủ ý] như: ngờ, nghi, ngờ vực, nghi hoặc.
- Hoàng Văn Vân (2005) trong quá trình mô tả cú tiếng Việt theo quan điểm
chức năng, có sự phân biệt 2 quá trình: quá trình tinh thần và quá trình vật chất. Tiếp
thu từ Halliday (1985), ông chia quá trình tinh thần ra làm 4 loại: quá trình tinh thần tri
giác (nhìn thấy, ngửi thấy nghe thấy, sờ thấy, nếm thấy v.v.), quá trình tinh thần tri
nhận (hiểu, biết, nghĩ, nhớ, quên, v.v.), quá trình tinh thần mong muốn (muốn, định,
mong, hi vọng, v.v.) và quá trình tinh thần tình cảm (yêu, ghét, quý, mến, khinh, sợ,
v.v.), trong đó loại thứ hai thuộc phạm vi khảo sát của chúng tôi. Quá trình tinh thần
nói chung, quá trình tinh thần tri nhận nói riêng phân biệt với quá trình vật chất thể
hiện ở những khía cạnh sau: số lượng tham thể, câu hỏi dò, bản chất của cảm thể, bản
chất của hiện tượng, khả năng phóng chiếu.
Qua cách tiếp cận của các tác giả chúng tôi nhận thấy, động từ là từ loại lớn,
gồm nhiều loại nhỏ có tính chất rất khác nhau, vạch ra những đối lập căn bản trong nội
bộ động từ là một việc hết sức khó khăn, bản thân nhóm động từ biểu thị hoạt động
nhận thức lại không thuần nhất về đặc điểm ngữ pháp (có động từ chỉ quá trình, có
động từ chỉ trạng thái, có động từ chỉ hành động) do đó công việc này càng trở nên
phức tạp.
1.1.2.2. Ở bình diện ngữ nghĩa
Giới Việt ngữ học đã chú ý đến những vấn đề sau:
i) Về cấu trúc ngữ nghĩa
- Phân biệt nghĩa của từ chỉ hoạt động nhận thức với từ chỉ hoạt động vật lí căn
cứ vào nét nghĩa [+/- năng lực tinh thần]: Đỗ Hữu Châu (1978) có sự phân biệt giữa

năng lực tinh thần trong nghĩa của một số từ như tư duy, cảm giác, v.v. với năng lực
lao động vật lí trong nghĩa của các từ như đóng (trong đóng bàn), xây (trong xây nhà).
- Chỉ ra TGĐ trong cấu trúc nghĩa của từ: Hoàng Phê (1989) khi nghiên cứu
logic - ngữ nghĩa của ngôn ngữ tự nhiên đã chỉ ra thành phần đặc biệt trong cấu trúc
nghĩa của từ là TGĐ, trong đó có một số từ có liên quan đến hoạt động nhận thức: biết,
tưởng, quên (có TGĐ), nhớ (không có TGĐ).
Tương tự, Cao Xuân Hạo (1993) khi nghiên cứu một nhóm từ gọi là vị từ nhận
thức - nói năng (bao gồm nghĩ, biết, ngỡ, tưởng, vu, đồn, v.v.) đã chỉ ra đặc điểm ngữ
nghĩa của nhóm này, đó là: chúng có thể TGĐ điều được biểu thị trong câu phụ bổ ngữ
14


×