Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

NGỮ CẢNH XÃ HỘI THỜI ĐẠI CÔNG NGHỆ THÔNG TIN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (253.44 KB, 37 trang )

Đề tài: Ngữ cảnh xã hội của thời đại công nghệ thông tin
MỤC LỤC
Phần mở đầu................................................................................................2
I. Lịch sử của máy tính
………………………….………....……….3
II. Ứng dụng công nghệ thông tin…………………………….…..……....4
1. Các lĩnh vực nghề nghiệp trong CNT….....………….....………..5
2. Mặt trái của ứng dụng CNTT'.........…………….…………….…7
3. Ứng dung CNTT ở địa phương………...........………….…...…20
4. Chỉ thị ứng dụng CNTT trong giáo dục……….............….……29
III. Vai trò của Tin học và máy tính trong xã hội hiện tại. ……....……31
IV. Xu hướng phát triển CNTT …......…………………………..………35

1


Đề tài: Ngữ cảnh xã hội của thời đại công nghệ thông tin
Lời mở đầu
CNTT được Chính phủ chọn là một trong bốn ngành kinh tế mũi nhọn của
đất nước. Mặc dù, lĩnh vực CNTT đã có những thành tựu đáng kể trong những
năm gần đây, nhưng chúng ta chỉ mới ở giai đoạn ban đầu xây dựng ngành kinh
tế công nghiệp này.
Bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế thế giới tiếp tục phát triển cả về chiều rộng
và chiều sâu. Việt Nam sẽ tiếp tục tham gia sâu vào các chương trình của
ASEAN, hướng tới việc thiết lập một cộng đồng ASEAN vững mạnh tiếp tục
phát triển quan hệ đối tác chặt chẽ với các nền kinh tế thành viên của APEC. Tất
cả đều là những vận hội mới cho phát triển kinh tế và mở rộng hợp tác kinh tế
quốc tế, là cơ hội lớn cho ngành CNTT-TT Việt Nam.
CNTT-TT, mạng Internet đã làm cho khoảng cách trên thế giới ngày càng
trở nên nhỏ bé. Tri thức và thông tin không biên giới sẽ đưa hoạt động kinh tế
vượt ra khỏi phạm vi quốc gia và trở thành hoạt động mang tính toàn cầu. Sự hội


tụ công nghệ viễn thông - tin học - truyền thông quảng bá đang diễn ra mạnh mẽ
trên phạm vi toàn cầu và dẫn đến sự hình thành những loại hình dịch vụ mới, tạo
ra khả năng mới và cách tiếp cận mới đối với phát triển kinh tế xã hội.
Cuộc cách mạng thông tin cùng với quá trình toàn cầu hóa đang ảnh hưởng
sâu sắc đến mọi lĩnh vực trong đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội, đưa xã hội loài
người chuyển mạnh từ xã hội công nghiệp sang xã hội thông tin, từ kinh tế công
nghiệp sang kinh tế tri thức, ở đó năng lực cạnh tranh phụ thuộc chủ yếu vào
năng lực sáng tạo, thu thập, lưu trữ, xử lý và trao đổi thông tin.
Xu thế biến đổi to lớn đó đang đặt ra cho mọi quốc gia những cơ hội và
thách thức hết sức to lớn. Nắm bắt cơ hội, với ý chí và quyết tâm cao, có sự chỉ
đạo trực tiếp của Đảng và Chính phủ chúng ta có thể tận dụng tiềm năng CNTTTT để chuyển dịch nhanh cơ cấu nhân lực và cơ cấu kinh tế xã hội theo hướng
xây dựng một xã hội thông tin, kinh tế dựa trên tri thức, góp phần quan trọng rút
ngắn quá trình CNH, HĐH đất nước.
CNTT-TT phải được hiểu như một cơ sở hạ tầng của tất cả các công nghệ
trong thế kỷ 2l cũng như máy móc có vai trò như vậy trong thế kỷ 20. Trong thế
kỷ 21, điều tất yếu là tất cả các ngành phải chấp nhận CNTT-TT như là phương
tiện chính để đảm bảo hiệu quả, năng suất và tính cạnh tranh. Do đó, ứng dụng
CNTT vào các ngành là điều cốt yếu và là vấn đề cấp bách phải làm càng sớm
càng tốt.
2


Đề tài: Ngữ cảnh xã hội của thời đại công nghệ thông tin
CNTT phải trở thành nhân tố chủ chốt góp phần giải phóng tiềm năng của
mỗi cá nhân, mỗi tổ chức tạo ra năng suất và hiệu quả trong các doanh nghiệp,
làm giầu những ý tưởng mới và phát triển ngày càng nhiều các giá trị mới.
1. Lịch sử của máy tính
Ngày nay, CNTT có những bước phát triển như vũ bão và đã đem lại
những thay đổi lớn lao cho cuộc sống, đưa nhân loại vào một thời đại mới - thời
đại công nghệ thông tin. Điển hình và đặc biệt quan trọng của thời đại CNTT là

sự xuất hiện của máy tính – một lĩnh vực CNTT không thể thiếu của thời đại.
Chúng ta cùng tìm hiểu về lịch sử hình thành mạng máy tính:
Máy tính của thập niên 1940 là các thiết bị cơ-điện tử lớn và rất dễ hỏng.
Sự phát minh ra transitor bán dẫn vào năm 1947 tạo ra cơ hội để làm ra chiếc
máy tính nhỏ và đáng tin cậy hơn.
Năm 1950, các máy tính mainframe chạy bởi các chương trình phiếu đục
lỗ bắt đầu được dùng trong các học viện lớn. Điều này tuy tạo nhiều thuận lợi
với máy tính có khả năng được lập trình nhưng cũng có rất nhiều khó khăn trong
việc tạo ra các chương trình dựa trên phiếu đục lỗ này.
Vào cuối thập niên 1950, mạch tích hợp (IC) chứa nhiều transitor trên một
mẫu bán dẫn nhỏ được phát minh, tạo ra một bước nhảy vọt trong việc tạo ra các
máy tính mạnh hơn, nhanh hơn và nhỏ hơn. Đến nay, IC có thể chứa hàng triệu
transistor trên một mạch.
Vào cuối thập niên 1960, đầu thập niên 1970, các máy tính nhỏ được gọi
là minicomputer bắt đầu xuất hiện.
Năm 1977, công ty máy tính Apple Computer giới thiệu máy vi tính cũng
được gọi là máy tính cá nhân (personal computer - PC).
Năm 1981, IBM đưa ra máy tính cá nhân đầu tiên. Sự thu nhỏ ngày càng
tinh vi hơn của các IC đưa đến việc sử dụng rộng rãi máy tính cá nhân tại nhà và
trong kinh doanh.
Vào giữa thập niên 1980, người sử dụng dùng các máy tính độc lập bắt
đầu chia sẻ các tập tin bằng cách dùng modem kết nối với các máy tính khác.
Cách thức này được gọi là điểm nối điểm, hay truyền theo kiểu quay số. Khái
niệm này được mở rộng bằng cách dùng các máy tinh là trung tâm truyền tin
trong một kết nối quay số. Các máy tính này được gọi là sàn thông báo (bulletin
board). Các người dùng kết nối đến sàn thông báo này, để lại đó hay lấy đi các
thông điệp, cũng như gửi lên hay tải về các tập tin. Hạn chế của hệ thống là có
3



Đề tài: Ngữ cảnh xã hội của thời đại công nghệ thông tin
rất ít hướng truyền tin, và chỉ với những ai biết về sàn thông báo đó. Ngoài ra,
các máy tính tại sàn thông báo cần một modem cho mỗi kết nối, khi số lượng kết
nối tăng lên, hệ thống không thề đáp ứng được nhu cầu.
Qua các thập niên 1950, 1970, 1980 và 1990, Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ đã
phát triển các mạng diện rộng WAN tin cậy nhằm mục đích quân sự và khoa
học. Công nghệ này khác truyền tin điểm nối điểm. Nó cho phép nhiều máy tính
kết nối lại với nhau bằng các đường dẫn khác nhau. Bản thân mạng sẽ xách định
dữ liệu di chuyển từ máy tính này đến máy tính khác như thế nào. Thay vì chỉ có
thể thông tin với một máy tính tại một thời điểm, nó có thể thông tin với nhiều
máy tính cùng lúc bằng cùng một kết nối. WAN của Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ về
sau trở thành Internet.
Sự phát triển và tiến bộ của CNTT đã ảnh hưởng sâu rộng đến từng gia
đình, từng người dân, và đặc biệt là trong từng hành động, cử chỉ việc làm của
mọi người trên toàn thế giới.
2. Thực trạng CNTT ở Việt Nam
2.1 Hệ thống tổ chức chỉ đạo và quản lý nhà nước đối với lĩnh vực
CNTT được đổi mới và tăng cường.
Tháng 12/2002, Ban Chỉ đạo Chương trình Hành động triển khai Chỉ thị 58
giai đoạn 2001 - 2005 được thành lập (còn gọi là Ban Chỉ đạo Quốc gia về
CNTT) do một Phó Thủ tướng làm Trưởng ban (từ 9/8/2000, Ban Chỉ đạo do
Thủ tướng Chính phủ trực tiếp làm Trưởng ban). Nhiều Bộ, ngành, cơ quan
Đảng và địa phương đã thành lập Ban Chỉ đạo CNTT của mình.
Trong năm 2002, Bộ Bưu chính, Viễn thông được thành lập và được giao
thống nhất quản lý nhà nước về về viễn thông và CNTT. Hiện tại, 63/64 tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương đã có sở bưu chính, viễn thông chịu trách
nhiệm quản lý nhà nước về bưu chính, viễn thông và CNTT tại địa phương. Các
Bộ, ngành, cơ quan Trung ương, UBND các tỉnh và thành phố trực thuộcTrung
ương, các tổng công ty 91 đều đã cử cán bộ lãnh đạo phụ trách CNTT theo tinh
thần của Chỉ thị 58.

2. 2 Môi trường pháp lý cho ứng dụng và phát triển CNTT được cải thiện
Chỉ thị 58 là nền tảng cho sự ra đời của nhiều cơ chế, chính sách thuận lợi,
thúc đẩy việc ứng dụng và phát triển CNTT ở nước ta. Hơn 30 văn bản quy
phạm pháp luật về CNTT và truyền thông (CNTT&TT) đã được xây dựng và
phê duyệt như: Luật giao dịch điện tử, Luật CNTT, Pháp lệnh Bưu chính, Viễn
thông, Nghị quyết của Chính phủ về phát triển công nghiệp phần mềm, các nghị
4


Đề tài: Ngữ cảnh xã hội của thời đại công nghệ thông tin
định của Chính phủ về quản lý cung cấp và sử dụng dịch vụ Internet, ứng dụng
CNTT trong hoạt động của các cơ quan nhà nước, quy định chi tiết thi hành luật
giao dịch điện tử về chữ ký số và dịch vụ chứng thực chữ ký số, quy định chi tiết
và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật CNTT về công nghiệp CNTT, quy
định xử phạt hành chính trong lĩnh vực CNTT, các quyết định của Thủ tướng
Chính phủ về một số chính sách và biện pháp khuyến khích đầu tư và phát triển
công nghiệp phần mềm, bổ sung sản phẩm máy tính vào danh mục các sản phẩm
công nghiệp trọng điểm, thống nhất dùng bộ mã các ký tự chữ Việt theo theo
tiêu chuẩn TCVN 6909:2001 trong trao đổi thông tin điện tử giữa các tổ chức
của Đảng và Nhà nước1. Nhiều Bộ, ngành cũng đã ban hành các văn bản thúc
đẩy ứng dụng và phát triển CNTT của đơn vị mình, hoặc trong lĩnh vực quản lý
của đơn vị. Từ năm 2006, trong mục lục ngân sách nhà nước đã có dòng chi
riêng cho CNTT. (Danh mục các văn bản quy phạm pháp luật về CNTT được
ban hành từ năm 2001 đến nay trong Phụ lục 1 Báo cáo Tổng kết 5 năm 2001 2005 thực hiện Chỉ thị 58 của Bộ chính trị).
Pháp lệnh bưu chính, viễn thông với tinh thần xóa bỏ độc quyền doanh
nghiệp (DN) trong kinh doanh dịch vụ viễn thông là một giải pháp đột phá tạo
điều kiện cho việc phát triển nhanh, mạnh các loại hình dịch vụ viễn thông đa
dạng, với chất lượng ngày một cao, giá ngày một rẻ, đáp ứng ngày càng tốt hơn
nhu cầu của xã hội. Các chính sách khuyến khích phát triển công nghiệp phần
mềm với các ưu đãi cao đã có sức thu hút mạnh các DN đăng ký kinh doanh và

đầu tư trong lĩnh vực này.
3. Ứng dụng và các lĩnh vực nghề nghiệp trong CNTT
CNTT có vai trò rất lớn đối với cuộc sống. Ứng dụng rộng rãi công nghệ thông
tin (CNTT) trong các ngành, lĩnh vực trọng điểm của nền kinh tế. Hình thành,
xây dựng và phát triển Việt Nam điện tử với công dân điện tử, CPĐT, DN điện
tử, giao dịch và TMĐT để Việt Nam đạt trình độ trung bình trong ASEAN. Để
đẩy mạnh ứng dụng và phát triển CNTT phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hóa.
CNTT có ảnh hưởng rất lớn đối với các ngành nghề trong nước ta hiện nay như:
3.1 Về mặt chính trị, an ninh_quốc phòng:
CNTT ra đời trong bối cảnh toàn xã hội đang diễn ra quá trình hội nhập,
toàn cầu hoá mạnh mẽ như một quá trình phát triển tất yếu của lịch sử. CNTT
ảnh hưởng mạnh đến tất cả các lĩnh vực của đời sống, chính trị cũng không nằm
ngoài sự ảnh hưởng đó. Đó chính là sự ra đời của chính phủ điện tử, các diễn
5


Đề tài: Ngữ cảnh xã hội của thời đại công nghệ thông tin
đàn chính trị online, ứng dụng CNTT trong lĩnh vực quản lý nhà nước, ứng dụng
của CNTT trong các cơ quan Đảng và Nhà Nước… có bước thay đổi lớn. Hệ
thống tổ chức chỉ đạo và quản lý Nhà nước đối với CNTT được tăng cường.
Trước năm 2000, số bộ, ngành có trang tin điện tử rất ít. Hiện nay có 22/26 bộ,
56/64 tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương đã có website chính thức, góp
phần hiện đại hoá nền hành chính và tạo tiền đề cho việc phát triển chính phủ
điện tử. Theo thông tin từ Bộ Thông tin_truyền thông cho biết: Việt Nam đã đạt
được bước tiến vượt bậc trong việc ứng dụng CNTT tại các cơ quan chính phủ
để quan hệ và cung cấp các dịch vụ của Chính phủ cho công dân, khi từ vị trí
thứ 126 năm 2006 lên vị trí 90 trong năm 2007. Trong 10 nước Asean Việt Nam
đứng thứ 5. Tại Việt Nam, 89% website được công khai và 100% website đã
cung cấp cơ sở dữ liệu. Việt Nam cũng là quốc gia có 22% website của cơ quan

chính phủ đã cung cấp dịch vụ trực tuyến cho người dân. 56% website cơ quan
chính phủ có mục ý kiến phản hồi của người dân và 11% website cho phép
người dùng cập nhật thông tin và 100% website cung cấp giao diện tiếng nước
ngoài. Điểm yếu nhất đối với các website của Chính phủ Việt Nam là chưa có
chính sách bảo mật và an ninh, trong khi trên thế giới có 23% website có chính
sách bảo mật, 21% website có chính sách an ninh.
Đề án 112 tin học hoá quản lý hành chính nhà nước được Thủ tướng
chính phủ ban hành ngày 5.2.2002 nhằm cải cách nền hành chính nhiều thủ tục
để hình thành phương thức làm việc mới. Nhiều cơ quan hành chính nhà nước từ
trung ương đến địa phương đã chuyển từ điều hành thủ công truyền thống sang
điều hành qua mạng máy tính. Qua đó cho phép chuyển giao, lưu trữ, kiểm tra,
tìm kiếm nhanh chóng giảm thiểu thời gian truy tìm thông tin khi cần đến. Đẩy
mạnh tin học hoá hành chính công, tiến tới giao dịch trực tuyến tất cả các dịch
vụ công. Lần đầu tiên thiết lập được hệ thống thông tin điện tử trong cả nước,
hình thành hệ thống thông tin điện tử của Chính phủ, bao gồm trung tâm tích
hợp dữ liệu của các bộ, tỉnh, mạng cục bộ (Lan) của mỗi cơ quan thuộc cơ cấu
bên trong của của bộ, tỉnh, mạng diện rộng liên kết các hệ thống tin học của bộ,
tỉnh. Điểm hội tụ của toàn hệ thống thông tin điện tử của Chính phủ là cổng
thông tin điện tử Chính phủ được khai trương và đưa vào vận hành ngày
9.9.2005. Hơn 25 nghìn văn bản quy phạm pháp luật được cập nhật và công bố
trên Cổng thông tin điện tử Chính phủ. Hơn 300 hệ thống thông tin điện tử được
cài đặt tại các bộ, tỉnh, trong đó 35% hệ thống thông tin đã được vận hành trong
bộ máy hành chính. Hơn 60% số cán bộ công chức biết sử dụng thư điện tử hành
6


Đề tài: Ngữ cảnh xã hội của thời đại công nghệ thông tin
chính và khai thác Internet. Trong thời gian gần đây, gần 60 nghìn công chức
hành chính đã được đào tạo ứng dụng tin học để vận hành hệ thống thông tin
điện tử đang triển khai tại các bộ, tỉnh. Thời gian vừa qua, thông qua việc xây

dựng môi trường pháp lý, hàng loạt các luật đã được ban hành như: Luật công
nghệ thông tin, Luật giao dịch điện tử…
Theo ban điều hành 112 của TP.Hồ Chí Minh, trong năm 2005 việc triển
khai 3 hệ thống thông tin điện tử của Văn phòng Chính phủ đến các sở, ngành,
quận, huyện đã giúp cải cách nhiều thủ tục hành chính giảm phiền hà dân. Hệ
quản lý văn bản và hồ sơ công việc đã được triển khai tại 35 đơn vị qua đó đã
giảm được số lượng giấy tờ, quản lý công tác xử lý công văn đi_đến và công tác
lưu trữ thông tin, đáp ứng nhu cầu công việc. Hệ thống thông tin kinh tế_xã hội
phục vụ điều hành và trang thông tin điện tử phục vụ điều hành đã triển khai
được ở 38 đơn vị cung cấp nhiều thông tin hữu ích cho công việc chung. Các
phần mềm dùng chung cũng đã được triển khai như “ Hệ thống thông tin phục
vụ y tế ”, “ Hệ thống thông tin phục vụ cấp phép xây dựng ” và “ Cơ sở dữ liệu
phục vụ quản lý khu chế xuất và khu công nghiệp thành phố”. Hiện trang thông
tin thành phố có 54 đơn vị thành viên, 20 dịch vụ công trên mạng và 360 thủ tục
hành chính của các sở, ban ngành liên quan, quận, huyện đã phát huy tốt tác
dụng. TP.HCM còn ứng dụng hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000 vào hoạt
động tại các cơ quan hành chính.
Trong lĩnh vực an ninh_quốc phòng, CNTT cũng nhanh chóng được phổ
cập, ứng dụng và phát triển; tạo tiền đề quan trọng góp phần xây dựng lực lượng
chính quy, tinh nhuệ, hiện đại. Từng bước xây dựng hệ thống tự động hoá chỉ
huy, kiểm soát, làm chủ, cải tiến vũ khí, khí tài và phương tiện chiến đấu; đảm
bảo an ninh quốc gia; sẵn sàng, chủ động đối phó với chiến tranh thông tin hiện
đại.
3.2 Về mặt kinh tế:
Trong những năm qua, nước ta đã triển khai đồng bộ các chương trình,
các giải pháp để phát triển hạ tầng CNTT; nâng cao chất lượng và ứng dụng
CNTT trong các cơ quan, doanh nghiệp; tăng cường đào tạo nguồn nhân lực và
phát triển công nghiệp CNTT. Trong đó tập trung một số giải pháp có tính chất
đột phá như: Triển khai đề án xây dựng Khu phát triển phần mềm, đào tạo và
chuyển giao ứng dụng CNTT, thành lập các khoa kỹ thuật_công nghệ tại các

trường đại học…

7


Đề tài: Ngữ cảnh xã hội của thời đại công nghệ thông tin
Đảng và Nhà nước tập trung phát triển các dịch vụ điện tử trong lĩnh vực
tài chính (thuế, kho bạc, kiểm toán…), ngân hàng, hải quan, hàng không, thương
mại, thương mại điện tử và các dịch vụ công cộng (y tế, du lịch…) đảm bảo các
điều kiện cần thiết phù hợp với tiến độ hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế.
a, Đối với doanh nghiệp:
Để chủ động hội nhập kinh tế thế giới khi gia nhập tổ chức thương mại
thế giới(WTO), giải pháp hiệu quả để tự hoàn thiện doanh nghiệp là ứng dụng
kinh doanh điện tử vào hoạt động sản xuất, kinh doanh. Trước đây, kinh doanh
điện tử chủ yếu được ứng dụng trong quá trình mua sắm. Theo kết quả điều tra
mới đây của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) về thực
trạng ứng dụng CNTT trong 2.233 doanh nghiệp thuộc 5 thành phố lớn là Hà
Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ và TP Hồ Chí Minh, các thiết bị phục vụ
CNTT được sử dụng trong các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay chủ yếu là máy
tính để bàn và máy in, các thiết bị khác như máy scan, máy tính xách tay vẫn
chiếm tỷ lệ thấp. Các doanh nghiệp đã ứng dụng một số phần mềm chuyên dụng
phục vụ cho công tác quản trị nhân sự, quản trị quan hệ khách hàng, kế toán.
Điều đáng nói là có tới 91% doanh nghiệp đã kết nối internet, trong khi lại có tới
70% chưa xây dựng website riêng cho mình, có nghĩa chưa sử dụng hết sức
mạnh của internet vào hoạt động kinh doanh. Trong quá trình ứng dụng CNTT,
có tới 24% doanh nghiệp không sử dụng bất kỳ một dịch vụ hỗ trợ nào khác như
tư vấn, bảo trì, sửa chữa, thiết kế web… Phần lớn các doanh nghiệp chưa có thói
quen sử dụng các dịch vụ bên ngoài, đặc biệt có tới 96,4% không sử dụng dịch
vụ tư vấn, và 97,3% không ứng dụng thương mại điện tử. Thêm vào đó, tỷ trọng
đầu tư của doanh nghiệp vào CNTT có sự mất cân đối nghiêm trọng, 59,9% quỹ

đầu tư dành cho phần cứng, 10,9% dành cho phần mềm và chỉ có 4,8% cho đào
tạo nhân lực trong khi đây là yếu tố rất quan trọng để ứng dụng CNTT có hiệu
quả.
Hiện nay CNTT đã được mở rộng sang lĩnh vực bán hàng và dịch vụ
khách hàng. Có 91% doanh nghiệp sử dụng và kết nối Internet, gần 60% kết nối
ADSL, 75% kết nối mạng Lan, nhưng chủ yếu chỉ dừng ở mức sử dụng Internet,
Email, Website và một số ứng dụng đơn giản như quản lý nhân sự, đào tạo trực
tuyến. Mức độ tham gia kinh doanh trực tuyến còn thấp, chỉ 4% doanh nghiệp
tham gia sàn giao dịch, 2,7% bán hàng qua mạng, 9% doanh nghiệp xây dựng

8


Đề tài: Ngữ cảnh xã hội của thời đại công nghệ thông tin
được hệ thống chăm sóc khách hàng qua mạng. Hầu hết các doanh nghiệp chưa
xây dựng được chiến lược kinh doanh điện tử một cách cụ thể. Nhà nước cũng
rất quan tâm đến việc ứng dụng CNTT trong doanh nghiệp với việc ra đời của
cổng thương mại điện tử quốc gia (ECVN) đã giúp doanh nghiệp nâng tầm nhận
thức và năng lực ứng dụng thương mại điện tử trong hoạt động sản xuất kinh
doanh. Tính đến đầu tháng 8/2007, ECVN đã có gần 3000 thành viên, số lượng
cơ hội kinh doanh đạt gần 10.000, số lượng doanh nghiệp nước ngoài tăng
nhanh, đạt gần 600 thành viên. TMĐT đã trở thành một công cụ quan trọng
trong chiến lược phát triển kinh doanh của nhiều doanh nghiệp. Một cuộc khảo
sát đựơc thực hiện vào tháng 8/2007 cho thấy hiệu quả kinh doanh bằng phương
thức TMĐT của các DN thông qua ECVN ngày càng tăng cao, thể hiện bởi các
hợp đồng giá trị lớn được ký kết, nhiều đối tác mới tìm đến với DN. Cụ thể, qua
kết quả khảo sát từ hơn 200DN thành viên thì đã có 236 hợp đồng đựơc ký kết
với tổng trị gía lên đến trên 50 tỷ đồng.
Mới đây, Đề án 191 (Hỗ trợ doanh nghiệp ứng dụng CNTT trong quá
trình hội nhập) đã được Chính phủ phê duyệt. Trong năm tới, khối lượng các

hoạt động của Đề án 191 phải thực hiện là rất lớn. Dự kiến có 210 hoạt động
được diễn ra trong khuôn khổ Đề án trong đó bao gồm các chương trình điều tra,
khảo sát, nghiên cứu thực trạng ứng dụng CNTT trong các doanh nghiệp; tư vấn
cho doanh nghiệp lựa chọn giải pháp; triển khai các chương trình đào tạo kỹ
năng cần thiết về ứng dụng CNTT cho đội ngũ cán bộ của doanh nghiệp.
Ngày nay, CNTT đang phát triển theo xu hướng tích hợp, sử dụng các
giao diện mở và ngày càng bớt lệ thuộc vào các nhà sản xuất công nghệ lớn.
Phần mềm được xây dựng dưới dạng các đối tượng có chức năng thông qua các
giao diện mở, thuận tiện cho việc tích hợp và tiếp tục phát triển. Các nhà hoạch
định chính sách và các chuyên gia CNTT cho rằng, phát triển phần mềm nguồn
mở sẽ giúp giảm sự lệ thuộc vào các hãng phần mềm lớn, tạo thêm sự lựa chọn
cho người sử dụng cũng như cơ hội kinh doanh mới và nâng cao khả năng phát
triển cho các DN. Bên cạnh đó, xu hướng hội tụ của CNTT - viễn thông – phát
thanh và truyền hình đang tạo ra một thị trường rộng lớn cho công nghiệp nội
dung thông tin. Rõ ràng, dựa vào tính mở của thị trường, các DN có điều kiện để
lựa chọn nhiều đối tác, các sản phẩm, giải pháp thuận lợi cho đặc điểm của
mình.

9


Đề tài: Ngữ cảnh xã hội của thời đại công nghệ thông tin
b, Đối với Công nghiệp:
CNTT tạo ra một ngành công nghiệp mới đó là công nghiệp CNTT, tác
động đến những ngành công nghiệp công nghệ cao, giúp mang lại năng suất,
chất lượng cao cho sản phẩm, tạo ra nhiều sản phẩm mới đa dạng; đồng thời
giúp tự động hoá trong các khâu sản xuất, tin học hoá các hoạt động tiếp thị,
kinh doanh quảng cáo…CNTT còn mang lại hiệu quả ngay cả đối với các ngành
thủ công nghiệp hoặc công nghiệp có công nghệ thấp (may, thêu, dệt…) qua
việc tự động hoá thiết kế, chế tạo sản phẩm. Theo kết luận của hội thảo toàn

cảnh CNTT Việt Nam 2007, diễn ra trong 2 ngày 11&12/7/2007 tại TP.HCM
kim ngạch nhập_xuất khẩu CNTT Việt Nam đều giữ được ngưỡng trên 1 tỉ USD
nhưng tốc độ tăng trưởng lại giảm sút một cách đáng kể.
Chính Phủ đã phê duyệt “Chiến lược quốc gia về CNTT-TT đến 2010 và
định hướng đến 2020” do Viện Chiến Lược BCVT&CNTT (Bộ BCVT) xây
dựng với quá trình thực hiện từ giữa năm 2003. Một trong các mục tiêu đặt ra là
đến năm 2010, công nghiệp CNTT-TT phải trở thành ngành công nghiệp mũi
nhọn có tốc độ tăng trưởng 20 - 25%/năm và đạt tổng doanh thu 6 - 7 tỷ USD.
Về định hướng hoạt động ngành phần mềm (PM), Hiệp Hội DN PM Việt Nam
(VINASA) đặt ưu tiên cho hoạt động xuất khẩu, gia công PM cho thị trường
Nhật Bản, và Hiệp Hội Điện Tử & CNTT TPHCM cũng chỉ ra 3 hướng: gia
công PM cho nước ngoài; xuất khẩu nguồn nhân lực; và tự phát triển PM theo
yêu cầu của thị trường.
Công nghiệp PM Việt Nam đang được mùa gia công, nhưng tương lai như
thế nào thì rất khó dự báo. Theo ý kiến của một số chuyên gia, 2 hướng đi đầu
có ưu điểm là vốn đầu tư không nhiều và thời gian thu hồi vốn nhanh. Tuy
nhiên, nhược điểm là phụ thuộc hoàn toàn vào đối tác nước ngoài; không mang
lại nền tảng cơ bản để xây dựng nền CNPM cho đất nước... Riêng về hướng thứ
ba, ngay từ đầu các DN có thể chủ động định hướng phát triển CNPM theo
phương châm từ thấp lên cao, từ nhỏ đến lớn, từ đơn giản đến phức tạp, đồng
thời có khả năng chiếm lĩnh thị trường trong nước. Thế nhưng, hướng đi này lại
thiếu nguồn vốn đầu tư vào những dự án chiến lược dài hạn, thiếu nguồn nhân
lực nòng cốt để có thể triển khai các dự án lớn và mất nhiều thời gian xác lập uy
tín trên thị trường.
Phát triển nhanh công nghiệp phần cứng trong lĩnh vực máy tính và
truyền thông. Đảm bảo máy tính, thiết bị truyền thông sản xuất, lắp ráp trong
nước chất lượng cao, đáp ứng khoảng 80% nhu cầu nội địa; có sức cạnh tranh về
10



Đề tài: Ngữ cảnh xã hội của thời đại công nghệ thông tin
giá trên thị trường thế giới và khu vực để tham gia xuất khẩu. Đẩy mạnh việc
sản xuất các thiết bị thông tin và xử lý thông tin, đặc biệt là các thiết bị có kết
nối với mạng máy tính. Có chính sách đặc biệt để thu hút đầu tư nước ngoài và
huy động các nguồn vốn đầu tư trong nước cho phát triển công nghiệp phần
cứng, đặc biệt là thu hút các công ty đa quốc gia hàng đầu trong lĩnh vực CNTT
đầu tư và chuyển giao công nghệ ở Việt Nam.
Công nghệ thông tin và đang trở thành công cụ không thể thiếu và phục
vụ cho mọi nghành nghề, lĩnh vực. Trong lĩnh vực cơ khí, CNTT được ứng dụng
trong 3 giai đoạn chính của quá trình sản xuất_ gia công gồm: Thiết kế, Tính
toán mô phỏng và điều khiển gia công. CNTT đã thực sự thúc đẩy nghành công
nghiệp cơ khí có những bước tiến vượt bậc: Nâng cao hiệu suất và chất lượng,
gia tăng sự chính xác, giảm thiểu chi phí. Và đặc biệt, nhờ có CNTT, khối lượng
và chất lượng của các phát minh về cơ khí phục vụ cho mọi lĩnh vực sản xuất và
đời sống cũng đã tăng đáng kể, điều này thực sự khiến nghành cơ khí có những
đóng góp to lớn và thiết thực hơn cho sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế xã
hội.
Đối với nghành công nghiệp dệt may đã chú trọng ứng dụng CNTT cho
các doanh nghiệp trong nước để có thể cạnh tranh tốt hơn tại thị trường trong
nước và quốc tế. Gói giải pháp bao gồm phần cứng và phần mềm đánh dấu sự
chuyển biến quan trọng trong việc nhìn nhận về hiệu quả của hệ thống máy tính
cho doanh nghiệp, khả năng tiết kiệm chi phí vận hành lên tới 40%; chi phí bảo
trì máy và thuê nhân công dự kiến giảm từ 7% đến 95% . CNTT còn nhiều ứng
dụng trong nhiều ngành công nghiệp khác nhau góp phần làm nền kinh tế Việt
Nam thay đổi và phát triển.
c, Đối với Nông nghiệp:
Mặc dù Việt Nam đứng thứ 3 thế giới về tình hình xuất khẩu lúa gạo,
nhưng nhiều nơi trên đất nước chúng ta tình trạng đói nghèo, kém phát triển vẫn
còn tồn tại. Một trong rất nhiều nguyên nhân của tình trạng đó là sự thiếu hiểu
biết, thiếu kiến thức do không được tiếp cận với nguồn thông tin kinh tế, khoa

học_kỹ thuật, thiếu kiến thức về tổ chức sản xuất và tổ chức cuộc sống. CNTT
mang lại cơ hội tiếp cận kiến thức và điều kiện hội nhập. CNTT mang đến cơ
hội cho mọi người kể cả người nghèo và nông dân; đó là việc tạo điều kiện tiếp
xúc thị trường, giảm thiểu chi phí giao dịch cho cả người mua và người bán.
CNTT cũng có thể cung cấp kiến thức, thông tin hữu ích cho người nông
dân về cây trồng, vật nuôi, cách thức chăm sóc, phòng trừ hạn hán, sâu bệnh
11


Đề tài: Ngữ cảnh xã hội của thời đại công nghệ thông tin
thông qua các website. Tuy nhiên với tình hình thực tế hiện nay vấn đề này còn
nhiều nan giải do: Hệ thống Internet chưa phổ biến với nông dân, đa số nông
dân có trình độ văn hoá thấp, chưa được phổ cập tin học, thông tin về nông
nghiệp bằng tiếng Việt còn ít, thay đổi kinh nghiệm sản xuất truyền thống bằng
kiến thức khoa học trên Internet còn hạn chế. Trước tình hình đó, Bộ BCVT và
Hội Nông dân Việt Nam đã ký kết Chương trình phối hợp hoạt động đưa CNTT
vào phục vụ nông nghiệp, nông thôn, nông dân giai đoạn 2007 – 2013 với những
nội dung cơ bản sau:
- Phối hợp tổ chức tuyên truyền, vận động, cung cấp thông tin, tài liệu để
cho cán bộ, hội viên, nông dân hiểu rõ về vị trí, vai trò của CNTT đối sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá và gia nhập nền kinh tế toàn cầu của đất nước nói
chung cũng như trong sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, cơ sở;
- Phối hợp tổ chức đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng kiến thức tin học cho cán
bộ, hội viên, nông dân. Phấn đấu đến hết nhiệm kỳ Đại hội V Hội Nông dân Việt
Nam (2008-2013) đào tạo phổ cập tin học cho trên 50% (khoảng 15.000 cán bộ
chủ chốt của Hội Nông dân cấp cơ sở; tập huấn truy cập mạng và tìm kiếm
thông tin trên Internet cho 50% (khoảng 500.000 người) số cán bộ chi, tổ hội và
hội viên nông dân tình nguyện là “hạt nhân tin học ở thôn, xóm”;
- Phối hợp xây dựng, tổng kết, đánh giá các mô hình ứng dụng CNTT
trong nông nghiệp nông thôn, nông dân; tổ chức tư vấn, chuyển giao công nghệ

và các hoạt động hỗ trợ khác nhằm thúc đẩy ứng dụng có hiệu quả CNTT vào
các lĩnh vực nông nghiệp nông thôn, nông dân;
- Phối hợp cùng các ngành chức năng, địa phương và các đơn vị liên quan
tổ chức xây dựng và bảo vệ cơ sở hạ tầng thông tin nông thôn;
- Phối hợp với đơn vị chủ quản tăng cường nội dung thông tin phù hợp
với đối tượng hội viên, nông dân tại các điểm Bưu điện - Văn hóa xã để sử dụng
và khai thác có hiệu quả hơn mạng lưới này;
- Phối hợp nghiên cứu, đề xuất với Đảng, Nhà nước có các chính sách ưu
tiên về CNTT đối với nông nghiệp, nông thôn, nông dân;
- Phối hợp trong hoạt động hợp tác quốc tế nhằm học hỏi kinh nghiệm,
nhận được nguồn lực hỗ trợ từ các nước có ứng dụng CNTT thành công phục vụ
nông nghiệp, nông thôn và nông dân.
d, Lĩnh vực Tài chính_Ngân hàng:
Ông Tạ Quang Tiến, Cục trưởng Cục Công nghệ tin học ngân hàng, Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam, cho biết năm 2004 mới chỉ có ba ngân hàng tham gia
12


Đề tài: Ngữ cảnh xã hội của thời đại công nghệ thông tin
Internet Banking với lượng giao dịch trực tuyến mỗi ngày chỉ khoảng 2 triệu
cuộc. Hiện nay, có 17 ngân hàng tham gia hoạt động này với 4,5 triệu giao dịch
mỗi ngày. Với việc giới thiệu F@st i-Bank vào ngày 28.5.2007 vừa qua,
Techcombank trở thành một trong những ngân hàng đầu tiên của Việt Nam cung
cấp khá đầy đủ dịch vụ thanh toán qua Internet ra thị trường, đặc biệc cho các
khách hàng cá nhân.
Một số ngân hàng tại Việt Nam đã cung cấp dịch vụ ngân hàng điện tử
thực sự (Citibank, HSBC, Deutsche Bank, ANZ Bank) nhưng chỉ dừng lại ở đối
tượng khách hàng doanh nghiệp. Một số ngân hàng Việt Nam cũng triển khai
Internet Banking nhưng chủ yếu ở dịch vụ hỏi đáp thông tin tài khoản. Với dịch
vụ này, chỉ cần qua Internet khách hàng có thể thực hiện một số giao dịch mà

không cần trực tiếp đến các phòng giao dịch của Techcombank: quản lý các giao
dịch tài khoản và tra cứu thông tin về tài khoản; thực hiện thanh toán chuyển
khoản trực tuyến; tra cứu các khoản vay và khoản tiết kiệm với ngân hàng; liên
hệ trực tuyến với ngân hàng và đăng ký sử dụng sản phẩm, dịch vụ trực tuyến…
Ông Tạ Quang Tiến nói: “Công nghệ ngân hàng đang trở thành một vũ
khí lợi hại trong cuộc cạnh tranh ngày càng khốc liệt giữa các ngân hàng.” Sự
phát triển ứng dụng CNTT trong ngành ngân hàng còn tụt hậu so với nền kinh tế
Việt Nam nói chung và nhiều lĩnh vực khác nói riêng. Ngành ngân hàng Việt
Nam còn rất nhiều việc cần phải làm trong ứng dụng CNTT. Hiện nhận thức của
người Việt về vấn đề đầu tư CNTT cho ngân hàng đã được nâng cao nhưng mức
đầu tư vẫn chưa nhiều và thỏa đáng.
Theo Ngân hàng Nhà nước, Việt Nam là nước đi sau về công nghệ thanh
toán so với các nước phát triển. Chính phủ đã đưa ra mục tiêu là đến cuối năm
2010, hoạt động thanh toán trong nền kinh tế đạt mức phát hành 15 triệu thẻ,
70% các trung tâm thương mại, siêu thị, nhà hàng, khách sạn, cửa hàng tự
chọn… lắp đặt các thiết bị chấp nhận thanh toán thẻ. Phấn đấu đến năm 2020
con số này đạt gần 30 triệu thẻ và 95% các điểm chấp nhận thanh toán thẻ. Đến
năm 2010 tỷ lệ tiền mặt trên tổng phương tiện thanh toán không quá 18 %, và
năm 2020 giảm xuống còn 15%.
e, Lĩnh vực hàng không
Cục Hàng không dân dụng đánh giá thị trường hàng không Việt Nam sẽ
phát triển nhanh nhất trong khu vực. Dự kiến từ nay đến năm 2020 sẽ tăng
trưởng mỗi năm khoảng 10-15 %. Tốc độ tăng trưởng này đòi hỏi ngành hàng

13


Đề tài: Ngữ cảnh xã hội của thời đại công nghệ thông tin
không phải ứng dụng CNTT hiện đại, do đó thị trường cung cấp các giải pháp
CNTT cho ngành hàng không sẽ rất sôi động.

Theo yêu cầu của Liên minh Hàng không quốc tế, ngày 1/1/2008 là thời
điểm các hãng hàng không Việt Nam phải tham gia hoạt động thương mại điện
tử. Nhu cầu về giải pháp CNTT cho ngành hàng không nước ta vì vậy sẽ tăng
mạnh.
Mặc dù không có tiềm lực tài chính mạnh như VNA nhưng Công ty hàng
không cổ phần Pacific Airlines (PA) cũng đã đầu tư mạnh cho hệ thống CNTT.
PA là hãng hàng không đầu tiên tại Việt Nam bán vé và thanh toán trực tiếp qua
Internet từ tháng 2 vừa qua cùng với việc đưa dịch vụ thương mại điện tử vào
hoạt động. Khi chuyển sang vé điện tử, chi phí cho vé của hãng hàng không này
chỉ bằng 1/10 so với trước do giảm chi phí in ấn, chi phí nhân công, chi phí thuê
địa điểm bán vé...
Công ty Sabre Airline Solutions (SAS) vừa có mặt tại thị trường VN cuối
tháng 7 vừa qua. SAS cung cấp khoảng 100 giải pháp CNTT khác nhau cho các
hãng hàng không, giúp quản lý khách hàng, điều hành hoạt động, vận hành hệ
thống đặt chỗ, khai thác thương mại điện tử, xử lý giao dịch, quản lý doanh thu,
phân phối sản phẩm, hoạch định chiến lược...
Ngoài SAS, Oracle cũng là nhà cung cung cấp các giải pháp CNTT cho
ngành hàng không có tên tuổi. Gần 50 sân bay lớn nhất thế giới sử dụng sản
phẩm, giải pháp của Oracle.
3.3 Về mặt văn hoá_giáo dục:
a Về mặt Giáo dục:
Công nghệ thông tin là một trong những mũi nhọn trong chiến lược giáo
dục và đào tạo của nhà nước ta…“Việc ứng dụng CNTT trong giáo dục phổ
thông hiện nay có hai nội dung: ứng dụng phục vụ công tác quản lý từ cấp sở
đến cấp trường; ứng dụng phục vụ dạy và học, đổi mới phương pháp”. Việc đổi
mới phương pháp giảng dạy theo hướng tích cực chủ động sáng tạo của học sinh
lại càng nâng cao vai trò của CNTT trong giảng dạy. Giảng dạy bằng CNTT có
thể vận dụng được trong hầu hết các bậc học và môn học như: Tiếng Anh, Ngữ
Văn, Toán, Vật Lý, Hoá Học, Sinh Học, Địa Lý … Với CNTT giáo viên có thể
giới thiệu ngữ liệu mới bằng những tình huống sinh động với tranh ảnh minh

họa phong phú, cùng với sự hỗ trợ công nghệ Multimedia sẽ tạo thành một giáo
án hoàn hảo giúp học sinh say mê học tập, phát huy tính chủ động tìm hiểu và
khắc sâu kiến thức bài học.
14


Đề tài: Ngữ cảnh xã hội của thời đại công nghệ thông tin
Do sự phát triển của công nghệ thông tin và truyền thông mà mọi người
đều có trong tay nhiều công cụ hỗ trợ cho quá trình dạy học nói chung và phần
mềm dạy học nói riêng. Nhờ có sử dụng các phần mềm dạy học này mà học
sinh trung bình, thậm chí học sinh trung bình yếu cũng có thể hoạt động tốt
trong môi trường học tập. Phần mềm dạy học được sử dụng ở nhà cũng sẽ nối
dài cánh tay của giáo viên tới từng gia đình học sinh thông qua hệ thống mạng.
Nhờ có máy tính điện tử mà việc thiết kế giáo án và giảng dạy trên máy tính trở
nên sinh động hơn, tiết kiệm được nhiều thời gian hơn so với cách dạy theo
phương pháp truyền thống, chỉ cần “bấm chuột”, vài giây sau trên màn hình
hiện ra ngay nội dung của bài giảng với những hình ảnh, âm thanh sống động
thu hút được sự chú ý và tạo hứng thú nơi học sinh. Thông qua giáo án điện tử,
giáo viên cũng có nhiều thời gian đặt các câu hỏi gợi mở tạo điều kiện cho học
sinh hoạt động nhiều hơn trong giờ học. Ưu điểm nổi bật của phương pháp dạy
học bằng công nghệ thông tin so với phương pháp giảng dạy truyền thống là
những thí nghiệm, tài liệu được cung cấp bằng nhiều kênh: kênh hình, kênh
chữ, âm thanh sống động làm cho học sinh dễ thấy, dễ tiếp thu và bằng suy luận
có lý, học sinh có thể có những dự đoán về các tính chất, những quy luật mới.
Đây là một công dụng lớn của công nghệ thông tin và truyền thông trong quá
trình đổi mới phương pháp dạy học. Có thể khẳng định rằng, môi trường công
nghệ thông tin và truyền thông chắc chắn sẽ có tác động tích cực tới sự phát
triển trí tuệ của học sinh và điều này làm nảy sinh những lý thuyết học tập mới.
Theo nhận định của một số chuyên gia, việc đưa công nghệ thông tin và
truyền thông ứng dụng vào lĩnh vực giáo dục và đào tạo ở nước ta bước đầu đã

đạt được những kết quả khả quan. Tuy nhiên, những gì đã đạt được vẫn còn hết
sức khiêm tốn, việc ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông nhằm đổi
mới nội dung, phương pháp dạy học là một công việc lâu dài, khó khăn đòi hỏi
rất nhiều điều kiện về cơ sở vật chất, tài chính và năng lực của đội ngũ giáo
viên. Nhà nước cần tăng dần mức đầu tư để không ngừng nâng cao, hoàn thiện
và hiện đại hoá thiết bị, công nghệ dạy học; đồng thời hoàn thiện hạ tầng công
nghệ thông tin và truyền thông để mọi trường học đều có thể kết nối vào mạng
Internet.
Nhiều phần mềm để hỗ trợ học tập như: hệ thống trò chơi trên máy vi
tính dành cho trẻ em có tên gọi "Nhà khám phá trẻ". Kích thích sự tập trung chú
ý cũng như hứng thú khám phá của trẻ. Khi chơi trên máy tính, trẻ có nhiều cơ
hội phát triển về nhận thức, tình cảm, ngôn ngữ và vận động. Các khái niệm về
15


Đề tài: Ngữ cảnh xã hội của thời đại công nghệ thông tin
chữ cái, từ, số đếm, phân loại, không gian, thời gian, hình dạng... được trẻ học
một cách ngẫu nhiên trong các tình huống trò chơi. Các phần mềm từ điển điện
tử và đa ngôn ngữ trên nền tiếng Việt, các bách khoa toàn thư điện tử, các phần
mềm hỗ trợ dạy và học các môn học trọng điểm…
b Về văn hoá:
Internet là phát minh vĩ đại của nhân loại. Song, nó cũng tác động không
nhỏ đến văn hóa đọc truyền thống. Mọi người có thể vào Internet để học hỏi
kiến thức, thu thập thông tin ở tất cả mọi lĩnh vực, đọc nhiều cuốn sách, nhiều tờ
báo cùng lúc mà không phải trả tiền. Tuy nhiên, Internet cũng có những bất lợi.
Nó giới hạn về thời gian và không gian. Người ta không thể đọc sách, báo trên
lnternet khi đi tàu, xe. Tuy nhiên, không thể phủ nhận được văn hoá đọc truyền
thống qua việc đọc trực tiếp qua sách báo được, vì nó đóng vai trò quan trọng
trong cuộc sống: không ai cũng có điều kiện đọc thông tin thông qua Internet,
những quyển sách dày nếu đọc qua Internet sẽ tốn nhiều thời gian… Hiện nay ở

Việt Nam Internet tác động không nhỏ đến giới trẻ, đặc biệt là các trò game
online qua mạng, game có hai mặt lợi và hại. Game là một loại hình giải trí lành
mạnh nếu xác định chơi để giải trí. Game không chỉ nâng cao khả năng tư duy
mà còn giữ cho giới trẻ nói riêng và mọi người nói chung tránh xa những tệ nạn
xã hội. Một bộ phận không nhỏ các bạn trẻ nghiện game mà bị chi phối thời
gian, sức khoẻ, tiền bạc, học hành sa sút, nhiều trường hợp sinh viên, học sinh bị
dừng học, xuống lớp…đánh mất chính bản thân mình.
Thông qua Internet, đất nước Việt Nam xinh đẹp ngày càng được nhiều
người biết đến và mỗi năm thu hút nhiều khách du lịch từ khắp mọi nơi trên thế
giới, góp một phần không nhỏ vào tổng thu nhập quốc dân. Ngoài những danh
lam thắng cảnh nổi tiếng, du khách có thể truy cập và biết được phong tục tập
quán của các dân tộc. Những món ăn ngon nổi tiếng, những loại hình văn học
nghệ thuật dân gian truyền thống khắp mọi miền trên đất nước Việt Nam.
Không thể phủ nhận những tiện ích mà Internet mang lại nhưng có một bộ
phận không nhỏ những người truy cập vào những trang web “đen”, có không ít
trang web truyện khiêu dâm bằng tiếng Việt, với hàng nghìn truyện khác nhau.
Không phải là hình ảnh cụ thể như phim, nhưng những câu chuyện trên đó có
thể làm người đọc phải choáng váng. Nó nguy hiểm ở chỗ không chỉ kích thích
dục vọng mà còn đưa ra những mối quan hệ bất chấp mọi luân thường, đạo lý,
16


Đề tài: Ngữ cảnh xã hội của thời đại công nghệ thông tin
như loạn luân trong gia đình, giữa bố mẹ và con cái, anh chị em ruột, họ hàng
thân thích, thầy trò, cô trò, với trẻ em... Làm thế nào để ngăn chặn làn sóng phim
ảnh sex tràn ngập trên mạng? Câu trả lời không thể chỉ giành cho nhà chức
trách. Trường học, là nơi nắm giữ chìa khoá để giải quyết vấn đề. Nếu như các
giờ tin học vẫn tẻ nhạt như hiện nay, khi kiến thức về internet của thanh thiếu
niên vẫn chỉ dừng lại ở chat, thì chẳng thể làm được gì. Các trường học cần phải
có chương trình giảng dạy về internet, về tin học phong phú hơn, hướng dẫn các

em cách sử dụng mạng như thế nào, mở ra trước mắt các em những nguồn thông
tin phong phú, ứng dụng thiết thực hơn, và qua đó cũng giúp các em hiểu được
thực chất của các trang web đen..
3.4 Về lĩnh vực y tế:
Trong lĩnh vực y tế, việc sử dụng công nghệ cao phục vụ chuyên môn
đang phát triển rất tốt nhưng việc ứng dụng CNTT trong việc chẩn đoán, khám
chữa bệnh lại đang chậm chạp, cần thiết phải đầu tư nhiều hơn nữa''. Trong số
các bệnh viện tự triển khai ứng dụng CNTT, bệnh viện Bạch Mai là bệnh viện
đầu tiên đã áp dụng mã vạch - ''số hóa'' bệnh nhân cho toàn bộ bệnh nhân nội
trú nhập viện (từ tháng 4/2004). Đây là mã ID cung cấp những thông tin liên
quan đến tháng, năm nhập viện, họ tên, bệnh án, khoa điều trị... giúp cho việc
quản lý bệnh nhân thuận tiện, chính xác hơn. ''ngoài chức năng thống kê, trong
lĩnh vực tài chính kế toán, qua mấy tháng ứng dụng hệ thống mã vạch này, bệnh
viện đã quản lý chặt chẽ hơn về mặt tài chính (tiền xét nghiệm, khám chữa bệnh,
cấp phát thuốc...đều được lưu trong bệnh án của bệnh nhân)''. Bệnh viện đã triển
khai hệ thống phân loại thuốc theo hệ thống Giải phẫu - Điều trị - Hóa học (hay
còn gọi là phân loại theo mã ATC), giúp giảm chi phí phân loại thuốc.
Có một số ứng dụng CNTT điển hình như Viện Pasteur TP. HCM ứng
dụng CNTT giải mã gen virus cúm gà H5N1; Bệnh viện phụ sản Hà Nội quản lý
việc sử dụng thuốc qua mạng máy tính, sử dụng phần mềm quản lý bệnh án điện
tử; Trung tâm Y khoa TP. HCM (Medic) sử dụng máy phân tích gen để điều trị
bệnh; ứng dụng hệ thống máy tính vào công tác quản lý khám chữa bệnh tại
Bệnh viện Quân y 5 (Quân khu 3) đã làm giảm phiền hà cho người bệnh và hạn
chế tiêu cực có thể xảy ra; trang web www.bacsigiadinh.com thường xuyên cập
nhật các thông tin về bệnh và cách phòng ngừa nhiều loại bệnh khác nhau cũng
như các dịch vụ y tế và địa chỉ y tế ở nhiều nơi trong nước...

17



Đề tài: Ngữ cảnh xã hội của thời đại công nghệ thông tin
Việc ứng dụng CNTT trong bệnh viện, theo nhận xét từ phía lãnh đạo Bộ
Y tế, tính đến thời điểm này, hoàn toàn ''tự phát'', do các bệnh viện ''mạnh ai nấy
làm'', làm theo nhu cầu, mục đích cần thiết của bệnh viện mình. Trước mắt,
Trung tâm tin học (Bộ Y tế) phối hợp với văn phòng Bộ sẽ triển khai đào tạo
CNTT tại các cơ sở y tế, bệnh viện trên cả nước, và tiến hành khảo sát tại tất cả
các địa phương trên phạm vi toàn quốc. Đồng thời, hợp tác với Bộ Bưu chính
Viễn thông lập đường truyền Internet xuống xã. Với tư cách một ngành khoa
học độc lập và có những ứng dụng mạnh mẽ, công nghệ thông tin y học đòi hỏi
một đội ngũ cán bộ chuyên ngành được đào tạo cǎn bản, hệ thống.
3.5 Về lĩnh vực tài nguyên_môi trường:
Hiện nay tại các cơ quan của Bộ môi trường , chỉ có Cục bảo vệ Môi
trường là đơn vị được chú ý đầu tư hạ tầng cơ sở CNTT và kết nối mạng Internet
từ rất sớm. Còn lại các đơn vị khác đều mới chỉ có một số máy tính cá nhân
được nối mạng máy tính, Internet thông qua mạng Văn phòng Bộ. Tại các Sở
Tài nguyên và Môi trường ở địa phương, trang thiết bị máy tính dành cho Phòng
Quản lý Môi trường còn rất sơ sài và thiếu do chưa được đầu tư đúng mức, kinh
phí lại có hạn. Đặc biệt là các cấp lãnh đạo, đặc biệt là lãnh đạo các địa phương
vẫn chưa nhận thức một cách đầy đủ tầm quan trọng của ứng dụng CNTT và cơ
hội do CNTT mạng lại cho quản lý môi trường; chưa coi thông tin môi trường là
tài sản chung của xã hội...
Với quan điểm coi CNTT là chìa khoá để nâng cao hiệu quả quản lý môi
trường, đồng thời sẽ ứng dụng CNTT gắn chặt với bảo vệ môi trường và phát
triển bền vững, bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường đã có tờ trình số
106/TTr-BTNMT về Chiến lược ứng dụng và phát triển CNTT tài nguyên và
môi trường đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020. Thủ tướng Chính phủ
đã phê duyệt Chiến lược này tại Quyết định 179/2004/QĐ-TTg, ký ngày
6/10/2004. Theo đó sẽ nâng cao chất lượng hiệu quả quản lý tài nguyên và môi
trường; cải cách thủ tục hành chính đối với hệ thống đăng ký, cấp phép về khai
thác, sử dụng tài nguyên và chất lượng môi trường; tạo điều kiện để tổ chức và

người dân tiếp cận thuận lợi các thông tin về tài nguyên và môi trường…
Có sáu nhiệm vụ trọng tâm của Chiến lược: Tin học hoá việc thu nhận, cập
nhật dữ liệu tài nguyên và môi trường thông qua quá trình thực hiện điều tra,
khảo sát, đo đạc, quan trắc trong các lĩnh vực thuộc ngành Tài nguyên và môi
trường. Xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về tài nguyên và môi trường. Tổ chức
hệ thống mạng truyền dữ liệu phục vụ chuyên ngành và phục vụ cung cấp dữ
18


Đề tài: Ngữ cảnh xã hội của thời đại công nghệ thông tin
liệu tài nguyên và môi trường cho nhu cầu quản lý nhà nước, phát triển kinh tếxã hội, quốc phòng, an ninh, nghiên cứu khoa học, đào tạo, hợp tác quốc tế và
các nhu cầu khác của xã hội và của cộng đồng.
4. Mặt trái của việc ứng dụng CNTT
Bên cạnh những lợi ích to lớn mà công nghệ thông tin mang lại, công
nghệ thông tin cũng có mặt trái của nó:
Ngày nay với công nghệ tiên tiến, bất kì cái gì có thể được tự động hoá sẽ
được tự động hoá, điều đó nghĩa là nhiều việc làm sẽ tiếp tục biến mất. Nhiều
người không tin điều đó, cũng như họ đã không thấy robots có thể làm việc làm
tốt hơn con người trong chế tạo, xây dựng và văn phòng. Chẳng hạn, hệ thống
trả lời điện thoại đã thay thế cho nhiều nhân viên điện thoại và người tiếp tân.
Hệ thống tổ chức hồ sơ đã thay thế cho nhiều thư kí hồ sơ và phần mềm xử lí
văn bản đã thay thế nhiều thư kí đánh máy. Vài năm trước, không ai nghĩ robots
có thể thay thế các phóng viên, người viết bài cho báo chí nhưng ngày nay 35%
tin tức được robot viết. Nhiều tờ báo đang dùng phần mềm viết tự động để lấy
tin tức nhanh hơn, đặc biệt với những báo trực tuyến và giảm số người viết và
phóng viên. Người ta dự đoán rằng trong vòng 5 năm, 75% tin tin sẽ được viết
bởi robots điều đã tạo ra hoảng sợ trong các sinh viên học làm phóng viên. Ngay
cả một số việc làm giám sát cũng đang được thực hiện bởi robots dùng công
nghệ videos và lasers để giám sát và đo công việc được thực hiện trong nhà kho
và cơ xưởng. Xu hướng tự động hoá đã bắt đầu ở Mĩ rồi chuyển sang châu Âu

và châu Á vì các công ti nhắm tới hiệu quả cao hơn và dịch vụ nhanh hơn. Tất
nhiên kết quả là thảm hoạ với nhiều công nhân.
Do có ưu thế vượt trội trong việc cung cấp thông tin, truyền thông đại
chúng thường bị lạm dụng trong việc đáp ứng nhu cầu giao tiếp của con người
với ngoại giới. Thay vì tham gia trực tiếp vào các hoạt động hay các quan hệ
giao tiếp của cuộc sống sinh động, con người ngồi lỳ hàng giờ trước màn hình ti
vi hoặc vi tính, giao tiếp với thế giới bên ngoài thông qua một thế giới ảo. Cái
thế giới ảo ấy thực sự có ích, khi nó không tiêu tốn quá mức thời gian của con
người. Còn trong trường hợp ngược lại thì, nó trở thành một thứ phản tác dụng,
đặc biệt là với trẻ em. Những nghiên cứu thực nghiệm đối chứng ở Mỹ đã cho
thấy, những trẻ em xem ti vi nhiều thường kém phát triển trí tưởng tượng hơn
những trẻ em ít xem ti vi. Về mặt tâm lý, điều đó cản trở sự phát triển tình cảm ở
19


Đề tài: Ngữ cảnh xã hội của thời đại công nghệ thông tin
trẻ em. Tình cảm chính là cơ sở tâm lý của quan hệ và hành vi đạo đức. Con
người xa lánh con người, không biết đến bổn phận đối với người khác, đối với
xã hội là con người kém phát triển về mặt tình cảm. Một trong những hiện tượng
xuống cấp đạo đức trong xã hội hiện đại là sự suy giảm tình cảm đạo đức biểu
hiện ở tính ích kỷ và chứng vô cảm về mặt xã hội của con người. Điều đó có
nguyên nhân từ cơ chế thị trường, nhưng cũng có nguyên nhân từ sự lạm dụng
và không làm chủ được các thành tựu của tiến bộ khoa học - công nghệ.
Trong điều kiện hiện nay, với sự xuất hiện và hoạt động của mạng
Internet trên phạm vi toàn cầu, nhân loại lại phải đối mặt với một tình huống đạo
đức khó giải quyết. Thực tế cho thấy, hiện nay, nhiều quốc gia không quản lý
được hoạt động của thông tin trên Internet. Những văn hoá phẩm độc hại được
đưa vào mạng và tác động tiêu cực đến sự phát triển đạo đức ở hàng loạt quốc
gia


5. Những ứng dụng của CNTT tại địa phương và hiệu quả của việc ứng
dụng CNTT
5.1 Xây dựng thành công nền hành chính điện tử ở địa phương
Ứng dụng công nghệ thông tin là giải pháp quan trọng nhằm cải cách thủ tục
hành chính, nâng cao chất lượng, hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước, phục vụ
người dân và doanh nghiệp. Với sự chung tay vào cuộc đồng bộ của các ngành,
các cấp trên địa bàn tỉnh, hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) đã
thu được những thành quả bước đầu. Để tiếp tục phát huy những kết quả đã đạt
được, trong thời gian tới, tỉnh sẽ chú trọng hoạt động ứng dụng CNTT ở cấp xã
hướng tới mục tiêu xây dựng thành công nền hành chính điện tử ở địa phương…
Trong thời gian vừa qua, được sự quan tâm chỉ đạo của Tỉnh ủy - HĐND UBND và sự vào cuộc mạnh mẽ của các cấp, các ngành trong tỉnh, hoạt động
ứng dụng và phát triển CNTT của tỉnh Thái Bình thu được nhiều thành quả đáng
khích lệ. Nhiều chỉ tiêu qua trọng giai đoạn 2010 - 2015 đạt được với kết quả
cao. Trong công tác chỉ đạo điều hành, nhiều văn bản quan trọng được ban hành
góp phần định định hướng tốt hoạt động ứng dụng và phát triển CNTT trong các
cơ quan nhà nước, đồng thời, nâng cao chất lượng phục vụ người dân và doanh
nghiệp, đảm bảo hệ thống thông tin của tỉnh có những bước phát triển mạnh mẽ,
đúng hướng. Đến nay, về hạ tầng CNTT, 93% cán bộ, công chức, viên chức cấp

20


Đề tài: Ngữ cảnh xã hội của thời đại công nghệ thông tin
tỉnh và cấp huyện được trang bị máy tính làm việc; 100% các đơn vị có mạng
nội bộ LAN. Các thiết bị phụ trợnhưmáy in, máy photo, máy scan…được trang
bị đáp ứng yêu cầu công tác.Hạ tầng viễn thông triển khai đồng bộ, chất lượng
cao đến các huyện, thành, thị đảm bảo tốt việc truy cập Internet và kết nối liên
thông trong tỉnh. Về ứng dụng CNTT, các phần mềm dùng chung được triển
khai hiệu quả đến các cơ quan, đơn vị cấp tỉnh, huyện và một số đơn vị cấp xã.
Thư điện tử công vụ được cấp cho 90% cán bộ công chức. Trong đó, 74% hộp

thư được cấp thường xuyên sử dụng. Tỷ lệ văn bản điện tử được gửi nhận qua
hòm thư điện tử là trên 63%. Phần mềm đang dần trở thành công cụ nâng cao
hiệu quả làm việc cho cán bộ, công chức. Nguồn nhân lực được đào tạo, nâng
cao kiến thức, kỹ năng cần thiết để quản lý, duy trì và khai thác hiệu quả hệ
thống thông tin hiện có.
Tuy nhiên, thực tế ứng dụng và phát triển CNTT những năm vừa qua cũng chỉ ra
những tồn tại, hạn chế gây trở ngại đến quá trình xây dựng nền hành chính điện
tử ở địa phương; đặc biệt là hoạt động ứng dụng CNTT ở UBND cấp xã. Qua
thực tế kiểm tra, hầu hết UBND cấp xã đã trang bị được trang thiết bị máy tính,
máy in, hệ thống mạng đáng ứng yêu cầu công tác. Một số phần mềm như kế
toán, soạn thảo văn bản, trình duyệt Internet được khai thác hiệu quả, phục vụ
công tác chuyên môn. Đáng chú ý, tại một số UBND cấp xã đã sử dụng hiệu quả
hệ thống thư điện tử để gửi nhận văn bản với UBND cấp huyện. Đã có 2 phường
ở thành phố Việt Trì triển khai thí điểm hệ thống một cửa điện tử. Tuy nhiên, ở
một số đơn vị vẫn có tình trạng thiếu máy tính để làm việc, một số máy tính đã
cũ, lạc hậu; một số cá nhân phải tự trang bị máy tính xách tay phục vụ công
việc; hệ thống mạng kết nối đơn giản, chưa có hệ thống đảm bảo an toàn, an
ninh thông tin dẫn đến tiềm ẩn nhiều rủi ro mất mát, lộ lọt thông tin.
Để tiếp tục phát huy những kết quả đã đạt được trong hoạt động ứng dụng
CNTT; đồng thời, khắc phục những hạn chế tồn tại, trong thời gian tới, tỉnh Phú
Thọ sẽ hướng tới phát triển ứng dụng CNTT cấp xã với mục tiêu sớm xây dựng
thành công nền hành chính điện tử ở địa phương. Trên cơ sở đó, Sở Thông tin và
Truyền thông đã xây dựng Mô hình hướng dẫn ứng dụng CNTT tại UBND cấp
xã giai đoạn 2015 - 2020. Tài liệu này sẽ hỗ trợ UBND cấp huyện định hướng
và điều hành hoạt động ứng dụng CNTT ở cấp xã.
Mô hình ứng dụng CNTT cấp xã
21


Đề tài: Ngữ cảnh xã hội của thời đại công nghệ thông tin

1
2

3

4

5
6

Người dân, doanh nghiệp
Ứng dụng CNTT phục vụ người dân và doanh nghiệp
(Hệ thống email; Điện thoại; Cổng/trang thông tin; Hệ thống cung cấp dịch vụ
công; Hệ thống quản lý khiếu nại, tố cáo; ….)
Ứng dụng CNTT phục vụ hoạt động của UBND cấp xã
(Hệ thống quản lý văn bản điều hành; Truyền hình trực tuyến; Ứng dụng chuyên
ngành; Cơ sở dữ liệu quốc gia/tỉnh; Trang tin nội bộ…)
Cơ sở Hạ tầng CNTT
(Máy tính, mạng nội bộ, trang thiết bị ngoại vi, chữ ký số, các biện pháp đảm
bảo an toàn an ninh thông tin…)
Các văn bản quản lý, phát triển ứng dụng CNTT cấp xã
(Chương trình, Kế hoạch, Quy định…)
UBND cấp xã

Người dân, doanh nghiệp: Là cá nhân hoặc tổ chức sử dụng các dịch vụ công do
Nhà nước cung cấp thông qua đại diện tại cơ sở là UBND cấp xã.
Ứng dụng CNTT phục vụ người dân và doanh nghiệp: Là các giải pháp CNTT
được sử dụng để hỗ trợ người dân và doanh nghiệp thực hiện các dịch vụ công
do UBND cấp xã cung cấp.
Ứng dụng CNTT sẽ hỗ trợ hoặc thay thế phương thức làm việc truyền thống

giữa người dân, doanh nghiệp với UBND cấp xã. Phương thức này sẽ góp phần
nâng cao chất lượng hoạt động phục vụ người dân và doanh nghiệp của UBND
cấp xã thông qua việc rút ngắn thời gian và chi phí của việc thực hiện dịch vụ
công.
Các ứng dụng có thể triển khai ở nhiều mức khác nhau từ đơn giản đến phức tạp.
Ứng dụng ở mức đơn giản như cung cấp thông tin một chiều qua trang và cổng
thông tin điện tử; hay trao đổi hai chiều qua điện thoại hoặc thư điện tử. Bên
cạnh đó, ứng dụng có thể ở mức độ phức tạp như thực hiện dịch vụ công qua
mạng, giải quyết khiếu nại tố cáo qua mạng…
Ứng dụng CNTT trong hoạt động của UBND cấp xã: Là các giải pháp CNTT
được sử dụng để hỗ trợ công tác quản lý và điều hành tại UBND cấp xã.

22


Đề tài: Ngữ cảnh xã hội của thời đại công nghệ thông tin
Các ứng dụng CNTT được sử dụng để hỗ trợ hoặc thay thế phương thức làm
việc truyền thống. Việc tổ chức lưu trữ, quản lý và khai thác thông tin điện tử sẽ
nâng cao chất lượng, hiệu lực quản lý nhà nước tại UBND cấp xã.
Có thể phân chia các ứng dụng CNTT trong hoạt động của UBND cấp xã
thành hai loại chính là ứng dụng dùng chung và ứng dụng dùng riêng. Ứng dụng
dùng chung là các ứng dụng được sử dụng bởi nhiều người trong một cơ quan
hoặc nhiều cơ quan, đơn vị qua hệ thống mạng máy tính. Qua đó, tạo kết nối,
liên thông đảm bảo tính thống nhất trong việc triển khai các ứng dụng cơ quy
mô lớn trên địa bàn toàn huyện, tỉnh, quốc gia (Hệ thống quản lý văn bản điều
hành, Hệ thống thư điện tử công vụ,…). Ứng dụng dùng riêng là các ứng dụng
độc lập được sử dụng bởi một người, một số ít người hoặc một cơ quan (Trang
tin nội bộ, Phần mềm kế toán, Phần mềm quản lý tài sản…).
Cơ sở hạ tầng CNTT: Là các trang thiết bị phục vụ công tác ứng dụng
CNTT tại UBND cấp xã. Các trang thiết bị này bao gồm máy tính, máy in, máy

quét, dây cáp, đường truyền, các thiết bị mạng và các trang thiết bị khác. Đây là
lớp có vai trò quan trọng đảm bảo sự hoạt động an toàn, thông suốt cho các ứng
dụng ở lớp trên.
Các văn bản quản lý, phát triển ứng dụng CNTT cấp xã: Là các văn bản
được xây dựng và ban hành bởi cơ quan nhà nước các cấp nhằm quản lý, phát
triển ứng dụng CNTT ở cấp xã.
UBND cấp xã: Là cơ quan quản lý và điều hành toàn bộ hệ thống thông
tin tại UBND cấp xã. Hệ thống này bao gồm hạ tầng CNTT, ứng dụng CNTT
phục vụ người dân và doanh nghiệp, ứng dụng CNTT phục vụ hoạt động nội bộ,
đảm bảo nguồn nhân lực CNTT, ban hành các văn bản. Đây là đối tượng trung
tâm có vai trò quyết định đến việc triển khai mô hình ứng dụng.
Thực tiễn cho thấy, để khai thác hiệu quả lợi ích từ công tác ứng dụng CNTT
nói chung và ở cấp xã nói riêng, bên cạnh yếu tố công nghệ, con người là nhân
tố then chốt. Vì vậy, công tác đào tạo, bồi dưỡng kiến thức cho cán bộ, đặc biệt
là cán bộ chủ chốt ở UBND cấp xã sẽ tiếp tục được chú trọng. Bên cạnh đó, cần
thực hiện các biện pháp tuyên truyền phổ biến sâu rộng đến toàn thể các tầng lớp
nhân dân về vị trí, vai trò của CNTT; đồng thời, huy động rộng rãi các nguồn
lực chung tay triển khai xây dựng chính quyền điện tử. Ngoài ra, tỉnh sẽ lựa
23


Đề tài: Ngữ cảnh xã hội của thời đại công nghệ thông tin
chọn triển khai thí điểm các giải pháp CNTT trong hoạt động nội bộ tại UBND
cấp xã và các ứng dụng phục vụ người dân và doanh nghiệp. Kết quả thí điểm sẽ
được điều chỉnh làm cơ sở để nhân rộng mô hình ứng dụng và phát triển CNTT
cho các UBND cấp xã trên địa bàn tỉnh
5.2 Ứng dụng thông tin trong giáo dục
5.2.1. Thay đổi mô hình giáo dục
Theo cách tiếp cận thông tin, tại “Hội nghị Paris về GDĐH trong thế kỷ
21” do UNESCO tổ chức 10/1998 người ta có tổng kết 3 mô hình giáo dục:

Mô hình
Trung tâm Vai trò người học Công nghệ cơ bản
Truyền thống Người dạy
Thụ động
Bảng/TV/Radio
Thông tin
Người học
Chủ động
PC
Tri thức
Nhóm
Thích nghi
PC + mạng
Trong các mô hình đã nêu, mô hình “tri thức” là mô hình giáo dục hiện
đại nhất, hình thành khi xuất hiện thành tựu mới quan trọng nhất của CNTT và
truyền thông là mạng Internet. Mô hình mới này đã tạo nên nhiều sự thay đổi
trong giáo dục.
5.2 .2. Thay đổi chất lượng giáo dục
CNTT được ứng dụng trong giáo dục đã làm thay đổi lớn về chất lượng
giáo dục do
- CNTT ứng dụng trong quản lý giúp các nhà quản lý nắm bắt trạng thái
của hệ thống một cách nhanh chóng, chính xác, đáng tin cậy. Thêm nữa, các hệ
hỗ trợ quyết định trợ giúp thêm cho các nhà quản lý kịp thời ra được các quyết
định quản lý chính xác, phù hợp.
- CNTT ứng dụng trong dạy học giúp cho nhà giáo nâng cao chất lượng
giảng dạy, người học nắm bài tốt hơn, Ngoài ra, internet cũng trợ giúp cho
người học trong việc tra cứu, tìm hiểu, cập nhật tri thức và tự kiểm tra bản thân,
làm cho chất lượng nâng cao thêm.
- CNTT ứng dụng trong định đánh giá chất lượng giúp cho công tác kiểm
định được toàn diện, kết quả kiểm định được khách quan và công khai. Điều này

làm nên động lực để các trường, các tổ chức có kế hoạch hoàn thiện nhà trường
để đạt đến các chuẩn đề ra.
Do tầm quan trọng của CNTT trong việc nâng cao chất lượng giáo dục,
Chỉnh phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo rất quan tâm chỉ đạo việc ứng dụng CNTT
trong trường học từ rất sớm. Sau đây là một số định hướng, chỉ đạo quan trọng

24


Đề tài: Ngữ cảnh xã hội của thời đại công nghệ thông tin
Ngày 10/04/2007, Chính phủ đã có Nghị định số 64/2007/NĐ-CP về ứng
dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan nhà nước. Sau đó, Bộ
Giáo dục và Đào tạo đã có văn bản gửi các cơ sở giáo dục và đào tạo yêu cầu
thực hiện tốt nhiệm vụ ứng dụng công nghệ thông tin trong giáo dục, giai đoạn
2008 – 2012, góp phần nâng cao hiệu quả và chất lượng giáo dục.
Từ năm học 2007 – 2008, căn cứ nhiệm vụ năm học, Bộ Giáo dục và Đào
tạo đã có Hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ năm học về CNTT. Đặc biệt năm học
2008 – 2009 được Bộ GD&ĐT lấy làm năm học Công nghệ thông tin. Một trong
những nhiệm vụ về CNTT năm học 2011 – 2012 là “Đẩy mạnh việc ứng dụng
CNTT trong trường phổ thông nhằm đổi mới phương pháp dạy học theo hướng
giáo viên tự tích hợp CNTT vào từng môn học thay vì học trong môn tin học.
Giáo viên các bộ môn chủ động tự soạn và tự chọn tài liệu và phần mềm (mã
nguồn mở) để giảng dạy ứng dụng CNTT”.
Thực hiện sự chỉ đạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo, trong những năm qua
các sở giáo dục đã chỉ đạo các trường ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng
dạy và đã góp phần nâng cao chất lượng đào tạo
5.2.3. Thay đổi hình thức đào tạo
Công nghệ thông tin và truyền thông phát triển đã tạo nên những thay đổi
lớn về giáo dục và đào tạo. Nhiều hình thức đào tạo mới đã xuất hiện
* Đào tạo từ xa: Hiện nay, có nhiều thuật ngữ để mô tả giáo dục – đào tạo

từ xa như: Giáo dục mở, giáo dục từ xa, dạy từ xa, học từ xa đào tạo từ xa hoặc
giáo dục ở xa… theo nhiều học giả trên thế giới thì “Giáo dục từ xa là một quá
trình giáo dục – đào tạo mà trong đó phần lớn hoặc toàn bộ quá trình giáo dục
– đào tạo có sự tách biệt giữa người dạy và người học về mặt không gian hoặc
(và) thời gian”.
Mặc dù chưa có định nghĩa chính xác về giáo dục từ xa. Tuy nhiên một
cách tổng quát, giáo dục từ xa là hoạt động dạy học diễn ra một cách gián tiếp
theo phương pháp dạy và phương pháp học từ xa. Giáo dục từ xa được hiểu bao
hàm các yếu tố dưới đây:
- Người dạy và người học ở một khoảng cách xa tức là có sự ngăn cách về
mặt không gian: Khoảng cách này là tương đối, có thể là cùng trường học nhưng
khác phòng học hoặc khác nhau về địa lý, có thể vài kilomet hoặc hàng ngàn
kilomet.

25


×