Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Các vấn đề về trọng tài thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (357.74 KB, 30 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MÍNH

TIỂU LUẬN
MÔN: LUẬT HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI
ĐỀ TÀI

TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI
GVHD
: Th.s Nguyễn Việt Khoa
Nhóm sinh viên : Nguyễn Minh Chánh
Bùi Thu Thảo
Phan Quốc Tuấn
Nguyễn Thành Nghĩa
Trần Thị Yến Lan
Lớp

: VB18ALA01


TP.HCM – 2016
I.
1.

KHÁI QUÁT VỀ TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI
Khái niệm Trọng tài thương mại

Theo Khoản 1 Điều 3 Luật trọng tài thương mại năm 2010 thì “Trọng tài
thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận và được
tiến hành theo quy định của Luật này”.
Như vậy ta có thể hiểu Trọng tài thương mại là hình thức tài phán mà quyền


lực của nó được tạo nên bởi chính các bên trong quan hệ tranh chấp thương mại.
Tôn trọng quyền tự định đoạt của các đương sự, pháp luật quy định nguyên tắc loại
trừ thẩm quyền của tòa án khi các bên đã lựa chọn trọng tài.
2.

Các hình thức của trọng tài thương mại

Trọng tài thương mại tồn tại dưới hai hình thức, đó là trọng tài vụ việc (trọng
tài ad-hoc) và trọng tài thường trực.
a.

Trọng tài vụ việc

Trọng tài vụ việc là phương thức trọng tài do các bên tranh chấp thỏa thuận
thành lập để giải quyết vụ tranh chấp giữa các bên và trọng tài vụ việc sẽ tự chấm
dứt tồn tại khi giải quyết xong vụ tranh chấp. Đây là hình thức trọng tài xuất hiện
sớm nhất và được sử dụng rộng rãi ở các nước trên thế giới. Tuy nhiên quy định của
pháp luật các nước về hình thức trọng tài này cũng ở mức độ sâu, rộng khác nhau.
Bản chất của trọng tài vụ việc được thể hiện qua các đặc trưng cơ bản sau:
o

Trọng tài vụ việc chỉ được thành lập khi phát sinh tranh chấp và tự

chấm dứt hoạt động khi giải quyết xong tranh chấp. Theo đó, trọng tài chỉ được
thành lập theo thỏa thuận của các bên tranh chấp để giải quyết vụ việc tranh chấp cụ
thể giữa các bên. Khi giải quyết xong tranh chấp, trọng tài tự chấm dứt hoạt động.
o

Trọng tài vụ việc không có trụ sở thường trực, không có bộ máy điều


hành và không có danh sách trọng tài viên riêng. Trọng tài viên được các bên chọn
hoặc được chỉ định có thể là người có tên hoặc ngoài danh sách trọng tài viên của
bất cứ trung tâm trọng tài nào.
o

Trọng tài vụ việc không có quy tắc tố tụng dành riêng cho mình, mà

quy tắc tố tựng để giải quyết vụ tranh chấp phải được các bên thỏa thuận xây dựng.
2
Khoa luật kinh tế-Trường đại học Kinh tế TP.Hồ Chí Minh


Thông thường, các bên tranh chấp có thể thỏa thuận lựa chọn bất kỳ một quy tắc tố
tụng phổ biến nào, thường là quy tắc tố tụng của các trung tâm trọng tài có uy tín ở
trong nước và quốc tế.
o

Trọng tài vụ việc lần đầu tiên được quy định tại Pháp lệnh trọng tài

thương mại năm 2003. Trước khi ban hành Pháp lệnh trọng tài thương mại, hình
thức trọng tài vụ việc mới chỉ được ghi nhận là một phương thức giải quyết tranh
chấp bằng trọng tài vụ việc. Sau khi ban hành Pháp lệnh trọng tài thương mại thì
diện mạo của trọng tài vụ việc ở Việt Nam được khắc họa rõ nét.
o

Trọng tài vụ việc có một số ưu thế hơn trọng tài thường trực như: giải

quyết nhanh chóng vụ việc tranh chấp, ít tốn kém; các bên có quyền lựa chọn bất kì
trọng tài viên nào trong danh sách trọng tài viên của bất kì trung tâm trọng tài
nào….

b. Trọng tài thường trực
Ở Việt Nam, trọng tài thường trực được tổ chức dưới dạng các trung tâm
trọng tài. Trung tâm trọng tài là tổ chức phi chính phủ, có tư cách pháp nhân, có con
dấu, có tài khoản riêng và có trụ sở giao dịch ổn định.
Các trung tâm trọng tài có một số đặc trưng cơ bản sau:
o

Các trung tâm trọng tài là tổ chức phi chính phủ, không nằm trong hệ

thống cơ quan nhà nước; nhưng đồng thời vẫn nhận sự hỗ trợ của nhà nước.
o

Các trung tâm trọng tài được thành lập theo sáng kiến của trọng tài

viên sau khi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép, chứ không phải được
thành lập bởi nhà nước. Các trung tâm trọng tài không nằm trong hệ thống cơ quan
quản lí nhà nước, cũng không thuộc hệ thống cơ quan xét xử nhà nước.
Hoạt động của trung tâm trọng tài theo nguyên tắc tự trang trải mà không
được cấp kinh phí hoạt động từ ngân sách nhà nước. Trọng tài viên duy nhất hoặc
hội đồng trọng tài không nhân danh quyền lực nhà nước mà nhân danh người thứ ba
độc lập ra phán quyết. Là tổ chức phi chính phủ nhưng các trung tâm trọng tài vẫn
luôn đặt dưới sự quản lí và hỗ trợ của Nhà nước. Nhà nước quản lí đối với các trung
tâm trọng tài thông qua việc bạn hành các văn bản pháp luật tạo cơ sở pháp lí cho
việc tổ chức và hoạt động của trung tâm trọng tài. Ngoài ra, nhà nước còn quản lí
thông qua hoạt động quản lí hệ thống các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong
3
Khoa luật kinh tế-Trường đại học Kinh tế TP.Hồ Chí Minh


việc cấp, thay đổi, bổ sung hay thu hồi giấy phép thành lập, đăng kí hoạt động của

các trung tâm trọng tài.
o

Các trung tâm trọng tài có tư cách pháp nhân, tồn tại độc lập với nhau.

o

Mỗi trung tâm trọng tài là một pháp nhân, tồn tại độc lập và bình đẳng

với cac trung tâm trọng tài khác. Giữa các trung tâm trọng tài không tồn tại quan hệ
phụ thuộc cấp trên, cấp dưới.
o

Tổ chức và quản lý ở các trung tâm trọng tài rất đơn giản, gọn nhẹ.

Cơ cấu của trung tâm trọng tài gồm có ban điều hành và các trọng tài viên
của trung tâm. Ban điều hành gồm có chủ tịch, một hoặc các phó chủ tịch trung tâm
trọng tài và có thể có tổng thư ký trung tâm trọng tài do chủ tịch trung tâm trọng tài
cử. Các trọng tài viên trong danh sách trung tâm trọng tài có thể tham giai vào việc
giải quyết tranh chấp khi được chọn hoặc chỉ định.
o

Mỗi trung tâm trọng tài tự quyết định về lĩnh vực hoạt động và có quy

tắc tố tụng riêng.
o

Mỗi trung tâm trọng tài tự xác định về lĩnh vực hoạt động của mình

tùy theo khả năng chuyên môn của đội ngũ trọng tài viên và phải ghi rõ trong điều

lệ của trung tâm trọng tài. Trong quá trình hoạt động, trung tâm trọng tài có quyền
mở rộng hoặc thu hẹp phạm vi lĩnh vực hoạt động trên cơ sở sự chấp thuận của cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền.
o

Mỗi trung tâm trọng tài đều có điều lệ riêng, đặc biệt là quy tắc tố

tụng riêng được xây dựng căn cứ vào đặc thù về tổ chức, hoạt động của trung tâm
và không trái với quy định của pháp luật về trọng tài thương mại. Khi giải quyết
tranh chấp, hội đồng trọng tài hoặc trọng tài viên duy nhất phải tuân thủ quy tắc tố
tụng này.
Việc xây dựng quy tắc tố tụng của các trung tâm trọng tài thường dựa trên cơ
sở là một số bản quy tắc trong tài hay một số công ước quốc tế có liên quan cũng
như bản quy tắc tố tụng của một số trung tâm trọng tài quốc tế có uy tín.
Hoạt động xét xử của trung tâm trọng tài được tiến hành bởi các trọng tài
viên của trung tâm. Mỗi trung tâm trọng tài đều có danh sách riêng về trọng tài viên
của trung tâm. Việc chọn hoặc chỉ định trọng tài viên tham gia giải quyết tranh chấp
chỉ được giới hạn trọng danh sách trọng tài viên của trung tâm. Vì vậy, hoạt động
4
Khoa luật kinh tế-Trường đại học Kinh tế TP.Hồ Chí Minh


xét xử của trung tâm trọng tài chỉ được tiến hành bởi các trọng tài viên của chính
trung tâm.
3.

Các nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài thương mại

Giải quyết tranh chấp thương lượng bằng hình thức trọng tài thương mại
đang là xu hướng giải quyết được nhiều chủ thể lựa chọn bởi tính linh hoạt, nhanh

gọn của nó. Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp có tính chất
tài phán phi chính phủ do các đương sự thỏa thuận lựa chọn để giải quyết tranh
chấp thương mại. Khi giải quyết tranh chấp, các trọng tài viên và chủ thể lựa chọn
hình thức này cần tuân theo các nguyên tắc sau. Theo Điều 4 Luật trọng tài thương
mại 2010 đã quy định rất cụ thể nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài:
a) Trọng tài viên phải tôn trọng thoả thuận của các bên. Nếu thỏa thuận đó
không vi phạm điều cấm và trái đạo đức xã hội. Một trong những ưu điểm của việc
giải quyết tranh chấp theo thủ tục trọng tài là các bên có tranh chấp được đảm bảo
tối đa quyền tự do định đoạt trên nhiều phương diện trong quá trình giải quyết. Các
bên tranh chấp có quyền thỏa thuận với nhau về nhiều vấn đề liên quan đến thủ tục
giải quyết mà trọng tài viên phải tôn trọng, nếu không sẽ dẫn đến hậu quả là quyết
định của hội đồng trọng tài theo bị tòa án hủy theo yêu cầu của các bên.
b) Trọng tài viên phải độc lập, khách quan, vô tư và tuân theo quy định
của pháp luật. Khi tham gia giải quyết tranh chấp thương mại, trọng tài viên phải
thực sự là người thứ ba có đủ các điều kiện nhất định để đảm bảo rằng họ độc lập,
vô tư, khách quan trong việc giải quyết tranh chấp, không liên các quan đến bên
tranh chấp cũng như không có bất kì lợi ích nào dính dáng đến vụ tranh chấp đó.
Điều 20 Luật trọng tài thương mại 2010 có các quy định về tiêu chuẩn tối thiểu đối
với Trọng tài viên nhằm hình thành ở nước ta một đội ngũ trọng tài viên nòng cốt
có năng lực, có tính chuyên nghiệp, có chuyên môn và uy tín xã hội. Đặc biệt, Luật
dành cho các Trung tâm trọng tài quyền được đưa ra các tiêu chuẩn cao hơn đối với
các Trọng tài viên trong danh sách của mình.
Khắc phục những hạn chế của Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm
2003, Luật trọng tài thương mại 2010 không yêu cầu Trọng tài viên phải có quốc
tịch Việt Nam. Điều đó có nghĩa là người nước ngoài cũng có thể được chỉ định làm
trọng tài viên ở Việt Nam nếu các bên tranh chấp hoặc tổ chức trọng tài tín nhiệm
5
Khoa luật kinh tế-Trường đại học Kinh tế TP.Hồ Chí Minh



họ. Quy định này đáp ứng nhu cầu thực tế trong giai đoạn Việt Nam tăng cường hội
nhập kinh tế quốc tế.
Để giải quyết tranh chấp một cách công bằng, hợp lí, bảo vệ quyền và lợi ích
chính đáng của các bên, trọng tài viên phải căn cứ vào pháp luật. Khi giải quyết các
tranh chấp thương mại theo thủ tục trọng tài, trọng tài viên phải căn cứ vào pháp.
Tư tưởng chỉ đạo đối với trọng tài viên là pháp luật, chỉ có căn cứ vào pháp luật,
trọng tài viên mới giải quyết được tranh chấp một cách vô tư, khách quan được.
c) Các bên tranh chấp đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ. Hội đồng
trọng tài có trách nhiệm tạo điều kiện để họ thực hiện các quyền và nghĩa vụ của
mình.
d) Giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài được tiến hành không công khai,
trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. Để hạn chế tối đa sự ảnh hưởng tiêu
cực tới uy tín bí mật kinh doanh, giữ cho các bên tranh chấp cơ hội hợp tác thì
nguyên tắc của giải quyết tranh chấp thương mại bẳng con đường trọng tài được
tiến hành không công khai.
e) Nguyên tắc giải quyết một lần và phán quyết trọng tài là chung thẩm.
Yêu cầu của việc giải quyết tranh chấp thương mại là nhanh chóng, dứt
điểm, tránh dây dưa, kéo dài, làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh. Để các
tranh chấp thương mại giữa các nhà kinh doanh được giải quyết nhanh chóng, dứt
điểm, thủ tục trọng tài rất đơn giản, không có nhiều giai đoạn xét xử như tố tụng tại
tòa án đã ra đời. Với tư cách là một tổ chức phi chính phủ, trọng tài thương mại
không có cơ quan cấp trên nên phán quyết của trọng tài có giá trị chung thẩm,
không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm như bản án sơ thẩm của tòa
án và cũng không có thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Tố tụng trọng tài chỉ có một
trình tự giải quyết, tức là các tranh chấp thương mại chỉ được giải quyết một lần
trọng tài.
II.

Thẩm quyền của Trọng tài thương mại


Trọng tài thương mại được thành lập là để giải quyết các tranh chấp thương
mại. Nhưng tranh chấp thương mại cũng chỉ có thể thuộc thẩm quyền giải quyết của
trọng tài thương mại nếu các bên có tranh chấp có thỏa thuận trọng tài và thỏa thuận
trọng tài này có hiệu lực.
6
Khoa luật kinh tế-Trường đại học Kinh tế TP.Hồ Chí Minh


Khác với thẩm quyền của tòa án, thẩm quyền của trọng tài chỉ là thẩm quyền
vụ việc, nếu được các bên có “vụ việc” lựa chọn đích danh. Các nguyên tắc phân
định thẩm quyền theo lãnh thổ, theo trụ sở hoặc chỗ ở của bị đơn và theo sự thỏa
thuận của nguyên đơn không được áp dụng trong tố tụng trọng tài. Thẩm quyền của
trọng tài không được phân định theo lãnh thổ, vì các bên có tranh chấp có quyền
thỏa thuận lựa chọn bất kỳ một tổ chức trọng tài nào để giải quyết tranh chấp cho
họ, không phụ thuộc vào nơi ở cũng như trụ sở của nguyên đơn hay bị đơn, cũng
không phân định theo cấp xét xử, vì chỉ có một cấp trọng tài và lại càng không phân
định theo sự lựa chọn của nguyên đơn, vì trọng tài chỉ có thẩm quyền giải quyết nếu
các bên có thỏa thuận trọng tài.
Thẩm quyền của Trọng tài thương mại được xét trên hai khía cạnh:
1. Tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài thương mại
phải là tranh chấp thương mại giữa các cá nhân, tổ chức kinh doanh
Điều 2 Luật trọng tài thương mại 2010 quy định:
“ Thẩm quyền giải quyết các tranh chấp của Trọng tài
1. Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại.
2. Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động
thương mại.
3. Tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng
Trọng tài.”
Theo quy định trên, trọng tài có thẩm quyền giải quyết các loại tranh chấp
sau đây:

+ Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại: Đối với loại “
tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại ” thì các bên tranh chấp
đó đều phải là các chủ thể tiến hành hoạt động thương mại. Luật trọng tài thương
mại 2010 không định nghĩa khái niệm hoạt động thương mại, mà sử dụng khái niệm
hoạt động thương mại tại Khoản 1 Điều 3 Luật thương mại 2005 quy định: “ Hoạt
động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá,
cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích
sinh lợi khác.”

7
Khoa luật kinh tế-Trường đại học Kinh tế TP.Hồ Chí Minh


Chủ thể tiến hành hoạt động thương mại trước hết là thương nhân, bao gồm
thương nhân Việt Nam và thương nhân nước ngoài. Thương nhân Việt Nam là các
chủ thể như được quy định tại Khoản 1 Điều 6 Luật thương mại 2005: “ Thương
nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương
mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh.” Còn thương nhân
nước ngoài là thương nhân được thành lập, đăng ký kinh doanh theo quy định của
pháp luật nước ngoài hoặc được pháp luật nước ngoài công nhận ( Khoản 1 Điều 16
Luật thương mại 2005 ).
Bên cạnh hoạt động thương mại của thương nhân, hoạt động của các cá nhân
dưới hình thức tự mình hàng ngày thực hiện một, một số hoặc toàn bộ các hoạt
động được pháp luật cho phép về mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ và các hoạt
động nhằm mục đích sinh lợi khác nhưng không thuộc đối tượng phải đăng ký kinh
doanh theo quy định của pháp luật về đăng ký kinh doanh và không gọi là “thương
nhân” cũng được xem là hoạt động thương mại.
Cần chú ý rằng, Luật trọng tài thương mại 2010 không giới hạn thẩm quyền
của trọng tài trong việc giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hoạt động thương mại
được thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam. Vì vậy các bên là thương nhân Việt Nam,

thương nhân nước ngoài ( kể cả thương nhân ngoài không hoạt động thương mại
tại Việt Nam ) đều có thể thỏa thuận chọn trọng tài theo quy định của Luật trọng tài
thương mại 2010 để giải quyết các tranh chấp phát sinh từ cả các hoạt động thương
mại diễn ra ngoài lãnh thổ Việt Nam.
Điều đó tương thích với phạm vi điều chỉnh của Luật thương mại 2005 và
đồng thời phù hợp với xu hướng mới trong quan niệm về chủ quyền tư pháp của
quốc gia, theo đó trong lĩnh vực luật tư thì luật của một quốc gia có thể được áp
dụng cho các quan hệ pháp luật tư được xác lập, thực hiện ngoài lãnh thổ quốc gia
đó nếu các bên giao dịch có thỏa thuận.
+ Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó có ít nhất một bên có hoạt động
thương mại: Trọng tài thương mại có thẩm quyền giải quyết các “ Tranh chấp phát
sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại ”. Quy định này
mở rộng phạm vi thẩm quyền của trọng tài. Trước đây, theo quy định của Pháp lệnh
Trọng tài thương mại 2003, trọng tài chỉ có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp
8
Khoa luật kinh tế-Trường đại học Kinh tế TP.Hồ Chí Minh


phát sinh từ hoạt động thương mại giữa các tổ chức, cá nhân kinh doanh, nên trong
thực tế các tranh chấp giữa một bên là thương nhân và bên kia không phải là thương
nhân đã không được trọng tài giải quyết theo quy định của Pháp lệnh trọng tài
thương mại 2003.
Theo quy định của Luật trọng tài thương mại 2010, trọng tài thương mại có
thẩm quyền giải quyết các vụ tranh chấp mà trong đó chỉ cần 1 bên tranh chấp là
thương nhân ( thực hiện hoạt động thương mại ) còn các bên còn lại có thể không
phải là thương nhân, cũng không phải là cá nhân thực hiện hoạt động thương mại.
Như vậy, tranh chấp giữa một thương nhân và các cá nhân, tổ chức không
kinh doanh ( có thể bao gồm cả các cơ quan nhà nước và các đơn vị sự nghiệp của
nhà nước ) cũng có thể được giải quyết bởi trọng tài thương mại. Trong quan hệ với
các bên có hoạt động thương mại thì các bên này có thể đóng vai trò là người tiêu

dùng. Người tiêu dùng là “ người mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ có mục đích tiêu
dùng, sinh hoạt cá nhân, gia đình, tổ chức ”. Ví dụ một bên Bệnh viện công ủy thác
cho một thương nhân nhập khẩu cho mình một thiết bị y tế là thuộc trường hợp này.
Các giao dịch này có thể được giải quyết bởi trọng tài thương mại nếu giữa các bên
có một thỏa thuận trọng tài hợp pháp.
+ Tranh chấp khác giữa các bên mà phát luật qui định được giải quyết bằng
Trọng tài: Đây là quy định mở nhằm bảo đảm các luật ban hành sau này có thể quy
định các tranh chấp phát sinh từ các quan hệ pháp luật thuộc phạm vi điều chỉnh của
luật đó có thể được giải quyết bằng trọng tài mà không cần phải sữa đổi Luật trọng
tài thương mại 2010. Ngoài ra, theo quy định tại Luật Doanh nghiệp 2014, các
tranh chấp trong nội bộ doanh nghiệp cũng có thể giải quyết bằng trọng tài. Trước
Luật trọng tài thương mại 2010, trên thực tế các tranh chấp trong nội bộ doanh
nghiệp không được trọng tài thụ lý giải quyết các tranh chấp này thuộc thẩm quyền
của trọng tài thương mại.
2. Giữa các bên tranh chấp phải có thỏa thuận trọng tài hợp lệ
2.1. Thỏa thuận trọng tài
Trước hết, có thể hiểu thỏa thuận trọng tài là thỏa thuận giữa các bên về việc
giải quyết bằng trọng tài các vụ tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã phát sinh trong
hoạt động thương mại. Như vậy, các bên có thể thỏa thuận trọng tài trước khi có
9
Khoa luật kinh tế-Trường đại học Kinh tế TP.Hồ Chí Minh


tranh chấp hoặc sau khi có tranh chấp. Khác với việc giải quyết tranh chấp tại tòa án
– cơ quan tài phán nhà nước, khi có tranh chấp phát sinh, bên có quyền và lợi ích
hợp pháp bị vi phạm có quyền đệ đơn yêu cầu tòa án có thẩm quyền giải quyết mà
không cần có sự thỏa thuận trước, việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài đòi hỏi
phải có sự thỏa thuận của các bên. Nguyên tắc chung là “không có thỏa thuận giải
quyết bằng phương thức trọng tài, không có tố tụng trọng tài”. Thỏa thuận trọng tài
có thể là một thỏa thuận riêng hoặc là thỏa thuận trong hợp đồng và phải được lập

thành văn bản. Các hình thức thỏa thuận trọng tài được quy định tại đều 16 Luật
Trọng tài thương mại năm 2010, chi tiết như sau:
Điều 16. Hình thức thoả thuận trọng tài
1. Thỏa thuận trọng tài có thể được xác lập dưới hình thức điều khoản trọng
tài trong hợp đồng hoặc dưới hình thức thỏa thuận riêng.
2. Thoả thuận trọng tài phải được xác lập dưới dạng văn bản. Các hình thức
thỏa thuận sau đây cũng được coi là xác lập dưới dạng văn bản:
a) Thoả thuận được xác lập qua trao đổi giữa các bên bằng telegram, fax,
telex, thư điện tử và các hình thức khác theo quy định của pháp luật;
b) Thỏa thuận được xác lập thông qua trao đổi thông tin bằng văn bản giữa
các bên;
c) Thỏa thuận được luật sư, công chứng viên hoặc tổ chức có thẩm quyền ghi
chép lại bằng văn bản theo yêu cầu của các bên;
d) Trong giao dịch các bên có dẫn chiếu đến một văn bản có thể hiện thỏa
thuận trọng tài như hợp đồng, chứng từ, điều lệ công ty và những tài liệu tương tự
khác;
đ) Qua trao đổi về đơn kiện và bản tự bảo vệ mà trong đó thể hiện sự tồn tại
của thoả thuận do một bên đưa ra và bên kia không phủ nhận.
Ngay cả khi hợp đồng giữa các bên không được thể hiện bằng văn bản thì
thỏa thuận trọng tài vẫn phải lập thành văn bản. Khi nộp đơn kiện cho trung tâm
trọng tài, nguyên đơn phải nộp kèm theo thỏa thuận trọng tài. Nếu không có thỏa
thuận trọng tài, trung tâm trọng tài sẽ không có thẩm quyền giải quyết.
2.2. Thỏa thuận trọng tài hợp lệ

10
Khoa luật kinh tế-Trường đại học Kinh tế TP.Hồ Chí Minh


Thỏa thuận trọng tài hợp lệ là thỏa thuận trọng tài đó không bị vô hiệu. Điều
này có nghĩa là, ngay cả khi có thỏa thuận trọng tài nhưng nếu thỏa thuận trọng tài

đó vô hiệu thì trọng tài cũng không có thẩm quyền giải quyết.
Các trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu được quy định tại điều 18 Luật
Trọng tài thương mại năm 2010.
Sau đây, trên cơ sở điều 18 Luật Trọng tài thương mại năm 2010, chúng ta sẽ
cùng tìm hiểu về các trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu, từ đó kéo theo việc
loại trừ thẩm quyền của trọng tài thương mại để giải quyết tranh chấp trong những
trường hợp này:
1. Tranh chấp phát sinh trong các lĩnh vực không thuộc thẩm quyền của
Trọng tài quy định tại Điều 2 của Luật Trọng tài thương mại năm 2010. Theo điều 2
của Luật Trọng tài thương mại có quy định, tranh chấp chỉ được giải quyết bằng
trọng tài thương mại khi Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương
mại, tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương
mại, tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng
Trọng tài. Như vậy, ngoài các lĩnh vực được quy đinh trên thì khi phát sinh tranh
chấp thì Trọng tài không có thẩm quyền giải quyết.
2. Người xác lập thoả thuận trọng tài không có thẩm quyền theo quy định của
pháp luật. Người xác lập thỏa thuận trọng tài khi không phải là người đại diện theo
pháp luật hoặc không phải là người được ủy quyền hợp pháp hoặc là người được ủy
quyền hợp pháp nhưng vượt quá phạm vi được ủy quyền.
Về nguyên tắc thỏa thuận trọng tài do người không có thẩm quyền xác lập thì
thỏa thuận trọng tài đó vô hiệu. Trường hợp thỏa thuận trọng tài do người không có
thẩm quyền xác lập nhưng trong quá trình xác lập, thực hiện thỏa thuận trọng tài
hoặc trong tố tụng trọng tài mà người có thẩm quyền xác lập thỏa thuận trọng tài đã
chấp nhận hoặc đã biết mà không phản đối thì thỏa thuận trọng tài không vô hiệu.
3. Người xác lập thoả thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự theo
quy định của Bộ luật dân sự. . Người xác lập thoả thuận trọng tài là người chưa
thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự hoặc người bị hạn chế năng lực hành
vi dân sự. Trong trường hợp này thì Tòa án cần thu thập chứng cứ để chứng minh
người xác lập thoả thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự thì phải có giấy
11

Khoa luật kinh tế-Trường đại học Kinh tế TP.Hồ Chí Minh


tờ tài liệu chứng minh ngày tháng năm sinh hoặc kết luận của cơ quan có thẩm
quyền hoặc quyết định của Tòa án xác định, tuyên bố người đó mất năng lực hành
vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
4. Hình thức của thoả thuận trọng tài không phù hợp với quy định tại Điều 16
của Luật Trọng tài thương mại năm 2010
5. Một trong các bên bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép trong quá trình xác lập thoả
thuận trọng tài và có yêu cầu tuyên bố thoả thuận trọng tài đó là vô hiệu.Việc một
trong các bên bị lừa dối, đe dọa cưỡng ép trong quá trình thỏa thuận trọng tài được
quy định tại điều 4 và điều 132 Bộ luật dân sự năm 2005 chi tiết như sau:
Điều 4. Nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thoả thuận
Quyền tự do cam kết, thoả thuận trong việc xác lập quyền, nghĩa vụ dân sự
được pháp luật bảo đảm, nếu cam kết, thoả thuận đó không vi phạm điều cấm của
pháp luật, không trái đạo đức xã hội.
Trong quan hệ dân sự, các bên hoàn toàn tự nguyện, không bên nào được áp
đặt, cấm đoán, cưỡng ép, đe doạ, ngăn cản bên nào.
Cam kết, thoả thuận hợp pháp có hiệu lực bắt buộc thực hiện đối với các bên
và phải được cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác tôn trọng.
Điều 132. Giao dịch dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa
Khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị lừa dối hoặc bị đe dọa thì có
quyền yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu.
Lừa dối trong giao dịch là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba
nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội
dung của giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó.
Đe dọa trong giao dịch là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba làm
cho bên kia buộc phải thực hiện giao dịch nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức
khoẻ, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của cha, mẹ, vợ, chồng,
con của mình.

6. Thỏa thuận trọng tài vi phạm điều cấm của pháp luật. Những điều cấm của
pháp luật được quy định tại điều 128 Bộ luật Dân sự năm 2005, chi tiết như sau:
Điều 128. Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật,
trái đạo đức xã hội
12
Khoa luật kinh tế-Trường đại học Kinh tế TP.Hồ Chí Minh


Giao dịch dân sự có mục đích và nội dung vi phạm điều cấm của pháp luật,
trái đạo đức xã hội thì vô hiệu.
Điều cấm của pháp luật là những quy định của pháp luật không cho phép
chủ thể thực hiện những hành vi nhất định.
Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung giữa người với người
trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng.
III.

So sánh giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài thương mại và Tòa

án
1.

Khái niệm và đặc điểm của tố tụng trọng tài.

Giải quyết tranh chấp trong kinh doanh bằng trọng tài là hình thức giải quyết
tranh chấp thông qua hoạt động của trọng tài viên, với tư cách là bên thứ ba độc lập
nhằm chấm dứt xung đột bằng việc đưa ra một phán quyết buộc các bên tranh chấp
phải thực hiện.
Cũng như thủ tục tố tụng tòa án, trong quá trình giải quyết các tranh chấp
kinh doanh trọng tài cũng phải tuân theo các trình tự, thủ tục nhất định mà pháp luật
quy định, từ việc khởi kiện, xét xử, thi hành phán quyết trọng tài, quyền và nghĩa vụ

của những người tham gia,… Đây chính là thủ tục tố trọng tài. Nói cách khác, tố
tụng trọng tài được hiểu là trình tự, thủ tục mà pháp luật quy định để giải quyết
tranh chấp kinh doanh bằng trọng tài.
Tố tụng trọng tài nhìn chung có các đặc điểm cơ bản sau :
-

Trọng tài thương mại là một loại hình tổ chức phi chính phủ, một tổ

chức mang tính chất xã hội – nghề nghiệp, hoạt động theo pháp luật và quy chế
trọng tài.
-

Tố tụng trọng tài là sự kết hợp giữa hai yếu tố thỏa thuận và tài phán.

Cụ thể, thỏa thuận làm tiền đề cho phán quyết và không thể có phán quyết thoát ly
những yếu tố đã được thỏa thuận.
-

Tố tụng trọng tài đảm bảo cho đương sự quyền tự định đoạt của mình

một cách cao nhất, các đương sự có quyền lựa chọn trọng tài viên, quyền lựa chọn
địa điểm giải quyết tranh chấp, lựa chọn quy tắc tố tụng….
-

Phán quyết của trọng tài có giá trị chung thẩm và không thể kháng cáo

trước bất cứ cơ quan, tổ chức nào. Về nguyên tắc, trọng tài không xét xử công khai,
13
Khoa luật kinh tế-Trường đại học Kinh tế TP.Hồ Chí Minh



do đó ngoài nguyên đơn và bị đơn, trọng tài chỉ triệu tập các đương sự khác khi cần
thiết.
-

Quy tắc tố tụng trọng tài của các quốc gia rất khác nhau, nhưng nhìn

chung quy tắc lựa chọn trọng tài viên và thủ tục của hầu hết các trung tâm trọng tài
trên thế giới đều theo khuôn mẫu của Quy tắc trọng tài mẫu UNCITRAL.
-

Trọng tài thương mại của các nước trên thế giới chủ yếu tồn tại dưới

hai dạng cơ bản :
·

Trọng tài vụ việc (Trọng tài Ad – hoc) là hình thức trọng tài được lập

ra để giải quyết những tranh chấp cụ thể khi có yêu cầu và tự giải thể khi giải quyết
xong tranh chấp đó.Đặc điểm cơ bản của trọng tài vụ việc là không có trụ sở, không
có bộ máy giúp việc và không lệ thuộc vào bất cứ một quy tắc xét xử nào. Về
nguyên tắc, các bên đương sự khi yều cầu trọng tài Ad-hoc xét xử có quyền lựa
chọn thủ tục, các phương thức tiến hành tố tụng.
·

Trọng tài thường trực (còn gọi là quy chế) là những trọng tài có hình

thức tổ chức, có trụ sở ổn định, có danh sách trọng tài viên và hoạt động theo điều
lệ riêng. Phần lớn các tổ chức trọng tài lớn, có uy tín trên thế giới đều được thành
lập theo mô hình này dưới các tên gọi như Trung tâm trọng tài, Ủy ban trọng tài,

Viện trọng tài, Hội đồng trọng tài quốc gia và Quốc tế. Trọng tài thường trực có quy
chế tố tụng riêng và được quy định rất chặt chẽ. Về cơ bản, các đương sự không
được phép lựa chọn thủ tục tố tụng.
2.

Sự khác nhau cơ bản giữa tố tụng tòa án và tố tụng trọng tài.

Tòa án và trọng tài đều là những hình thức giải quyết tranh chấp trong kinh
doanh, chúng đóng vai trò một bên trung lập với các bên trong quan hệ tranh chấp.
Hoạt động giải quyết tranh chấp của tòa án và trọng tài có điểm giống nhau và có
thể phân biệt với các hình thức giải quyết tranh chấp kinh doanh khác đó là chúng
căn cứ vào pháp luật và hợp đồng của các bên trong quan hệ tranh chấp, xem xét sự
thật vụ án và độc lập ra phán quyết, phán quyết này được đảm bảo thi hành. Vì
chúng có thẩm quyền xem xét và ra phán quyết cho nên thủ tục tố tụng của tòa án
và trọng tài rất chặt chẽ và được pháp luật quy định. Thủ tục tố tụng tòa án và tố
tụng trọng tài đều dựa trên những nguyên tắc chung như : tôn trọng quyền tự định
đoạt của các đương sự, đảm bảo sự độc lập của người tài phán, … Tuy nhiên, vì đây
14
Khoa luật kinh tế-Trường đại học Kinh tế TP.Hồ Chí Minh


là hai hình thức giải quyết tranh chấp độc lập, cho nên giữa tố tụng tòa án và tố tụng
trọng tài cũng có những sự khác biệt cơ bản sau đây :
Một là : Về tính chất pháp lý.
Giữa tòa án và trọng tài có sự khác biệt rất rõ về tính chất pháp lý của mỗi
loại cơ quan này. Tòa án là một cơ quan nhà nước nằm trong hệ thống cơ quan tư
pháp. Trong quá trình tố tụng, tòa án nhân danh Nhà nước để xem xét, xử lý vi
phạm pháp luật nhằm duy trì trật tự công cộng và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp
pháp của các nhà kinh doanh. Trong khi đó, các trung tâm trọng tài đều tồn tại với
tư cách là một tổ chức phi chính phủ, một tổ chức mang tính chất xã hội – nghề

nghiệp. Tính phi chính phủ của trọng tài thương mại thể hiện ở chỗ, các trung tâm
trọng tài không do Nhà nước quyết định thành lập mà do các trọng tài viên thỏa
thuận xin phép Nhà nước để được thành lập, các trung tâm trọng tài thương mại
không nằm trong cơ cấu thiết chế nào của bộ máy Nhà nước và cũng không phải là
một cơ quan xét xử của Nhà nước mà là một tổ chức xã hội nghề nghiệp. Trọng tài
được thành lập nhằm cung cấp cho các nhà kinh doanh một cơ chế giải quyết tranh
chấp kinh doanh nhanh chóng, đơn giản, thuận tiện phù hợp với tâm lý của nhà
doanh nghiệp. Chính sự khác biệt cơ bản này giữa tòa án và trọng tài đã quyết định
sự các sự khác biệt khác trong thủ tục tố tụng tòa án và tố tụng trọng tài, ví dụ như
tính chất, mục đích, trình tự, thủ tục,…
Hai là : Về thẩm quyền.
Thẩm quyền theo vụ việc : dưới góc độ thẩm quyền theo vụ việc, thực tế cho
thấy tòa án thường có thẩm quyền rộng hơn so với trọng tài. Tòa án có thẩm quyền
giải quyết hầu hết tất cả các tranh chấp trong kinh doanh. Trong khi đó, khác với tòa
án, thẩm quyền của trọng tài có thể thay đổi, hoặc thu hẹp lại tùy theo từng trung
tâm trọng tài.
Thẩm quyền theo lãnh thổ : Đối với tòa án, không phải vụ tranh chấp trong
kinh doanh nào cũng được tòa thụ lý giải quyết. Đơn kiện chỉ được tòa án thụ lý
giải quyết khi được chuyển đến tòa án có thẩm quyền giải quyết. Ngược lại, trong tố
tụng trọng tài không đặt ra vấn đề thẩm quyền về mặt lãnh thổ. Các bên tranh chấp
có quyền lựa chọn bất cứ trung tâm trọng tài nào để giải quyết cho mình theo ý
muốn và sự tín nhiệm của họ. Khi tranh chấp đã được các bên thỏa thuận đưa ra
15
Khoa luật kinh tế-Trường đại học Kinh tế TP.Hồ Chí Minh


trung tâm trọng tài nào giải quyết thì trung tâm đó có quyền thụ lý tranh chấp. Như
vậy, về thẩm quyền vụ việc thì tòa án có thẩm quyền rộng hơn so với trọng tài, còn
thẩm quyền lãnh thổ trong tố tụng trọng tài lại không được đặt ra như đối với tòa án.
Ba là : Các giai đoạn tố tụng

Trong tố tụng trọng tài, trọng tài chỉ xét xử một lần các tranh chấp kinh
doanh. Phán quyết của trọng tài là quyết định chung thẩm, có hiệu lực thi hành,
không bị kháng cáo, kháng nghị. Đây là nguyên tắc đặc trưng của tố tụng trọng tài
so với tố tụng tòa án. Nguyên tắc này xuất phát từ bản chất của tố tụng trọng tài là
nhân danh ý chí và quyền định đoạt của các bên đương sự. Các bên đương sự đã tự
do lựa chọn và tín nhiệm người phán xử cho mình thì đương nhiên phải phục tùng
quyết định của người đó. Trong khi đó, trong tố tụng tòa án có nhiều cấp xét xử từ
sơ thẩm đến phúc thẩm, trong một số trường hợp phán quyết của tòa án còn có thể
được xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm. Chính vì thủ tục tố tụng
tòa án phải thông qua nhiều giai đoạn xét xử khác nhau đã dẫn tới việc kéo dài thời
gian xét xử, đây là điều mà các nhà kinh doanh không mong muốn.
Bốn là : Điều kiện khởi kiện
Xuất phát từ nguyên tắc tự nguyện – một nguyên tắc cốt lõi trong tố tụng
trọng tài, sự hình thành trọng tài là do ý chí tự nguyện của các bên đương sự và
trong quá trình tố tụng trọng tài đều nhân danh ý chí tối cao của các bên đương sự.
Các bên đương sự hoàn toàn có thể lựa chọn các hình thức trọng tài mà họ cho là
phù hợp trên cơ sở tự nguyện thỏa thuận giữa các chủ thể, không có sự áp đặt ý chí
của bất cứ cơ quan, tổ chức hay cá nhân nào. Chính vì vậy, đối với tố tụng trọng tài,
khi có tranh chấp xảy ra, các bên tranh chấp chỉ có thể đưa vụ tranh chấp ra trung
tâm trọng tài để giải quyết khi đã có sự thỏa thuận trước về việc này. Điều này có
nghĩa là : sự thỏa thuận trọng tài là điều kiện quyết định quyền khởi kiện của đương
sự. Đây là điều mà trong tố tụng tòa án không có.
Năm là : Nguyên tắc xét xử tập thể.
Tố tụng trọng tài không có nguyên tắc xét xử tập thể như trong tố tụng tòa
án. Việc chọn một hay nhiều trọng tài viên để giải quyết tranh chấp cho mình là
quyền của các bên tranh chấp, pháp luật không can thiệp. Pháp luật chỉ can thiệp
vào vấn đề này khi các bên không thỏa thuận được với nhau về cách thức lựa chọn
16
Khoa luật kinh tế-Trường đại học Kinh tế TP.Hồ Chí Minh



trọng tài viên mà thôi. Ví dụ, khi các bên không đạt được sự nhất trí trong việc chọn
một trọng tài viên để giải quyết tranh chấp cho mình theo quy định của pháp luật,
mỗi bên tranh chấp sẽ chọn cho mình một trọng tài viên. Hai người được chọn sẽ
chọn một người thứ ba làm Chủ tịch Hội đồng trọng tài. Trong trường hợp hai trọng
tài không chọn được người thứ ba đó thì quyền quyết định thuộc về tòa án.
Sáu là : Tính công khai của hoạt động tố tụng.
Trong tố tụng tòa án, Việc xét xử của tòa án không chỉ có mục đích bảo vệ
quyền và lợi ích của các đương sự mà còn có ý nghĩa giáo dục việc tuân theo pháp
luật. Do vậy, hầu hết các phiên tòa đều được tiến hành công khai, các bản án thường
được công bố rộng rãi trước công chúng. Điều này dẫn đến khó khăn khi bảo vệ các
thông tin bí mật. Trong khi đó, trong tố tụng trọng tài, mọi tình tiết và kết quả đều
không được công bố công khai nếu không được sự chấp thuận của các bên. Xuất
phát từ nhu cầu phải bảo vệ một cách nghiêm ngặt các bí mật nghề nghiệp của các
nhà kinh doanh mà pháp luật không bắt buộc các phiên họp xét xử trọng tài phải
tiến hành công khai. Quyết định của trọng tài cũng như những căn cứ để trọng tài ra
quyết định sẽ không được công bố công khai nếu các bên không có yêu cầu. Quyết
định của trọng tài chỉ được phép công bố rộng rãi khi các bên đồng ý. Có thể nói.
Nguyên tắc này hoàn toàn đối lập với nguyên tắc xét xử công khai trong tố tụng tòa
án.
Bảy là : Tính mềm dẻo, linh hoạt trong thủ tục tố tụng.
Tố tụng trọng tài là một thủ tục hết sức mềm dẻo và linh hoạt. Các thủ tục tố
tụng đơn giản, thuận tiện, đảm bảo thời cơ kinh doanh của các bên tranh chấp. Ví
dụ như : trong tố tụng trọng tài các bên có thể chọn tổ chức trọng tài, chọn trọng tài
viên mà mình tín nhiệm, tin tưởng có thể giải quyết mâu thuẫn của họ, các bên cũng
có thể chọn địa điểm để tiến hành trọng tài mà thấy là thuận tiện, thậm chí các bên
có thể thỏa thuận với nhau lập ra quy tắc tố tụng áp dụng cho vụ kiện.
Trong khi đó, tố tụng tòa án bị ràng buộc bởi các quy tắc tố tụng nghiêm
ngặt, phải tuân thủ các yêu cầu nhiều khi mang tính nghi thức, luật áp dụng được
coi là bất di bất dịch.

Tám là : Phán quyết

17
Khoa luật kinh tế-Trường đại học Kinh tế TP.Hồ Chí Minh


Ở cả hai hình thức tố tụng này, việc xét xử tranh chấp đều được kết thúc
bằng việc ra bản án, quyết định của tòa án hoặc phán quyết trọng tài. Nhưng phán
quyết của trọng tài và bản án, quyết định của tòa án trong nhiều trường hợp cũng có
những điểm khác nhau cơ bản.
Trong tố tụng tòa án, bản án, quyết định của tòa án khi đã có hiệu lực nếu
các bên không tự nguyện thi hành thì cơ quan thi hành án sẽ áp dụng các biện pháp
cưỡng chế cần thiết theo quy định của pháp luật. Trong khi đó, ở một số quốc gia,
không phải lúc nào quyết định của trọng tài cũng được đảm bảo thi hành bằng
cưỡng chế của Nhà nước. Ở nhiều Quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển, khi
quyết định của trọng tài hợp pháp mà không được bên thua kiện thi hành tự nguyện
thì theo yêu cầu của phía bên kia, cơ quan thi hành án sẽ cưỡng chế thi hành như
một phán quyết của tòa án. Tuy nhiên, cũng có một số quốc gia, mà ở đó sự phối
hợp hoạt động giữa tòa án và trọng tài chưa cao và chưa được pháp luật quy định (ví
dụ như ở Việt Nam trong thời gian từ trước khi có Pháp lệnh trọng tài thương mại
2003 trở về trước) thì việc sử dụng cơ chế tòa án phê chuẩn quyết định của trọng tài
để trên cơ sở đó mà cưỡng chế thi hành các quyết định trọng tài là chưa có điều kiện
thực hiện. Vì vậy, ở các quốc gia này các quyết định giải quyết tranh chấp của trọng
tài không được đảm bảo thi hành bằng sự cưỡng chế của Nhà nước. Trong trường
hợp một bên không tự nguyện thi hành quyết định trọng tài thì bên kia có quyền đưa
vụ tranh chấp ra xét xử tại tòa án .
IV.

ƯU VÀ NHƯỢC ĐIỂM CỦA GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
BẰNG TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI


Từ những điểm khác nhau cơ bản giữa chế định trọng tài và tòa án, chúng ta
có thể đưa ra những ưu điểm cũng như nhược điểm của chế định trọng tài dưới đây,
từ đó thấy rõ vai trò cần thiết của Tòa án trong việc hỗ trợ Trọng tài giải quyết tranh
chấp thương mại.
Ưu điểm
Xuất phát từ những nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Chế định
này có những ưu điểm nổi bật như:

18
Khoa luật kinh tế-Trường đại học Kinh tế TP.Hồ Chí Minh




Thứ nhất, thủ tục trọng tài đơn giản, nhanh chóng, các bên có thể chủ

động về thời gian, địa điểm giải quyết tranh chấp, không trải qua nhiều cấp xét xử
như ở toà án, cho nên hạn chế tốn kém về thời gian và tiền bạc cho doanh nghiệp.


Thứ hai, khả năng chỉ định trọng tài viên thành lập Hội đồng trọng tài

giải quyết vụ việc giúp các bên lựa chọn được trọng tài viên giỏi, nhiều kinh
nghiệm, am hiểu sâu sắc vấn đề đang tranh chấp để từ đó họ có thể giải quyết tranh
chấp nhanh chóng, chính xác.


Thứ ba, nguyên tắc trọng tài xét xử không công khai, phần nào giúp


các bên giữ được uy tín trên thương trường. Đây được coi là ưu điểm được các bên
tranh chấp ưa chộng nhất.


Thứ tư, các bên tranh chấp có khả năng tác động đến quá trình trọng

tài, kiểm soát được việc cung cấp chứng cứ của mình và điều này giúp các bên giữ
được bí quyết kinh doanh.


Thứ năm, trọng tài khi giải quyết tranh chấp nhân danh ý chí của các

bên, không nhân danh quyền lực tự pháp của nhà nước, nên rất phù hợp để giải
quyết các tranh chấp có nhân tố nước ngoài.
Nhược điểm.
Bên cạnh những ưu điểm, trọng tài thương mại cũng có những nhược điểm
so với con đường tòa án, điều này giải thích cho hiện tượng tại sao mặc dù có sự tồn
tại của trọng tài mà các bên vẫn có trường hợp đưa các tranh chấp thuộc thầm quyền
của trọng tài ra tòa án giải quyết. Các nhược điểm đó là:


Thứ nhất, trọng tài không phải cơ quan quyền lực nhà nước nên khi

xét xử, trong trường hợp cần áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nhằm đảm bảo
chứng cớ, trọng tài không thể ra quyết định mang tính chất bắt buộc về điều đó mà
phải yêu cầu tòa ánthi hành các phán quyết trọng tài.


Thứ hai, việc thực hiện các quyết định của trọng tài hoàn toàn phụ


thuộc vào ý thức tự nguyện của các bên. Đối với các doanh nghiệp nước ngoài, uy
tín của doanh nghiệp được đặt lên hàng đầu do đó việc họ tự giác thực hiện các
quyết định của trọng tài khá cao. Tuy nhiên, các doanh nghiệp trong nước hiện nay
vẫn chưa coi trọng việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, nên vẫn chưa có ý thức
tự giác.
19
Khoa luật kinh tế-Trường đại học Kinh tế TP.Hồ Chí Minh


V.

THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP THƯƠNG MẠI
BẰNG TTTM VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP

Sự phát triển của hoạt động giải quyết tranh chấp bằng trọng tài trong một
nền tài phán phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác nhau. Trong một kết quả khảo sát
năm 2010 của Trường đại học Queen Mary, London và hãng luật quốc tế White &
Case, một số yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến việc đánh giá xem liệu một quốc gia
có phải là địa điểm trọng tài lý tưởng cho một tranh chấp bao gồm khung pháp lý
của quốc gia đó (Luật Trọng tài, tỷ lệ công nhận thỏa thuận và phán quyết trọng
tài), luật nội dung vụ tranh chấp, vị trí địa lý, cơ sở hạ tầng nói chung, trung tâm
trọng tài, ảnh hưởng từ đối tác v.v. Tương tự, mới đây nhất, Viện trọng tài London
(CIarb) đã đưa ra 10 nguyên tắc cần thiết để có một địa điểm trọng tài hiệu quả và
an toàn để tiến hành tố tụng trọng tài quốc tế. Nhìn chung, những yếu tố trên có thể
xếp vào hai nhóm: (i) môi trường pháp lý trong nước và (ii) tác động quốc tế liên
quan đến hoạt động trọng tài.
1. Môi trường pháp lý trong nước
1.1. Luật trọng tài và các văn bản hướng dẫn
Luật Trọng tài thương mại được Quốc hội thông qua ngày 17/06/2010 và có
hiệu lực từ ngày 01/01/2011 (“LTTTM”) thay thế cho Pháp lệnh trọng tài thương

mại năm 2003 là một bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện thể chế về tổ chức
và hoạt động trọng tài ở Việt Nam. LTTTM đã tiếp thu được những nguyên tắc cơ
bản nhất về việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài trên thế giới và trong Luật
Mẫu UNCITRAL7 như nguyên tắc tôn trọng thỏa thuận của các bên ( party
autonomy), tính độc lập của thỏa thuận trọng tài (separability) và quyền được tự
xem xét vấn đề thẩm quyền của Hội đồng trọng tài ( competence-competence), tính
chung thẩm của phán quyết trọng tài (finality), nguyên tắc tố tụng công bằng (due
process), và nguyên tắc bảo mật (confidentiality). Về lý thuyết, những nguyên tắc
cơ bản nhất này đảm bảo hoạt động trọng tài tại Việt Nam hoàn toàn phù hợp với
thực tiễn trọng tài thế giới và quan trọng hơn là thực sự đưa trọng tài trở thành một
phương thức giải quyết tranh chấp hiệu quả, công bằng cho các bên. LTTTM, cùng
với sự mở rộng khái niệm hoạt động thương mại tại Luật thương mại 20058 , đã
không còn bó hẹp phạm vi những tranh chấp có thể giải quyết bằng trọng tài. Đồng
20
Khoa luật kinh tế-Trường đại học Kinh tế TP.Hồ Chí Minh


thời, luật doanh nghiệp, luật xây dựng hay luật đầu tư, vv. cũng đều quy định rằng
tranh chấp trong những lĩnh vực này đều có thể giải quyết bằng phương thức trọng
tài10. Có thể thấy, những đổi mới tích cực này đã xóa tan những lo ngại về trọng tài
tại Việt Nam từ vụ Tyco – Leighton khi một phán quyết trọng tài giải quyết tranh
chấp trong lĩnh vực xây dựng bị từ chối công nhận và cho thi hành.
Nghị quyết số 01/2014 hướng dẫn thi hành một số quy định của LTTTM
thông qua ngày 20 tháng 03 năm 2014 và có hiệu lực ngày 01 tháng 07 năm 2014
của Hội đồng thẩm phán Tòa án Nhân dân tối cao (“Nghị quyết 01/2014”) đã giải
quyết một số vấn đề còn chưa rõ của LTTTM như phân định thẩm quyền giữa trọng
tài và tòa án, việc hỗ trợ và giám sát của tòa án đối với hoạt động trọng tài nước
ngoài trên lãnh thổ Việt Nam, các vấn đề về thỏa thuận trọng tài hay làm rõ các căn
cứ hủy phán quyết trọng tài, đặc biệt là khái niệm “các nguyên tắc cơ bản của pháp
luật Việt Nam”. Hơn nữa, nội dung Nghị quyết đã thể hiện tinh thần ủng hộ hoạt

động trọng tài của Tòa án Nhân dân tối cao bằng việc đưa ra các quy định ủng hộ
cho khả năng thi hành của thỏa thuận trọng tài, ưu tiên cho trọng tài xét xử trước kể
cả trong trường hợp tòa nhận thấy rằng tranh chấp không thuộc thẩm quyền của
Trọng tài, không có thỏa thuận trọng tài
Các vấn đề liên quan đến quản lý nhà nước về trọng tài; hoạt động của Trung
tâm trọng tài và Chi nhánh Trung tâm trọng tài; Văn phòng đại diện của Tổ chức
trọng tài nước ngoài tại Việt Nam; thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời của Hội đồng trọng tài được quy định trong Nghị định 63/2011/NĐ-CP
ngày 28 tháng 7 năm 2011 (“Nghị định 63/2011/NĐ-CP”).
Ngoài ra, Bộ Luật tố tụng dân sự, Bộ luật dân sự cũng đang được bổ sung,
sửa đổi theo hướng ủng hộ và khuyến khích sự phát triển của việc giải quyết tranh
chấp bằng hòa giải và trọng tài thương mại, đặc biệt là không chỉ đối với trọng tài
trong nước mà còn đối với cả trọng tài nước ngoài. Điều này hoàn toàn phù hợp với
một trong các nội dung chủ yếu của “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”
nêu tại Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị là
“hoàn thiện chính sách, pháp luật trong lĩnh vực tố tụng tư pháp theo chủ trương
khuyến khích giải quyết một số tranh chấp thông qua thương lượng, hòa giải và
trọng tài”.
21
Khoa luật kinh tế-Trường đại học Kinh tế TP.Hồ Chí Minh


a.

Vai trò hỗ trợ và giám sát của Tòa án đối với trọng tài

Một trong những nội dung cơ bản của Luật trọng tài thương mại so với pháp
lệnh trọng tài năm 2003 là ngoài việc trao cho Hội đồng trọng tài quyền thu thập
chứng cứ, triệu tập người làm chứng, áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, Luật
trọng tài và sau đó là Nghị quyết 01/2014 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân

tối cao còn phân định rõ vai trò hỗ trợ và giám sát của Tòa án Việt Nam đối với
hoạt động trọng tài.
Tuy nhiên, trên thực tế, do một số thẩm phán còn thiếu kinh nghiệm trong
việc giải quyết các vụ việc trọng tài này mà còn không ít bất cập đã xảy ra như áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trái với thỏa thuận của các bên trong hợp đồng,
áp dụng biện pháp khẩn cấp đối với bên thứ ba không bị ràng buộc bởi thỏa thuận
trọng tài, hay thụ lý giải quyết vụ tranh chấp kể cả khi đã có thỏa thuận trọng tài
giữa các bên. Điều này đã gây ra nhiều lo ngại đối với các bên tranh chấp, đặc biệt
là các doanh nghiệp nước ngoài khi tham gia tố tụng trọng tài tại Việt Nam.
b.

Hủy phán quyết trọng tài

Một trong những ưu điểm của giải quyết tranh chấp của trọng tài là khả năng
thi hành của phán quyết trọng tài bởi phán quyết của trọng tài Việt Nam sẽ được thi
hành tương tự như bản án của tòa án tại Việt Nam và hơn thế, có khả năng thi hành
tại 155 quốc gia thành viên khác của Công ước New York năm 1958 về công nhận
và cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài. Do đó, việc đảm bảo khả năng thi
hành của phán quyết trọng tài là một điều kiện tiên quyết để doanh nghiệp cân nhắc
khi chọn sử dụng trọng tài để giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên thực trạng hiện nay
về tỷ lệ thi hành phán quyết trọng tài tại Việt Nam là rất đáng lo ngại: sau khi
LTTTTM được ban hành tỷ lệ phán quyết trọng tài bị hủy khi có đơn lên đến 22%.
Bên cạnh vấn đề tỷ lệ thi hành, còn nhiều ý kiến cho rằng phán quyết trọng
tài bị hủy hay từ chối công nhận một cách không thuyết phục khi Tòa án xem xét lại
nội dung vụ tranh chấp, giải thích quá rộng các căn cứ để hủy/từ chối công nhận
phán quyết trọng tài đặc biệt là căn cứ “những nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt
Nam”. Mặc dù, điều 14.2(đ) của Nghị quyết 01/201414 đã làm rõ hơn cách hiểu thế
nào là các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam và nhờ vậy, tránh được cách
22
Khoa luật kinh tế-Trường đại học Kinh tế TP.Hồ Chí Minh



hiểu sai lầm trước đây là mọi quy định của pháp luật Việt Nam đều có thể được coi
là các nguyên tắc cơ bản của pháp luật. Tuy nhiên, hướng dẫn này của Nghị quyết
cần phải cụ thể hơn nữa vì có rất nhiều “các nguyên tắc cơ bản” được quy định
trong mỗi bộ luật và còn nhiều tranh cãi đối với quy định về mối quan hệ giữa
quyền và lợi ích của bên thứ ba với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật.
c.

Đội ngũ Trọng tài viên, luật sư, học giả chuyên về trọng tài

Có một nhận định được các học giả uy tín thế giới ủng hộ đó là “chất lượng
của trọng tài viên tương đương với chất lượng của tố tụng trọng tài” và về điểm
này, các Trọng tài viên hiện nay tại Việt Nam đa phần đều là những tên tuổi có uy
tín, là những chuyên gia đầu ngành trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Tuy nhiên, để
có một quá trình tố tụng trọng tài thật sự hiệu quả, nhanh chóng, các trọng tài viên
còn cần kinh nghiệm điều hành quá trình tố tụng cũng như nắm vững trình tự tố
tụng trọng tài. Việc tố tụng trọng tài phải tuân thủ tuyệt đối nguyên tắc bảo mật
khiến cho các trọng tài viên không thể tìm hiểu kinh nghiệm qua các vụ kiện trọng
tài khác mà mình không được tham gia, trong khi hiện nay không có nhiều những
diễn đàn trong nước cũng như quốc tế để các Trọng tài viên trao đổi những đúc kết
thực tiễn của mình với nhau và tìm tòi thêm về cách xử lý của trọng tài viên, chuyên
gia quốc tế.
Đội ngũ luật sư chuyên về trọng tài cũng ngày càng được cải thiện cả về
lượng và chất. Mặc dù vậy so với nhu cầu ngày một cao của doanh nghiệp và tính
đến sự phát triển trong tương lai của hoạt động trọng tài, Việt Nam cần nhiều hơn
nữa những luật sư có thể đại diện cho doanh nghiệp trong nước tham gia tranh tụng
tại các trung tâm trọng tài quốc tế. Chưa nhắc tới rào cản ngôn ngữ, tác giả nhận
thấy hiện nay đội ngũ luật sư về trọng tài đôi khi vẫn bị ảnh hưởng bởi thói quen khi
tham gia tố tụng dân sự tại Tòa án, từ đó không khai thác hết những ưu điểm vốn có

của tố tụng trọng tài.
2. Tác động quốc tế đến hoạt động trọng tài tại Việt Nam
Tác động quốc tế, mà nổi bật nhất là những công ước quốc tế mà Việt Nam
tham gia, hiện đang giữ một vai trò quan trọng trong việc góp phần phát triển hoạt
động trọng tài tại Việt Nam. Việt Nam là thành viên của Công ước New York 1958
từ năm 1995 và hiện đang là thành viên của 50 Hiệp định đầu tư song phương và 11
23
Khoa luật kinh tế-Trường đại học Kinh tế TP.Hồ Chí Minh


Hiệp định thương mại tự do16, đa phần đều có điều khoản giải quyết tranh chấp đầu
tư bằng trọng tài. Đáng chú ý, Việt Nam đang tích cực đàm phán 7 Hiệp định
thương mại tự do quan trọng khác, trong đó có RCEP (ASEAN +6), Hiệp định Việt
Nam – EU, hay Hiệp định TPP17. Bên cạnh những đóng góp trong sự tăng trưởng
nền kinh tế, những công ước, hiệp định này đảm bảo rằng các doanh nghiệp trong
nước sẽ phải làm quen với “văn hóa” sử dụng trọng tài như là phương thức giải
quyết tranh chấp tối ưu của đối tác, nhà đầu tư nước ngoài.
Việt Nam nằm trong khu vực Châu Á – Thái Bình Dương với rất nhiều nền
tài phán xây dựng luật trọng tài của mình trên Luật Mẫu UNCITRAL, đồng thời
cũng là khu vực có nhu cầu sử dụng dịch vụ trọng tài ngày càng tăng18 như là một
hệ quả của việc tăng cường đầu tư và các hoạt động thương mại. Do đó, với nền
tảng là một cơ sở pháp lý về trọng tài có nhiều điểm tưởng đồng về nguyên tắc với
các nước trong khu vực, trọng tài Việt Nam, nếu có thể đảm bảo thực hiện ổn định
Luật trọng tài thương mại năm 2010 và Công ước New York 1958, đang có điều
kiện khách quan hết sức thuận lợi để bắt kịp sự phát triển của trọng tài quốc tế.
VI.

MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VAI TRÒ VÀ HÌNH
THỨC TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI TRONG GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP


Một số giải pháp nâng cao sức hấp dẫn của trọng tài Như đã phân tích tại
phần II, thực trạng trọng tài Việt Nam không chỉ có những bất cập mà còn rất nhiều
yếu tố tích cực, và tham luận xin đề xuất một số giải pháp để nâng cao sức hấp dẫn
của hoạt động trọng tài tại Việt Nam trên cơ sở khắc phục những tồn tại đồng thời
duy trì những thành tựu đã đạt được một cách ổn định trong tương lai.
1.

Tạo điều kiện và khuyến khích sự tham gia của các trọng tài viên

nước ngoài và luật sư nước ngoài trong tố tụng trọng tài
Như đã trình bày ở trên, hiện nay có 17 trọng tài viên nước ngoài đã được
đăng ký trong danh sách trọng tài viên tại Bộ Tư Pháp không kể các TTV nước
ngoài không có tên trong danh sách TTV của VIAC đã trực tiếp tham gia giải quyết
tranh chấp tại VIAC theo sự lựa chọn của các bên tranh chấp. Cũng theo thống kê
của Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam, số lượng các vụ tranh chấp có yêu tố
24
Khoa luật kinh tế-Trường đại học Kinh tế TP.Hồ Chí Minh


nước ngoài chiếm khoảng 51% tổng số vụ việc được giải quyết tại trung tâm này.
Hơn nữa, trong nhiều vụ việc, luật áp dụng để giải quyết tranh chấp là pháp luật
nước ngoài. Vì vậy, sự tham gia của các trọng tài viên nước ngoài và luật sư nước
ngoài vào tố tụng trọng tài là điều thiết yếu. Do đó, Bộ Tư pháp nên có các chính
sách nhằm tạo điều kiện và khuyến khích sự tham gia của các trọng tài viên nước
ngoài và luật sư nước ngoài trong tố tụng trọng tài như: ban hành văn bản chính
thức cho phép luật sư nước ngoài được tham gia tố tụng với tư cách là người bào
chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự, người đại diện, người bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của đương sự tại trọng tài. Các trung tâm trọng tài cũng cần tích cực
hơn nữa tuyên truyền và quảng bá hình ảnh trung tâm của mình, tích cực tham gia

các diễn đàn chuyên môn quốc tế, chủ động liên lạc với các trọng tài viên nước
ngoài có danh tiếng để mời họ tham gia danh sách trọng tài viên của trung tâm. Đây
là điều cần thiết để thúc đẩy sự phát triển của trọng tài trong nước, tạo môi trường
cạnh tranh và giúp cho các trọng tài viên và luật sư học hỏi kinh nghiệm của các
đồng nghiệp nước ngoài.
2.

Tăng cường cơ chế quản lý và giám sát nội bộ việc xét xử tại các

Tòa án thông qua báo cáo thường xuyên
Chúng tôi cho rằng Tòa án tối cao cần tăng cường quản lý và giám sát việc
xét xử tại các tòa án địa phương chặt chẽ hơn nữa thông qua việc yêu cầu báo cáo
nội bộ thường xuyên. Việc các tòa án địa phương gửi báo cáo nội bộ mỗi 06 tháng
hoặc mỗi quý sẽ giúp cho việc giám sát, quản lý này của Tòa án nhân dân tối cao
diễn ra một cách liên tục và thường xuyên, Nhờ vậy tòa án nhân dân tối cao có thể
dễ dàng nắm bắt được những khó khăn và bất cập trong hoạt động xét xử tại các tòa
án địa phương. Từ đó, kịp thời đưa ra những chỉ đạo, hướng dẫn phù hợp và đúng
đắn. Mặt khác, Tòa án nhân dân tối cao và các tòa án địa phương cũng có thể công
khai số liệu và thông tin tổng hợp từ những báo cáo này trên trang thông tin điện tử
chính thức của mình để thúc đẩy sự minh bạch trong giải quyết các vụ việc liên
quan đến trọng tài thương mại tại Tòa án.
3.

Cần có tòa chuyên trách với đội ngũ thẩm phán chuyên sâu về

lĩnh vực trọng tài
25
Khoa luật kinh tế-Trường đại học Kinh tế TP.Hồ Chí Minh



×