Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Thực hiện quy chế dân chủ ở các trường đại học và cao đẳng trên địa bàn tỉnh khánh hòa trong giai đoạn hiện nay (TT)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (356.38 KB, 27 trang )

VIN HN LM
KHOA HC X HI VIT NAM
HC VIN KHOA HC X HI
---------------

NGUYN HU TM

THựC HIệN QUY CHế DÂN CHủ ở CáC TRƯờNG ĐạI HọC Và
CAO ĐẳNG TRÊN ĐịA BàN TỉNH KHáNH HòA TRONG GIAI
ĐOạN HIệN NAY

Ngnh, chuyờn ngnh: CNDVBC & CNDVLS
Mó s: 62 22 03 02

TểM TT LUN N TIN S TRIT HC

H NI - 2016


Công trình khoa học được hoàn thành tại:
Học Viện Khoa học Xã hội
Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam

Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS. TS Trần Ngọc Liêu
2. TS. Nguyễn Trọng Thóc

Phản biện 1: GS.TS Nguyễn Ngọc Long
Phản biện 2: GS.TS Lê Văn Quang
Phản biện 3: PGS.TS Lê Thanh Thập

Luận án được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án tiến sĩ cấp Học viện


họp tại:…………………………………………………..
Vào hồi…….giờ…..ngày……..tháng……năm 201….....

Có thể tìm hiểu luận án tại:
- Thư viện Quốc gia Việt Nam.
- Trung tâm Thông tin - Thư viện Học Viện Khoa học Xã hội.


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) nêu rõ: Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất
của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Xây
dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm dân chủ
được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực. Dân
chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế hóa bằng pháp luật, được
pháp luật bảo đảm. Dân chủ - thực chất là quyền lực thuộc về nhân dân, đây là
một khát vọng to lớn của nhân dân, hiện nay nó đã trở thành một chuẩn mực giá trị
của xã hội. Đây là nội dung có tính chất cơ bản để xác định phương hướng, mục
tiêu, động lực, phương pháp và tiêu chuẩn kiểm định của một chế độ xã hội, một
thể chế chính trị, một đơn vị, tập thể trong mỗi cộng đồng. Do đó, đối với Việt
Nam, đây đang là vấn đề cấp thiết cần phải nghiên cứu.
Với ý nghĩa và tầm quan trọng của việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, cho
nên, việc nghiên cứu thực hiện quy chế dân chủ ở các trường đại học và cao đẳng ở
Khánh Hòa hiện nay nhằm chỉ ra những thành tựu và hạn chế, qua đó đề xuất những,
giải pháp để phát huy tiềm năng sáng tạo của cán bộ, giảng viên và sinh viên. Tuy
nhiên, trong những năm gần đây hiện tượng vị phạm quy chế dân chủ và gây mất dân
chủ ở một số cơ quan trường học đã làm ảnh hưởng đến tư tưởng và lòng tin của cán
bộ, giảng viên và sinh viên đối với uy tín thanh danh của Đảng bộ và hạ thấp vai trò

quản lý của chính quyền các trường đại học và cao đẳng của tỉnh. Xuất phát từ lý do
như trên, chúng tôi chọn đề tài “Thực hiện quy chế dân chủ ở các trường đại học
và cao đẳng trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa trong giai đoạn hiện nay” làm đề tài
luận án Tiến sĩ chuyên ngành duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Mục đích nghiên cứu: : Đề tài làm rõ việc thực hiện quy chế dân chủ ở các
trường đại học và cao đẳng, đồng thời phân tích thực trạng và nguyên nhân của việc
thực hiện dân chủ. Từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực
hiện quy chế dân chủ ở các trường đại học và cao đẳng ở tỉnh Khánh Hòa hiện nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu: Thứ nhất; làm rõ cơ sở lý luận của việc thực hiện quy
chế dân chủ ở cơ sở nói chung và ở các trường đại học, cao đẳng Khánh Hòa nói
riêng. Thứ hai; phân tích những thành tựu, hạn chế của việc thực hiện quy chế dân
chủ cơ sở ở các trường đại học và cao đẳng ở Khánh Hòa trong thời gian qua. Thứ
ba; đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả của việc thực hiện quy chế dân chủ
trong các trường đại học, cao đẳng ở Khánh Hòa hiện nay.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu việc thực hiện quy chế
dân chủ trong các trường đại học và cao đẳng trong thời gian qua trên địa bàn tỉnh
Khánh Hòa.
Phạm vi nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu việc thực hiên quy chế dân chủ
cơ sở ở các trường đại học và cao đẳng từ năm 2012 đến năm 1015, bao gồm: Đại học
Nha Trang, Đại học Thái Bình Dương, trường cao đẳng Văn hóa và Du lịch Nha Trang,
Cao đẳng Sư phạm Nha Trang, Cao đẳng Mẫu giáo Trung ương II Nha Trang.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Để tài được thực hiện trên cơ sở của chủ nghĩa duy vật biện
chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây
dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở.
1



Phƣơng pháp nghiên cứu: Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả sử dụng
những phương pháp cơ bản như: Phương pháp biện chứng duy vật, lịch sử - logic và
phương pháp phân tích, tổng hợp, để có những tư liệu cụ thể, tác giả đã tiến hành
điều tra xã hội học.
5. Những đóng góp mới của luận án
Nghiên cứu một cách hệ thống vấn đề thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở và
làm rõ thực trạng và nguyên nhân của việc thực hiện quy chế dân chủ của các trường
đại học và cao đẳng ở Khánh Hòa thông qua khảo sát thực tế. Đề xuất một số giải
pháp nâng cao hiệu quả của việc thực hiện quy chế dân chủ ở các trường đại học,
cao đẳng ở Khánh Hòa hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Ý nghĩa lý luận của luận án: Đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho việc
nghiên cứu, giảng dạy và học tập về những vấn đề lý luận dân chủ, quy chế thực
hiện dân chủ và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở.
Ý nghĩa thực tiễn của luận án: Đề tài có thể làm tài liệu tham khảo cho đảng
bộ, chính quyền và các tổ chức đoàn thể ở các trường đại học và cao đẳng trên địa
bàn tỉnh Khánh Hòa trong việc xây dựng chủ trương, kế hoạch và chỉ đạo thực hiện
công tác nâng cao chất lượng thực hiện quy chế dân chủ trong trường học cho những
năm tiếp theo. Đề tài cũng có thể làm tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm đến
công tác nâng cao chất lượng xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ nói chung, dân
chủ cơ sở đối với những tổ chức, cơ quan trường học nói riêng.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận án
gồm 4 chương, 11 tiết
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
1.1. Các công trình nghiên cứu về dân chủ, quy chế dân chủ ở cơ sở và thực
hiện dân chủ ở cơ sở
Khi bàn đến tư tưởng dân chủ và bản chất của nền dân chủ, trong cuốn
“Tương lai của nền dân chủ xã hội” của Thomas Meyer và Nicole Breyer, xuất bản

năm 2007 đã được Trần Danh Tạo và Ngô Lan Anh dịch. Đây không phải là cuốn
sách chuyên bàn về lịch sử tư tưởng chính trị, cơ bản nhất là tác giả đã đề cập đến
nền dân chủ hiện đại được hợp thức hóa như thế nào? Công bằng xã hội có vai trò
như thế nào đối với nền dân chủ hiện đại, nền dân chủ ấy dựa trên những quyền cơ
bản nào, nó có ý nghĩa như thế nào đối với sự ổn định và hiệu quả của xã hội. Tác
giả đã chỉ ra các quyền cơ bản của con người và đối tượng thực hiện dân chủ trên tất
cả các lĩnh vực, không chỉ trong quá khứ, hiện tại mà cả trong tương lai. Một số tác
giả khác khi bàn đến quyền dân chủ và phát huy dân chủ trong công tác tham mưu,
tác giả Phạm Văn Đức - Nguyễn Đình Hòa, trong bài viết “Dân chủ và phát huy
dân chủ trong công tác tham mưu nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng ở
nước ta hiện nay”, Tạp chí Triết học số 11 năm 2013. Tác giả chỉ rõ: “Việc đổi mới
phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng Cộng sản là yêu cầu
cấp thiết, là nội dung cơ bản của công tác xây dựng Đảng và việc phát huy dân chủ
trong công tác tham mưu được xem là một trong những biện pháp quan trọng để
nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng Cộng sản với tư cách đảng cầm quyền”. Tác
giả Trung Thực, trong cuốn “Quyền dân chủ ở nước ta”, xuất bản năm 1957, cho
rằng: “Chế độ dân chủ của nước ta hoàn toàn khác hẳn chế độ dân chủ của các nước
tư bản Âu - Mỹ, với nền thống trị của giai cấp tư sản, nhân dân lao động không có
2


quyền làm chủ quốc gia, không có quyền tự do, bình đẳng thực sự. Ở chế độ chúng
ta toàn dân làm chủ nhà nước và Bản chất của chế độ ta là hoàn toàn tốt đẹp”. Một
công trình khác của nhà nghiên cứu Thái Ninh - Hoàng Chí Bảo, trong cuốn “Dân
chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa”, xuất bản năm 1991. Tác giả chỉ ra bản chất
của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là “Một nền dân chủ khác hẳn với dân chủ tư sản
bởi dân chủ xã hội chủ nghĩa là dân chủ thuộc về số đông, hơn thế dân chủ còn là
kết quả của đấu tranh giai cấp và cải tạo xã hội do quần chúng nhân dân thực hiện
như một hành vi giải phóng để đạt đến tự do và trở thành tự do, các tác giả đã có sự
so sánh để thấy được tính ưu việt của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đối với Việt

Nam, tác giả cho rằng: “Dân chủ hóa trên các lĩnh vực ở Việt Nam là vấn đề cấp
bách. Nhưng dân chủ hóa muốn được đảm bảo cần phải có pháp luật tức dân chủ
hóa là thực hiện pháp luật dân chủ hóa đồng thời là pháp chế hóa xã hội.Qua nghiên
cứu của hai tác giả, họ đã so sánh hai nền dân chủ trên cơ sở tính chất của nền dân
chủ của hai thể chế. Tuy nhiên, những vấn đề nghiên cứu chưa đi sâu vào quá trình
thực hiện dân chủ của người dân tại cơ sở, tính chất cụ thể cho đối tượng thực hiện
chưa được thể hiện rõ về dân chủ cho mọi đối tượng trong dân chúng.
Bài viết của Hoàng Chí Bảo, “Dân chủ, đoàn kết và đồng thuận xã hội trong
phát triển biền vững”, Tạp chí Triết học số 7 năm 2008. Tác giả đã chỉ ra vai trò của
kinh tế trong quá trình thực thi dân chủ cũng như các mặt của đời sống xã hội.
Không chỉ thế, việc đồng thuận trong xã hội là cơ sở cho tính chặt chẽ trong sự liên
minh, liên kết giữa các tổ chức xã hội đồng thời là điều kiện cho quá trình thực hiện
dân chủ xã hội. Tuy nhiên, ông chưa chỉ ra cách thức, biện pháp để tạo nên sự đồng
thuận xã hội, vì đây là bài viết đứng trên cách tiếp cận lý luận là chủ yếu. Trong
cuốn “Mối quan hệ giữa dân chủ và văn hóa pháp luật” của Hoàng Chí Bảo - Tống
Đức Thảo, xuất bản năm 2011. Cuốn “Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, tác giả Nguyễn Văn Niên, xuất bản năm 1996.
Ngoài ra còn có cuốn “Phản biện xã hội và phát huy dân chủ pháp quyền” của Hồ
Bá Thâm - Nguyễn Tôn Thị Tường Vân, xuất bản năm 2009. Để thực thi quyền dân
chủ của nhân dân, trước hết cần phải thường xuyên xây dựng và hoàn thiện pháp
luật. Dân chủ phải đi đôi với pháp luật, không có dân chủ ngoài pháp luật. Tác giả
Hoàng Chí Bảo - Tống Đức Thảo đã khẳng định: Dân chủ và pháp luật luôn có mối
quan hệ mật thiết với nhau, tạo điều kiện cho nhau phát triển. Việc thực hiện dân
chủ phải dựa vào pháp luật và thông qua pháp luật. Để xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay trước hết đề cao vai trò và giá trị xã
hội của pháp luật làm cho nó giữ địa vị tối cao trong đời sống. Tác giả, Trần Ngọc
Liêu, trong cuốn “Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà nước với việc xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”. Tác giả đã chỉ rõ quyền lực của nhân
dân trong mối quan hệ với nhà nước và nhấn mạnh vai trò to lớn của nhân dân trong
việc thực thi quyền dân chủ của người dân. Để người người dân thực thi quyền làm
chủ của mình, phải xây dựng hoàn thiện bộ máy nhà nước và các thiết chế chính trị xã hội. Nhưng để thực thi quyền dân chủ của nhân dân phải thể chế hóa quyền lực

của nhân dân thành pháp luật. Trong bài viết “Xây dựng nhà nước pháp quyền và
vấn đề dân chủ hóa xã hội ở nước ta” của tác giả Lương Đình Hải, Tạp chí Triết học
số 01 năm 2006, đã nhấn mạnh vai trò của dân chủ hóa xã hội trong nhà nước pháp
quyền của dân, do dân và vì dân. Qua đây tác giả đã làm rõ cơ sở lý luận về nhà
nước pháp quyền để thực thi quyền dân chủ hóa xã hội. Tuy nhiên, bài viết chủ yếu
tập trung vào những vấn đề cơ bản nhất của nhà nước pháp quyền, vấn đề dân chủ
hóa, còn những cách thức để thực thi dân chủ hóa trong thực tiễn vẫn còn là vấn đề
đang đặt ra.
3


Trong cuốn “Đảng và các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị
Việt Nam hiện nay” của Nguyễn Hữu Đông, xuất bản năm 2009. Tác giả đã chỉ ra
những thành tựu và hạn chế của các tổ chức chính trị trong thực thi quyền lực của
mình, đồng thời đề cập đến những vấn đề đặt ra trong tổ chức và hoạt động của
đảng, các tổ chức chính trị - xã hội trong xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta.
Tác giả chỉ ra những định hướng về sự phát triển đối với các tổ chức chính trị - xã
hội trong nhà nước pháp quyền.
Để ổn định chính trị và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện
nay, trong bài “Sự thống nhất giữa ổn định chính trị và phát huy dân chủ xã hội chủ
nghĩa - cơ sở của đồng thuận xã hội và phát triển đất nước hiện nay” của Trần
Nguyên Việt, Tạp chí Triết học, số 02 năm 2008. Tác giả chỉ ra rằng; ổn định chính
trị trước hết là sự phản ánh các mối quan hệ xã hội giữa Đảng và các bộ phận cấu
thành khác của hệ thống chính trị. Với tư cách là đội tiên phong của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động, xuất phát từ nguyên tắc tổ chức cơ bản của đảng là tập
trung dân chủ nên sự lãnh đạo của đảng không phải là một chiều, mang tính áp đặt
hoặc độc đoán, chuyên quyền, mà luôn tiếp nhận sự tác động trở lại của đối tượng
lãnh đạo. Tuy nhiên, ở đây quyền dân chủ được đề cập chỉ mang tính hình thái, chưa
phản ánh đầy đủ nội dung dân chủ với những yếu tố được thừa nhận một cách rộng
rãi, mà dân chủ còn chung chung, chưa phải là cái phổ biến.

Liên quan đến vấn đề dân chủ hóa, trong bài viết “Toàn cầu hóa hiện nay và
vấn đề dân chủ hóa đời sống xã hội” của Nguyễn Trọng Chuẩn, Tạp chí Triết học số
01 năm 2006, đã cho rằng; toàn cầu hóa là xu thế khách quan, nó tác động mạnh đến
quá trình dân chủ hóa trong lĩnh vực tài chính và vốn đầu tư quốc tế. Qua bài viết tác
giả đã chỉ ra những yếu tố ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của xu thế toàn cầu hóa tới
đời sống của xã hội. Tuy nhiên, tác giả chỉ nhấn mạnh vấn đề kinh tế còn các vấn đề
như chính trị, văn hóa còn chưa được thể hiện rõ trong quá trình thực thi dân chủ
hóa đời sống ở nước ta. Bài viết của Philip Cam về “Toàn cầu hóa và dân chủ”, Tạp
chí Triết học, Số 02 năm 2006. Ông đã nhấn mạnh vấn đề chính trị - xã hội đang đặt
ra trước mắt và bàn về cách mà chúng ta có thể liên hệ với vấn đề kinh tế, tác giả đã
trình bày tiêu chuẩn đánh giá thái độ của người tham gia vào nền kinh tế toàn cầu
theo nghĩa là nguyên tắc cho sự chuyển đổi xã hội - chính trị dưới khẩu hiệu dân
chủ.
Thực hiện dân chủ là động lực để phát triển các mặt của đời sống của nhân
dân, trong bài viết “Quan điểm của Đảng về dân chủ và việc thực hiện dân chủ ở
nước ta hiện nay” của Mai Thị Qúy - Nguyễn Thị Chinh, Tạp chí Triết học, số
3(262) năm 2013. Với bài viết của mình, họ đã làm nổi bật một số nội dung cơ bản
về bản chất nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, quan điểm của Đảng ta về
dân chủ trong Văn kiện Đại hội XI, thực trạng về dân chủ và đề xuất một số giải
pháp nhằm phát huy dân chủ ở nước ta. Bên cạnh những thành tựu đạt được, các tác
giả còn chỉ ra một số hạn chế trong quá trình thực hiện dân chủ ở nước ta hiện nay
như: Quyền làm chủ của nhân dân ở một số nơi, trên một vài lĩnh vực còn bị vi
phạm, thực hành dân chủ còn mang tính hình thức, có tình trạng lợi dụng dân chủ
gây chia rẽ làm mất đoàn kết nội bộ, gây rối, ảnh hưởng đến an ninh trật tự xã hội.
Trong bài viết của Lê Thi “Thực hiện dân chủ ở cơ sở và vấn đề tăng cường ý thức
trách nhiệm của nhà nước”, Tạp chí Triết học, số 08 năm 2009, tác giả ra rằng;
Chính phủ tồn tại để phục vụ nhân dân, nhân dân là các công dân của nhà nước dân
chủ, chứ không phải là đối tượng của nhà nước. Khi nhà nước bảo vệ quyền của
công dân thì đáp lại, công dân trung thành với nhà nước của họ.
4



1.2. Các công trình nghiên cứu về thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở và thực
trạng thực hiện quy chế dân chủ trong các trƣờng đại học và cao đẳng
Bàn đến quy chế thực hiện dân chủ và vấn đề thực hiện quy chế dân chủ ở cơ
sở. Ban tổ chức - Cán bộ Chính phủ ban hành cuốn “Hướng dẫn triển khai quy chế
dân chủ cơ sở”, xuất bản năm 2001. Bằng tổng kết việc ban hành và triển khai quy
chế thực hiện dân chủ. Các tác giả chỉ ra những thành tựu đạt được trong quá trình
thực hiện dân chủ và nhấn mạnh; thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở đã tạo ra được
động lực mới thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Qua thực tiễn thực
hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, đã nảy sinh ra những hạn chế và yếu kém của việc
thực hiện quy chế dân chủ.
“Hướng dẫn thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở” là bài sưu tầm và tuyển chọn
của Luật gia Đào Thanh Hải, xuất bản năm 2001. Tác giả đã hệ thống các văn bản
hướng dẫn thực hiện quy chế dân chủ một cách đầy đủ, qua đó giúp mọi đối tượng
thực hiện dân chủ hình dung về hệ thống các văn bản pháp quy được ban hành của
các cấp từ Trung ương đến địa phương và lấy đây làm cơ sở cho các cấp, các ngành
vận dụng vào địa phương để thực hiện xây dựng quy chế dân chủ tại cơ sở.
Tác giả Nguyễn Cúc với cuốn “Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trong tình
hình hiện nay - một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, xuất bản năm 2002. Ông đã làm
sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn của việc thực hiện dân chủ ở cơ sở, đồng
thời kiến nghị một số giải pháp giúp đảng và nhà nước có luận cứ khoa học hoàn
thiện quy chế dân chủ ở các loại hình cơ sở và chỉ ra rằng; trong thời gian qua, việc
thực hiện quy chế dân chủ kết quả đạt được nhưng chưa vững chắc, triển khai thiếu
đồng đều ở các địa phương, khu vực chưa thường xuyên, liên tục, dân chủ hình thức
còn phổ biến. Lĩnh vực dân chủ về kinh tế chưa được triển khai sâu rộng. Dân chủ
trong cơ quan hành chính sự nghiệp và doanh nghiệp nhà nước chưa được thực hiện
mạnh mẽ. Cuốn “Dân chủ ở xã, phường, thị trấn với các quyền dân biết, dân bàn,
dân làm, dân kiểm tra” của Trung tâm nghiên cứu và hỗ trợ pháp lý, xuất bản năm
2003. Các tác giả đã chỉ ra những nguyên nhân khách quan của việc thực hiện quy

chế dân chủ ở xã, phường và thị trấn vẫn còn gặp nhiều khó khăn, không phải nơi
nào, lúc nào cũng thực hiện được; vẫn còn nhiều điều bức xúc trong nhân dân, tình
trạng khiếu kiện, tố cáo vẫn còn xuất hiện ở nhiều nơi.
TS. Đồng Văn Quân với cuốn “Thực hiện dân chủ ở các trường đại học nước
ta hiên nay”, xuất bản năm 2014. Tác giả đã khái quát một cách tổng thể việc thực
hiện trong các trường đại học ở nước ta hiện nay. Qua đó, nêu lên ý nghĩa đặc thù
của việc thực hiện dân chủ ở các trường đại học ở nước ta: Thứ nhất, thực hiện dân
chủ nhằm nâng cao khả năng tự chủ và tự chịu trách nhiệm của các nhà trường trước
xã hội. Thứ hai, nhằm phát huy vai trò lãnh đạo của tổ chức đảng, vai trò quản lý
của chính quyền, vai trò làm chủ của các đoàn thể quần chúng và từng cá nhân. Thứ
ba, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý và
nhà khoa học trong giảng dạy, nghiên cứu và đào tạo đội ngũ sinh viên và cuối cùng
là dân chủ nhằm nâng cao tính chủ động, sáng tạo, tính tự quản trong học tập và rèn
luyện của sinh viên. Trên cơ sở chỉ ra ý nghĩa của việc thực hiện dân chủ trong các
trường đại học và những thành tựu đạt được, ông chỉ ra nhiều hạn chế: Một là, nhận
thức về dân chủ chưa đầy đủ, còn mơ hồ, chung chung. Hai là, một bộ phận không
nhỏ cán bộ, giảng viên không biết về cuộc vận động dân chủ do ngành Giáo dục và
Đào tạo phát động năm 1999. Ba là, sự mơ hồ, về quy chế thực hiện dân chủ của cán
bộ, giảng viên. Đây là những hạn chế cơ bản nhất trong thực hiện dân chủ ở trong
các trường đại học và cao đẳng.
5


1.3. Các công trình nghiên cứu về phƣơng hƣớng và giải pháp thực hiện quy chế
dân chủ ở các trƣờng đại học và cao đẳng nói chung và ở Khánh Hòa nói riêng.
Bàn đến thực trạng và giải pháp thực hiện quy chế dân chủ, bài viết “Thực
hiện quy chế dân chủ gắn với việc xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở”, của tác giả
Phạm Gia Khiêm, Tạp chí Cộng Sản, số 09 năm 2004. Để thực hiện tốt quy chế dân
chủ ở cơ sở gắn với việc xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở, tác giả đưa ra các giải
pháp cơ bản. Thứ nhất; tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, triển khai Chỉ thị

30 của Bộ Chính trị. Thứ hai; cán bộ chính quyền nhất là người đứng đầu phải
gương mẫu thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Thứ ba; tiếp tục làm rõ hơn về lý
luận và thực tiễn việc xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Thứ tư; tập
trung làm rõ một số vấn đề trọng tâm ở xã, phường, cơ quan hành chính sự nghiệp
và doanh nghiệp nhà nước. Thứ năm; thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở phải đặt
dưới sự lãnh đạo của đảng. Thứ sáu; thực hiện phân công, phân cấp cho cơ sở, có
chính sách phù hợp để đủ sức thu hút, khuyến khích người có tài về công tác tại cơ
sở.
Nguyễn Thị Xuân Mai, Tạp chí Quản lý Giáo dục, số 11 năm 2004 với bài
viết “Thực hiện quy chế dân chủ ở trường học”. Tác giả Nguyễn Thanh Hùng với
bài “Thực hiện quy chế dân chủ ở các trường đại học và cao đẳng Hà Nội”, Tạp chí
Xây dựng Đảng, số 06 năm 2005. Các tác giả nhấn mạnh đến việc thực hiện quy chế
dân chủ ở cơ sở, trong đó ngành giáo dục là nội dung rất được quan tâm. Việc thực
hiện quy chế dân chủ trong giáo dục là nhu cầu để phát triển nguồn nhân lực cho đất
nước. Tác giả Nguyễn Xuân Hùng, Nguyễn Thị Xuân Mai đã trình bày thực trạng
việc ban hành các quy chế, quy định, quy ước để thực hiện dân chủ ở các trường và
cho rằng; tại các cơ sở giáo dục, đảng bộ nhà trường đã lãnh đạo chính quyền trong
việc xây dựng và hoàn thiện các văn bản có hệ thống trên cơ sở cụ thể hóa Chỉ thị
của Bộ Chính trị, Nghị định của Chính phủ và Quyết định của Bộ Giáo dục và Đào
tạo về thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Trong bài viết của hai tác giả đã làm nổi
bật thực trạng thực hiện quy chế dân chủ trong trường học. Trước hết về thành tựu:
Thứ nhất; các trường đã xây dựng được bộ quy chế, quy định và quy ước cho hoạt
động của các cơ quan giáo dục. Thứ hai; Hiệu trưởng các cơ sở giáo dục làm việc
theo nguyên tắc công khai mọi chủ trương và tiếp thu ý kiến của cán bộ, giáo viên,
học sinh và sinh viên. Thứ ba; cán bộ, giáo viên và người lao động được tham gia
bàn bạc, quyết định các vấn đề liên quan trực tiếp, có quyền góp ý, phê bình qua Hội
nghị Công nhân viên chức hàng năm. Từ những thành tựu và hạn chế trên, tác giả đã
đưa ra các giải pháp nhằm thực hiện quy chế dân chủ theo tình thần chung của quy
chế dân chủ cơ sở.
1.4. Những vấn đề đặt ra từ các công trình đi trƣớc luận án cần tiếp tục nghiên

cứu
Các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án đã cho thấy bức tranh
khá đầy đủ và toàn diện cả lý luận và thực tiễn về dân chủ cũng như thực hiện quy
chế dân chủ ở cơ sở hiện nay.
Nhiều nhà khoa học đã khẳng định: Thực hiện dân chủ là vấn đề có tầm quan
trọng đặc biệt trong sự phát triển của đất nước, là động lực phát triển kinh tế - xã
hội, khẳng định vai trò quyết định và sự cần thiết phải thực hiện dân chủ ở cơ sở và
quy chế dân chủ ở cơ sở. Một số công trình khẳng định, mỗi giai đoạn khác nhau
yêu cầu về thực hiện dân chủ đặt ra có sự khác nhau.
Nhiều công trình khác khẳng định tính tất yếu của việc thực hiện dân chủ để
đáp ứng nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ mới. Một số tác giả chỉ rõ bản chất,
mô hình của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, chỉ ra những hạn chế của
6


các nền dân chủ khác trong lịch sử, qua đó chỉ rõ yêu cầu thực hiện dân chủ trong
sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế
là đòi hỏi bức thiết, cần phải thực hiện dân chủ một cách rộng rãi, thực chất và
hiệu quả.
Vấn đề lý luận và thực tiễn về thực hiện dân chủ ở cơ sở cũng như quy chế dân
chủ ở cơ sở, những yêu cầu, định hướng và giải pháp, kiến nghị đổi mới nội dung,
hình thức về thực hiện dân chủ tại cơ sở nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng
trong thời kỳ mới được các công trình nghiên cứu đề cập và luận giải khá rõ theo đối
tượng, nhiệm vụ nghiên cứu của từng công trình.
Những vấn đề lý luận và thực tiễn về dân chủ, đặc biệt là thực hiện dân chủ cơ
sở, về quá trình thực hiện dân chủ được tác giả luận án kế thừa, sử dụng, vận dụng
và phát triển trong công trình nghiên cứu của mình. Đây là cơ sở giúp cho tác giả có
thêm cơ sở khoa học, các căn cứ lý luận - thực tiễn để luận giải và làm sáng tỏ các
nội dung nghiên cứu của đề tài luận án.
Tuy nhiên, do cách tiếp cận và phạm vi nghiên cứu của từng công trình, cho nên

nhiều nhà khoa học đã đi sâu vào việc nghiên cứu quy chế thực hiện dân chủ và quy
chế dân ở cơ sở, chủ yếu là ở đơn vị xã, phường, thị trấn. Đây là đơn vị chính quyền
cấp cơ sở đúng nghĩa của nó. Còn ở các cơ quan hành chính sự nghiệp và doanh
nghiệp nhà nước ít có công trình nghiên cứu chuyên biệt có hệ thống, toàn diện và
cụ thể về quy chế thực hiện dân chủ và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, nhất là
trong các trường đại học và cao đẳng nói chung và ở Khánh Hòa nói riêng hiện nay
là vấn đề cần phải được tiếp tục nghiên cứu.
Nhiều công trình nghiên cứu về quy chế thực hiện dân chủ và thực hiện quy chế
dân chủ ở cơ sở chưa thực sự chi tiết hoá các cách thức thực hành dân chủ của từng
địa phương, cũng như không thể lấy mô hình thực hiện của địa phương này đem áp
đặt nó cho địa phương hoặc cơ quan khác. Đây là cơ hội để tác giả có thêm cơ sở lý
luận và thực tiễn để tiếp tục nghiên cứu mức độ làm chủ của cán bộ, giảng viên và
sinh viên trong điều kiện hiện nay ở các trường đại học và cao đẳng trên địa bàn tỉnh
Khánh Hòa.
Khoảng trống về mặt lý luận, đặc biệt là về mặt thực tiễn này, cũng như tầm
quan trọng của vấn đề nghiên cứu trong bối cảnh mới đã đặt ra một cách cấp thiết và
thôi thúc tác giả lựa chọn vấn đề: “Thực hiện quy chế dân chủ ở các trường đại
học và cao đẳng trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa trong giai đoạn hiện nay” làm đề
tài nghiên cứu của luận án.
Chƣơng 2
KHÁI LUẬN VỀ QUY CHẾ DÂN CHỦ VÀ THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN
CHỦ TRONG CÁC TRƢỜNG ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG
2.1. Dân chủ và bản chất của dân chủ
2.1.1. Các tiếp cận về dân chủ
Dân chủ là phạm trù lịch sử, đồng thời là phạm trù chính trị, dân chủ là một
hình thức tổ chức thiết chế chính trị của xã hội, trong đó thừa nhận, nhân dân là
nguồn gốc của quyền lực, thông qua một hệ thống bầu cử tự do. Thuật ngữ này xuất
hiện đầu tiên tại Hy Lạp. Mặc dù thuật ngữ dân chủ có nguồn gốc từ Hy Lạp, nhưng
các nền văn hóa khác cũng có đóng góp đáng kể vào quá trình phát triển của tư
tưởng dân chủ như Ấn Độ cổ đại, La Mã cổ đại, châu Âu, và Nam Bắc Mỹ nhưng kể

từ khi hệ tư tưởng Mác - Lênin ra đời, khái niệm dân chủ đã dần hoàn thiện và mang
tính cách mạng, khoa học. Theo từ điển bách khoa Việt Nam định nghĩa: Dân chủ là
“Hình thức tổ chức thiết chế chính trị của xã hội dựa trên việc thừa nhận nhân dân là
7


nguồn gốc của quyền lực, thừa nhận nguyên tắc bình đẳng và tự do. Dân chủ cũng
được vận dụng vào tổ chức và hoạt động của những tổ chức và thiết chế nhất định”.
Như vậy, khái niệm dân chủ đã thể hiện quyền lực chính trị của nhà nước, là thành
quả của đấu tranh giai cấp và cải tạo xã hội do quần chúng nhân dân thực hiện như
một hành vi giải phóng để đạt tới tự do và trở thành tự do.
2.1.2. Bản chất của dân chủ
Dân chủ và thực hiện dân chủ là nhu cầu khách quan của con người. Ngay từ xã
hội cộng sản nguyên thủy, để duy trì sự tồn tại của mình, con người đã biết tự tổ chức
ra những hoạt động có tính cộng đồng, các thành viên công xã đều bình đẳng tham gia
vào mọi công việc của xã hội. Việc cử ra những người đứng đầu các cộng đồng và phế
bỏ những người đứng đầu nếu không thực thi đúng những quy định chung được giao
cho mọi thành viên công xã quyết định thông qua đại hội nhân dân. Đây được coi là
hình thức dân chủ sơ khai, chất phác của những tổ chức cộng đồng tự quản trong xã hội
chưa có giai cấp. Khi xã hội có giai cấp và bất bình đẳng trong xã hội diễn ra, các hình
thức tự quản trong xã hội trước đây không còn phù hợp. Cho nên, xã hội cần đến những
tổ chức chính trị và những công cụ bạo lực, cưỡng bức để điều chỉnh hoạt động của xã
hội. Trong điều kiện như vậy, một tổ chức đặc biệt ra đời, đó là nhà nước. Trong nhà
nước chiếm hữu nô lệ, giai cấp chủ nô đã lập ra cơ quan quyền lực nhằm trước hết bảo
vệ lợi ích của mình và sau đó là ổn định trật tự xã hội. Cơ quan quyền lực đó chính là
nhà nước dân chủ đối với chủ nô, thực hiện sự thống trị của thiểu số đối với đại đa số
những người lao động. Xuất phát từ quan điểm “dân chủ là quyền lực của nhân dân”
hay dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân, chủ nghĩa Mác - Lênin đã kế thừa những
nhân tố hợp lý trong hoạt động thực tiễn và nhận thức của nhân dân về dân chủ. Cho
nên, khi xã hội có giai cấp và nhà nước, tức là một chế độ dân chủ thể hiện chủ yếu qua

nhà nước thì khi đó không có “dân chủ chung chung, phi giai cấp, dân chủ thuần túy”.
2.2. Quy chế dân chủ, quy chế thực hiện dân chủ và thực hiện quy chế dân chủ
ở cơ sở
2.2.1.Quy chế dân chủ và nội dung quy chế dân chủ cơ sở
Dân chủ là một trong những hình thức của chính quyền, với đặc trưng cơ bản
nhất là việc tuyên bố chính thức nguyên tắc thiểu số phục từng đa số và thừa nhận
quyền tự do, bình đẳng của con người. Vì vậy, để thực hiện được quyền dân chủ của
nhân dân cần phải có quy định và quy chế dân chủ cho mỗi đối tượng thực hiện.
Xuất phát từ ý nghĩa như vậy, trước hết cần phải được hiểu thế nào là quy chế. Theo
từ điển Tiếng Việt “Quy chế là những điều được quy định thành chế độ để mọi
người theo đó mà thực hiện trong những hoạt động nhất định nào đó”. Với nội hàm
của quy chế, chúng ta có thể hiểu: Quy chế dân chủ cơ sở là những văn bản có tính
pháp lý, yêu cầu mọi người, mọi tổ chức đều phải nghiêm chỉnh thực hiện những
điều quy định về quyền dân chủ và phát huy quyền tự do, bình đẳng của nhân dân,
để nhân dân theo đó mà thực hiện trong những hoạt động của mình ở cơ sở. Như
vậy, Quy chế dân chủ cơ sở được hiểu là một định chế để đảm bảo quyền làm chủ
của nhân dân ở cơ sở.
Sự cần thiết ban hành quy chế dân chủ ở cơ sở là nhu cầu cấp thiết, vì cơ sở là
nơi đông đảo nhân dân đang sinh sống và làm việc. Nói cách khác nhân dân ở đây là
những người lao động ở xã, phường, thị trấn. Những người làm việc trong các cơ
quan hành chính sự nghiệp và trong các doanh nghiệp nhà nước. Sự cần thiết ban
hành quy chế dân chủ ở cơ sở là nhu cầu cấp thiết, vì cơ sở là nơi đông đảo nhân dân
(công nhân, nông dân cán bộ, công chức, viên chức và các thành phần lao động
khác) đang sinh sống và làm việc. Chính cơ sở là nơi mà mọi hoạt động lao động
đang diễn ra trực tiếp, đồng thời là nơi nảy sinh những mâu thuẫn, những bức xúc
8


hàng ngày và cơ sở cũng là nơi trực tiếp thực hiện mọi chủ trương, chính sách của
đảng và nhà nước. Đó là sự kiện điển hình ở xã Quỳnh Ho, huyện Quỳnh phụ, tỉnh

Thái Bình vào năm 1997, một số cán bộ địa phương thoái hóa, biến chất, lợi dụng
quyền tự do, dân chủ, xâm phạm tới lợi ích của nhà nước và của nhân dân. Câu
chuyện về nơi đã xảy ra những cuộc khiếu kiện tập thể đông người, kéo dài nhiều
ngày của nông dân ở hầu hết các làng xã của tỉnh. Sự cộng hưởng trong dân chúng là
hành động thức tỉnh của nhân dân địa phương, họ đòi quyền thực hiện dân chủ, đấu
tranh chống quan liêu, tham nhũng. Mặc dù sự kiện đó đã dẫn tới những điểm nóng
chính trị - xã hội, dù nó có gây bất ổn nhưng chỉ mang tính tạm thời, song nó đã trực
tiếp đóng góp tiếng chuông cảnh tỉnh cho thể chế cơ sở và thể chế xã hội nói chung
và đây là bài học kinh nghiệm cho sự lãnh đạo của Đảng và vai trò quản lý của Nhà
nước. Nguyên nhân chủ yếu dẫn tới tình trạng trên đó là do cục bộ, kèn cựa địa vị,
buông lỏng quản lý đất đai, quản lý tài chính, quan liêu, hách dịch. Qua sự kiện này
cho thấy; quyền dân chủ của nhiều cơ quan nhà nước chưa được phát huy cao độ,
chưa có một cơ chế dân chủ để kiểm soát và thực thi quyền dân chủ của nhân dân.
Vì vậy, cần phải có quy chế dân chủ cơ sở, cần phải xác lập mối quan hệ giữa người
dân và chính quyền. Có thể hiểu: Quy chế dân chủ cơ sở là những văn bản quy
phạm pháp luật để mỗi người dân quán triệt và thực hiện. Đồng thời các văn bản
phải phù hợp với mỗi loại hình cơ sở. Chỉ thị số 30 - CT/TW ngày 18/2/1998 của Bộ
chính trị về “Xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở” là một văn bản quy
phạm pháp luật cho loại hình ở cơ sở trực tiếp nhằm phát huy quyền dân chủ ở cơ
sở, nội dung chỉ thị nổi bật những vấn đề sau:
Dân biết: Quy định quyền của mọi người dân được biết thông tin về những
chủ trương của đảng, chính sách pháp luật của nhà nước và các vấn đề liên quan trực
tiếp đến đời sống hàng ngày của nhân dân tại cơ sở.
Dân bàn: Thứ nhất; là những công việc do nhân dân bàn và quyết định trực tiếp.
Đây là công việc huy động sự đóng góp của nhân dân để xây dựng cơ sở hạ tầng và xây
dựng hương ước, quy ước nội bộ. Thứ hai; những công việc do nhân dân bàn và tham gia
ý kiến, Hội đồng Nhân dân và Ủy ban Nhân dân xã quyết định.
Dân giám sát, kiểm tra: Quy chế dân giám sát, kiểm tra các loại công việc từ
những hoạt động của Hội đồng nhân dân đến các việc giải quyết khiếu nại, tố cáo
của công dân, kết qủa quyết toán những công trình do nhân dân đóng góp và việc sử

dụng, quản lý đất đai, thu, chi các quỹ, việc thực hiện chính sách đối với người có
công. Quy chế dân chủ ở cơ sở là điểm xuất phát trong quá trình thực hiện dân chủ,
dân chủ phải bắt đầu từ cơ sở.
2.2.2. Quy chế thực hiện dân chủ và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở
Ở ngay cơ sở, nơi trực tiếp thực hiện mọi chủ trương chính sách của Đảng và
Nhà nước, là nơi nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình một cách trực tiếp và
rộng rãi nhất. Để phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở. Cho nên, cần phải
ban hành hành quy chế dân chủ ở cơ sở là việc làm cần thiết và cấp bách. Chúng ta
có thể hiểu: Quy chế thực hiện dân chủ cơ sở là những văn bản có tính pháp lý do
cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành, yêu cầu mọi người, mọi tổ chức ở cơ sở
đều phải nghiêm chỉnh thực hiện và được xây dựng phù hợp với đặc điểm cho từng
loại cơ sở. Để đẩy mạnh quá trình dân chủ hóa trong xã hội, trong thời gian qua,
dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước ta đã tiến hành thể chế hóa Chỉ thị 30-CT/TW
của Bộ Chính trị và tiến hành ban hành các quy chế thực hiện dân chủ cho từng loại
hình cơ sở:
Thứ nhất: Quy chế thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn (ban hành kèm
theo Nghị quyết số 29-NĐ/CP, ngày 11 tháng 5 năm 1998), gồm 7 chương, 25 điều.
9


Quy chế quy định: Những việc dân được biết; có 14 việc. Những việc dân được bàn
và ra quyết định trực tiếp; có 6 việc. Những việc dân được giám sát và kiểm tra, có
10 việc:
Thứ hai: Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan (ban hành
kèm theo Nghị định số 71-NĐ/CP, ngày 08 tháng 09 năm 1998). Bao gồm: Những
việc cán bộ, công chức phải được biết. Những việc cán bộ, công chức tham gia ý
kiến. Những việc cán bộ, công chức giám sát, kiểm tra.
Thứ ba: Quy chế thực hiện dân chủ ở doanh nghiệp nhà nước (ban hành kèm
theo Nghị định số 07/1999/NĐ-CP, ngày 13 tháng 02 năm 1999).Bao gồm: Những
việc Hội đồng quản trị, Giám đốc phải công khai ở doanh nghiệp nhà nước. Những

việc người lao động tham gia ý kiến trước khi Hội đồng quản trị, Giám đốc doanh
nghiệp quyết định, những việc người lao động quyết định và người lao động có
quyền giám sát, kiểm tra
Tác dụng của thực hiện quy chế dân chủ cơ sở: Thứ nhất: Sự quan tâm của
người thực hiện tới quy chế dân chủ ở cơ sở. Thứ hai: Thông qua quy chế để hoàn
thiện việc xây dựng chính quyền nói chung và cải cách thủ tục hành chính nói riêng.
Thứ ba: Thực hiện quy chế nói chung và quy chế dân chủ ở cơ sở nói riêng, là động
lực cho việc xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở đã
thực sự có tác dụng ở chỗ là làm tăng sức mạnh của tổ chức đảng ở cơ sở, tăng sức
chiến đấu, tiên phong và gương mẫu của mỗi đảng viên ở cơ sở. Thứ tư: Đối với
Chính quyền và các đoàn thể trong việc thực hiện quy chế và giám sát quy chế dân
chủ ở cơ sở.
Trong nhiều năm qua, việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở vẫn còn một số
hạn chế: Một là; chúng ta đang trong quá trình thực hiện dân chủ. Hai là; đất nước
đang từng bước xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì
dân. Hệ thống luật pháp chưa chặt chẽ, chưa thực sự đảm bảo quyền làm chủ nhân
dân. Ba là; Trình độ cán bộ quản lý nhà nước phần nhiều còn yếu kém về năng lực
chuyên môn và năng lực thực hành, nhất là cấp cơ sở.
2.3. Quy chế thực hiện dân chủ và thực hiện quy chế dân chủ trong các trƣờng đại
học, cao đẳng
2.3.1. Sự cần thiết thực hiện quy chế dân chủ trong nhà trường
Thực hiện quy chế dân chủ trong nhà trường là một yêu cầu khách quan, tức là
xác lập quyền dân chủ trong giáo dục. Ý nghĩa của việc thực hiện quy chế dân chủ
nhà trường là: Thứ nhất; nhằm thực hiện tốt nhất, có hiệu quả nhất những điều Luật
Giáo dục quy định với phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra"
trong mọi hoạt động của nhà trường thông qua các hình thức dân chủ trực tiếp, dân
chủ đại diện. Thứ hai; phát huy quyền làm chủ và huy động tiềm năng trí tuệ của
hiệu trưởng, nhà giáo, người học, đội ngũ cán bộ, công chức trong nhà trường theo
luật định, góp phần xây dựng nề nếp, trật tự, kỷ cương trong mọi hoạt động của nhà
trường, ngăn chặn các hiện tượng tiêu cực và tệ nạn xã hội, thực hiện nhiệm vụ phát

triển giáo dục phù hợp với đường lối, chủ trương của Đảng và luật pháp của Nhà
nước. Thứ ba; là điều kiện để phát triển lực lượng sản xuất cho xã hội, phục vụ cho
sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước.
2.3.2. Nội dung thực hiện quy chế dân chủ và thực hiện quy chế thực hiện dân
chủ trong nhà trường
Chị thị số 30 CT/TW ngày 18/2/1998 của Bộ chính trị về “Xây dựng và thực hiện
quy chế dân chủ ở cơ sở”. Nghị định số 71/1998/NĐ - CP của Chính phủ, ngày 8 tháng
09 năm 1998 về việc “Ban hành quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ
quan”. Quyết định, Số 04/2000/QĐ-BGDĐT, ngày 01/03/2000 về việc “Ban hành quy
10


chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của nhà trường”... là những văn bản chính trị pháp lý để nhân dân thực hiện quyền lực của mình trong quá trình thực hiện quyền và
nghĩa vụ của công dân, theo tinh thần “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”
trong các cơ quan hành chính đơn vị sự nghiệp.
Để thực hiện tốt việc thực hiện dân chủ trong nhà trường, các trường trong cả
nước tiến hành thể chế hóa các nghị định, quyết định của Chính phủ và Bộ Giáo dục
và Đào tạo. Từ đó ban hành các quy chế, quy định để thực hiện dân chủ cho toàn thể
cán bộ, công chức thực hiện.
Cũng như các quy chế thực hiện dân chủ ở các cơ sở khác, những quy chế, quy
định nhằm thực hiện dân chủ trong hoạt động của nhà trường là loại văn bản quy
phạm pháp luật do các trường ban hành, có hiệu lực bắt buộc đối với cán bộ, công
chức, học sinh và sinh viên, là công cụ chỉ dẫn, đồng thời là cơ sở pháp lý để giám sát,
kiểm tra đối với những đối tượng thuộc quyền quản lý trong trường học. Như vậy
chúng ta có thể hiểu: Thực hiện quy chế dân chủ trong các trường đại học và cao
đẳng là quá trình Thực hiện dân chủ, phát huy quyền làm chủ nhằm huy động tiềm
năng trí tuệ của hiệu trưởng, nhà giáo, người học, đội ngũ cán bộ, công chức theo
luật định, góp phần xây dựng nề nếp, trật tự, kỷ cương trong mọi hoạt động của
trường đại học và cao đẳng, ngăn chặn các hiện tượng tiêu cực và tệ nạn xã hội,
thực hiện nhiệm vụ phát triển giáo dục phù hợp với đường lối, chủ trương của Đảng

và luật pháp Nhà nước.
Qua đây có thể tập hợp được trí tuệ của đội ngũ cán bộ, giảng viên, sinh
viên trong hoạt động nâng cao chất lượng giáo dục. Thực hiện quy chế dân chủ
trong các trường đại học và cao đẳng nhằm phát huy cao độ tinh thần làm chủ tập
thể của cán bộ, giáo viên, sinh viên và người lao động với phương châm “Dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.
Thứ nhất: Nhà giáo và người học được biết và tham gia ý kiến. Những chủ
trương, chính sách, chế độ của đảng, nhà nước và của ngành đối với nhà giáo, cán
bộ công chức, học sinh và sinh viên. Thứ hai: Những quy định về sử dụng tài sản,
xây dựng cơ sở vật chất nhà trường. Các khoản đóng góp của người học và kế hoạch
thu, chi, quyết toán. Thứ ba: Các chế độ, quyền lợi về đời sống vật chất, tinh thần
nhà giáo, cán bộ, công chức và cho người học. Thứ tư: Những thông tin về tuyển
dụng, nâng ngạch công chức, thuyên chuyển, điều động, đề bạt, khen thưởng, kỷ
luật. Kế hoạch tuyển sinh, quy chế thi từng năm, những thông tin liên quan đến học
tập, rèn luyện và các khoản đóng góp của người học. Thứ năm: Các chủ trương, kế
hoạch tổ chức cho người học được phấn đấu trở thành đảng viên. Đồng thời người
học được tham gia ý kiến về nội quy, quy định của nhà trường và tổ chức phong trào
thi đua có liên quan đến người học.
Hiện nay, các trường đại học và cao đẳng đã thực hiện nghiêm túc các quy
định về thực hiện quy chế dân chủ đã tiến hành thể chế hóa các chỉ thị, quyết định,
nghị định của Chính phủ, Bộ, Ngành và ban hành nhiều quy chế cho hoạt động của
cơ quan trường học nhằm thực hiện vai trò làm chủ của các chủ thể trong các trường
đại học và cao đẳng và bước đầu các trường đại học và cao đẳng ở nước ta đã đạt
được những thành tựu quan trọng: Thứ nhất: Các quy chế, quy định về thực hiện
quyền làm chủ của cán bộ, giảng viên và sinh viên đã từng bước được ban hành và
thực hiện. Thứ hai: Về nhận thức đã có bước tiến to lớn trong đời sống cán bộ, giảng
viên và sinh viên. Thứ ba: Về đào tạo và nghiên cứu khoa học; nhà trường đã có
những cơ chế, chính sách cho cán bộ, giảng viên và sinh viên của nhà trường được
tham gia một cách tự chủ. Thứ tư: Về quản lý sinh viên; việc quản lý sinh viên trong
thời gian qua cũng đạt được nhiều thành tựu quan trọng, phát huy được quyền dân

11


chủ của sinh viên.Thứ năm: Về công tác chỉ đạo và quản lý trong nhà trường. Trong
thời gian qua đảng bộ của các trường đại học và cao đẳng luôn làm tốt chức năng
lãnh đạo, kiểm tra, giám sát các hoạt động của nhà trường trên tinh thần dân chủ,
đảm bảo đúng nguyên tắc lãnh đạo của đảng.
Kết luận chƣơng 2
Sự ra đời của tư tưởng dân chủ là một bước nhảy vọt, mang tầm ý nghĩa rất
quan trọng của xã hội loài người. Kể từ khi dân chủ ra đời cùng với những thiết chế
dân chủ của xã hội, nó đã giúp cho con người có được quyền tự do, bình đẳng trong
khuôn khổ của chế độ xã hội qua từng thời kỳ lịch sử. Nghiên cứu về dân chủ, tức là
nghiên cứu vấn đề chính trị có tính quy luật trong tiến trình của lịch sử xã hội loài
người. Đồng thời qua đó cho chúng ta thấy rằng dân chủ là phạm trù chính trị và là
phạm trù lịch sử. Nhưng dân chủ không dừng lại ở đó mà dân chủ ngày nay còn
mang cả giá trị nhân đạo và nhân văn cao cả. Đây là sự phản ánh những chuẩn mực
chính trị, là thước đo trình độ phát triển của tư tưởng chính trị của xã hội qua các
giai đoạn lịch sử khác nhau.
Để thực hiện quyền dân chủ, việc ban hành và xây dựng quy chế dân chủ của
Đảng ta là một bước tiến trong quá trình lãnh đạo cách mạng. Quy chế dân chủ ở cơ
sở ra đời đã được thực hiện trong cả nước, là bước đột phá trên lộ trình mở rộng và
phát huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện đã có
nhiều vấn đề đặt ra cần phải được bổ sung, điều chỉnh tại các loại hình cơ sở cho phù
hợp với điều kiện thực tiễn.
Thực hiện dân chủ trong nhà trường, cần phải có quy chế thực hiện dân chủ.
Việc các cơ sở trường học ban hành các quy định và quy chế thực hiện dân chủ là
yêu cầu bắt buộc nhằm thực hiện vai trò làm chủ của người lao động và người học
tại cơ sở trên tinh thần dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra và dân được thụ
hưởng từ thành quả của việc ban hành quy chế dân chủ ở cơ sở và bằng chính năng
lực thực hiện dân chủ của người dân tại cơ sở.

Chƣơng 3
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ TRONG CÁC TRƢỜNG ĐẠI
HỌC, CAO ĐẲNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH KHÁNH HÕA
3.1. Tình hình ban hành các văn bản liên quan tới việc thực hiện dân chủ trong
các trƣờng đại học, cao đẳng ở Khánh Hòa
3.1.1. Tình hình ban hành các văn bản liên quan
Khánh Hòa là một trung tâm kinh tế - chính trị của khu vực Nam Trung Bộ, là
nơi tập trung nhiều trường đại học và cao đẳng nhất của khu vực Nam Trung Bộ.
Báo cáo dự thảo Nghị quyết đại hội lần thứ XVIII của Đảng bộ tỉnh Khánh Hòa, tính
đến tháng 5 năm 2015, cả tỉnh có 13 trường đại học và cao đẳng (7 trường đại học
và 6 trường cao đẳng), trong đó 1 trường đại học ngoài công lập và 12 trường đại
học và trường cao đẳng công lập. Theo quy luật phát triển, nơi nào trình độ dân trí
cao thì việc thực hiện dân chủ diễn ra như một quá trình tự nhiên, tất yếu. Nó không
chỉ là mục tiêu mà còn là phương pháp, là công cụ không thể thiếu để tiếp tục phát
triển. Từ đó các trường đại học và cao đẳng của tỉnh tiến hành ban hành các quy chế,
quy định và quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động nhà trường để mọi đối tượng
thực hiện quyền dân chủ của mình. Các văn bản pháp quy của nhà trường được ban
hành và hầu hết các trường đều có những quy chế, quy định theo bảng tổng hợp sau:
CÁC QUY CHẾ, QUY ĐỊNH ĐƢỢC BAN HÀNH CỦA CÁC
TRƢỜNG ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG TỪ NĂM 2012-2015
NỘI DUNG QUY CHẾ, QUY (1) (2)
(3)
(4) (5) (6) (7)
12


ĐỊNH
Quy chế thực hiện dân chủ
C
K

K
C
C
K
K
trong nhà trường
Quy chế tuyển dụng viên chức
C
C
C
C
C
C
C
và hợp đồng lao động
Quy chế sử dụng và quản lý công
C
C
C
C
C
C
C
chức
Quy định về chế độ làm việc
C
C
K
K
K

K
K
của giảng viên và công chức
Quy chế nâng ngạch, chuyển
C
C
C
C
C
C
C
ngạch viên chức
Quy chế nâng bậc lương trước
C
C
C
C
C
C
C
thời hạn
Quy chế thi đua, khen thưởng C
C
C
C
C
C
C
Quy định về chức năng nhiệm
C

C
C
C
C
C
C
vụ của Phòng, Ban, Trung tâm
Quy định về chức năng nhiệm
C
C
C
C
C
C
C
vụ của Khoa, Bộ môn
Quy chế Đào tạo
C
C
C
C
C
C
C
Quy chế thi và kiểm tra
C
C
C
C
C

C
C
Quy chế Đào tạo sau đại học
C
K
K
K
K
K
K
Quy chế sinh viên
C
C
C
C
C
C
C
Quy chế về hợp tác quốc tế
C
K
C
C
C
C
C
Quy chế thực hiện công khai
C
K
C

C
K
C
K
Quy chế văn hóa
K
K
C
C
C
C
C
Quy chế bảo vệ bí mật
C
C
C
C
C
C
C
Quy chế về công tác văn thư,
C
K
C
C
C
C
C
lưu trữ
Quy chế về chi trả phụ cấp

K
K
K
K
K
C
K
định mức độc hại
Quy chế chi tiêu nội bộ
C
C
C
K
K
K
C
Quy chế quản lý tài sản
C
C
C
C
C
C
C
(1). Đại học Nha Trang. (2). Đại học Thái Bình Dương. (3). Cao Đẳng Văn Hóa Du
lịch. (4). Cao đẳng Mẫu giáo Trung ương II. (5). Cao đẳng Sư phạm
(6). Cao đẳng Y tế. (7). Cao đẳng Nghề. (C). Có, (K). Không
3.1.2. Kết quả của việc ban hành các văn bản liên quan
3.2. Kết quả thực hiện quy chế dân chủ và quy chế thực hiện dân chủ trong các
trƣờng đại học và cao đẳng ở Khánh Hòa trong thời gian qua

3.2.1. Thành tựu và hạn chế của việc thực hiện quy chế dân chủ và quy chế thực
hiện dân chủ
3.2.1.1. Thành tựu và nguyên nhân của những thành tựu
a. Thành tựu:
Thực hiện Nghị quyết của Đảng bộ tỉnh Khánh Hòa lần thứ XVI nhiệm kỳ
2010-2015 về giáo dục và đào tạo, nhằm mục đích đầu tư cho tăng trưởng và phát
triển kinh tế của tỉnh. Vì vậy, quan điểm của Đảng bộ tỉnh Khánh Hòa là; đa dạng
hóa các loại hình giáo dục, đào tạo, tiếp tục phát triển quy mô giáo dục là việc làm
cấp bách. Nghị quyết khẳng định “Tăng cường đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực để đáp ứng yêu cầu phát triển của các ngành, các lĩnh vực. Củng cố và phát
13


triển mạng lưới các cơ sở dạy nghề, đại học và cao đẳng, trung học chuyên nghiệp
trên địa bàn”. Dưới sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Khánh Hòa, trên cơ sở Quyết định
04/2000/QĐ-BGD&ĐT về “Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động nhà
trường”. Vì vậy, các trường đại học và cao đẳng của tỉnh bước đầu đã thể chế hóa
các văn bản các cấp và thực hiện quy chế dân chủ trong từng cơ sở trường học, từng
bước đã đạt được hiệu quả, thiết thực ở các trường. Sau khi các trường được ban
hành các quy định, quy chế, lãnh đạo các cấp tiến hành phổ biến và tuyên truyền
rộng rãi cho toàn thể cán bộ, giảng viên và sinh viên của trường về những nội dung
trong quy định, quy chế.
Thực hiện quy chế dân chủ có hiệu quả, trước hết là các trường thường xuyên
phổ biến và tuyên truyền các văn bản của nhà nước, ngành về thực hiện quy chế dân
chủ. Điều này ở các trường đã đạt được hiệu quả cao, đặc biệt là trong việc phổ biến
các văn bản của bộ và ngành. Khi được hỏi: Ông, (bà) có được nhà trường phổ biến
về Quyết định 04/2000/QĐ-BGD&ĐT về “Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt
động của nhà trường” không? Có 305/450 người trả lời được biết, chiếm 67,8%.
Còn lại 145/450 người trả lời không biết, chiếm 32,2%. Như vậy, việc phổ biến
quyết định của Bộ Giáo dục và Đào tạo về thực hiện quy chế dân chủ trong hoạt

động của nhà trường, bước đầu đã được nhiều người biết đến và quan tâm. Tuy
nhiên, vẫn còn khá nhiều người không biết, lý do cơ bản đó là ít quan tâm đến vấn
đề chung của nhà trường, hoặc không muốn biết, nếu biết thì họ thờ ơ trước thực tế
của nhà trường.
Khi phân tích thực trạng và giải pháp thực hiện quy chế dân chủ trong các trường
đại học và cao đẳng trên đia bàn tỉnh Khánh Hòa, tác giả tiến hành khảo sát ở 2 trường
đại học và 5 trường cao đẳng, tổng số 450 phiếu của cán bộ, 280 phiếu sinh viên bao
gồm: Đối với phiếu cán bộ; Đại học Nha Trang 157 phiếu, chiếm 34,8%. Đại học Thái
Bình Dương 68 phiếu, chiếm 15,2%. Cao đẳng Sư phạm Nha Trang 45 phiếu, chiếm
10%. Cao đẳng Văn hóa du lịch Nha Trang 45 phiếu, chiếm 10%, Cao đẳng Mẫu giáo
Trung ương 2 Nha Trang 45 phiếu, chiếm 10%, Cao đẳng Y tế Nha Trang 45 phiếu,
chiếm 10%, Cao đẳng Nghề Nha Trang 45 phiếu, chiếm 10%. Tổng số phiếu của sinh
viên được phân bổ như sau; Đại học Nha Trang 98 phiếu, chiếm 35%. Đại học Thái
Bình Dương 42 phiếu, chiếm 15%. Cao đẳng Sư phạm Nha Trang 28 phiếu, chiếm
10%. Cao đẳng Văn hóa Du lịch Nha Trang 28 phiếu, chiếm 10%, Cao đẳng Mẫu giáo
Trung ương 2 Nha Trang 28 phiếu, chiếm 10%, Cao đẳng Y tế Nha Trang 28 phiếu,
chiếm 10%, Cao đẳng Nghề Nha Trang 28 phiếu, chiếm 10%. Tỷ lệ giới tính, Nam
67%, Nữ 33%. Độ tuổi từ 18-40, chiếm 61,2%, từ 40-60, chiếm 38,8%. Giảng viên
54,5%, chuyên viên 46,5%. Đảng viên 10%, không Đảng viên 90%. Lãnh đạo từ các
cấp 5%, không lãnh đạo 95%.
Để có cơ sở dữ liệu tác giả thực hiện phương pháp điều tra mẫu thuận tiện với
5 yếu tố tác động. Dân chủ trong đào tạo và nghiên cứu khoa học. Quản lý tài sản.
Tổ chức, quản lý cán bộ và giảng viên. Hệ thống chính trị. Công tác sinh viên của
nhà trường. Câu hỏi khảo sát được đặt trong mỗi tương quan: Cán bộ lãnh đạo - toàn
thể cán bộ, giảng viên và sinh viên. Giảng viên - sinh viên. Phòng, ban, khoa - sinh
viên
Thứ nhất: Những việc nhà giáo, cán bộ, công chức được biết, tham gia ý
kiến, giám sát kiểm tra thông qua hình thức dân chủ trực tiếp hoặc thông qua các
tổ chức, đoàn thể trong nhà trường
- Trong lĩnh vực đào tạo và nghiên cứu khoa học: Các trường thường xuyên

phổ biến các văn bản, các quy chế thi và kiểm tra, Quy chế đào tạo cao đẳng và đại
học. Hỗ trợ, bồi hoàn kinh phí đào tạo cán bộ. Quản lý và sử dụng hóa chất. Thi
14


và kiểm tra. Đào tạo sau đại học. Hợp tác quốc tế trong đào tạo. Quy định về đăng
ký và xét duyệt đề tài. Từ những quy chế này, cán bộ công chức đều thực hiện
nghiêm túc và mức độ được biết thông tin của cán bộ, giảng viên, sinh viên ngày
càng nhiều, tính chất dân chủ được mở rộng, kịp thời về mọi thông tin hoạt động của
nhà trường. Khi được hỏi những thông tin về hoạt động của nhà trường, số người
được biết thông tin 342 phiếu, chiếm 76%. Số người không biết thông tin có 99
phiếu, chiếm 22% và số người không trả lời là 9 phiếu, chiếm 2%. Tuy nhiên, mức
độ biết thông tin về nhà trường lại còn quá ít so với tỷ lệ cán bộ, giảng viên và sinh
viên của nhà trường, số người trả lời ở mức độ biết thông tin rất nhiều có 45 phiếu,
chiếm 10%, số người trả lời ở mức độ nhiều 81 phiếu, chiếm 18%, còn lại trả lời ở
mức độ bình thường là 234, chiếm 52%. Số còn lại trả lời mức độ ít và rất ít về
thông tin.
Nghiên cứu khoa học là một trong những nhiệm vụ quan trọng của các trường
đại học và cao đẳng. Hiện nay tính chất công khai về quy định xét duyệt đề tài được
mở rộng tới các đối tượng về các hoạt động này, số người trả lời công khai là 347,
phiếu, chiếm 77%, số người trả lời không công khai 95 người chiếm 21,2%. Số
phiếu không trả lời 8 phiếu, chiếm 1,8%.
Dân chủ trong lựa chọn, xét duyệt đề tài và quy trình đăng ký đề tài cũng được
bàn bạc và công khai một cách minh bạch, dân chủ và bình đẳng. Các kế hoạch về
tuyển sinh, giảng dạy đều được đưa ra trước cán bộ công chức và giảng viên, cũng
như các hoạt động khác của nhà trường trong mỗi năm học. Nhiều cán bộ, giảng
viên đều được bàn một cách trực tiếp có 149 phiếu khẳng định được bàn ở mức độ
rất nhiều, chiếm 33,1%, còn mức độ nhiều có 122 phiếu, chiếm 27,1 %, mức độ bình
thường có 113 phiếu chiếm 25,1%, còn lại là mức độ ít và rất ít. Việc kiểm tra, giám
sát ngày càng có hiệu quả hơn. Mọi cán bộ, giảng viên được kiểm tra, giám sát

chương trình đào tạo, giáo trình, đề cương học phần và công tác nghiên cứu khoa
học. Khi được hỏi về công tác này, có 369 phiếu trả lời được kiểm tra, chiếm 82%,
có 50 phiếu trả lời không được kiểm tra, giám sát, chiếm 11,2%, còn lại không trả
lời.
Trong quá trình đào tạo tại các trường vấn đề công khai và bàn bạc trước cán
bộ, giảng viên được đặt ra, cho nên tính dân chủ cũng được thực hiện từng bước có
hiệu quả. Các giảng viên được chủ động, sáng tạo về bài giảng của mình và chịu
trách nhiệm trước nhà trường về chất lượng giảng dạy. Việc thực hiện quy chế, quy
định của nhà trường nghiêm túc của các trường, bước đầu thu được nhiều thành tựu
quan trọng trong lĩnh vực đào tạo. Các trường đã đẩy nhanh công tác viết giáo trình,
sách tham khảo và thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học các cấp, giúp đẩy nhanh quá
trình nâng cao chất lượng đào tạo của các trường. Đồng thời, đáp ứng nhu cầu của
xã hội về chất lượng đào tạo hiện nay.
GIÁO TRÌNH, SÁCH THAM KHẢO, ĐỀ TÀI KHOA HỌC
TỪ 2012-2015
NỘI DUNG
(1)
(2)
(3)
(4)
(5)
(6)
(7)
Số cán bộ, giảng
790
150
163 157
184
115 97
viên

27.00
9.55 11.00 12.32 7.34 5.68
Số lượng sinh viên
6.450
0
0
0
0
0
0
Giáo trình
450
55
110 122
156
77
47
Sách tham khảo
223
7
46
51
73
23
11
Đề tài khoa học các
42
2
9
13

17
11
5
cấp
15


(1). Đại học Nha Trang. (2). Đại học Thái Bình Dương. (3). Cao Đẳng Văn Hóa Du
lịch. (4). Cao đẳng Mẫu giáo Trung ương II. (5). Cao đẳng Sư phạm. (6). Cao đẳng
Y tế. (7). Cao đẳng Nghề. (C). Có, (K). Không
Dân chủ trong tài chính và quản lý tài sản của nhà trường:
Trước
hết, công tác tài chính, đây là vấn đề được đặt lên hàng đầu trong quản lý tài sản và
đồng thời cũng thể hiện tính dân chủ trong quản lý kinh tế của nhà trường. Tuy nhiên,
bước đầu việc chi tiêu của các trường đã được công khai, minh bạch, nhưng chưa mang
lại hiệu quả cao. Việc công khai tài chính của các trường thường được thông qua nhiều
hình thức như; các cuộc họp lãnh đạo, báo cáo tổng kết hàng năm và các kỳ Đại hội
công nhân viên chức của các trường. Đặc biệt, trong thời gian vừa qua các trường đã có
quy chế chi tiêu nội bộ để thực hiện chi thường xuyên cho cán bộ, giảng viên của
trường. Đồng thời hàng năm tài chính nhà trường đã công khai các nguồn thu như;
nguồn ngân sách, học phí, dịch vụ và các khoản thu khác. Khi đánh giá về tính minh
bạch trong thu, chi tài chính nhà trường cũng như khi được hỏi việc thu, chi tài chính và
trích lập quỹ được công khai không trước cán bộ, giảng viên. Có 162 phiếu, chiếm
36%, không công khai 230 phiếu, chiếm 51,2%, còn lại 12,8% người không trả lời.
Như vậy dân chủ trong quản lý tài chính vẫn còn nhiều vấn đề đang đặt ra, ngay cả mức
độ rất minh bạch về tài chính có 63 phiếu, chiếm 14%, ở mức độ minh bạch 41 phiếu,
chiếm 9,2%, nhiều người không quan tâm hoặc bi quan trước việc quản lý tài chính của
nhà trường nên trả lời ở mức độ bình thường có 162 phiếu, chiếm 36%, ít minh bạch,
có 40,8%. Trong dự toán và quyết toán ngân sách cuối năm của nhà trường là vấn đề
được nhiều cán bộ và giảng viên quan tâm. Nhiều trường cơ chế về dân chủ trong vấn

đề tài chính vẫn còn chung chung, chưa có những quy định rõ ràng cụ thể và mang tính
bắt buộc, cho nên việc tài chính ở nhiều trường vẫn còn nhiều chỗ còn mập mờ, không
minh bạch. Khi được hỏi về tính công khai về dự toán và quyết toán cuối năm có 27
phiếu trả lời công khai, chiếm tỷ lệ 6%, không công khai 266 phiếu, chiếm tỷ lệ 59,2%,
một số còn lại không trả lời. Bên cạnh đó mức độ công khai về kế hoạch xây dựng cơ
sở vật chất, các hoạt động dịch vụ, sản xuất của nhà trường cũng rất thấp. Mức độ trả
lời rất nhiều có 27 phiếu, chiếm 6%, mức độ nhiều 32 phiếu, chiếm 7,1%, mức độ bình
thường 41 phiếu chiếm 9,1%, còn lại mức độ ít và rất ít.
Việc tham gia, quản lý của cán bộ, giảng viên trong công tác quản lý tài chính
của nhà trường còn ít, việc bàn bạc về mọi vấn đề thu, chi tài chính và trích lập quỹ
ở nhiều trường đã cố gắng để mọi cán bộ, giảng viên được lấy ý kiến và bàn bạc
nhằm tránh những hiện tượng độc đoán, chuyên quyền. Tuy nhiên vấn đề được bàn
bạc và lấy ý kiến vẫn còn rất hạn chế có 18 người, chiếm 4% trả lời có được bàn
bạc và lấy ý kiến, trong lúc đó có 392 người trả lời không được bàn bạc và lấy ý
kiến, chiếm 87,2%, còn lại nhiều người không trả lời về việc bàn bạc và lấy ý kiến
của cán bộ và giảng viên về hoạt động này. Việc thu, chi tài chính và trích lập quỹ
được bàn bạc và lấy ý kiến cũng ở mức độ rất thấp có 9 phiếu, chiếm 2% trả lời ở
mức độ rất nhiều, 22 phiếu, chiếm 4,8%, ở mức độ nhiều và mức độ bình thường
có 45 phiếu, chiếm 10%, còn lại là mức độ ít và rất ít.
Dân chủ trong tổ chức, quản lý cán bộ và giảng viên: Việc công khai hóa,
thủ tục, chính sách đối với cán bộ nói chung, giảng viên nói riêng, là vấn đề được quan
tâm hàng đầu trong các trường đại học và cao đẳng. Theo kết quả khảo sát tại các
trường đã phản ánh phần nào về tính dân chủ trong cán bộ, giảng viên ngày càng trở
nên minh bạch và phổ biến. Khi được hỏi về tính công khai các chủ trương, chính sách,
pháp luật và thủ tục hành chính có 365 phiếu trả lời công khai, chiếm 81%, 41 phiếu trả
lời không công khai, chiếm 9,2%, số phiếu còn lại không trả lời.
16


Vấn đề tuyển dụng, sử dụng cán bộ được thực hiện tương đối tốt, các trường

công khai hóa chỉ tiêu, tiêu chuẩn, quy trình tuyển dụng và bổ nhiệm hàng năm. Quy
trình tuyển dụng ở các trường khá chặt chẽ và đúng quy trình, quy định. Tuy nhiên,
ở một vài trường vẫn còn tình trạng tuyển dụng, bổ nhiệm khép kín, số người được
tham gia vào hội đồng tuyển chọn chưa nhiều. Việc điều động cán bộ chủ yếu do
lãnh đạo và đương sự biết và thực hiện, cho nên, nhiều trường còn chưa biết hoặc
chưa thừa nhận tính dân chủ của hoạt động này. Khi được khảo sát về công tác tuyển
dụng, bổ nhiệm, thuyên chuyển có 198 phiếu trả lời công khai, chiếm 44%, không
công khai có 176 phiếu, chiếm 39,2%, còn lại không trả lời. Qua tỷ lệ khảo sát cho
thấy một vấn đề rằng; đằng sau những gì được thủ tục hóa, công khai, vẫn còn
những vấn đề mờ ám, tiêu cực, thậm chí dân chủ chưa phát huy đúng với bản chất
của nó. Tuy nhiên, mỗi cán bộ, giảng viên trong nhà trường khi được biên chế đều
được biết kế hoạch tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng trình độ chuyên môn, nghiệp vụ
của nhà giáo và cán bộ, công chức được bàn ở mức độ rất nhiều, sự tham giam gia
vào quá trình này được phát huy dân chủ, mức độ được bàn khi được hỏi có 144
phiếu trả lời được bàn rất nhiều, chiếm 32%, 122 phiếu trả lời được bàn nhiều,
chiếm 27,1% và ở mức độ bình thường có 86 phiếu, chiếm 19,1%, còn lại mức độ ít
và rất ít. Qua đây chúng ta có thể hiểu rằng, nhiệm vụ trọng tâm của các trường đại
học và cao đẳng là đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật chất lượng cao là yêu
cầu bắt buộc. Để hoàn thành tốt nhiệm vụ đó, đòi hỏi mỗi cán bộ, giảng viên trong
từng trường không ngừng phát huy vai trò tham gia vào quá trình đào tạo và bồi
dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn để phục vụ công tác phát triển chung của mỗi
trường trên địa bàn của tỉnh.
Việc tham gia của cán bộ, giảng viên trong công tác thực hiện các chủ trương,
chính sách, quy định và thủ tục hành chính của nhà trường được bàn bạc và lấy ý
kiến, tuy nhiên, vẫn còn một số vấn đề đang đặt ra. Việc bàn bạc đang còn ở mức độ
thấp chưa xứng với tầm vóc của các trường đại học và cao đẳng trên địa bàn của
tỉnh, cho nên, khi được hỏi về mức độ có 79 phiếu trả lời mức độ được bàn rất
nhiều, chiếm 17,4%, ở mức độ nhiều có 77 phiếu, chiếm 17,2%, và bình thường 77
phiếu, chiếm 17,2%, còn lại mức độ ít và rất ít. Bên cạnh đó, công tác Đảng trong
các trường đại học và cao đẳng được chú trọng, vai trò lãnh đạo của Đảng ủy cấp

trường không thể thiếu trong quá trình lãnh đạo chính quyền và đoàn thể trong
trường. Ttrong công tác bổ nhiệm, thuyên chuyển được bàn bạc và lấy ý kiến công
khai, minh bạch, có 302 phiếu được hỏi có được bàn bạc, chiếm 67,2%, không được
bàn bạc có 98 phiếu, chiếm 21,8%, còn lại không trả lời. Tuy nhiên, mức độ bàn bạc
về công tác bổ nhiệm, thuyên chuyển được bàn bạc và lấy ý kiến mức độ thấp, điều
này phản ánh về mức độ tham gia của cán bộ, giảng viên chưa được quan tâm đúng
mức. Khi được hỏi về mức độ được bàn có 5 phiếu trả lời rất thường xuyên, chiếm
1,1%, trả lời thường xuyên, có 18 phiếu, chiếm 4%, mức độ bình thường có 41,
chiếm 9,1%, thỉnh thoảng bàn có 198 phiếu, chiếm 44%, còn lại số phiếu trả lời
không bao giờ được bàn.
Dân chủ trong hệ thống chính trị của nhà trường: Dân chủ trong sinh hoạt
đảng ở các trường là điều tất yếu và có ý nghĩa quyết định khi thực hiện nguyên tắc dân
chủ trong toàn bộ hoạt động của Đảng bộ các trường. Khi được hỏi về thực hiện dân
chủ trong bầu cử, ứng cử và bàn bạc các vấn đề liên quan, số người trả lời dân chủ
31/45, chiếm 68,8%. Chưa dân chủ 9/45, chiếm 20%, không trả lời 11,2%. Như vậy,
phát huy dân chủ trong sinh hoạt đảng ở tất cả các cấp bộ đảng là một nội dung quan
trọng để phát huy dân chủ trong Đảng của các trường, làm gương cho mọi sinh hoạt
trong các tổ chức của hệ thống chính trị trong các trường.
17


Hàng năm Công đoàn các trường đã kết hợp với chính quyền tổ chức tốt hội
nghị công nhân viên chức của các trường. Thường xuyên tổ chức các hội nghị đóng
góp các công tác của nhà trường như công tác đào tạo - nghiên cứu khoa học, công
tác tài chính, công tác quản lý nhà trường. Nhiều người đã thừa nhận nhiệm vụ chính
trị của Công đoàn trường, có 111 người trả lời tốt, chiếm 24,7%, trả lời chưa tốt 56
người, chiếm 12%, bình thường có 105 người, chiếm 23,3%, còn lại 178 người trả
lời không tốt, chiếm 39,5%.
Đoàn Thanh niên có nhiệm vụ chính trị quan trọng là góp phần thực hiện
thắng lợi các nhiệm vụ của nhà trường. Đại diện chăm lo và bảo vệ quyền lợi hợp

pháp của thanh niên. Khi được hỏi về vai trò của Đoàn Thanh niên, có 411 người trả
lời tốt, chiếm 91,3%, số người trả lời chưa tốt, 39 người, chiếm 8,7%. Hội sinh viên
của các trường là tổ chức quần chúng của sinh viên, hoạt động theo nguyên tắc tự
nguyện.
Hội Cựu chiến binh của một số trường đã tổ chức chăm lo và giúp đỡ nhau
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần tại cơ sở giáo dục của mình, đẩy mạnh các
hoạt động tình nghĩa, tương trợ nhau trong cuộc sống. Bảo vệ những quyền và lợi
ích chính đáng của Cựu chiến binh; kiến nghị với Đảng ủy với nhà trường trong xây
dựng và thực hiện những chính sách đối với Cựu chiến binh,
Thứ hai: Những việc người học được biết, được tham gia ý kiến
Sinh viên là lực lượng đông đảo trong các trường đại học và cao đẳng trên
địa bàn của tỉnh, đây là lực lượng có trình độ cao, năng động và sáng tạo. Tuy
nhiên, do đặc điểm sinh viên mỗi trường không đồng nhất, phân bố không đồng
đều giữa các ngành nghề khác nhau. Nên việc thực hiện vai trò làm chủ trong sinh
viên chưa đạt được như mong muốn. Đội ngũ cán bộ quản lý trên tỷ lệ sinh viên rất
thấp 70 sinh viên/cán bộ quản lý và 50 sinh viên/ giảng viên. Điều này đã ảnh
hưởng không nhỏ tới công tác đào tạo và quản lý sinh viên, khi xu thế lấy người
học làm trung tâm của quá trình đào tạo của các trường đại học và cao đẳng lại trở
nên khó khăn hơn. Số lượng sinh viên khảo sát có 280 sinh viên các trường đại học
và cao đẳng và chủ yếu là sinh viên năm thứ 2, thứ 3, tỷ lệ phiếu được rải đồng đều
giữa các lớp, ngành khác nhau. Khi khảo sát, tác giả đã thực hiện trên nhiều lĩnh
vực như nhận thức dân chủ, mức độ tham gia làm chủ của sinh viên đối với nhà
trường. Tuy nhiên, khi khảo sát về khả năng biết thông tin của sinh viên về chủ
trương, chế độ, chính sách của nhà nước, của ngành giáo dục và những quy định của
nhà trường lại không như mong muốn, điều này thể hiện mức độ quan tâm của sinh
viên đến quy chế không nhiều. Khi được hỏi về thông tin được biết đến quy chế có
có 31 phiếu, chiếm 11,1%, không biết thông tin có 244 phiếu, chiếm 87,2%, còn lại
không trả lời. Cho nên, hỏi đến mức độ biết thông tin không lớn, chưa phản ánh đầy
đủ nguồn cung cấp thông tin cho sinh viên. Khi được hỏi về mức độ biết về chủ
trương, chế độ, chính sách của nhà nước, của ngành giáo dục và những quy định của

nhà trường có 93 phiếu trả lời mức độ rất nhiều, chiếm 33,3%, mức độ nhiều 11
phiếu, chiếm 3,9%, mức độ bình thường 62 phiếu, chiếm 22,2%, còn lại mức độ ít
và rất ít.
Khi được hỏi kế hoạch đào tạo của nhà trường hàng năm được phổ biến cho
sinh viên. Có 196 phiếu trả lời có, chiếm 70%, trả lời không 75 phiếu, chiếm 26,8%,
còn lại không trả lời. Tất nhiên, trường hợp trả lời không và không trả lời không có
nghĩa là nhà trường không phổ biến, thực chất đây là mức độ quan tâm của sinh viên
tới quá trình đạo tạo. Các trường đại học, cao đẳng trên địa bàn của tỉnh đều luôn
cập nhật mọi thông tin về chương trình đào tạo của sinh viên trong suốt khóa học, đó
là một thực tế và mức độ được biết kế hoạch tuyển sinh, kế hoạch đào tạo của nhà
18


trường hàng năm rất cao thể hiện sự quan tâm của các trường tới quá trình đào tạo.
Có 87 phiếu trả lời mức độ rất nhiều, chiếm 31,1%, mức độ nhiều 98 phiếu, chiếm
35% và mức độ bình thường 72 phiếu, chiếm 25,7%, còn lại ít và rất ít. Đặc biệt,
những vấn đề mà nhiều sinh viên quan tâm nhất, là những thông tin có liên quan đến
học tập, rèn luyện, sinh hoạt và các khoản đóng góp theo quy định. Vấn đề này,
nhiều trường đã thực hiện tương đối tốt, thể hiện tính chất dân chủ trong học tập và
nghiên cứu của sinh viên, từ đó nâng cao tinh thần học tập và tin tưởng vào nhà
trường. Có 249 phiếu trả lời có được biết thông tin, chiếm 88,9%. Đây là một tỷ lệ
cao thể hiện được mức độ quan tâm làm chủ của người học. Số trả lời không biết
thông tin 28 phiếu, chiếm 10%, còn lại không trả lời. Mức độ biết thông tin rất kịp
thời đáp ứng được nhu cầu học tập của sinh viên, còn mức độ biết thông tin rất nhiều
có 89 phiếu, chiếm 31,8%, có 61 phiếu trả lời mức độ nhiều, chiếm 21,8% và mức
độ bình thường có 101 phiếu, chiếm 36%, còn lại ít và rất ít.
Vấn đề bàn bạc và lấy ý kiến của sinh viên đều được công khai, minh bạch.
Từ đó, đã thu hút đông đảo sinh viên tham gia vào quá trình làm chủ của mình. Khi
được hỏi về tinh thần làm chủ của sinh viên thông qua việc được bàn bạc và lấy ý
kiến về nội quy, quy định của nhà trường có liên quan đến sinh viên đã có 123 phiếu

trả lời được bàn bạc, chiếm 44%, trả lời không được bàn bạc 138 phiếu, chiếm
49,2% còn lại không trả lời. Mức độ bàn bạc, trả lời rất lớn có 59 phiếu, chiếm
21,1%, mức độ bàn bạc nhiều 53 phiếu, chiếm 18,1% và mức độ bình thường 28
phiếu, chiếm 10%, còn lại ít và rất ít. Qua tỷ lệ này cho thấy rằng, khi các trường đại
học và cao đẳng cạnh tranh về nguồn đào tạo, cũng như chất lượng đào tạo, thì việc
bàn bạc và lấy ý kiến của sinh viên về mọi hoạt động được quan tâm hơn, điều đó
đưa đến lòng tin cho sinh viên đối với khoa và nhà trường.
Khi được hỏi về tổ chức phong trào thi đua và các hoạt động khác trong nhà
trường có liên quan đến, sinh viên. Có 246 phiếu trả lời có được bàn và lấy ý kiến,
chiếm 87,2%, 34 phiếu trả lời không được bàn, chiếm 12,2%.
Khi được hỏi về quá trình học tập ở trường. Anh (chị) có được đóng góp ý
kiến xây dựng khoa và trường không? Có 92 phiếu trả lời được đóng góp ý kiến,
chiếm 32,8%, trả lời không được đóng góp ý kiến có 123 phiếu, chiếm 44%, số còn
lại không trả lời. Khi khảo sát về sự phù hợp của chương trình đào tạo và những quy
định chung của nhà trường về quy chế học tập có 124 phiếu trả lời đã phù hợp, chiếm
44,3%, tương đối phù hợp có 114 phiếu, chiếm 40,7%, còn lại chưa phù hợp. Trong
học tập, sinh viên được phát huy mọi khả năng của mình, đã thể hiện sự làm chủ của
mình một cách thực sự. Việc trao đổi trong học tập, cũng như chương trình giảng dạy
hoặc bài giảng của giáo viên được trao đổi một cách thẳng thắn. Sinh viên được trao
đổi với giáo viên, không áp đặt. Cho nên khi được hỏi về vấn đề này có 255 phiếu
khẳng định được trao đổi trực tiếp với giáo viên, tỷ lệ 91,1%, số còn lại trả lời không
có 25 phiếu, chiếm 8,9%. Tính chất dân chủ còn được thể hiện trong việc lựa chọn
người lãnh đạo lớp, cũng như những người thay mặt mình đề làm cầu nối giữa sinh
viên và nhà trường. Trong các trường đại học và cao đẳng, công tác tổ chức lớp học
diễn ra một cách có tổ chức. Việc sinh viên được ứng cử, bầu cử vào các vị trí cán bộ
lớp, cán bộ đoàn được thực hiện đúng quy định của nhà trường. Khi được hỏi về công
tác này có 252 phiếu trả lời được ứng cử, bầu cử, chiếm 90%, không được ứng cử,
bầu cử có 16 phiếu, chiếm 5,7%. Hơn thế sinh viên đã được kiến nghị với nhà
trường những vấn đề liên quan đến học tập, có 114 phiếu được hỏi trả lời được kiến
nghị, chiếm 40,7%, 166 phiếu trả lời không được kiến nghị, chiếm 59,3% còn lại

không trả lời. Tuy nhiên, số sinh viên trả lời không được kiến nghị với nhà trường
thể hiện mức độ quan tâm của sinh viên đối với nhà trường, điều này chưa nói lên
19


đúng với tinh thần của các trường đại học và cao đẳng trên địa bàn của tỉnh. Những
ý kiến, kiến nghị của sinh viên đối với nhà trường được nhà trường phản hồi và giải
thích hợp lý. Tuy nhiên, mức độ phản hồi vẫn chưa đạt như mong muốn của sinh
viên, nên khi được hỏi về vấn đề này, có 92 phiếu trả lời được phản hồi, chiếm
32,8%, không được phản hồi có 179 phiếu, chiếm 63,9%. Những vấn đề về đào tạo
và nghiên cứu khoa học cũng được cán bộ quản lý giải đáp rõ ràng, có 187 phiếu trả
lời được giải đáp thắc mắc, chiếm 66,8%, không được giải đáp thắc mắc có 81
phiếu, chiếm 28,9%, còn 4,3% không trả lời. Mức độ hài lòng của sinh viên tương
đối tốt, có 145 phiếu trả lời hài lòng, chiếm 51,8%, còn 116 phiếu trả lời không hài
lòng, chiếm 41,4%, còn lại không trả lời. Niềm tin của sinh viên đối với nhà trường
ngày càng được nâng cao, khi mà những thắc mắc của sinh viên được giải đáp. Tuy
nhiên, những giải đáp của nhà trường đối với sinh viên chưa đạt được kết quả như
mong muốn có 112 phiếu trả lời rất thỏa mãn những thắc mắc, chiếm 40%, thỏa mãn
81 phiếu, chiếm 28,9%, mức độ bình thường 56 phiếu, chiếm 20%, còn lại ít thỏa
mãn và không thỏa mãn.
b. Nguyên nhân của những thành tựu thực hiện dân chủ
Thứ nhất, tính kịp thời của văn bản pháp quy của nhà nước, bộ, ngành. Thứ
hai, khả năng nhận thức về dân chủ của người dân. Thứ ba, việc tuyên truyền phổ
biến các chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước về dân chủ
ngày càng dễ dàng và phổ biến hơn. Thứ tư, khả năng nhận thức của cán bộ, giảng
viên và sinh viên ngày càng được nâng cao. Thứ năm, tính ưu việt của việc thực hiện
dân chủ. Thứ sáu, năng lực quản lý của cán bộ ngày càng đi vào chiều sâu. Thứ bảy,
quan điểm của Đảng về dân chủ ngày càng hoàn thiện và có tính hệ thống. Thứ tám,
tính tự chủ và tự chịu trách nhiệm
3.2.1.2. Hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế

a. Hạn chế
Một là: Khả năng nhận thức và mức độ quan tâm đến quy chế, quy định về
quy chế thực hiện dân chủ chưa cao. Do chưa nhận thức sâu sắc đầy đủ về mục
đích, ý nghĩa của quá trình thực hiện dân chủ và tác dụng của quy chế dân chủ trong
hoạt động của nhà trường, văn hóa dân chủ trong đời sống cán bộ, giảng viên và sinh
viên còn thấp:
Hai là: Việc ban hành các quy chế, quy định thực hiện dân chủ chưa hiệu quả.
Ở nhiều trường đại học và cao đẳng, việc ban hành các quy định, quy chế và quy chế
thực hiện dân chủ chưa đồng bộ, các văn bản về thực hiện dân chủ còn thiếu, còn
yếu và chồng chéo.
Ba là: Sự phối hợp trong công tác tổ chức, quản lý việc thực hiện quy chế
dân chủ thiếu chặt chẽ và đồng bộ. Sự phối hợp giữa Đảng ủy, Ban Giám hiệu và
các tổ chức đoàn thể quần chúng ở một số trường trong việc chỉ đạo thực hiện quy
chế dân chủ thiếu đồng bộ, chưa thống nhất, thiếu cụ thể, rành mạch, nên dẫn đến
hiện tượng đợi chờ.
Bốn là: Trách nhiệm của ban chỉ đạo và năng lực thực hiện quy chế dân chủ
của cán bộ, giảng viên và sinh viên thiếu hiệu quả. Trong thời gian qua các ban chỉ
đạo thực hiện quy chế dân chủ tại các trường còn một số yếu kém trong quá trình
thực hiện nhiệm vụ của mình. Việc kiện toàn Ban chỉ đạo thực hiện quy chế dân chủ
ít được thực hiện và không thường xuyên
b. Nguyên nhân của những hạn chế
Hệ thống văn bản từ cấp trên chưa phản ánh bao quát điều kiện của mỗi cơ sở
giáo dục. Tư duy về dân chủ và phương thức lãnh đạo thực thi dân chủ chưa cao.
Nhiều cán bộ, giảng viên và sinh viên nhận thức vấn đề dân chủ chưa thông suốt,
20


chưa làm quen với dân chủ. Sự bảo thủ, định kiến, thờ ơ với hiện tại của đối tượng
thực hiện dân chủ trong nhà trường.
3.2.1. Những vấn đề đặt ra của việc ban hành và tổ chức thực hiện quy chế dân

chủ và quy chế thực hiện dân chủ trong các trường đại học và cao đẳng ở Khánh
Hòa hiện nay
Thứ nhất: Nhận thức về vị trí, vai trò và tầm quan trọng của việc thực hiện quy
chế dân chủ của các cấp lãnh đạo, cán bộ, giảng viên và sinh viên trong hoạt động của
nhà trường còn nhiều hạn chế. Thứ hai: Công tác ban hành các văn bản liên quan đến
thực hiện quy chế dân chủ trong nhà trường còn bật cập cả về nội dung lẫn hình thức.
Thứ ba: Sự bất cập của quy chế, quy định về thực hiện dân chủ của các trường trên địa
bàn. Thứ tư: Công tác thực hiện quy chế dân chủ của cán bộ, giảng viên và sinh viên
chưa mang lại hiệu quả thiết thực. Các cá nhân, tổ chức trong hệ thống chính trị của nhà
trường chưa phát huy hết chức trách, nhiệm vụ của mình trong chỉ đạo thực hiện quy
chế dân chủ. Thứ năm: Công tác chỉ đạo của chính quyền địa phương chưa sâu sát đến
các trường đại học và cao đẳng trên địa bàn.
Kết luận chƣơng 3
Qua việc khảo sát thực trạng của việc thực hiện quy chế dân chủ ở các trường đại
học và cao đẳng trên địa bàn tỉnh cho thấy: Ý thức dân chủ của cán bộ, giảng viên và
sinh viên ngày càng được nâng cao. Vai trò làm chủ của họ ngày càng được xác lập và
đi vào nề nếp nhưng chưa đạt được như mong muốn. Phần lớn cán bộ, giảng viên và
sinh viên đã kết hợp được quyền và lợi ích hợp pháp của mình, bước đầu làm quen với
quá trình làm chủ của mình và có hiệu quả nhất định.
Tiếp tục thực hiện Quy chế dân chủ trong hoạt động của nhà trường đạt chất
lượng và hiệu quả là yêu cầu cấp bách đối với tất cả các trường đại học và cao đẳng
ở tỉnh Khánh Hòa hiện nay. Chỉ có thực hiện thật đầy đủ quy chế, quy định và quy
chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của nhà trường mới phát huy được quyền dân
chủ của mỗi người, góp phần làm cho môi trường dân chủ trong giáo dục phát huy
cao độ, tạo điều kiện thuận lợi cho các trường phát triển vững mạnh, đủ sức làm tròn
sứ mệnh vẻ vang đối với đất nước.
Chƣơng 4
PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN
QUY CHẾ DÂN CHỦ TRONG CÁC TRƢỜNG ĐẠI HỌC VÀ CAO ĐẲNG Ở
KHÁNH HÕA HIỆN NAY

4.1. Phƣơng hƣớng nâng cao hiệu quả thực hiện quy chế dân chủ trong các
trƣờng đại học và cao đẳng ở Khánh Hòa
Thứ nhất: Tiếp tục nâng cao nhận thức dân chủ cho cán bộ, giảng viên và sinh viên
trong nhà trường. Giáo dục ý thức dân chủ phải gắn việc thực hiện dân chủ trong nhà
trường với vấn đề nâng cao dân trí, tăng cường ý thức dân chủ của toàn thể cán
bộ,giảng viên và sinh viên. Đây là phương hướng cơ bản và hàng đầu quyết định cho
sự thành công trong việc thực hiện quy chế dân chủ cho toàn thể cán bộ, giảng viên
và sinh viên.
Thứ hai: Nâng cao chất lượng ban hành quy chế, quy định và quy chế dân
chủ trong nhà trường. Tiếp tục ban hành quy chế thực hiện dân chủ có tính pháp lý
cao. Xây dựng các quy chế, quy định, quy chế thực hiện dân chủ, đồng bộ, đầy đủ và
thống nhất trong các lĩnh vực của nhà trường. Tiếp tục sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện
những quy chế, quy định chưa phù hợp.
Thứ ba: Tiếp tục nâng cao quá trình dân chủ hóa cho toàn thể cán bộ, giảng
viên, sinh viên. Thực hiện dân chủ phải gắn với nhiệm chính trị chung của trường đại
21


học và cao đẳng. Thực hiện quyền nhà giáo, cán bộ, công chức và sinh viên được biết,
tham gia ý kiến, giám sát kiểm tra thông qua hình thức dân chủ trực tiếp trong đào tạo,
tổ chức và quản lý, trong tài chính và trong quản lý sinh viên.
Thứ tư:Tăng cường vai trò lãnh đạo, quản lý của chính quyền địa phương,
đổi mới hệ thống chính trị nhà trường nhằm hoàn thiện cơ chế thực hiện dân
chủ. Nâng cao vai trò lãnh đạo của các cấp ở địa phương trong thực hiện dân chủ.
Tỉnh ủy, Uỷ ban nhân dân và các sở, ban, ngành của tỉnh tiếp tục tăng cường công tác
chỉ đạo, đôn đốc, đồng thời thực hiện cơ chế kiểm tra, giám sát việc thực hiện dân chủ
của cơ quan được quản lý.
4.2. Những giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện quy chế dân chủ ở các
trƣờng đại học và cao đẳng ở Khánh Hòa hiện nay
Thứ nhất: Công tác chính trị, tư tưởng trong nhà trường

Một là, tăng cường công tác chính trị, tư tưởng cho toàn thể cán bộ, giảng
viên và sinh viên: Tuyên truyền giáo dục chính trị tư tưởng, ý thức làm chủ tập thể.
Xây dựng lập trường tính đảng cho toàn bộ cán bộ, giảng viên và sinh viên. Hai là,
nâng cao trình độ nhận thức hiểu biết luật pháp trong việc thực thi quyền và nghĩa
vụ của công dân. Dân chủ phải đi đôi với pháp luật, không có dân chủ ngoài pháp
luật.
Thứ hai: Mở rộng dân chủ hóa để phát huy quyền cán bộ, giảng viên và
sinh viên về quyền được biết, tham gia ý kiến và giám sát, kiểm tra mọi hoạt động
nhà trường.
Một là: Đối với Đảng bộ nhà trường: Không ngừng nâng cao vai trò lãnh đạo
của tổ chức Đảng trong thực hiện dân chủ. Vai trò lãnh đạo của Đảng bộ là điều kiện
tiên quyết để thực hiện thắng lợi dân chủ hóa các mặt của đời sống.
Hai là: Đối với chính quyền nhà trường: Tiếp tục nâng cao vai trò tổ chức,
quản lý và cách thức thực hiện các hoạt động của nhà trường nhằm phát huy quyền
dân chủ của cán bộ, giảng viên và sinh viên đối với các hoạt động như: Công tác
đào tạo và nghiên cứu khoa học. Công tác tổ chức và quản lý nhà trường. Công tác
quản lý sinh viên nhà trường.
Thứ ba: Thực hiện đúng vai trò, chức năng của các tổ chức đoàn thể trong
nhà trường.
Công đoàn là tổ chức chính trị, tổ chức được thiết lập để bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp cho người lao động.
Ban Thanh tra nhân dân cần có hành động thiết thực, phải chịu trách nhiệm
trước công đoàn viên về chức năng nhiệm vụ của mình. Ban Thanh tra nhân dân còn
có nhiệm vụ ngăn chặn các tiêu cực là chính. Khi phát hiện có sai phạm không được
bưng bít, bao che mà phải kiến nghị cấp có thẩm quyền kiên quyết xử lý, khắc phục
hậu quả.
Đoàn Thanh niên và Hội Sinh viên phải thực hiện đầy đủ chức năng, nhiệm vụ
của mình, tham gia tích cực vào quá trình thực hiện dân chủ hóa, hoàn thành nhiệm
vụ chính trị của nhà trường.
Thứ tư: Cần giải quyết tốt mối quan hệ giữa dân chủ và tập trung trong quá

trình xây dựng và thực thi các quy chế dân chủ trong nhà trường
Trong quá trình xây dựng các quy chế dân chủ trong các trường đại học và cao đẳng
ở tỉnh Khánh Hòa, có thể có những ý kiến trái chiều với nhiều ý kiến khác, không phù
hợp với số đông thì cần phải phản biện, tranh luận lại để đi đến chân lý chứ không nên
tùy tiện lấy số đông để áp đặt cho một ý kiến trái chiều của một số cá nhân nào đó. Bởi vì
không phải bất cứ lúc nào chân lý cũng đều thuộc về số đông.
22


Thứ năm: Xây dựng văn hóa từ chức và kỷ luật nghiêm minh Đối với
những đối tượng vi phạm quy chế dân chủ trong nhà trường
Từ chức là hành động cần được xét ở góc độ trách nhiệm của mỗi cán bộ lãnh
đạo trong thực hiện dân chủ. Họ đã để xảy ra những vi phạm, tiêu cực, hay không có
năng lực lãnh đạo, sức khỏe không đảm bảo hoặc uy tín giảm sút do đời sống, sinh
hoạt của cán bộ, giảng viên không lành mạnh... thì họ sẽ mạnh dạn từ chức để
nhường cho những cá nhân khác hơn mình để giữ cương vị lãnh đạo. Trong thực
hiện quy chế dân chủ, những cán bộ, giảng viên và sinh viên vi phạm quy chế dân
chủ cần phải có những hình thức kỷ luật nghiêm minh theo quy định của pháp luật.
Kết luận chƣơng 4
Đánh giá việc thực hiện dân chủ trong các trường đại học và cao đẳng của tỉnh
Khánh Hòa hiện nay là một nhu cầu tất yếu. Việc chỉ ra những giải pháp thực hiện quy
chế dân chủ cần có quan điểm khách quan, lịch sử cụ thể để nhìn nhận, đánh giá quá
trình thực hiện dân chủ của mỗi trường đại học và cao đẳng của tỉnh có cơ sở khoa học.
Từ đó, giúp chúng ta nhận thức đúng đắn về thực hiện quy chế dân chủ trong các trường
đại học và cao đẳng của tỉnh Khánh Hòa trong thời gian tới.
Nhận thức về tầm quan trọng của việc thực hiện Quy chế dân chủ trong hoạt
động của các trường đại học và cao đẳng trên địa bàn của tỉnh phải xuất phát từ
người học, cán bộ, giảng viên cũng như từ phía lãnh đạo mặc dù có nhiều chuyển
biến nhưng chưa thật sâu sắc, đầy đủ, đồng bộ. Do đó, giữa Quy chế, quy định về
thực hiện dân chủ và yêu cầu thực tế của quá trình dân chủ hóa vẫn còn là khoảng

cách lớn. Vì vậy, việc huy động sức mạnh trí tuệ phục vụ cho công cuộc công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là việc làm cần thiết hiện nay.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Dân chủ là phạm trù lịch sử, đồng thời là phạm trù chính trị, việc nhân dân đòi
quyền dân chủ là một tất yếu trong suốt tiến trình cách mạng, đặc biệt trong giai đoạn
hiện nay lại càng quan trọng. Để dân chủ thực sự trở thành mục tiêu và động lực của
xã hội, người dân thực sự trở thành chủ nhân của đất nước, dân chủ thực sự đi vào đời
sống xã hội, nhất là ở địa bàn cơ sở, nơi mà ở đó nhân dân trực tiếp thực hiện chủ
trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Hơn bao giờ hết các trường
đại học và cao đẳng trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa không ngừng phấn đấu để hiện thực
hóa các quan điểm, đường lối của đảng, chủ trương, chính sách và pháp luật của nhà
nước đi vào cuộc sống bằng chính năng lực của các trường. Những giải pháp để thực
hiện dân chủ trong các trường đại học và cao đẳng của tỉnh đã góp phần nâng cao vai
trò, vị trí của giáo dục trong việc đào tạo con người vừa “hồng” vừa “chuyên” của
tỉnh Khánh Hòa hiện nay./.
Thực hiện quy chế dân chủ trong trường đai học và cao đẳng vừa đảm bảo quyền
dân chủ trực tiếp của cán bộ, giảng viên và sinh viên, vừa phát huy được khả năng, tiềm
lực của cộng đồng, vì đây là môi trường giáo dục nhân cách và xây dựng chuyên môn
nghề nghiệp. Đồng thời, thực hiện quy chế dân chủ trong trường học là một yếu tố đã
thành công trong việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay.
Tóm lại: Dân chủ và dân chủ hóa các mặt của đời sống là chủ trương đúng đắn
của Đảng ta trong những năm qua. Đây không phải là ý tưởng sáng tạo của riêng cá
nhân hay quốc gia riêng biệt nào, mà là cách làm sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam, là sự thành công bước đầu của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đó là xu
hướng tất yếu của bản thân sự phát triển của xã hội, đặc biệt, đối với các quốc gia
23


×