Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Chính sách nhập khẩu công nghệ trong lĩnh vực chế tạo máy và tự động hóa ở việt nam trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.24 MB, 85 trang )

VIỆN HÀN LÂM

BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

VIỆN CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

PHÙNG CÔNG ĐỊNH

CHÍNH SÁCH NHẬP KHẨU CÔNG NGHỆ
TRONG LĨNH VỰC CHẾ TẠO MÁY VÀ TỰ ĐỘNG HOÁ
Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

HÀ NỘI, 2016


VIỆN HÀN LÂM

BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

VIỆN CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH


HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

PHÙNG CÔNG ĐỊNH

CHÍNH SÁCH NHẬP KHẨU CÔNG NGHỆ
TRONG LĨNH VỰC CHẾ TẠO MÁY VÀ TỰ ĐỘNG HOÁ
Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Chuyên ngành: Quản lý Khoa học và Công nghệ
Mã số: 60.34.04.12

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. ĐỖ ĐỨC NAM

HÀ NỘI, 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số
liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực.
Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công
trình khoa học nào khác.
Tác giả luận văn

PHÙNG CÔNG ĐỊNH



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KHUNG CHÍNH SÁCH VỀ NHẬP KHẨU
CÔNG NGHỆ................................................................................................. 6
1.1. Một số vấn đề lý luận và khái niệm có liên quan ....................................... 6
1.2. Những lợi ích của việc nhập khẩu công nghệ đáp ứng yêu cầu công nghiệp
hóa, hiện đại hóa của Việt Nam.................................................................... 17
1.3. Kinh nghiệm quốc tế về chính sách nhập khẩu công nghệ, bài học cho Việt
Nam .......................................................................................................... 19
Chương 2. THỰC TRẠNG CỦA CHÍNH SÁCH NHẬP KHẨU CÔNG NGHỆ
Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN HIỆN NAY........................................................ 27
2.1. Thực trạng về nhập khẩu công nghệ ở Việt Nam giai đoạn hiện nay, cụ thể
trong lĩnh vực công nghệ chế tạo máy và tự động hóa .................................... 27
2.2. Thực trạng về chính sách nhập khẩu công nghệ của Việt Nam giai đoạn hiện
nay ............................................................................................................ 43
Chương 3. ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHÍNH SÁCH VỀ NHẬP KHẨU
CÔNG NGHỆ CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN HIỆN NAY, CỤ THỂ TRONG
LĨNH VỰC CÔNG NGHỆ CHẾ TẠO MÁY VÀ TỰ ĐỘNG HÓA ............... 56
3.1. Mục tiêu quan điểm và định hướng về nhập khẩu công nghệ của Việt Nam
giai đoạn hiện nay, cụ thể trong lĩnh vực chế tạo máy và tự động hóa .............. 56
3.2. Một số giải pháp chính sách về nhập khẩu công nghệ, cụ thể trong lĩnh vực
chế tạo máy và tự động hoá ở Việt Nam phù hợp với bối cảnh quốc tế............. 58
3.3. Cơ hội và thách thức khi nhập khẩu công nghệ trong lĩnh vực chế tạo máy và
tự động hóa ................................................................................................ 70
KẾT LUẬN .................................................................................................. 74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 77


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CNM


Công nghệ mới

CNC

Công nghệ cao

XNK

Xuất nhập khẩu

MMTB

Máy móc thiết bị

DN

Doanh nghiệp

WB

Ngân hàng thế giới

WTO

Tổ chức thương mại thế giới

UNIDO

Tổ chức phát triển công nghiệp của Liên hợp quốc


ESCAP

Uỷ ban kinh tế xã hội Châu Á - Thái bình dương

UNTAC

Hội nghị Liên hợp quốc về Thương mại và phát triển

R&D

Nghiên cứu và phát triển

ODA

Viện trợ phát triển chính thức

FDI

Đầu tư trực tiếp nước ngoài

KH&CN

Khoa học và công nghệ

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

TBCN


Tư bản chủ nghĩa

CNH

Công nghiệp hoá

HĐH

Hiện đại hoá

UBND

Uỷ ban nhân dân

KTXH

Kinh tế - xã hội

CGCN

Chuyển giao công nghệ

CTM

Chế tạo máy

TĐH

Tự động hóa


DNVVN

Doanh nghiệp vừa và nhỏ

KH&ĐT

Kế hoạch và đầu tư

CN

Công nghệ

NSNN

Ngân sách nhà nước


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: Giá trị và tỷ trọng nhập khẩu máy móc, thiết bị giai đoạn 1986-2005 ... 28
Bảng 2.2: Giá trị và tỷ trọng nhập khẩu máy móc, thiết bị giai đoạn 2006-2014 ... 29
Bảng 2.3: Số liệu nhập khẩu máy móc, thiết bị, dây chuyền của các DN Nhà nước29
Bảng 2.4: Thị trường nhập khẩu máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ .......... 30


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công nghệ là một yếu tố quan trọng không thể thiếu đối với quá trình sản
xuất trong các doanh nghiệp của mỗi quốc gia. Doanh nghiệp là nơi sử dụng công
nghệ để sản xuất ra hàng hoá. Đồng thời doanh nghiệp cũng là nơi tạo ra công nghệ

mới, công nghệ hiện đại. Đến lượt mình công nghệ lại có sức ảnh hưởng mạnh mẽ
đến trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Công nghệ là
một nhân tố có tính quyết định đến chất lượng và khả năng cạnh tranh của hàng hoá
trên thị trường.
Công nghệ đang sử dụng trong các doanh nghiệp ở nuớc ta hiện nay nhìn
chung đang ở trình độ thấp, thậm chí ở nhiều doanh nghiệp công nghệ còn lạc hậu
nên chất lượng sản phẩm còn kém, chi phí sản xuất lớn, giá thành cao dẫn đến khả
năng cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước còn yếu. Muốn khắc phục được
tình trạng này, vấn đề mấu chốt là phải đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực sản
xuất với công nghệ và trình độ quản lý tiên tiến; các doanh nghiệp phải nhập khẩu
và làm chủ được công nghệ mới từ các nước có trình độ khoa học - kỹ thuật phát
triển. Vấn đề này phụ thuộc rất nhiều vào hệ thống chính sách liên quan đến nhập
khẩu công nghệ của quốc gia.
Trong những năm qua, đặc biệt là từ những năm 2005 trở lại đây, trước yêu
cầu hội nhập kinh tế khu vực và thế giới với nhiều cơ hội và thách thức đặt ra, các
doanh nghiệp nước ta đã có nhiều chuyển biến tích cực. Trong đó, việc đổi mới và
nhập khẩu công nghệ hiện đại từ nhiều nước trên thế giới đã được thực hiện và đạt
được nhiều thành tựu đáng kể. Nhiều ngành và lĩnh vực đã có sự cải thiện rõ rệt về
trình độ công nghệ như ngành điện tử - viễn thông, xây dựng, giao thông và một số
ngành công nghiệp nhẹ, công nghiệp chế tạo máy và tự động hóa...
Các văn bản này đề cập đến những nội dung chủ yếu sau: Đối tượng, phạm
vi điều chỉnh của việc nhập khẩu công nghệ; quyền và nghĩa vụ của các bên mua,
bán; các điều kiện chuyển giao, tiếp nhận và sử dụng công nghệ; giá cả và điều kiện

1


thanh toán; quản lý và phê duyệt của các cơ quan nhà nước đối với các hợp đồng
mua bán; những vấn đề giải quyết tranh chấp v.v...
Hiện nay công tác nhập khẩu công nghệ tồn tại nhiều vấn đề mà bản thân các

doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân chưa đủ sức giải quyết như: vấn đề tiếp cận thông
tin về công nghệ, giá cả thị trường, nguồn cung ứng công nghệ… còn khó khăn,
năng lực tài chính còn yếu, trình độ khoa học kỹ thuật của đội ngũ lao động còn
thấp, điều kiện cơ sở vật chất hiện còn lạc hậu… Đồng thời chính sách nhập khẩu
công nghệ của Nhà nước với những ưu đãi về thuế, về các biện pháp phi thuế cũng
như các biện pháp hỗ trợ nhập khẩu công nghệ còn hạn chế, cơ chế tổ chức quản lý,
giám định và chế tài xử lý vi phạm về nhập khẩu công nghệ còn nhiều bất cập.
Do không có nhiều văn bản riêng quy định các vấn đề về nhập khẩu công
nghệ, nên quan hệ nhập khẩu công nghệ chịu sự điều chỉnh của hàng loạt văn bản
luật và dưới luật như: Bộ luật dân sự (phần CGCN), luật CGCN, luật KH&CN
2013, luật thương mại, luật đầu tư nước ngoài, luật đấu thầu, Luật thuế xuất khẩu
thuế nhập khẩu, các quyết định của thủ tướng chính phủ về quản lý xuất nhập khẩu.
Trong đó các điều khoản quy định về nhập khẩu không đồng bộ, cụ thể và còn
chồng chéo nên đã gây nhiều khó khăn trong thực tiễn đối với các cơ quan quản lý
của nhà nước và các doanh nghiệp khi nhập khẩu công nghệ.
Trước yêu cầu đẩy nhanh tiến trình CNH, HĐH đất nước cùng với bối cảnh
hội nhập kinh tế quốc tế, việc khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp khai thác
được các cơ hội, tiếp cận, đón đầu và sử dụng công nghệ mới, công tiên tiến sẽ là
mục tiêu trọng yếu của chính sách nhập khẩu công nghệ quốc gia. Hơn nữa, bất kỳ
một chính sách nào dù tốt đến đâu cũng chỉ phát huy tác dụng trong những thời kỳ
nhất định. Vì vậy, cần phải liên tục nghiên cứu để có những chính sách linh hoạt
cho phù hợp với những yêu cầu của thực tiễn đặt ra.
Chính vì vậy, đề tài: “Chính sách nhập khẩu công nghệ trong lĩnh vực chế
tạo máy và tự động hoá ở Việt Nam giai đoạn hiện nay” được tiến hành nghiên cứu
sẽ góp phần đáp ứng cả về lý luận và thực tiễn những vấn đề đặt ra cho hoạt động
nhập khẩu công nghệ cụ thể nghiên cứu trong lĩnh vực công nghệ chế tạo máy và tự

2



động hóa, một trong những lĩnh vực trọng tâm thúc đẩy quá trình CNH và HĐH của
Việt Nam. Đề tài sẽ tiến hành phân tích những kết quả đã đạt được cũng như những
hạn chế cần khắc phục của tình hình nhập khẩu công nghệ ở Việt Nam, đồng thời so
sánh với kinh nghiệm nhập khẩu công nghệ với các nước khác.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu về chính sách nhập khẩu công nghệ cho đến giai đoạn hiện nay
đã có nhiều học giả quan tâm và nghiên cứu. Trong phạm vi đề tài này tôi xin được
tổng quan 3 công trình nghiên cứu được xem là gần với những quan tâm của đề tài
và quan trọng hơn là những phát hiện trong các công trình này, có những nội dung
sẽ được sử dụng làm luận cứ, có những nội dung sẽ trở thành câu hỏi nghiên cứu
khi tôi xây dựng đề cương nghiên cứu này: “Nghiên cứu cơ sở khoa học cho việc
xây dựng một số chính sách và thúc đẩy hoạt động đổi mới công nghệ và nghiên
cứu & triển khai trong các cơ sở sản xuất ở Việt Nam” - Trần Ngọc Ca, Báo cáo đề
tài cấp bộ. Hà Nội, 6/2000; Đề tài: “Các biện pháp tăng cường năng lực nội sinh về
KH&CN phục vụ phát triển bền vững ở Việt Nam” của Nguyễn Danh Sơn và các tác
giả (2003); Đề tài: “Chính sách nhập khẩu công nghệ đáp ứng yêu cầu của CNH,
HĐH của Việt Nam, thực trạng và giải pháp” Nguyễn Văn Hoàn và các tác giả
(2005), Báo cáo đề tài cấp Bộ, Viện Nghiên cứu Thương mại, Bộ Thương mại.
Đề tài: “Chính sách nhập khẩu công nghệ đáp ứng yêu cầu của CNH, HĐH
của Việt Nam, thực trạng và giải pháp” Nguyễn Văn Hoàn và các tác giả (2005),
Báo cáo đề tài cấp Bộ, Viện Nghiên cứu Thương mại, Bộ Thương mại.
Đề tài nêu nổi bật được vai trò chính sách nhập khẩu công nghệ để đáp ứng
được yêu cầu của CNH, HĐH đất nước, tuy nhiên, với hiện trạng chính sách của
Việt Nam thời điểm đề tài nghiên cứu vẫn chưa có quy định về nhập khẩu công
nghệ mà nó được điều chỉnh bởi rất nhiều văn bản pháp quy của Chính phủ, dẫn đến
không phải bất cứ đơn vị nào có nhu cầu nhập khẩu công nghệ có thể nắm bắt được
tường tận các văn bản đó. Từ phân tích thực trạng, đề tài nghiên cứu đã đưa ra đề
xuất liên quan đến điều chính chính sách nhập khẩu công nghệ của Việt Nam đến
năm 2020.


3


Tuy nhiên, Đề tài được nghiên cứu và nghiệm thu cách đây 10 năm. Hiện tại
chính sách nhập khẩu công nghệ đã có nhiều thay đổi cũng như có thêm các khó
khăn và thuận lợi khác đặt ra mà đề tài không thể đáp ứng được. Các đề tài trước đó
không đề cập cụ thể đến việc nhập khẩu công nghệ cho một lĩnh vực nào cụ thể đặc
biệt lĩnh vực chế tạo máy và tự động hóa. Lĩnh vực này hiện đang có ý nghĩa quan
trọng và có tác dụng tích cực nhất trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích:
- Làm rõ vai trò của chính sách nhập khẩu công nghệ và những yêu cầu đặt
ra trong giai đoạn hiện nay ở Việt Nam.
- Phân tích thực trạng chính sách nhập khẩu công nghệ và tác động của nó
đến việc nhập nghệ khẩu ở Việt Nam giai đoạn hiện nay.
- Phân tích các đặc thù cụ thể về chính sách nhập khẩu công nghệ trong lĩnh
vực chế tạo máy và tự động hóa phục vụ công cuộc hiện nay ở Việt Nam.
- Đề xuất những vấn đề điều chỉnh trong chính sách nhập khẩu công nghệ
đặc biệt trong lĩnh vực chế tạo máy và tự động hóa cho phù hợp với giai đoạn hiện
nay ở Việt Nam.
Nhiệm vụ:
 Nghiên cứu lý luận về chính sách về nhập khẩu công nghệ đối với nước
đang phát triển.
 Phân tích vai trò của nhập khẩu công nghệ đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH.
Kinh nghiệm quốc tế.
 Thực trạng về nhập khẩu công nghệ, chính sách nhập khẩu công nghệ của
Việt Nam giai đoạn hiện nay cụ thể với lĩnh vực công nghệ chế tạo máy
và tự động hoá.
 Đề xuất một số giải pháp chính sách về nhập khẩu công nghệ cụ thể trong
lĩnh vực công nghệ chế tạo và tự động hoá ở Việt Nam giai đoạn hiện

nay.

4


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các chính sách nhập khẩu công nghệ ở
Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: Đề tài sẽ nghiên cứu vấn đề của chính sách nhập khẩu
công nghệ ở Việt Nam thời kỳ hiện nay và thực trạng nhập khẩu công nghệ, cụ thể
trong lĩnh vực công nghệ chế tạo máy và tự động hóa. Từ đó, đề xuất giải pháp thúc
đẩy quá trình nhập khẩu công nghệ của Việt Nam giai đoạn tiếp theo thực hiện mục
tiêu CNH, HĐH đất nước.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài này được xây dựng trên cơ sở đánh giá phân tích tổng hợp các tài liệu,
số liệu, thông tin lí luận và thực tế liên quan đến chính sách nhập khẩu công nghệ.
Ngoài ra đề tài còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác là:
- Khảo sát điển hình đối với một lĩnh vực;
- Phương pháp chuyên gia (lấy ý kiến của một số chuyên gia trong lĩnh vực
khoa học, công nghệ và thương mại).
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Chỉ ra các vấn đề còn tồn tại trong hoạt động nhập khẩu công nghệ, cụ thể
là lĩnh vực công nghệ chế tạo máy và tự động hóa
- Góp phần đáp ứng cả về lý luận và thực tiễn những vấn đề đặt ra cho công
tác nhập khẩu công nghệ, trong đó có nhập khẩu công nghệ cho chế tạo máy và tự
động hóa phục vụ CNH, HĐH đất nước.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài gồm ba chương chính sau đây:
Chương 1: Cơ sở lý luận và khung chính sách về nhập khẩu công nghệ.
Chương 2: Thực trạng của chính sách nhập khẩu công nghệ ở Việt Nam giai

đoạn hiện nay, cụ thể trong lĩnh vực công nghệ chế tạo máy và tự động hoá.
Chương 3: Đề xuất một số giải pháp chính sách về nhập khẩu công nghệ, cụ
thể trong lĩnh vực công nghệ chế tạo máy và tự động hoá.

5


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KHUNG CHÍNH SÁCH
VỀ NHẬP KHẨU CÔNG NGHỆ
1.1. Một số vấn đề lý luận và khái niệm có liên quan
1.1.1. Khái niệm về công nghệ
Trên thế giới và ở Việt Nam từ trước tới nay có nhiều cách định nghĩa, tuỳ
thuộc vào kinh nghiệm của các tác giả và các tổ chức khác nhau và để nhằm phục
vụ cho mục đích công việc của họ thì các định nghĩa cũng khác nhau. Trong đề tài
này tác giả liệt kê ra ở đây một số định nghĩa đã được công bố.
UNCTAC đưa ra định nghĩa vào năm 1972 như sau: Công nghệ là một đầu
vào cần thiết cho sản xuất, và như vậy, nó được mua và bán trên thị trường như một
hàng hoá và được thể hiện dưới một trong các dạng sau đây: Tư liệu sản xuất và đôi
khi là các sản phẩm trung gian; nhân lực có trình độ chuyên môn cao; thông tin về
khoa học kỹ thuật và thương mại.
Ngân hàng Thế giới (WB) năm 1985 đưa ra định nghĩa: Công nghệ là
phương pháp chuyển hoá các nguồn lực thành sản phẩm, gồm 3 yếu tố: Thông tin,
công cụ và sự hiểu biết (Kiến thức) và mục tiêu cũng là chuyển hoá các nguồn lực
thành sản phẩm.
Theo Các Mác “Công nghệ làm nổi bật thái độ tích cực của con người đối
với tự nhiên, vạch rõ quá trình sản xuất trực tiếp ra đời sống của con người và
những điều kiện của đời sống xã hội của họ, cũng như những khái niệm tinh thần
bắt nguồn từ điều kiện ấy”. Quan niệm này do Các Mác trình bày trong bộ Tư bản
đã chỉ ra: một là, thông qua công nghệ, bộc lộ mối quan hệ của con người với tự

nhiên; hai là, thông qua công nghệ, bộc lộ mối quan hệ giữa người với người; ba là,
thông qua công nghệ, hình thành nên mối quan hệ biện chứng tự nhiên – con người
– xã hội… Bản thân các yếu tố của công nghệ cũng được hình thành thông qua mối
quan hệ ấy. Đây cũng chính là quá trình con người nắm bắt các quy luật của tự
nhiên và vận dụng chúng vào trong các hoạt động sống của mình. Cải tạo, đổi mới,
phát triển để ngày càng phát triển hơn nữa.

6


Theo Luật KH&CN năm 2013 của Việt Nam thì: “Công nghệ là tập hợp các
phương pháp, quy trình, kỹ năng, bí quyết, công cụ, phương tiện dùng để biến đổi
các nguồn lực thành sản phẩm” [14, tr. 1]. Trong định nghĩa này, công nghệ bao
gồm cả kiến thức và công cụ, phương tiện và mục đích là biến đổi các nguồn lực
thành sản phẩm.
Qua các định nghĩa về công nghệ trên đây, định nghĩa về công nghệ của luật
KH&CN của Việt Nam là đúng đắn và cụ thể hơn cả, nó phản ảnh đầy đủ những
yếu tố thành phần của công nghệ, phù hợp với điều kiện cụ thể của nền kinh tế Việt
Nam và phục vụ tốt cho sự nghiệp công nghiệp hoá đất nước. Tuy nhiên, để làm rõ
các yếu tố thành phần của công nghệ, qua các tài liệu đã nghiên cứu có thể cụ thể
hoá và phân loại các yếu tố thành phần của công nghệ ra 4 phần sau đây:
-

Phần kỹ thuật (Technicware); bao gồm các phương tiện vật chất cần thiết
nhằm chuyển đổi đối tượng lao động như: thiết bị, máy móc v.v...;

-

Phần thông tin (Inforware) bao gồm các tư liệu công nghệ mà bản thân
phần kỹ thuật không đem lại thông tin trực quan, ví dụ như bản thiết kế,

các bản tính toán, công thức, phương trình, các hướng dẫn thao tác, mẫu
mã;

-

Phần con người (Humanware) bao gồm kỹ năng và kinh nghiệm của con
người làm chủ công nghệ, hay còn gọi là năng lực sáng tạo, kỹ năng, kỹ
xảo;

-

Phần tổ chức (Organware) là sự bố trí và mối liên hệ trong sản xuất, nó
bao gồm cơ cấu tổ chức cho các hoạt động, ví dụ như: sự phân nhiệm, hệ
thống công tác quản lý v.v... Các thành phần này có mối liên hệ mật thiết
với nhau, thành phần kỹ thuật được gọi là phần cứng của công nghệ, các
thành phần còn lại gọi là phần mềm của công nghệ.

1.1.2. Phân loại công nghệ
* Căn cứ theo nguồn gốc công nghệ có thể chia thành hai loại chính là công
nghệ nguồn và công nghệ thứ cấp:

7


- Công nghệ nguồn: Là công nghệ được tạo ra lần đầu từ các phát minh sáng
chế, giải pháp hữu ích. Công nghệ nguồn ở nước nào cũng có thể, nhưng hiện nay
phần lớn công nghệ nguồn được tạo ra từ các tập đoàn đa quốc gia của các nước
công nghiệp phát triển như Mỹ, Anh, Pháp …
- Công nghệ thứ cấp: Là công nghệ đã được chuyển giao lần thứ nhất hoặc là
công nghệ thứ cấp lần thứ 2, lần thứ 3… Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan đều có

những công nghệ hiện đại nhưng phần lớn đều không phải là công nghệ nguồn
nhưng được chuyển giao lần đầu từ Mỹ hoặc Anh, ví dụ như điện thoại SAMSUNG
rất hiện đại nhưng phải sử dụng tới 40% phát minh, sáng chế của Mỹ. Như vậy tiếp
nhận công nghệ từ Nhật Bản, Hàn Quốc, nhưng thực chất các công nghệ đó đi sau
công nghệ nguồn ít nhất là 2 đến 3 thế hệ. Các nước đang phát triển cũng có khả
năng tạo được công nghệ nguồn nhưng chưa hẳn đấy là công nghệ tiên tiến và hiện
đại, ví dụ công nghệ sản xuất kẹo dừa ở Bến Tre là công nghệ nguồn, nhưng công
nghệ này lại sử dụng dụng các thao tác lạc hậu.
* Căn cứ vào mức độ hàm lượng các nguồn lực trong công nghệ có thể chia
làm 3 công nghệ chính:
- Công nghệ có hàm lượng lao động cao (Labour intensive): may mặc, dệt,
lắp ráp, chế tạo.
- Công nghệ có hàm lượng tri thức cao (Know intensive): Phần mềm, công
nghệ sinh học, tự động hóa…
* Căn cứ vào trình độ.
Cho đến nay mặc dù đã được nói đến nhiều tài liệu hoặc các cuộc hội thảo
nhưng khái niệm và các tiêu chí để đánh giá trình độ công nghệ chưa thật rõ ràng,
chính xác mà chỉ có thể tương đối, chủ yếu dựa trên các cơ sở định tính, ví dụ như:
- Công nghệ hiện đại: là công nghệ có sự phối hợp sử dụng các thành tựu của
công nghệ nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới vào quá trình
sản xuất (thiết bị công nghệ thế hệ thứ IV- chế tạo vào những năm đầu thập kỷ 90)

8


- Công nghệ tiên tiến là công nghệ có trình độ tự động, điện tử, vi điện tử ở
mức cao, tự động toàn bộ thiết bị hoặc một công đoạn sản xuất (thiết bị công nghệ
thế hệ thức III và đầu thứ IV-chế tạo trong thập kỷ 80).
- Công nghệ trung bình tiên tiến: là công nghệ có mức độ tự động cơ khí –
điện tử cao (cơ khí và chủ yếu) với thiết bị công nghệ cuối thế hệ II đầu thế hệ III

(chế tạo trong thập kỉ 70,80).
- Công nghệ trung bình: là công nghệ có mức độ tự động cơ khí khá (tự động
một số thao tác trên thiết bị công nghệ hoặc trong công đoạn sản xuất), với thiết bị
công nghệ cuối thế hệ I đầu thế hệ II.
1.1.3. Khái niệm liên quan đến công nghệ chế tạo máy và tự động hóa
a. Công nghệ chế tạo máy là một ngành công nghệ mũi nhọn trong việc chế
tạo ra các loại máy móc, thiết bị sản xuất. Đây là ngành quyết định trình độ kỹ thuật
và công nghệ của một đất nước. Chế tạo máy thường gắn liền với cơ khí chế tạo và
không thể tách rời.
b. Công nghệ tự động hóa là một ngành công nghệ liên quan đến việc ứng
dụng các kỹ thuật cơ khí hiện đại, kỹ thuật điều khiển và kỹ thuật máy tính vào việc
vận hành và điều khiển quá trình sản xuất. Tự động hóa là ngành thuộc nhóm ngành
điện-điện tử dùng để chỉ một công việc được thực hiện mà không có sự giúp đỡ của
bất kỳ sự can thiệp trưc tiếp của con người. Tự động hóa có nghĩa là thực hiện một
nhiệm vụ đặc biệt với sự giúp đỡ của mạch điện truyền động điện. Tự động hóa đã
luôn luôn chứng tỏ là một ý tưởng có hiệu quả đối với hầu hết các ngành công
nghiệp và các công ty, mà đối phó với sản xuất, vốn và hàng hoá tiêu dùng. Bất kỳ
loại hình sản xuất sẵn sàng tạo điều kiện thuận lợi bằng cách tự động hóa.
Tự động hóa đã được thực hiện bằng phương tiện khác nhau bao gồm cơ khí,
thủy lực, khí nén, điện, điện tử và máy tính, thường kết hợp. Các hệ thống phức tạp,
chẳng hạn như các nhà máy hiện đại, máy bay và tàu thường sử dụng tất cả những
kỹ thuật kết hợp.

9


Khả năng ứng dụng của tự động hóa:
Tự động hóa đang ngày nay đa được áp dụng vào hầu hết các lĩnh vực trong
đời sống xã hội, từ hỗ trợ sản xuất kinh doanh cho đến chăm sóc sức khỏe con
người, ví dụ như: Robot, dây chuyền sản xuất, các hệ thống thông minh…, nó giảm

thiểu sức lao động, gia tăng sản xuất và tăng khả năng cạnh tranh sản phẩm, từ các
dây chuyền tự động có thể sản xuất ra hàng loạt các sản phẩm với giá thành rẻ.
Những hạn chế của tự động hóa
Nhiều vai trò đối với con người trong quá trình công nghiệp hiện nay nằm
ngoài phạm vi của tự động hóa. Nhân lực trình độ nhận dạng mẫu, hiểu ngôn ngữ và
khả năng sản xuất là ngôn ngữ tốt hơn khả năng của các hệ thống cơ khí và máy
tính hiện đại. Nhiệm vụ yêu cầu đánh giá chủ quan hoặc tổng hợp các dữ liệu cảm
giác phức tạp, chẳng hạn như mùi hương và âm thanh, cũng như nhiệm vụ cấp cao
như lập kế hoạch chiến lược, hiện đang yêu cầu chuyên môn của con người. Trong
nhiều trường hợp, việc sử dụng của con người là chi phí-hiệu quả hơn so với các
phương pháp cơ học ngay cả khi tự động hóa các nhiệm vụ công nghiệp là có thể.
Vượt qua những trở ngại đó là một con đường để đưa ra giả thuyết sau khan hiếm
kinh tế.
Vai trò và ý nghĩa của tự động hóa quá trình sản xuất:
Tự động hóa các quá trình sản xuất cho phép giảm giá thành và nâng cao
năng suất lao động. Trong mọi thời đại, các quá trình sản xuất luôn được điều khiển
theo các qui luật kinh tế. Có thể nói giá thành là một trong những yếu tố quan trọng
xác định nhu cầu phát triển tự động hóa. Không một sản phẩm nào có thể cạnh tranh
được nếu giá thành sản phẩm cao hơn các sản phẩm cùng loại, có tính năng tương
đương với các hãng khác. Trong bối cảnh nền kinh tế đang phải đối phó với các
hiện tượng như lạm phát, chi phí cho vật tư, lao động, quảng cáo và bán hàng ngày
càng tăng buộc công nghiệp chế tạo phải tìm kiếm các phương pháp sản xuất tối ưu
để giảm giá thành sản phẩm. Mặt khác nhu cầu nâng cao chất lượng sản phẩm sẽ
làm tăng mức độ phức tạp của quá trình gia công. Khối lượng các công việc đơn
giản cho phép trả lương thấp sẽ giảm nhiều. Chi phí cho đào tạo công nhân và đội

10


ngũ phục vụ, giá thành thiết bị cũng tăng theo. Đây là động lực mạnh kích thích sự

phát triển của tự động hóa.
Tự động hóa các quá trình sản xuất cho phép cải thiện điều kiện sản xuất.
Các quá trình sản xuất sử dụng quá nhiều lao động sống rất dễ mất ổn định về giờ
giấc, về chất lượng gia công và năng suất lao động, gây khó khăn cho việc điều
hành và quản lý sản xuất. Các quá trình sản xuất tự động cho phép loại bỏ các
nhược điểm trên. Đồng thời tự động hóa đã thay đổi tính chất lao động, cải thiện
điều kiện làm việc của công nhân, nhất là trong các khâu độc hại, nặng nhọc, có tính
lặp đi lặp lại nhàm chán, khắc phục dần sự khác nhau giữa lao động trí óc và lao
động chân tay.
Tự động hóa các quá trình sản xuất cho phép đáp ứng cường độ lao động sản
xuất hiện đại. Với các loại sản phẩm có số lượng lớn (hàng tỉ cái trong một năm)
như đinh, bóng đèn điện, khóa kéo v..v.thì không thể sử dụng các quá trình sản xuất
thủ công để đáp ứng sản lượng yêu cầu với giá thành nhỏ nhất.
Tự động hóa các quá trình sản xuất cho phép thực hiện chuyên môn hóa và
hoán đổi sản xuất. Chỉ có một số ít sản phẩm phức tạp là được chế tạọ hoàn toàn bởi
một nhà sản xuất. Thông thường một hãng sẽ sử dụng nhiều nhà thầu để cung cấp
các bộ phận riêng lẻ cho mình, sau đó tiến hành liên kết, lắp ráp thành sản phẩm
tổng thể. Các sản phẩm phức tạp như ôtô, máy bay.v…v nếu chế tạo theo phương
thức trên sẽ có rất nhiều ưu điểm. Các nhà thầu sẽ chuyên sâu hơn với các sản phẩm
của mình. Việc nghiên cứu, cải tiến chỉ phải thực hiện trong một vùng chuyên môn
hẹp, vì thế sẽ có chất lượng cao hơn, tiến độ nhanh hơn. Sản xuất của các nhà thầu
có điều kiện chuyển thành sản xuất hàng khối. Có thể nói tự động hóa giữ một vai
trò quan trọng trong việc thực hiện tiêu chuẩn hóa bởi chỉ có nền sản xuất tự động
hóa mới cho phép chế tạo các sản phẩm có kích cỡ và đặc tính không hoặc ít thay
đổi với số lượng lớn một cách hiệu quả nhất.
1.1.4. Khái niệm chuyển giao công nghệ

11



CGCN là chuyển giao quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng một phần hoặc
toàn bộ công nghệ từ bên có quyền chuyển giao công nghệ sang bên nhận công
nghệ [12, tr. 2]. Trong đó:
Chuyển giao quyền sở hữu công nghệ: là việc chủ sở hữu công nghệ chuyển
giao toàn bộ quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt công nghệ cho tổ
chức, cá nhân khác. Trường hợp công nghệ là đối tượng được bảo hộ quyền sở hữu
công nghiệp thì việc chuyển giao quyền sở hữu công nghệ phải được thực hiện cùng
với việc chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp theo quy định của pháp luật về sở
hữu trí tuệ.
Chuyển giao quyền sử dụng công nghệ: tổ chức, cá nhân cho phép tổ chức,
cá nhân khác sử dụng công nghệ của mình.
Phạm vi chuyển giao quyền sử dụng công nghệ do các bên thỏa thuận bao
gồm:
+ Độc quyền hoặc không độc quyền sử dụng công nghệ;
+ Được chuyển giao lại hoặc không được chuyển giao lại quyền sử dụng
công nghệ cho bên thứ ba;
+ Lĩnh vực sử dụng công nghệ;
+ Quyền được cải tiến công nghệ, quyền được nhận thông tin cải tiến công
nghệ;
+ Độc quyền hoặc không độc quyền phân phối, bán sản phẩm do công nghệ
được chuyển giao tạo ra;
+ Phạm vi lãnh thổ được bán sản phẩm do công nghệ được chuyển giao tạo
ra;
+ Các quyền khác liên quan đến công nghệ được chuyển giao.
Trường hợp công nghệ là đối tượng được bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp
thì việc chuyển giao quyền sử dụng công nghệ phải được thực hiện cùng với việc
chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp theo quy định của pháp luật về sở hữu trí
tuệ.

12



CGCN tại Việt Nam là việc CGCN giữa các tổ chức, cá nhân hoạt động trong
lãnh thổ Việt Nam.
CGCN từ nước ngoài vào Việt Nam là việc tổ chức, cá nhân hoạt động ở
nước ngoài chuyển giao công nghệ cho tổ chức, cá nhân hoạt động trong lãnh thổ
Việt Nam.
CGCN từ Việt Nam ra nước ngoài là việc tổ chức, cá nhân hoạt động trong
lãnh thổ Việt Nam CGCN cho tổ chức, cá nhân hoạt động ở nước ngoài. [12, tr. 2]
Xét về yếu tố pháp lý CGCN là một hoạt động nhằm chuyển nhượng quyền
sở hữu hoặc chuyển giao quyền sử dụng một công nghệ từ chủ thể này sang chủ thể
khác, trên cơ sở hợp đồng CGCN đã được thỏa thuận, phù hợp với các quy định
của pháp luật. Bên chuyển giao có nhiệm vụ CGCN có kèm hoặc không kèm máy
móc, thiết bị, dịch vụ... cho bên nhận chuyển giao. Bên nhận chuyển giao có nghĩa
vụ thanh toán các khoản cho bên chuyển giao để tiếp thu, sử dụng các kiến thức
công nghệ đó theo các điều khoản đã ghi trong hợp đồng.
Xét về yếu tố nội tại công nghệ được xem gồm hai phần: phần cứng (máy
móc, thiết bị…) và phần mềm (quy trình, công thức, bí quyết…). CGCN chủ yếu
thuộc phần mềm của công nghệ. Phần cứng của công nghệ được mua bán trên cơ sở
các quan hệ thương mại thông thường, vì nó có hiện vật cụ thể và giá cả ấn
định.Tuy nhiên, vì phần mềm của công nghệ thường được thể hiện trên những
phương tiện, thiết bị cụ thể, cho nên trong quá trình CGCN luôn phải giải quyết mối
quan hệ với phần cứng. Phần cứng chỉ được coi là đi kèm công nghệ được chuyển
giao lần đầu, còn các lần tiếp theo chỉ đơn thuần là máy móc, thiết bị… bởi vậy,
giá cả phần cứng đi kèm công nghệ được chuyển giao rất khác với giá cả phần
cứng khi chuyển giao độc lập.
Việc CGCN được thực hiện thông qua các hình thức sau đây:
- Hợp đồng CGCN độc lập;
- Phần CGCN trong dự án hoặc hợp đồng sau đây:
+ Dự án đầu tư;

+ Hợp đồng nhượng quyền thương mại;

13


+ Hợp đồng chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp;
+ Hợp đồng mua bán máy móc, thiết bị kèm theo CGCN;
- Hình thức CGCN khác theo quy định của pháp luật.
Phương thức CGCN bao gồm:
+ Chuyển giao tài liệu về công nghệ;
+ Đào tạo cho bên nhận công nghệ nắm vững và làm chủ công nghệ theo thời
hạn quy định trong hợp đồng CGCN;
+ Cử chuyên gia tư vấn kỹ thuật cho bên nhận công nghệ đưa ra công nghệ
vào sản xuất với chất lượng công nghệ và chất lượng sản phẩm đạt các chỉ tiêu và
tiến độ quy định trong hợp đồng CGCN;
+ Phương thức chuyển giao khác do các bên thỏa thuận.
1.1.5. Một số con đường chuyển giao công nghệ hiện nay ở nước ta
Trong thực tiễn hiện nay tại Việt Nam, công nghệ được nhập khẩu thông qua
các con đường chủ yếu sau đây:
- CGCN qua con đường đầu tư trực tiếp của nước ngoài trong các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
- CGCN qua con đường cho vay vốn ODA và tài trợ nước ngoài.
- CGCN qua con đường mua trực tiếp từ nước ngoài.
Ngoài ra còn một số hình thức CGCN không chính thức như: Hội thảo, hội
nghị, xuất bản phẩm, tham quan, thực tập, đào tạo ở nước ngoài, đặc biệt do chính
sách mở cửa của Việt Nam mà lực lượng Việt kiều sống ở nước ngoài cũng trở về
đầu tư sản xuất kinh doanh cùng với việc đầu tư về tài chính là vốn đầu tư về khoa
học, công nghệ.
1.1.6. Khái niệm nhập khẩu công nghệ
Nhập khẩu công nghệ được hiểu là một quốc gia này nhập khẩu công nghệ từ

một quốc gia khác (có thể nhập khẩu đầy đủ hoặc không đầy đủ 4 thành phần của
công nghệ), nhằm mục đích đầu tư đổi mới hoặc thay thế công nghệ cũ để sản xuất
ra các sản phẩm có chất lượng cao, giá thành hạ và đảm bảo các tiêu chuẩn về an
toàn, an ninh và bảo vệ môi trường. Các hình thức nhập khẩu bao gồm:

14


Nhập khẩu trực tiếp
Nhập khẩu trực tiếp là hoạt động nhập khẩu độc lập của một doanh nghiệp
kinh doanh nhập khẩu, trong đó, doanh nghiệp phải trực tiếp làm mọi khâu của quá
trình kinh doanh nhập khẩu, như tìm kiếm đối tác, đàm phán ký kết hợp đồng, thực
hiện hợp đồng… và phải bỏ vốn để tổ chức kinh doanh nhập khẩu. Khi sử dụng
hình thức này, các doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu phải hoàn toàn chịu trách
nhiệm đối với các hoạt động của mình. Độ rủi ro của hình thức nhập khẩu trực tiếp
cao hơn song lại đem lại lợi nhuận cao hơn so với các hình thức khác.
Nhập khẩu ủy thác
Nhập khẩu ủy thác là hoạt động hình thành giữa một doanh nghiệp trong
nước có vốn ngoại tệ riêng và nhu cầu nhập khẩu một số lại hàng hóa nhưng lại
không có quyền tham gia hoặc không có khả năng tham gia hoặc tham gia không
đạt hiệu quả, khi đó sẽ ủy nhiệm cho các doanh nghiệp khác làm nhiệm vụ giao dịch
trực tiếp và tiến hành nhập khẩu theo yêu cầu của mình. Thương nhân nhận ủy thác
không được sử dụng hạn ngạch hoặc giấy phép do Bộ Thương mại cấp cho mình để
nhận ủy thác nhập khẩu.
Nhập khẩu hàng đổi hàng
Nhập khẩu hàng đổi hàng cùng trao đổi bù trừ là hai nghiệp vụ chủ yếu của
buôn bán đối lưu, đó là hình thức nhập khẩu đi đôi với xuất khẩu. Phương tiện
thanh toán trong hoạt động này không dùng tiền mà chính là hàng hóa.
Tạm nhập tái xuất
Tạm nhập tái xuất là hình thức doanh nghiệp nhập khẩu hàng hóa nhưng

không phải để tiêu thụ tại thị trường trong nước mà là để xuất khẩu sang một nước
khác nhằm thu lợi nhuận. Những mặt hàng này không được gia công hay chế biến
tại nơi tái xuất. Hàng hóa vừa phải làm thủ tục nhập khẩu vừa phải làm thủ tục xuất
khẩu sau đó.
1.1.7. Vai trò của nhập khẩu công nghệ
Công nghệ là một loại hàng hóa đặc biệt ở chỗ là không phải bất cứ nước nào
nhập khẩu được nhưng công nghệ đều có thể thành công trong việc sử dụng công

15


nghệ nhập và cải thiện được vị trí về trình độ công nghệ của quốc gia mình so với
các nước trên thế giới. Bởi lẽ, nhập khẩu công nghệ mới chỉ là điều kiện cần và điều
kiện đủ là phải tăng cường năng lực nội sinh cả về trình độ lẫn cơ sở hạ tầng để có
thể phát huy hiệu quả của công nghệ nhập khẩu cũng như tiếp tục nghiên cứu và
phát triển trình độ công nghệ của nước nhà trên cơ sở những công nghệ nhập. Vì
vậy, vai trò của nhập khẩu công nghệ rất quan trọng vì nó là điều kiện cần thiết cho
bước phát triển năng lực nội sinh về KH&CN tiếp theo của đất nước nói chung và
khối doanh nghiệp nói riêng.
Nhập khẩu công nghệ chính là nhằm mục đích nâng cao trình độ năng lực
công nghệ của quốc gia và bằng những công nghệ này có thể sản xuất ra các sản
phẩm chất lượng tốt đáp ứng các tiêu chuẩn của quốc gia cũng như đạt các tiêu
chuẩn xuất khẩu, có giá cả hợp lý, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm và của
doanh nghiệp trên thị trường nội địa và cả thị trường nước ngoài. Mặt khác, nhập
khẩu công nghệ cũng đóng một vai trò hết sức quan trọng trong quá trình hình thành
và xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp lý để phát triển kinh tế đất nước, trên cơ sở
phát huy hết mọi lợi thế và sử dụng tối ưu nguồn lực của quốc gia. Đối với Việt
Nam, do điều kiện nên kinh tế đang ở trình độ phát triển thấp, trình độ công nghệ
còn lại hậu so với các nước trong khu vực và thế giới, muốn đưa nền kinh tế phát
triển với tốc độ cao và liên tục thì một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu là

phải nhập khẩu được những công nghệ tiên tiến đáp ứng được những yêu cầu của
CNH, HĐH đất nước.
1.1.8. Vai trò của chính sách nhập khẩu công nghệ
Định hướng cho các doanh nghiệp trong nhập khẩu công nghệ đáp ứng yêu
cầu CNH, HĐH. Chính sách nhập khẩu công nghệ do nhà nước đề ra có tác dụng
định hướng cho các doanh nghiệp có chiến lược sản xuất và kinh doanh, chiến lược
mặt hàng hướng về xuất khẩu. Trên cơ sở nghiên cứu thị trường trong và ngoài
nước cũng như những khả năng và lợi thế của mình, từng doanh nghiệp cần xác
định lĩnh vực và mục tiêu sản xuất, kinh doanh, từ đó có sự lựa chọn công nghệ,
máy móc, thiết bị phù hợp với yêu cầu và khả năng của mình.

16


Khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng công nghệ nâng cao sức cạnh tranh
trên thị trường, thông qua các chính sách tài chính như cho vay ưu đãi, thuế ưu đãi
khi nhập khẩu và sử dung công nghệ. Hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc sử dụng
công nghệ như cung cấp thông tin, đào tạo nguồn nhân lực với những ưu đãi nhất
định.
1.2. Những lợi ích của việc nhập khẩu công nghệ đáp ứng yêu cầu công
nghiệp hóa, hiện đại hóa của Việt Nam
Ta có thể hiểu rằng về thực chất, CNH, HĐH là quá trình cải biến lao động
thủ công thành lao động sử dụng công nghệ, kỹ thuật tiên tiến, hiện đại trong toàn
bộ nền kinh tế quốc dân để đạt được năng suất xã hội cao.
Nhập khẩu công nghệ phải gắn với yêu cầu CNH, HĐH. Nhập khẩu công nghệ
chính là nhằm mục đích nâng cao trình độ năng lực công nghệ của quốc gia. Mặt khác,
nhập khẩu công nghệ cũng đóng một vai trò hết sức quan trọng trong quá trình hình
thành và xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp lý để phát triển kinh tế đất nước, trên cơ sở
phát huy hết mọi lợi thế và sử dụng tối ưu các nguồn lực của quốc gia.
Nhập khẩu công nghệ gắn liền với công tác bảo vệ môi trường và phát triển

bền vững. Những năm gần đây trong lĩnh vực công nghệ đã xuất hiện khái niệm
“công nghệ sạch” nghĩa là những công nghệ không có hoặc ít ảnh hưởng đến ô
nhiễm môi trường trong quá trình công nghệ được vận hành bởi con người, các
quốc gia có nền công nghiệp phát triển đều hướng vào việc sản xuất và sử dụng các
“công nghệ sạch” này, bởi lẽ nó không chỉ phục vụ lợi ích lâu dài của mỗi quốc gia
là phát triển bền vững mà còn tiết kiệm được nhiều chi phí cho việc xử lý chất thải
bảo vệ môi trường trong quá trình sử dụng những công nghệ không sạch.
Nhập khẩu công nghệ gắn liền với việc tạo công ăn việc làm cho người lao
động. Vì vậy, việc nhập khẩu này đòi hỏi phải có chiến lược vừa phát triển các
ngành công nghiệp vừa đảm bảo phát triển theo chiều rộng và cả chiều sâu, nghĩa là
vừa tăng thêm quy mô, vừa tạo thêm những ngành nghề mới, đồng thời nâng cao
trình độ công nghệ, trình độ sản xuất và kinh doanh của các ngành kinh tế.

17


Nếu coi công nghệ là một trong những động lực thúc đẩy sản xuất phát triển,
nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, thì công tác nhập khẩu và đổi mới
công nghệ phải đựơc coi trọng và có ý nghĩa tiên quyết trong việc chuẩn bị cho quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế một cách chủ động và có hiệu quả. Chính vì vậy việc
nhập khẩu công nghệ của Việt Nam phải được nghiên cứu một cách có khoa học,
trên cơ sở nghiên cứu thị trường khu vực và thế giới để tìm ra những lợi thế so sánh,
lợi thế của quốc gia về từng ngành kinh tế, từng sản phẩm cụ thể để có kế hoạch
nhập khẩu và đổi mới công nghệ, đầu tư thích đáng cho ngành, sản phẩm đó nhằm
đem lại hiệu quả kinh tế cao.
Nhập khẩu công nghệ phải phù hợp với điều kiện tài chính, trình độ khoa học
kỹ thuật của Doanh nghiệp. Để phát huy hết hiệu quả của việc nhập khẩu và sử
dụng công nghệ trong các doanh nghiệp của Việt Nam, một trong những điều kiện
quan trọng là khả năng tài chính và trình độ làm chủ khoa học, công nghệ của doanh
nghiệp hiện tại ở mức nào, tiềm năng và xu hướng trong thời gian tới ra sao. Đó

chính là những tiền đề để doanh nghiệp xây dựng chiến lược phát triển công nghệ
trong tương lai, doanh nghiệp phải có kế hoạch cụ thể khả thi, chuẩn bị đầy đủ các
điều kiện để tiến hành nhập khẩu công nghệ và triển khai việc đưa công nghệ nhập
khẩu này vào quá trình sản xuất kinh doanh của mình nhằm phát triển và đạt hiệu
quả kinh tế cao.
Trong các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế nói trên, các doanh
nghiệp liên doanh và có vốn đầu tư nước ngoài và trong một số doanh nghiệp lớn
nhà nước thì công nghệ đang được sử dụng có trình độ hiện đại, trình độ và năng
lực quản lý của đội ngũ cán bộ ở trong các doanh nghiệp này cũng khá cao, tiềm lực
tài chính cũng dồi dào có khả năng nhập khẩu và sử dụng những công nghệ hiện đại
và tiên tiến. Còn đối với phần lớn các doanh nghiệp vừa và nhỏ, tình hình hoàn toàn
ngược lại, các doanh nghiệp này yếu về tài chính, thiếu những cán bộ quản lý năng
động, sáng tạo và đội ngũ kỹ sư và công nhân kỹ thuật cũng chưa hoàn toàn đáp
ứng được yêu cầu trong thực tiễn.

18


Theo đánh giá của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, khu vực
DNVVN chiếm một vị trí quan trọng trong nền kinh tế. Con số thống kê cho hay,
DNVVN chiếm trên 97% tổng số DN cả nước, đóng góp 50% GDP, 33% thu ngân
sách nhà nước (NSNN), tạo ra 62% việc làm cho người lao động, đóng góp 49%
vào việc tạo giá trị gia tăng cho nền kinh tế… Tuy nhiên, các DNVVN hầu hết có
quy mô từ nhỏ đến siêu nhỏ (vốn chỉ ở mức 4 - 7 tỷ đồng/DN).
Những số liệu trên đây cho thấy tiềm lực tài chính của các doanh nghiệp Việt
Nam hiện nay còn rất hạn chế, vì vậy việc đầu tư cho đổi mới và nhập khẩu công
nghệ sẽ gặp nhiều khó khăn. Đây là vấn đề hạn chế sức sản xuất của các doanh
nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam không chỉ trong thời gian qua mà cả trong thời
gian sắp tới, muốn giải quyết vấn đề về vốn nhất thiết nhà nước cần phải nghiên cứu
và ban hành các chính sách phù hợp để hỗ trợ các doanh nghiệp phát triển trên cơ sở

nhập khẩu và làm chủ công nghệ mới.
1.3. Kinh nghiệm quốc tế về chính sách nhập khẩu công nghệ, bài học cho Việt
Nam
Mặc dù đã có nhiều sản phẩm công nghệ xuất khẩu nhưng Trung Quốc, đặc
biệt là Nhật Bản, Hàn Quốc vẫn được coi là những nước điển hình về nhập khẩu
công nghệ manh mẽ và thành công trên thị trường công nghệ thế giới. Những nước
này đã nhập khẩu và CGCN sao cho phù hợp với điều kiện của riêng mình rồi từ đó
sao chép, cải tiến và phát triển thành công nghệ của nước mình. Vì thế, nghiên cứu
chính sách nhập khẩu và quản lý công nghệ nhập khẩu của họ chúng ta có thể rút ra
được một số kinh nghiệm cho Việt Nam giai đoạn hiện nay.
1.3.1. Kinh nghiệm của một số nước về xây dựng chính sách nhập khẩu công
nghệ
a. Nhật Bản
Nhật Bản là nước có thành tựu về phát triển KH&CN thành công thần kỳ.
Sau đại chiến thế giới lần thứ hai, Nhật Bản là nước bại trận, nền kinh tế kiệt quệ,
nhưng do có chiến lược phát triển KH&CN đúng đắn với phương pháp và cách
thức, bước đi sáng tạo, Nhật Bản đã nhanh chóng trở thành một trong những cường

19


×