Tải bản đầy đủ (.pdf) (31 trang)

Nâng cao đội ngũ cán bộ , công chức trong giai đoạn hiện nay, mà trọng tâm là lãnh đạo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (345.96 KB, 31 trang )

Học viện hành chính - Lớp KH8A
Bế Thị Lê – KH8A44 1
Phần I: MỞ ĐẦU
Để tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, Đảng và nhà nước ta đã xác định nhiệm vụ trọng tâm là cải cách hành chính. Các
nội dung cải cách hành chính được Nhà nước ta xác định bao gồm: cải cách thể chế hành
chính, cải cách bộ máy nhà nước, xây dựng đội ngũ cán bộ công chức, cải cách tài chính
công và ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của bộ máy nhà nước. Tất cả
những nội dung này hướng vào một mục tiêu chung đó là: xây dựng bộ máy hành chính
ngày càng kiện toàn; xây dựng đội ngũ cán bộ trong sạch, vững mạnh vững bước đi lên
chủ nghĩa xã hội.
Trong quá trình đổi mới đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất
nước và mở cửa, hội nhập quốc tế. là cả một chặng đường phấn đấu lâu dài với những
nhiệm vụ cao cả, vô cùng khó khăn phức tạp đòi hỏi Nhà nước ta đẩy mạnh cải cách hành
chính. Đặc biệt là việc nâng cao đội ngũ cán bộ, công chức. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng
định: “Cán bộ là gốc của mọi công việc” công việc thành công hoặc thất bại đều do cán
bộ kém. Không có đội ngũ cán bộ tốt thì đường lối, nhiệm vụ chính trị đúng cũng không
trở thành hiện thực. Chính vì vậy, đội ngũ cán bộ, công chức luôn được Đảng ta quan tâm
chú ý đào tạo, bồi dưỡng và có chính sách cụ thể trong mỗi giai đoạn, mỗi thời kì cách
mạng Viêt Nam.
Trong 20 năm đổi mới vừa qua đội ngũ cán bộ, công chức đã được quan tâm về
mọi mặt, ngày càng trưởng thành và đảm đương nhiều nhiệm vụ, đứng vững trước mọi
khó khăn thử thách: thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Qúa trình đổi mới
đòi hỏi đội ngũ cán bộ lãnh đạo, công chức có đủ năng lực và phẩm chất, không ngừng
sáng tạo, phải vươn mạnh mẽ hơn nữa mới có thể đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ, ngày
càng nặng nề và khó khăn.
Tuy nhiên, hiên nay đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý Việt Nam có
hiện tương vừa thiếu lại vừa yếu, tình trạng hụt hẫng cán bộ lãnh đạo, thiếu đội ngũ kế
cận diễn ra ở nhiều cấp, nhiều ngành. Một bộ phận không nhỏ suy thoái về đạo đức, chính
trị , lối sống; cơ hội thực dụng tham ô, tham nhũng, lãng phí đang làm suy giảm niềm tin
với nhân dân và gây cản trở tiến trình đổi mới. Công tác cán bộ nhất là khâu đánh giá đào


tạo bồi dưỡng, sử dụng cán bộ còn nhiều vấn đề nổi cộm, cần phải giải quyết. Vậy để xây
Học viện hành chính - Lớp KH8A
Bế Thị Lê – KH8A44 2
dựng đội ngũ cán bộ, công chức có đầy đủ năng lực và phẩm chất. có đủ đức và tài để đáp
ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, Đảng và nhà nước ta cần nghiên
cứu cả lý luận và thực tiễn, từ việc xem xét đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử
dụng đến kiểm tra, quản lý và việc thực hiện chế độ, chính sách cán bộ cần được xem xét,
để công tác lãnh đạo quản lý hiệu quả
Sau đây, em xin trình bày bài tiểu luận về vấn đề: Nâng cao đội ngũ cán bộ, công
chức trong giai đoạn hiện nay, mà trọng tâm là cán bộ lãnh đạo.
Em xin chân thành cám ơn sự quan tâm, giúp đỡ các thầy cô và các bạn giúp em
hoàn thành bài tiểu luận này














Học viện hành chính - Lớp KH8A
Bế Thị Lê – KH8A44 3
Phần II: NỘI DUNG
I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO QUẢN LÝ.

1, Quan niêm về lãnh đạo, quản lý.
Lãnh đạo là một dạng hoạt động lâu đời nhất của loài người… Từ buổi bình
minh trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ, khi con người sông thành bầy đàn đã có những
hình thức sơ khai của lãnh đạo, đó là lãnh đạo của các tù trưởng, tộc người. Lãnh đạo là
một hoạt động cần thiết từ xưa đến nay. Lãnh đạo là hoạt động của nhiều người trên cơ sở
phân công và hợp tác hóa lao động. Lãnh đạo là sự dẫn dắt đội ngũ hoặc phong trào theo
một đường lối định hướng cụ thể.
Sự lãnh đạo như là một nghệ thuật hay một quá trình tác động đến con người
sao cho họ tự nguyện và nhiệt tình phấn đấu để đạt được các mục tiêu của tổ chức đề
ra.Lãnh đạo là sự chỉ dẫn, điều khiển, ra lệnh và nêu gương. Thực chất lãnh đạo là sự tuân
thủ.
Vậy, cán bộ lãnh đạo là người giữ chức vụ và trách nhiệm cao trong một tổ chức,
có ảnh hưởng đến hoạt động của tổ chức và bộ máy có vai trò định hướng, điều khiển
hoạt động của bộ máy đó.
Người lãnh đạo có vai trò vô cùng quan trọng. Người lãnh đạo được giao chức
năng quản lý tập thể và tổ chức hoạt động của nó theo một cách chính thức. Người lãnh
đạo là người dẫn dắt và điều khiển công việc của tập thể để đat được mục tiêu mong
muốn. Người lãnh đạo phải tìm hiểu mối tương quan giữa các cá nhân trong một nhóm
người và dùng động lực để thúc đẩy cho hoạt động theo đúng mục tiêu đã xác định.
Người lãnh đạo là người tạo ra một viễn cảnh thành hiện thực, viễn cảnh đó tốt đẹp hay
không là do vai trò của người lãnh đạo. Chức năng chủ yếu của người lãnh đạo là xác
định mục tiêu hành động và tổ chức, quản lý lực lượng để thực hiện mục tiêu. Tính cách
của người cán bộ là quyết sách, sách một cách chính xác, sau đó tổ chức thực hiện quyết
sách đó.Nói cách khác người lãnh đạo là người xác định mục tiêu và động viên mọi người
phấn đáu vì mục tiêu đó
Người lãnh đạo phải có những đặc điểm sau:
Người lãnh đạo được cấp quyền bổ nhiệm chính thức.
Học viện hành chính - Lớp KH8A
Bế Thị Lê – KH8A44 4
Người lãnh đạo được pháp luật trao cho những quyền hạn và nghĩa vụ nhất định

theo chức vụ mà người đó đảm nhiệm
Người lãnh đạo phải có một hệ thống quyền hạn được thiết lập một cách chính
thức do nhà nước trao cho để tác động lên những người dưới quyền.
Người lãnh đạo phải đại diện cho nhóm của mình trong quan hệ chính thức với
các nhóm khác để giải quyết các vấn đề liên quan tới nhóm.
Người lãnh đạo là người quyết định các vấn đề của nhóm, chịu trách nhiệm về
tình hình thực hiện nhiệm vụ của tập thể mình phụ trách.
Trong mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội quần
chúng. Cán bộ là hạt nhân trong tập thể lãnh đạo. Đảng ta nêu rõ: cán bộ lãnh đạo chủ
chốt là người đứng đầu, giữ vị trí quan trọng nhất ở một cấp, một ngành, một đơn vị; có
trách nhiệm chính khi quyết định những vấn đề quan trọng về tất cả các mặt của xã hội
như: kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội…được quyền định đoạt, giải quyết các công việc,
xử lý các tình huống diễn ra thuộc phạm vi chức trách của tổ chức, của cấp, của ngành và
phù hợp với pháp luật hiện hành. Cán bộ là người xây dựng các kế hoạch, ra quyết định tổ
chức, điều hành, kiểm tra giám sát các hoạt động của cơ quan, đơn vị, duy trì hoạt động
thường xuyên một cách tối ưu để thực hiện các chương trình, kế hoạch, mục tiêu của cơ
quan, đơn vị đó.
2. V.I.Lênin với vấn đề cán bộ và công tác cán bộ
Trong những ngày đầu cách mạng V.I.Lênin đã chỉ rõ: Trong lịch sử chưa hề có
một giai cấp nào giành được quyền thống trị nếu nó không đào tạo ra được trong hàng
ngũ của mình những vị lãnh tụ chính trị, ngững đại biểu tiên phong có đủ khả năng tổ
chức và lãnh đạo phong trào.
V.I. Lênin nhấn mạnh về năng lực của người lãnh đạo. Người căn dặn: muốn
quản lý tốt phải có người thông thạo chuyên môn, phải biết một cách đầy đủ và chính xác
tất cả những điều kiện của sản xuất, phải biết kỹ thuật của nền sản xuất ở trình độ hiện đại
của nó, phải có một trình độ khoa học nhất định, phải học tập cách quản lý, phải có trình
độ tổng kết kinh nghiệm thực tiễn. Người yêu cầu bãi miễn những cán bộ lãnh đạo nào
không chịu học tập để trở thành cán bộ quản lý giỏi. Theo ông, để quản lý nhiệm vụ chính
trị được giao, ngoài việc thành thạo chuyên môn và một kiến thức khoa học đầy đủ, người
Học viện hành chính - Lớp KH8A

Bế Thị Lê – KH8A44 5
cán bộ phải tích cực tham gia hoạt động thực tiễn. Muốn vậy người cán bộ nhất thiết phải
đi vào cuộc sống và quan tâm những vấn đề nảy sinh từ cuộc sống thường ngày của quần
chúng, luôn có mặt giữa cuộc sống, hiểu biết những đường đi lối dọc của nó, kịp thời giải
quyết những khiếu nại của dân, chiếm được lòng tin vô hạn của quần chúng.V.I.Lênin yêu
cầu cán bộ: “Hãy gần gũi đời sống hơn nữa. Hãy chú ý xem công việc thường ngày của
họ, quần chúng công nông đang thực tế sáng tạo cái mới như thế nào. Hãy kiểm nghiệm
kỹ hơn xem cái mới đó có tính chất cộng sản đến mức độ nào”
Để trở thành người quản lý mẫu mực, người cán bộ phải có “uy tín tinh thần”
khi người đó giữ cương vị lãnh đạo tập thể.Uy tín đó có được do sự rèn luyện, thực hành
đạo đức của người chiến sĩ cách mạng, đạo đức của giai cấp cách mạng; phải khiêm tốn
không được giấu dốt, phải ngăn chặn tính tự mãn; phải biết thành thạo công việc mình,
ngoài chịu trách nhiệm về công việc đó phải chịu trách nhiệm về hành động của những
người dưới quyền; phải thường xuyên nghiêm túc phê bình và đấu tranh phê bình; chống
mọi mưu toan lợi dụng, núp dưới danh nghĩa phê bình để trấn áp sự phê bình và loại bỏ
những ý kiến bất đồng; chống chủ nghĩa quan liêu và mọi biểu hiện của nó, phê phán
những kẻ bịp bợm thích nói cho văn hoa
V.I. Lênin khẳng định: Nghiên cứu con người tìm những cán bộ có bản lĩnh là
then chốt. Tiêu chuẩn chủ yếu để đề bạt cán bộ vào các cương vị lãnh đạo là phẩm chất
chính trị, năng lực làm việc và tư cách đạo đức của người cán bộ. Phẩm chất chính trị
không chỉ thể hiện ở sự kiên định đường lối chính sách của Đảng mà còn ở khả năng đưa
chính sách đó đi vào cuộc sống. Khi lựa chọn và bố trí cán bộ thi phải đặt người đúng
việc. Chỉ có những người có tài thực sự tổ chức, những con người có bộ óc sáng suốt và
bản lĩnh tháo vát trong công tác thực tiễn, những người vừa trung thành với chủ nghĩa xã
hội vừa có năng lực tổ chức công tác của quần chúng và đã được thử thách “hàng chục lần
bằng cách đảm nhiệm từ những nhiệm đơn giản đến những nhiệm vụ khó khăn nhất” mói
xứng đáng đề bạt cương vị lãnh đạo và quản lý.
Trong việc luân chuyển, sắp xếp, bố chí cán bộ phải đảm bảo sao cho không
làm ảnh hưởng đến việc giới thiệu công tác với những người mà vấn đề thuyên chuyển ho
được bàn đến, và sao cho không ảnh hưởng đến công tác, nghĩa là chỉ tiến bằng cách nào

Học viện hành chính - Lớp KH8A
Bế Thị Lê – KH8A44 6
để việc đảm nhận công tác luôn luôn nắm trong tay người cán bộ hoàn toàn am hiều công
tác chuyên môn và đảm bảo thắng lợi cho công tác.
Kiểm tra công việc cũng là một khâu quan trọng trong nghệ thuật lãnh đạo, sẽ
đảm bảo hiệu quả tối qua của việc thực hiện nhiệm vụ chính trị. Kiểm tra công việc của
cán bộ phải được thực hiện một cách kiên trì, thận trọng, thiết thực và chỉ tiếp tục sau khi
đã chứng minh đầy đủ hiệu quả của phương pháp, của chế độ quản lý, của cách lựa chọn
cán bộ đã thực hiện. Để công tác này đạt được kết quả cần định ra những hình thức báo
cáo thực tế ngắn gọn nhưng rõ ràng, chính xác, thậm chi cần có những báo cáo in thành
thông báo chung có sự tham gia của những người ngoài Đảng và những người không làm
việc trong cơ quan đó.
V.I.Lênin rất coi trọng chế độ làm việc tập thể. Tất cả các vấn đề quan trọng cần
đưa ra tâp thể bàn bạc, lấy ý kiến tập thể. Đồng thời, Người kiên quyết đấu tranh những
biểu hiện làm sai lệch nguyên tắc này dẫn đến tình trạng trì trệ, quan liêu, thiếu tinh thần
trách nhiệm.
Nghệ thuật lãnh đạo còn thể hiện cả ở sự phát hiện mạnh dạn, có bản lĩnh sử
dụng lực lượng cán bộ trẻ, thử thách năng lực, trẻ hoá đội ngũ cán bộ.
3. Hồ Chí Minh với vấn đề cán bộ và công tác cán bộ.
Sinh thời Hồ Chí Minh đã rất quan tâm tới công tác cán bộ và huấn luyện cán bộ
của Đảng.Tư tưởng về công tác cán bộ của Người là xây dựng đội ngũ cán bộ vừa hồng
vừa chuyên, có năng lực lãnh đạo, biết tổ chức quần chúng thực hiện nhiệm vụ của cuộc
cách mạng, đi đến mục tiêu đã chọn.
Cán bộ là người giúp Đảng, Chính phủ xây dựng chính sách, đề ra đường lối chủ
trương đúng đắn để lãnh đạo nhân dân trong từng giai đoạn cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí
Minh coi “cán bbộ là gốc của mọi công việc…công việc thành công hay thất bại đều do
cấn bộ tốt hay xấu” . Phẩm chất đạo đức cách mạng cán bộ được Người khái quát trong
năm chữ: Nhân, nghĩa, trí, liêm, dũng. Theo Hồ Chí Minh, đạo đức là nền tảng của cách
mạng, là những phẩm chất đòi hỏi người đảng viên phải có. Bởi vì làm cách mạng, người
đảng viên phải có cái tâm trong sáng, cái đức cao đẹp. Cái tâm ấy phải được thể hiện

trong mối quan hệ hằng ngày với dân, với nước, với đồng chí, với đồng nghiệp, với mọi
người xung quanh. Hồ Chí Minh cho rằng “đức”, “tài” phải kết hợp với nhau. Người nhấn
Học viện hành chính - Lớp KH8A
Bế Thị Lê – KH8A44 7
mạnh đức là gốc, là nền tảng, song Người không bao giờ xem nhẹ tài năng. Phẩm chất
đạo đức và năng lực công tác là hai mặt không tách rời., hoà quyện vào nhau tạo ra nội
dung căn bản của mô hình nhân cách cán bộ cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu:
“Từ nay, công việc gì bất kì thành công hay thất bại, chúng ta cần phải nghiên cứu cội rễ,
phân tích thật rõ ràng rồi mới kết luận. Kết luận đó sẽ là cái thìa khoá phát triển công việc
và giúp cho cán bộ tiến tới. Có như thế thì người có tài mới có dụng”
Trong quan hệ với nhân dân người cán bộ phải chí công vô tư. Quyền lực của
người cán bộ lãnh đạo, quản lý do quần chúng nhân dân trao cho, vì vậy phải hết lòng
phục vụ lợi ích chung của nhân dân, luôn luôn trung thành với quyền lợi của nhân dân,
của Đảng, của giai cấp, của dân tộc. Để vừa có đức, vừa có tài phụng sự nhân dân, người
cán bộ phải “nâng cao tu dương về chủ nghĩa Mác – Lênin mà tỏng kết những kinh
nghiệm của Đảng ta, phân tích một cách đúng đắn những đặc điểm của Việt Nam…phải
học tập lý luận, phải nâng cao lý luận chung của Đảng.
Công tác cán bộ của Đảng mang tính chiến lược và có ý nghĩa quyết định đến
sự thành bại của cách mạng. Vơi tầm quan trọng của nó, Chủ tịch Hồ Chí Minh lưu ý một
số vấn đề sau:
Hiểu và đánh giá đúng cán bộ. Hồ Chí Minh luôn đặt cán bộ trong mối quan hệ
toàn diện, nhiều chiều và không định kiến, sử dụng cán bộ phải xác định rõ công việc, khi
bố trí, sử dụng tránh thiên vị cá nhân. Dùng người phải khoa học và nghệ thuật, nếu bố trí
đúng sẽ phát huy mặt mạnh của cán bộ, thúc đẩy được phong trào và hạn chế được mặt
yếu, mặt dở của họ; phải mạnh dạn cân nhắc cán bộ và thường xuyên luân chuyển cán bộ,
chống bệnh ích kỷ, chia bè kéo cánh.
Khéo dùng cán bộ: dùng cán bộ phải biết chỗ mạnh, chỗ yếu chủ họ, chọn đúng
người, giao đúng việc, nâng chỗ tốt, sửa chỗ xấu cho họ, tuỳ tài mà dùng. Đồng thời, tạo
điều kiện để cho những người giỏi phát huy năng lực của họ.
Huấn luyện đào tạo sử dụng cán bộ là công việc gốc của Đảng. Hồ Chí Minh

cho rằng huấn luyện, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ là khâu có ý nghĩa quyết định đến chất
lượng cán bộ. Việc huấn luyện bồi dưỡng cán bộ gồm những nội dung: huấn luyện về
nghề nghiệp; huấn luyện về chính trị; huấn luyện về văn hoá, huấn luyện về chính trị
Học viện hành chính - Lớp KH8A
Bế Thị Lê – KH8A44 8
Khéo kết hợp già và trẻ. Cán bộ già có kinh nghiệm nhưng hạn chế về sức khoẻ,
không bắt nhịp được sự phát triển của khoa học kỹ thuật, chưa tin lớp trẻ. Cán bộ trẻ có
sức bật tốt, nhanh nhạy với cái mới, mạnh dạn, dám nghĩ, dám làm, song hạn chế, thiếu
kinh nghiệm, thiếu chín chắn. Nếu hai bên tôn trọng nhau, học hỏi lẫn nhau, đoàn kết chặt
chẽ thì công việc sẽ tốt đẹp.
Yêu thương cán bộ: yêu thương cán bộ là phải thật thà, góp ý, phê bình cán bộ
giúp họ vượt qua mọi thử thách, tiến bộ hơn
4. Quan điếm của Đảng và Nhà nước ta về cán bộ lãnh đạo quản lý trong giai
đoạn hiện nay
Tại đại hội lần thứ VI của Đảnh đã chỉ rõ: Đổi mới cán bộ lãnh đạo các cấp là
mắt xích quan trọng nhất mà Đảng ta nắm chắc để thúc đẩy nhữnh cuộc cải cách có ý
nghĩa cách mạng. Nhận thức đó được thể hiện bằng thực tiễn sinh động của quá trình đổi
mới cán bộ trong những năm qua.
a. Vị trí, vai trò của cán bộ lãnh đạo quản lý
Cán bộ là những người giữ vai trò trụ cột, nòng cốt trong mọi lĩnh vực công tác;
những người giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý (do bổ nhiệm hoặc bầu trong một tổ chức, bộ
máy có chức năng đề ra phương hướng hoạt động, tổ chức và phối hợp hành động của các
thành viên trong tổ chức, bộ máy đó, thiết lập và xử lý tốt các mối quan hệ phối hợp
trrong và ngoài tổ chức để thực hiện mục tiêu công việc đã đề ra.
Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng duy nhất cầm quyền. Đảng không chỉ thực
hiện vai trò lãnh đạo bằng việc đề ra đường lối, cương lĩnh và tuyên truyền, vận động
nhân dân thực hiện, mà còn là lãnh đạo trực tiếp đối với các tổ chức trong hệ thống chính
trị.
Hệ thống hành chính nước ta hiện nay được phân chia và tổ chức thành bốn cấp:
trung ương; tỉnh thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung là cấp tỉnh) ; huyện (quận,

thị xã, thành phố thuộc tỉnh); xã (phường, thị trấn). Theo đó, hệ thống chính trị được xây
dựng đồng bộ từ trên xuống dưới với chức năng được phân cấp và quy định cụ thể. Đội
ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp chính là những người đại diện cho Đảng và Nhà
nước chịu trách nhiệm trực tiếp thực hiện các chỉ tiêu kinh tế - xã hội, các vấn đề an ninh
Học viện hành chính - Lớp KH8A
Bế Thị Lê – KH8A44 9
quốc phòng, chăm lo đời sống vật chất tinh thần cho nhân dân, đưa đất nước phát triển
theo địng hướng xã hội chủ nghĩa.
Đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý một mặt phải chịu trách nhiệm trực tiếp về
công tác tổ chức, đặc biệt là công tác cán bộ. Họ là những người có ý thức tổ chức, kỷ
luật cao, có trách nhiệm góp phần đổi mới hệ thống chính trị. Mặt khác, họ chịu trách
nhiệm xây dựng bộ máy, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ trí tuệ và năng
lực hoạt động thực tiễn, rèn luyện phẩm chất cách mạng cho đội ngũ cán bộ, công chức và
Đảng viên.
b. Tiêu chuẩn của đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý.
Cán bộ quản lý trước hết phải có tinh thần yêu nước sâu sắc, tận tụy phục vụ
nhân dân, kiên định mục tiêu xã hội chủ nghĩa. Thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, trí công
vô tư. Không tham nhũng, có ý thức kỷ luật, trung thực không cơ hội, gắn bó mật thiết với
nhân dân. Có trình độ hiểu biết lý luận chính trị. Có trình độ văn hoá, chuyên môn đủ
năng lực và sức khỏe để làm việc hiệu quả.
Ngoài ra đội ngũ cán bộ cần có bản lĩnh chính trị rõ ràng, có năng lực dự báo
và định hướng sự phát triển, tổng kết thực tiễn, than gia xây dựng đường lối chính sách
pháp luật; có kiến thức về khoa học lãnh đạo; trung thành với tổ quốc, với Đảng, với nhân
dân; có tư duy độc lập sáng tạo, say mê nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ,
bám sát đời sống xã hội…
Nhận thức rõ vị trí đặc biệt quan trọng của công tác cán bộ, Đảng và Nhà nước
ta luôn chú trọng công tác cán bộ. Đảng đã có nghị quyết quan trọng về công tác cán bộ.
Nghị quyết trung ương 3 khoá VII về đổi mới và trỉnh đốn Đảng. Hội nghị trung ương 3
khoá VIII về chiến lược cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá. hiện đại hoá đất
nước…Công tác quản lý cán bộ đã đạt được những hiệu quả nhất định,nhưng bên cạnh đó

còn nhiều bất cập đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta quan tâm khắc phục đáp ứng yêu cầu của
sự nghiệp đổi mới của nước ta hiện nay.
Học viện hành chính - Lớp KH8A
Bế Thị Lê – KH8A44 10
II. THỰC TRẠNG CỦA ĐỘI NGŨ CÁN BỘ LÃNH ĐẠO HIỆN
NAY.
1. Về độ tuổi
Ở nước ta hiện nay, đội ngũ cán bộ cán bộ lãnh đạo quản lý chiếm tỷ lệ khoảng
20% tổng số cán bộ công chức. Cán bộ trung cao cấp, chủ trì cấp huyện, quận, phòng ở bộ
và tương đương trở lên đèu có độ tuổi từ 45 đến 55 là phồ biến; trong các ngành ở huyện,
quận, phòng ban ở các sở… độ tuổi phổ biến từ 40 đến 45. Riêng cán bộ lãnh đạo cấp xã,
phường đã được trẻ hoá hơn, nhiều đồng chí ở độ tuổi 35-40. Tỷ lệ cán bộ xã, phường, thị
trấn la Đảng viên chiếm tỷ lệ khá cao trên 86% nhưng không đồng đều trên cả nước;
nhiều địa phương ở các tỉnh phía Nam và Tây Nguyên tỉ lệ cán bộ là Đảng Viên còn thấp
Cán bộ các tổ chức Đảng thường cao tuổi hơn cán bộ cấp chính quyền. Như vậy,
nếu so với quy định của trung ương: Độ tuổi quy hoạch dự nguồn các chức danh ở cấp
huyện là 40 để đề bạt, bổ nhiệm không quá 45 tuổi là tương đối phù hợp. Tuy nhiên cũng
có tình trạng do quy định trên về độ tuổi nên nhiều ngành, địa phương đã được “trẻ hoá”
đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý bằng cách đưa cán bộ trên 50 tuổi ra khỏi cấp uỷ, chức
danh quản lý, dẫn đến sự hẫng hụt nhất định về năng lực hoạt động thực tiễn và kinh
nghiệm công tác .
2. Về giới tính:
Phụ nữ VN chiếm 50,8% dân số và 50,6% lực lượng lao động xã hội, đóng vai trò
quan trọng trong công cuộc phát triển kinh tế- xã hội, xây dựng đất nước. Tỷ lệ cán bộ nữ
có trình độ chuyên môn và lý luận chính trị ở các tỉnh, bộ, ngành tăng. Tỉnh Vĩnh Phúc, từ
năm 2000 đến nay, tỉ lệ cán bộ nữ có trình độ cao đẳng, đại học tăng từ 30,6% lên 61%;
tin học 30,1% lên 36,6%. ở Hải Dương, 90% cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý từ cấp huyện
trở lên có trình độ đại học về chuyên môn và 77,7% trình độ cao cấp, cử nhân chính trị…
Tuy nhiên, nhìn chung trong cả nước, tỉ lệ đào tạo bồi dưỡng cán bộ phụ nữ chưa
cao.Về lý luận chính trị : Tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, khoá học 1996-

1997 có 5,5%, khoá học 1997-1998 là 12,3%; khoá học 1998-1999 giảm còn 10,7%; khoá
học 1999-2000 tăng 15,35% đến thời điểm này tỉ lệ cán bộ nữ tham gia các lớp cao cấp,
cử nhân chính trị tăng không đáng kể.
Học viện hành chính - Lớp KH8A
Bế Thị Lê – KH8A44 11
Tỷ lệ cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở các cấp có sự mất cân băng giữa hai giới. Theo số
liệu của ban tổ chức trung ương (2003), tỉ lệ cán bộ tham gia các cấp uỷ Đảng từ trung
ương đến cơ sở nói chung là thấp, xê dịch trên dưới là 10%. Ở cấp tỉnh, tỉ lệ cũng tương
tự: Nữ uỷ viên ban chấp hành Đảng bộ tỉnh, thành nhiệm kỳ 1996-2000 chiếm 10,6% dến
nhiệm kỳ 2001-2005 giảm xuống còn 9,3%. Càng xuống cấp thấp, tỷ lệ nữ cán bộ tham
gia càng giảm. Ở cấp xã nữ chiếm 14%
3. Về trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
Năm 1999 cả nước có khoảng 13,5000 người có trình độ tiến sĩ, bao gồm phó tiến
sĩ và tiến sĩ. Số lượng cán bộ này xếp vào loại đầu đàn trên mọi lĩnh vực hoạt động, phần
lớn giữ các chức vụ lãnh đạo quản lý chủ chốt, tham gia sâu vào các hoạt động nghiên
cứu, đào tạo. Có gần 70% cán bộ có học vị tiến sĩ đang làm việc giữ các chức vụ lãnh đạo
từ cấp phòng, ban, khoa trở lên. Số lượng tiến sĩ ở các vùng có số lượng chênh lệch rất
lớn: Vùng đông bằng sông Hồng chiếm tới 68,1%, vùng Đông Nam Bộ chiếm 20,6%. Chỉ
riêng thủ đô Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh đã có số lượng tiến sĩ gấp 5 lần số tiến sĩ
của 59 tỉnh, thành phố cộng lại .
Cán bộ cấp tỉnh và thành phố, đều có trình độ trung cấp lý luận chính trị và trình
độ chuyên môn từ cao đẳng trở lên( >60%). Ở cấp huyện tỷ lệ này còn dưới 50% . Cấp
xã, phường cán bộ có trình độ đại học và trung học mới trên 10%.
Tuy nhiên, giữa các cấp các vùng miền trong cả nước, trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ, quản lý của cán bộ lãnh đạo, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo cấp cơ sở có sự chênh
lệch “ Số cán bộ chủ chốt ở xã yếu về năng lực, phẩm chất còn chiếm tới 30% trong tổng
số cán bộ chủ chốt ở các tỉnh miền núi phía bắc, không đáp ứng được yêu cầu của công
cuộc đổi mới ở địa phương, nhất là cán bộ dân tộc vùng sâu, vùng xa và một số vùng kinh
tế mới”
Ở các tỉnh miền núi, Tây Nguyên, trình độ hgọc vấn chuyên môn cán bộ cơ sở

thấp. Số cán bộ chủ chốt cấp xã có trình độ học vấn trình độ trung học phổ thông là
57,3%, trung học cơ sở là 37,4%, tiểu học là 5,2% . Số cán bộ có trình độ tiểu học ở Lai
Châu là 42%, Lào Cai 30%, Kon Tum là 21%, Hà Giang 20%. Số cán bộ chủ chốt cấp xã
có trình độ đại học, cao đẳng là 5,3%, Trung cấp 15,1%, sơ cấp 5,2%. Chỉ có 27% sổ
Học viện hành chính - Lớp KH8A
Bế Thị Lê – KH8A44 12
lượng cán bộ cấp xã được đào tạo chuyên môn. Trình độ ngoại ngữ hầu như không có. >
73% cán bộ chưa được đào tạo về quản lý nhà nước .
4. Ưu, nhược điểm của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý trong giai đoạn hiện nay-
Nguyên nhân.
a, Ưu điểm
Đội ngũ cán bộ lãnh đạo hoạt động nhất quán quan điểm lý luận Mac- Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước. Đai bộ
phận có bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành với tổ quốc, với Đảng, kiên định mục
tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, quyết tâm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng,
gắn bó với nhân dân.
Trình độ đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý được nâng lên rõ rệt trên nhiều lĩnh vực.
trình độ chuyên môn, năng lực ngày càng được nâng cao. Nhiều cán bộ lãnh đạo, quản lý
có nhứng suy nghĩ, tìm tòi, sáng tạo mang tính đột phá tạo cơ sở cho một cách nghĩ, cách
quản lý mới. Nhiều cán bộ ở địa phương đã biết vận dụng sáng tạo, cụ thể hoá đường lối,
chủ trương của trung ương vào hoàn cảnh ở địa phương. Nhiều địa phương đã mạnh dạn
chuyển đổi cơ cấu vật nuôi cây trồng. mang lại hiệu quả kinh tế cao. Có nhiều cán bộ
lãnh đạo quản lý được bầu là chiến sỹ thi đua các cấp, được hưởng huân chương có người
được phong anh hùng lao động.
Đội ngũ cán bộ lãnh đạo đã năng động tự tin, dám nghĩ, dám làm, phương pháp tư
duy tiến bộ, năng lực lãnh đạo và quản lý có bước phát triển. Về cơ bản đội ngũ cán bộ
mới đã nắm được bản chất, yêu cầu và cơ chế vận động của kinh tế thị trường. Biết nắm
bắt và sử dụng các công cụ kỹ thuật mới để quản lý, điều tiết sự hoạt động của thị trường,
áp dụng mạnh mẽ những tiến bộ của khoa học kỹ thuật. Đặc biệt trong một số lĩnh vực
mới đòi hỏi chuyên môn điều hành cao như: dầu khí, công nghệ thông tin, tài chính, ngân

hàng…từng bước cán bộ vươn lên đảm nhiệm được.Nhiều cán bộ trẻ, được đào tạo cơ
bản, tâm huyết với công việc đã trở thành những chuyên gia điều hành quản lý giỏi, thành
thạo, có chiều hướng phát triền.
Có phong cách làm việc sát thực tế hơn, gần gũi dân hơn. Cán bộ cơ sở đã thường
xuyên lắng nghe ý kiến của quần chúng, tinh thần cá nhân trách nhiệm được nâng cao,
dám chịu trách nhiệm trước cấp trên về sự mạnh dạn yếu kém của cơ sở, địa phương

×