Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Thực hiện chính sách phát triển ngành thủy sản từ thực tiễn tỉnh thái bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (844.45 KB, 87 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THÁI AN

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN
NGÀNH THỦY SẢN TỪ THỰC TIỄN TỈNH THÁI BÌNH

Chuyên ngành : Chính sách công
Mã số

: 60 34 04 02

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN MẠNH HÙNG

HÀ NỘI, 2016


LỜI CAM ĐOAN
Đề tài luận văn “Thực hiện chính sách phát triển ngành thủy sản từ thực
tiễn tỉnh Thái Bình” là kết quả nghiên cứu độc lập của tôi. Các thông tin có nguồn
gốc rõ ràng, tuân thủ đúng nguyên tắc trích dẫn tài liệu. Nghiên cứu hoàn toàn trung
thực và chưa hề được công bố ở công trình, đề tài nào.

Tác giả luận văn

Nguyễn Thái An



MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
PHÁT TRIỂN NGÀNH THỦY SẢN ......................................................................9
1.1. Khái niệm ..........................................................................................................9
1.2. Vấn đề phát triển ngành thủy sản ở Việt Nam ................................................17
1.3. Kinh nghiệm của một số địa phương ..............................................................20
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN
NGÀNH THỦY SẢN Ở TỈNH THÁI BÌNH ........................................................31
2.1. Tổng quan về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội .............................................31
2.2. Khái quát về tình hình phát triển thủy sản giai đoạn 2010 -2015 ...................38
2.3. Các chính sách phát triển thủy sản ở Thái Bình ..............................................41
2.4. Thực hiện chính sách phát triển thủy sản ở tỉnh Thái Bình ............................49
Chƣơng 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG THỰC HIỆN HIỆU QUẢ
CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN THỦY SẢN Ở TỈNH THÁI BÌNH ....................63
3.1. Quan điểm, mục tiêu, phương hướng phát triển thủy sản của tỉnh Thái Bình .....63
3.2. Các giải pháp cụ thể nhằm tăng cường hiệu quả thực hiện chính sách phát
triển ngành thủy sản ở tỉnh Thái Bình ....................................................................69
3.3. Một số kiến nghị ..............................................................................................76
KẾT LUẬN ..............................................................................................................78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................80


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
CV

: Công suất


ĐVT

: Đơn vị tính

FDI

GDP

GIS

GPS
NN&PTNT
ODA

PVI

: Foreingn Direcht Investment
Vốn đầu tư nước ngoài
: Gross Domestic Products
Tổng sản phẩm quốc nội
: Geographic Information System
Hệ thống thong tin địa lý
: Globanl Positioning System
Hệ thống định vị toàn cầu
: Nông nghiệp và phát triển nông thôn
: Official Development Assistance
Hỗ trợ và phát triển
: Pertro VietNam Insurance
Bảo hiểm dầu khí


Tr.đ

: Triệu đồng

UBND

: Ủy ban nhân dân

WTO

PJICO

: Word Trade Organization
Tổ chức thương mại thế giới
: Petrolimex insurance corporation
Tổng công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex

XK

: Xuất khẩu

TT KN KN KN

: Trung tâm khuyến nông khuyễn ngư

NTTS

: Nuôi trồng thủy sản

QHTT


: Quy hoạch tổng thể

BĐKH

: Biến đổi khí hậu


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu

Tên bảng

Trang

bảng
2.1

2.2

2.3

Giá trị sản xuất ngành thủy sản (theo giá hiện
hành)
Diện tích mặt nước và sản lượng thủy sản nuôi
trồng tỉnh Thái Bình
Sản lượng thủy sản khai thác phân theo huyện,
thành phố


39

40

41


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bước sang thế kỷ 21,“Thế kỷ của biển và đại dương”, khai thác biển đã trở
thành vấn đề quan trọng mang tính chiến lược của hầu hết các quốc gia trên thế
giới, kể cả các quốc gia có biển và các quốc gia không có biển. Trong điều kiện các
nguồn tài nguyên trên đất liền đang ngày càng cạn kiệt, các nước ngày càng quan
tâm tới biển. Mặt khác, sự bùng nổ dân số ngày càng gia tăng, theo thống kê đầu
năm 2006 toàn thế giới có 6,5 tỷ người, dự báo đến 2020 dân số thế giới khoảng
11,2 tỷ người. Sự phát triển của dân số thế giới làm cho không gian kinh tế truyền
thống đã trở nên chật chội, nhiều nước bắt đầu quay mặt ra biển và nghĩ đến các
phương án biến biển và hải đảo thành lãnh địa, thành không gian kinh tế mới. Một
xu hướng mới nữa là hiện nay, trong điều kiện phát triển khoa học công nghệ
nhanh chóng, việc đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, công nghệ về biển đang là một
xu thế tất yếu của các quốc gia có biển để tìm kiếm và bảo đảm các nhu cầu về
nguyên, nhiên liệu, năng lượng, thực phẩm và không gian sinh tồn trong tương lai.
Từ bao đời nay, biển luôn gắn bó chặt chẽ với mọi hoạt động sản xuất, đời
sống của dân tộc Việt Nam. Đảng và Nhà nước ta nhận định: “Biển có ý nghĩa to
lớn để nước ta phát triển, mở cửa giao lưu với quốc tế và ngày càng có vai trò lớn
trong định hướng phát triển tương lai”. Với điều kiện tự nhiên thuận lợi, nguồn tài
nguyên thiên nhiên phong phú và đa dạng, vùng biển Việt Nam mang trong mình
những tiềm năng nổi bật như: khai thác dầu khí, khoáng sản; nuôi trồng và đánh
bắt thủy - hải sản; du lịch. Vì vậy, vấn đề tiến ra biển để phát triển kinh tế đang là
một xu thế tất yếu của các quốc gia có biển, trong đó có Việt Nam, đặc biệt trong

điều kiện hiện nay khi các nguồn tài nguyên trên đất liền có hạn, đã và đang được
khai thác mạnh mẽ, sự bùng nổ dân số ngày càng gia tăng. Thái Bình là một tỉnh
nằm ở đồng bằng Bắc Bộ, thuộc vùng biển và ven biển phía Bắc, là tỉnh giàu tiềm
năng, thế mạnh, phát triển toàn diện nông nghiệp - lâm nghiệp - ngư nghiệp (đặc
biệt là nông nghiệp và ngư nghiệp) với 49,25 km bờ biển. Vùng biển Thái Bình
thuộc ngư trường đánh bắt Vịnh Bắc Bộ với hàng nghìn hecta mặt nước ở các bãi
1


bồi cửa sông thuận lợi cho việc chăn nuôi thủy hải sản. Thái Bình với 5 cửa sông
lớn đổ ra biển, tạo nên vùng bãi triều rộng trên 16 nghìn héc-ta, trong đó diện
tích khoanh nuôi thủy sản khoảng 10 nghìn héc-ta và hàng nghìn héc-ta đất cấy
lúa, làm muối kém hiệu quả có thể chuyển sang nuôi các loài thủy sản mặn, lợ.
Vùng thềm lục địa của tỉnh rộng trên 1 vạn km2 với nguồn lợi hải sản phong phú,
đa dạng, có nhiều loài có giá trị kinh tế, lại gần các ngư trường lớn giàu tôm cá.
Cảng thương mại Diêm Điền được đầu tư nâng cấp tạo điều kiện cho các tàu vận
tải biển. Hàng ngàn héc-ta rừng sú, vẹt phía ngoài đê biển cùng với Cồn Vành,
Cồn Thủ, Cồn Đen tạo nên hệ thống phòng thủ ven biển vững chắc, kết hợp với
nuôi thủy sản, trồng rừng ngập mặn, du lịch sinh thái. Nhân dân ven biển cần cù
chịu khó, có nhiều kinh nghiệm trong khai thác, nuôi trồng, chế biến thủy sản và
vận tải biển. Bên cạnh đó, quá trình khai thác, phát triển tiềm năng kinh tế biển của
Thái Bình cũng còn những hạn chế, khó khăn chủ yếu, như việc nuôi trồng thủy
sản chưa tương xứng với tiềm năng, chưa thực sự bền vững; phương thức nuôi chủ
yếu vẫn là quảng canh cải tiến; kiến thức về khoa học - kỹ thuật của phần lớn
nông, ngư dân chưa theo kịp với yêu cầu của sản xuất; nhận thức của một bộ phận
cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân trong việc phát triển kinh tế biển còn
hạn chế, vẫn còn biểu hiện tư tưởng ỷ lại, trông chờ vào sự bao cấp của Nhà nước;
khai thác hải sản chủ yếu là khai thác ven bờ, số phương tiện công suất nhỏ có xu
hướng tăng; dịch vụ hậu cần nghề cá chưa đáp ứng yêu cầu phát triển; hệ thống
giao thông chưa đáp ứng được nhu cầu trong tình hình mới; du lịch biển vẫn

trong tình trạng chậm phát triển. Các loại hình, tuor, tuyến, điểm du lịch chưa hình
thành rõ nét, kết cấu hạ tầng vật chất kỹ thuật chưa đồng bộ.
Từ thực tế trên, em quyết định chọn đề tài “Thực hiện chính sách phát triển
ngành thủy sản từ thực tiễn tỉnh Thái Bình” làm đề tài nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Năm 2014, xuất khẩu của ngành thủy sản Việt Nam đạt gần 8 tỷ USD, tạo
hơn 4,5 triệu việc làm. Thị trường xuất khẩu được mở rộng với các sản phẩm thủy
sản xuất sang 166 quốc gia và vùng lãnh thổ. Đó là kết quả của những nỗ lực trong
2


toàn ngành thủy sản và từ nhiều quyết sách của Chính phủ để thúc đẩy phát triển
ngành nghề giàu tiềm năng ở nước ta.
Trong những năm gần đây, có rất nhiều công trình nghiên cứu về thủy sản
Việt Nam, Đồng bằng Sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long và một số địa
phương, như:
- Đề án: “Quy hoạch tổng thể phát triển ngành thủy sản Việt Nam đến năm
2020, tầm nhìn 2030” của Viện kinh tế và quy hoạch thủy sản - Tổng cục thủy sản.
- Quy hoạch phát triển nuôi trồng thủy sản ở Đồng bằng sông Cửu Long đến
năm 2015, định hướng đến năm 2020” của Viện kinh tế và quy hoạch thủy sản – Bộ
Nông nghiệp và phát triển nông thôn.
- Luận án tiến sĩ kinh tế: “Phát triển bền vững ngành thủy sản Đồng bằng
sông Cửu Long đến năm 2015” của tác giả Lâm Văn Mẫn.
- Luận văn thạc sĩ địa lí học: “Thủy sản An Giang – Hiện trạng phát triển và
định hướng giải pháp” của tác giả Ngô Thị Kiều Huệ.
- Luận văn thạc sỹ Quản lý kinh tế “Phát triển bền vững ngành thủy sản tại
địa bàn tỉnh Thanh Hóa của tác giả Hoàng Phương Bắc năm 2015 (trường Đại học
kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội) .
- Luận văn thạc sĩ địa lí học: “Thủy sản Bến Tre: hiện trạng và định hướng
phát triển” của tác giả Lê Xinh Nhân. Các công trình nghiên cứu này đã làm rõ

nguồn lực phát triển thủy sản, hiện trạng khai thác và đưa ra được định hướng, giải
pháp để phát triển ngành thủy sản của Việt Nam, Đồng bằng Sông Cửu Long và
một số tỉnh lân cận.
Từ ngày 1-5, Trung Quốc đã đưa giàn khoan đến hoạt động thăm dò trái
phép ở vùng biển Hoàng Sa cách đảo Tri Tôn của Việt Nam 17 hải lý và nằm sâu
trong thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam 80 hải lý. Cục Hải
sự nước này đưa ra Thông cáo vận tải về tác nghiệp của giàn khoan Hải dương 981,
tuyên bố giàn khoan này sẽ hoạt động từ ngày 2-5 đến ngày 15-8, cấm các tàu
thuyền không có liên quan đi vào. Kèm theo đó, trên thực địa Trung Quốc đã huy
động ban đầu là khoảng 80 tàu, sau đó thường xuyên duy trì trên 100 tàu các loại
3


gồm cả tàu hộ vệ tên lửa, tàu tuần tiễu săn ngầm, các tàu hải cảnh đã mở bạt vũ khí
đầy hăm dọa, hiếu chiến
Nhìn vào hành động của Trung Quốc trong tranh chấp lãnh thổ những năm
gần đây có thể thấy, khi quốc lực tăng thì tham vọng bành trướng càng tăng, dùng
sức mạnh để tranh giành lợi ích. Khi tham vọng bành trướng lãnh thổ này cộng
hưởng với sức mạnh kinh tế đã chuyển hóa thành sức mạnh quân sự, với nhu cầu
bức thiết về tài nguyên, với nhu cầu sống còn về tìm lối ra để thực hiện mục tiêu
vươn lên chia sẻ vị trí lãnh đạo thế giới, nó sẽ trở nên nguy hại hơn, đe dọa hơn đối
với các nước xung quanh cũng như hòa bình, ổn định của khu vực. Từ thực tế đó
Đảng, Nhà nước, Chính phủ đã có những chính sách kịp thời để tăng cường cho ngư
dân Việt Nam bám biển, vươn khơi đánh bắt và bảo vệ chủ quyền biển đảo.
Là một tỉnh đồng bằng ven biển, Thái Bình nằm ở phía nam châu thổ đồng
bằng sông Hồng, có tọa độ địa lý : 20017 đến 22044 vĩ độ Bắc và 106006 đến 106039
kinh độ đông. Phía Bắc, Thái Bình giáp tỉnh Hưng Yên và Hải Dương (ngăn cách
bởi sông Luộc), phía Đông Bắc giáp Hải Phòng (ngăn cách bởi sông Hóa), phía Tây
và phía Nam giáp tỉnh Hà Nam và Nam Định (ngăn cách bởi sông Hồng), phía
Đông giáp Vịnh Bắc Bộ với đường bờ biển dài trên 50km và một vùng biển rộng.

Mặt khác, Thái Bình nằm trong phạm vi ảnh hưởng của địa bàn kinh tế trọng
điểm Bắc Bộ, có đường bờ biển và hệ thống sông ngòi thuận lợi cho giao lưu kinh
tế. Thành phố Thái Bình cách thành phố Hải Phòng 70km và cách thủ đô Hà Nội
110km, là những thị trường tiêu thụ rộng lớn trong việc hỗ trợ đầu tư kĩ thuật, kinh
nghiệm quản lý, chuyển giao công nghệ và thông tin cho tỉnh. Vị trí địa lý trên đã
tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho Thái Bình phát triển và mở rộng giao lưu kinh tế
trong mọi lĩnh vực với các tỉnh trong cả nước và quốc tế.
Nhằm hỗ trợ ngư dân phát triển tàu cá, nâng cao năng lực đánh bắt xa bờ, tái
cơ cấu nghề khai thác thuỷ sản của tỉnh, Ủy ban Nhân dân tỉnh Thái Bình đã ban
hành Quyết định số 1573/QĐ-UBND ngày 08/7/2014 phê duyệt Đề án phát triển
kinh tế biển và Khu vực ven biển tỉnh Thái Bình giai đoạn đến năm 2020.

4


Quyết định số 11/2014/QĐ-UBND ngày 20 tháng 08 năm 2014 của ủy ban
nhân dân tỉnh Thái Bình ban hành quy chế quản lý cảng cá, bến cá trên địa bàn
tỉnh Thái Bình. Đây là đề án có nhiều nội dung quan trọng nhằm hỗ trợ phát triển
đội tàu khai thác xa bờ với mục tiêu đến năm 2020 đóng mới, cải hoán, hiện đại hoá
đội tàu công suất trên 300 CV (mã lực) là 80 chiếc và đóng mới 6 tàu dịch vụ hậu
cần nghề cá. Khuyến khích ngư dân vươn xa đánh bắt hải sản cùng với đó là bảo vệ
chủ quyền biển đảo quốc gia.
Nhìn lại tình hình quốc tế cũng như khu vực trong thời gian qua với sự bành
trướng của Trung Quốc trên khu vực biển đông và vấn đề bảo vệ chủ quyền biển
đảo của Việt Nam và các nước trong khu vực Châu Á là hết sức cấp bách.
Lịch sử đã chứng minh, ở mọi thời đại, mọi chế độ, bảo đảm “khoan thư sức
dân” là cách tốt nhất để quy tụ lòng người là cơ sở, nền tảng để xây dựng “thế trận
lòng dân”. Vì vậy, Đảng và Nhà nước cần phát huy sức mạnh tổng hợp các tổ chức,
các cấp, các ngành thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội, xây dựng kết cấu hạ
tầng kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho ngư dân. Đó là vấn

đề then chốt trong xây dựng “thế trận lòng dân” trên biển. Bởi vì, “bờ có vững thì
ngư dân mới yên tâm bám biển, vươn khơi”, sau lưng ngư dân là cả nước đồng
lòng, chung sức.
Bảo vệ chủ quyền các vùng biển, đảo của Tổ quốc là nhiệm vụ thiêng liêng
của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân. Trong bối cảnh phức tạp hiện nay, để thực
hiện nhiệm vụ này, chúng ta phải quán triệt, thấu suốt quan điểm của Đảng về mục
tiêu, nhiệm vụ, phương thức bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; đồng thời, triển
khai đồng bộ nhiều giải pháp, bảo đảm duy trì hòa bình, ổn định và giữ vững chủ
quyền vùng biển, đảo của Tổ quốc.
Biển, đảo Việt Nam là một bộ phận lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc, có vị
trí đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước. Bảo vệ chủ quyền
biển, đảo là nhiệm vụ trọng yếu và là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân
ta. Để hoàn thành nhiệm vụ thiêng liêng và cao cả đó, cần phát huy sức mạnh tổng hợp

5


của cả nước, của cả hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng; sự quản lý, điều
hành thống nhất của Nhà nước. Trong đó, cần phát huy vai trò của ngư dân.
Từ tình hình thực tế phức tạp của biển đông với sự bành trướng của Trung
Quốc, Đảng, Nhà nước, Chính phủ nước ta đã có những quyết sách quan trọng
nhằm thúc đẩy phát triển ngành thủy sản của Việt Nam. Thúc đẩy tăng năng suất,
giá trị, chất lượng từ nguồn lợi hải sản, nâng cấp cải hoán các loại tàu, thuyền đánh
bắt hải sản, tạo điều kiện tốt nhất cho ngư dân bám biển, vươn khơi khai thác và bảo
vệ chủ quyền biển đảo.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc thực hiện chính sách phát triển
thủy sản, đánh giá thực trạng thực hiện chính sách phát triển thủy sản của tỉnh Thái
Bình; Từ đó đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả thực

hiện chính sách phát triển thủy sản của tỉnh Thái Bình.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc thực hiện chính
sách phát triển ngành thủy sản ở tỉnh Thái Bình
- Mô tả thực trạng phát triển ngành thủy sản; phân tích, đánh giá thực trạng
thực hiện chính sách phát triển ngành thủy sản ở tỉnh
- Đưa ra giải pháp nhằm hoàn thiện và tăng cường hiệu quả của việc thực
hiện chính sách phát triển thủy sản ở Thái Bình
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Việc thực hiện chính sách phát triển thủy sản ở tỉnh
Thái Bình.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về nội dung: Tập trung nghiên cứu việc thực hiện chính sách phát triển
thủy sản ở tỉnh Thái Bình
+ Về không gian: Hai huyện giáp biển có hoạt động thủy sản phát triển là
Thái Thụy và Tiền Hải thuộc tỉnh Thái Bình
Về Thời gian: giai đoạn 2010 đến nay 2015.
6


5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp luận:
- Luận văn vận dụng cách tiếp cận đa ngành, liên ngành xã hội học để vận
dụng phương pháp nghiên cứu chính sách công. Đó là cánh tiếp cận quy phạm
chính sách công về chu trình chính sách từ hoạch định đến xây dựng, thực hiện và
đánh giá chính sách công có sự tham gia của các chủ thể chính sách. Lý thuyết
chính sách công được soi sáng qua thực tiễn của chính sách công giúp hình thành lý
luận về chính sách chuyên ngành.
- Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp thu thập thông tin: Phân tích tổng hợp, được sử dụng để thu

thập, phân tích và khai thác thông tin từ cá nguồn có sẵn liên quan đến đề tài nghiên
cứu, bao gồm các văn kiện, tài liệu, Nghị quyết, Quyết định của Đảng, Nhà nước,
Bộ, ngành ở Trung ương và địa phương; các công trình nghiên cứu, các báo cáo, tài
liệu thống kê của chính quyền, ban ngành đoàn thể, tổ chức, cá nhân liên quan trực
tiếp hoặc gián tiếp tới vấn đề chính sách việc làm ở nước ta nói chung và thực tế
tỉnh Thái Bình nói riêng, đồng thời thu thập các tài liệu của các tổ chức và học giả
quốc tế liên quan đến đề tài trong thời gian qua.
Thu thập, tìm hiểu và vận dụng các lý thuyết của ngành chính sách xã hội
liên quan đến vấn đề chính sách cạnh tranh.
Một số phương pháp khác:
- Nghiên cứu tài liệu có sẵn
- Phương pháp phân tích thực chứng
- Phương pháp so sánh, tổng hợp
6. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn luận văn
Ý nghĩa lý luận:
- Đề tài có ý nghĩa về mặt lý luận, người học nghiên cứu và vận dụng các lý
thuyết chính sách công.
- Góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận liên quan tới chính sách phát triển
ngành thủy sản.
7


- Đúc rút bài học kinh nghiệm về chính sách và tổ chức thực hiện chính sách
phát triển ngành thủy sản từ thực tiễn một số địa phương ở nước ta.
Ý nghĩa thực tiễn:
- Luận văn cung cấp nhưng vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc vận dụng
các lý thuyết về chính sách công đề xem xét giữa lý thuyết và thực tiễn về chính
sách phát triển ngành thủy sản ở tỉnh Thái Bình trong những năm tiếp theo
- Góp phần cung cấp thêm những cơ sở khoa học cho các cơ quan, ban ngành
tỉnh trong quá trình hoạch định và thực thi chính sách một cánh hiệu quả trong công

cuộc phát triển kinh tế - xã hội địa phương.
- Các phân tích, đánh giá về thực hiện chính sách phát triển ngành thủy sản
từ thực tiễn hai huyện Thái Thụy và Tiền Hải thuộc tỉnh Thái Bình giúp nhìn nhận
rõ hơn những kết quả, những tồn tại về chính sách này.
- Kết quả nghiên cứu sẽ đóng góp những luận cứ thực tiễn làm cơ sở cho các
giải pháp tăng cường thực hiện hiệu quả chính sách phát triển ngành thủy sản cả ở
địa bàn nghiên cứu và cả nước.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc thực hiện chính sách phát
triển ngành thủy sản.
Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách phát triển ngành thủy sản ở tỉnh
Thái Bình.
Chương 3: Một số giải pháp tăng cường thực hiện hiệu quả chính sách phát
triển thủy sản ở tỉnh Thái Bình

8


Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN NGÀNH THỦY SẢN
1.1. Khái niệm
a. Chính sách
Theo từ điển Tiếng Việt thì “ Chính sách là sách lược và kế hoạch cụ thể
nhằm đạt một mục đích nhất định, dựa vào đường lối chính trị chung và tình hình
thực tế mà đề ra”.
Chính sách công là chính sách của Nhà nước, là kết quả cụ thể hóa chủ trương,
đường lối của Đảng cầm quyền thành các quyết định, tập hợp các quyết định chính trị
có liên quan với nhau của Nhà nước với mục tiêu, giải pháp công cụ cụ thể nhằm giải

quyết các vấn đề thuộc chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước, duy trì sự tồn tại và phát
triển của Nhà nước, phát triển kinh tế xã hội và phục vụ người dân
Chính sách công là một tập hợp các quyết định chính trị có liên quan nhằm lựa
chọn các mục tiêu cụ thể với giải pháp và công cụ thực hiện giải quyết các vấn đề của
xã hội theo mục tiêu đã xác định của đảng chính trị cầm quyền.( Đỗ Phú Hải, học viện
Khoa học xã hội).
b. Thủy sản
Thủy sản là một thuật ngữ chỉ chung về những nguồn lợi, sản vật đem lại
cho con người từ môi trường nước và được con người khai thác, nuôi trồng thu
hoạch sử dụng làm thực phẩm, nguyên liệu hoặc bày bán trên thị trường. Trong đó
ngành thủy sản có liên quan đến việc đánh bắt cá tự nhiên hoặc cá nuôi thông qua việc
nuôi cá. Nuôi trồng thủy sản đã trực tiếp hoặc gián tiếp tác động lớn đến đời sống của
hơn 500 triệu người ở các nước đang phát triển phụ thuộc vào nghề cá và nuôi trồng
thủy sản (theo từ điển điện tử wikipedia trang điện tử )
c. Ngành thủy sản
Thuỷ sản là một trong những ngành sản xuất kinh doanh, một ngành hoạt
động kinh tế nằm trong tổng thể kinh tế –xã hội của loài người .Thuỷ sản đóng vai
trò quan trọng trong việc cung cấp thực phẩm cho nhân loại, không những thế nó

9


còn là một ngành kinh tế tạo cơ hội công ăn việc làm cho nhiều cộng đồng nhân dân
đặc biệt là ở vùng nông thôn và vùng ven biển.
Ngành thủy sản là một bộ phận nhỏ của ngành nông nghiệp hiểu theo nghĩa
rộng bao gồm: nông - lâm - ngư nghiệp. Ngành thủy sản được coi là ngành sản xuất
dựa trên những khả năng tiềm tàng sinh vật trong môi trường nước để sản xuất ra
những sản phẩm phục vụ cho nhu cầu không ngừng tăng lên của con người. Hoạt
động thủy sản là việc tiến hành khai thác, nuôi trồng, vận chuyển, bảo quản, chế
biến mua bán, xuất khẩu thủy sản, dịch vụ trong hoạt động thủy sản, điều tra, bảo

vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản, an ninh quốc phòng, bảo vệ chủ quyền biển
đảo. (Internet)
d. Chính sách phát triển thủy sản.
Chính sách phát triển thủy sản là tập hợp các chủ trương và hành động của
Chính Phủ nhằm tạo cho ngành thủy sản phát triển bằng cách tác động vào việc
cung cấp các yếu tố đầu vào (lao động, cảng biển, vốn, phát triển đội tàu), tác động
tới giá đầu vào hay giá đầu ra trong ngư nghiệp.
Thủy sản là hệ thống ngành và lĩnh vực có nhiều đặc điểm mang tính đặc
thù. Tính đặc thù trong hoạt động kinh tế, xã hội của ngành thủy sản đòi hỏi nhà
nước phải có biện pháp can thiệp khác nhau với các ngành và lĩnh vực khác. Sự đòi
hỏi đó là cơ sở khách quan hình thành nên các chính sách phát triển thủy sản.
Tổng hợp các định nghĩa nêu trên, có thể đưa ra một định nghĩa như sau:
“Chính sách phát triển thủy sản là chính sách do Chính phủ đề ra đạt mục tiêu của
mình về phát triển ngư nghiệp”. Chính sách phát triển thủy sản bao gồm những lĩnh
vực mà Chính phủ can thiệp một cách có ý thức và được tiến hành trước hết nhằm
hoàn thiện cơ chế chính sách trong phân bổ nguồn lực để đạt được tốc độ tăng
trưởng kinh tế biển.
1.1.1. Các chức năng cơ bản của chính sách phát triển thủy sản
Tương tự như các chính sách khác, chính sách phát triển thủy sản tại địa
phương cũng có ba chức năng cơ bản đó là: chức năng định hướng, chức năng điều

10


tiết, chức năng tạo tiền đề phát triển và khuyến khích phát triển cho các hoạt động
liên quan đến ngư nghiệp trong phạm vi của vùng lãnh thổ.
a. Chức năng định hướng
Chức năng định hướng được thể hiện thông qua việc chính sách phát triển
thủy sản tại địa phương xác định những chỉ dẫn chung cho quá trình ra quyết định
của các chủ thể kinh tế, xã hội liên quan đến các hoạt động phát triển thủy sản tại

địa phương. Chính sách phát triển thủy sản tại địa phương đề ra những giới hạn cho
phép của các quyết định, nhắc nhở các chủ thể những quyết định nào có thể (nằm
trong khuôn khổ cho phép của chính sách) và những quyết định nào là không thể
(không trong khuôn khổ cho phép của chính sách). Bằng cách đó chính sách hướng
các hoạt động liên quan đến phát triển của vùng lãnh thổ tới việc thực hiện việc phát
triển lĩnh vực ngư nghiệp của địa phương. Chức năng định hướng luôn được coi là
một trong những chức năng quan trọng nhất của chính sách phát triển thủy sản tại
địa phương. Điều này được khẳng định bởi vai trò định hướng của chính sách phát
triển kinh tế tại địa phương đối với các chủ thể kinh tế, chính trị và xã hội nhằm
hướng tới việc đạt được những mục tiêu đã đề ra. Chính sách phát triển thủy sản tại
địa phương định hướng các doanh nghiệp đầu tư và người dân phát triển theo ưu
tiên cơ cấu ngành, các khu vực cần thiết theo quy hoạch để đảm bảo môi trường,
phát triển bền vững, giải quyết công ăn việc làm, định hướng phát triển các ngành
phụ trợ khác.
b. Chức năng điều tiết
Ba vai trò quan trọng nhất của nhà nước trong nền kinh tế thị trường được
xác định là huy động nguồn lực, phân bổ nguồn lực và bình ổn kinh tế nhằm đảm
bảo tính hiệu quả trong sử dụng nguồn lực, tạo nên sự ổn định xã hội và tăng trưởng
bền vững. Ở góc độ này, chính sách phát triển thủy sản tại địa phương ban hành
nhằm giải quyết những vấn đề phát sinh, thực hiện chức năng điều tiết trong phát
triển ngành thủy sản. Chính sách phát triển thủy sản tại địa phương điều tiết khắc
phục tình trạng mất cân đối trong việc sử dụng, phát huy hiệu quả nguồn lực của xã
hội, điều tiết những hành vi, hoạt động không phù hợp trong phát triển thủy sản, nhằm
11


tạo một hành lang pháp lý cho các hoạt động hướng tới việc đạt được các mục tiêu đã
đề ra. Chính sách phát triển thủy sản tại địa phương điều tiết sử dụng hợp lý nguồn tài
nguyên thiên nhiên, sử dụng có hiệu quả đất đai, bảo vệ môi trường, sử dụng nguồn lao
động dôi dư trong quá trình phát triển kinh tế, văn hóa xã hội tại địa phương.

c. Chức năng tạo tiền đề và khuyến khích phát triển
Chính sách phát triển thủy sản tại địa phương là công cụ nhằm thực hiện
chức năng tạo tiền đề, khuyến khích xã hội phát triển theo xu hướng đã đề ra. Chính
sách phát triển thủy sản tại địa phương hướng tới thúc đẩy phát triển kinh tế văn hóa
xã hội, an ninh quốc phòng tại địa phương.
Chính sách phát triển thủy sản tại đia phương hướng tới thúc đẩy tăng trưởng
bền vững cho ngành khai thác thủy sản của địa phương thông qua việc phát triển số
lượng tàu thuyền, tăng sản lượng khai thác tạo điều kiện phát triển kinh tế xã hội
của địa phương.
1.1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến thực hiện chính sách phát triển thủy sản
a. Điều kiện tự nhiên và tình hình phát triển kinh tế xã hội
Điều kiện tự nhiên ở mỗi địa phương có những đặc thù nhất định và ảnh
hưởng đến tất cả các mặt của đời sống xã hội, lối sống, tiêu dùng, phân bố dân cư, lao
động… nên ảnh hưởng rất lớn đến việc xây dựng và hoàn thiện chính sách.
Tình hình phát triển kinh tế xã hội, nhất là trình độ của nền kinh tế có vai trò
quan trọng trong việc hoạch định chính sách. Dựa vào trình độ phát triển của nền
kinh tế, của lao động, trình độ khoa học công nghệ… mà nhà hoạch định sẽ có định
hướng của địa phương.
Ngoài ra “ sức khỏe” của nền kinh tế trong thời gian triển khai chính sách và
những dự báo về tình hình phát triển kinh tế trong tương lai sẽ là những yếu tố đóng
vai trò quan trọng trong việc hoạch định, hoàn thiện chính sách phát triển thủy sản
của tỉnh Thái Bình.
b. Các nguồn lực (vốn, lao động, phương tiện, thông tin thị trường)
- Vốn

12


Vốn được xem là yếu tố tiên quyết trong mọi lĩnh vực. Đối với ngành thủy
sản, chính sách đầu tư hỗ trợ vốn của mỗi quốc gia tạo nên động lực mạnh mẽ, phát

huy những lợi thế vốn có, đặc biệt là khi nó đóng vai trò là một ngành kinh tế mũi
nhọn của một quốc gia.
- Lao động
Trong mỗi lĩnh vực con người luôn là yếu tố then chốt. Do hoạt động khai
thác phải chịu nhiều yếu tố khí hậu khắc nghiệt, ngư trường, cho nên yếu tố sức
khỏe và kinh nghiệm của người lao động trong qúa trình trực tiếp đánh bắt hải sản
là rất quan trọng.
Ngành thủy sản rất chú trọng phát triển nguồn nhân lực ở cả hai khía cạnh số
lượng và chất chượng. Vì vậy để phù hợp với yêu cầu khai thác hải sản theo công nghệ
ngày càng cao thì việc nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ quản lý cũng như những người
lao động càng được chú trọng hơn. Trong đó phải kể đến việc đào tạo một số lượng lớn
ngư dân trực tiếp khai thác và công nhân thực hiện chế biến theo quy trình các sản
phẩm đông lạnh phù hợp với yêu cầu đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế.
- Phương tiện
Phương tiện sử dụng chủ yếu trong khai thác thủy sản là tàu, thuyền. Tàu,
thuyền có công suất lớn trang thiết bị hiện đại sẽ tạo điều kiện thuận lợi nâng cao năng
suất trong việc khai thác, đặc biệt đối với hoạt động khai thác và đánh bắt xa bờ.
Bên cạnh đó việc có những cảng biển, bến đỗ, nhà máy đông lạnh… với quy
mô lớn cũng góp phần lưu thông nguồn thủy, hải sản một cách dễ dàng.
Yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến năng suất và chất lượng sản phẩm hải sản là kỹ
thuật công nghệ trong bảo quản sản phẩm. Bên cạnh trong bị đầy đủ công cụ, dụng
cụ cũng như phương tiện thì kinh nghiệm về sử dụng là rất cần thiết.
Khai thác đi đôi với bảo vệ nguồn lợi thủy sản, cho nên khi sử dụng các công
cụ đánh bắt phải được nghiên cứu thử nghiệm kỹ tránh gây thiệt hại đối với các loài
thủy hải sản quý, hiếm.
- Thông tin thị trường

13



Thông tin thị trên thị trường là những thông tin về nguồn cung ứng háng hóa
dịch vụ, nhu cầu hàng hóa, dịch vụ. Đó là những thông tin kinh tế quan trọng đối
với mọi nhà sản xuất kinh doanh, cả người mua và người bán, cả người cung ứng và
tiêu dùng, cả người quản lý và những người nghiên cứu sáng tạo. Có thể nói đó là
những thông tin được sự quan tâm của toàn xã hội. Thông tin thị trường là những
thông tin kinh tế quan trọng. Không có thông tin thị trường thì không thể có các
quyết định đúng đắn trong sản xuất kinh doanh, cũng như quyết định của các cấp
quản lý. Việc nghiên cứu thị trường và tìm kiếm các thông tin có ý nghĩa cực kỳ
quan trọng đối với việc ra các quyết định đúng đắn trong kinh doanh. Nó có thể đưa
đến thành công cũng như có thể đưa đến thất bại bởi sự thực của thông tin được sử
dụng. Thông tin thị trường về tổng số cung, tổng số cầu, cơ cấu cung - cầu, quan hệ
cung cầu về từng loại hàng hóa, giá cả, thị trường, các yếu tố ảnh hưởng đến thị
trường, đến mua và bán, các quan hệ về tỷ lệ đối với từng loại sản phẩm, các điều
kiện tìm kiếm hàng hóa và dịch vụ, các đơn vị sản xuất và phân phối. Đây là những
thông tin quan trọng cho cả nhà sản xuất và người tiêu dùng để đề ra quyết định thích
hợp đem lại lợi ích và hiệu quả cho họ.
c. Thể chế chính sách
Thể chế chính sách đóng vai trò quan trọng trong hoạch định và thực hiện
chính sách. Nội dung cơ bản của thể chế này là xác định đối tượng điều chỉnh, tiêu
chí, điều kiện cụ thể và cơ chế xác định đối tượng theo quy trình, xác định các chính
sách, chế độ đóng góp, thụ hưởng và những điều kiện ràng buộc. Ngoài ra, thể chế
còn xác định trách nhiệm của bộ, ngành, địa phương trong việc thực hiện chính
sách, chế độ đề ra.
Chính sách phát triển thủy sản phải được tiến hành từng bước, nhưng phải
đồng bộ. Tuy nhiên, không phải một lúc bao phủ ngay tất cả các đối tượng có nhu
cầu trong việc tham gia chính sách.

14



d. Thị trường (giá cả, quan hệ cung - cầu, cạnh tranh)
- Giá cả
Giá cả luôn là vấn đề nhạy cảm và phức tạp của mọi nền kinh tế. Giá cả là
“đòn bẩy” kinh tế trong cơ chế thị trường, được coi là một hệ thống tín hiệu khách
quan trên thị trường.
Giá cả là một trong những thông tin đáng tin cậy để định hướng sản xuất, đầu
tư; đồng thời để giám sát sản xuất, phát hiện hiệu quả của sản xuất, cung cấp những
thông tin có căn cứ về hiệu quả sản xuất kinh doanh của từng mặt hàng; tác động
làm thay đổi cơ cấu sản xuất và cơ cấu đầu tư, tổ chức sắp xếp lại sản xuất dưới sự
kiểm soát của thị trường.
Giá cả quyết định đến lợi nhuận, vì lợi nhuận sẽ đưa nhà sản xuất kinh doanh
đến các khu vực sản xuất các hàng hóa, dịch vụ người tiêu dùng cần nhiều hơn bỏ
qua những vấn đề lợi ích công cộng của xã hội và cũng từ đó có thể dẫn đến sản
xuất, đầu tư trùng lắp, kém hiệu quả, đưa lại cơ cấu sản xuất luôn thay đổi vì mục
tiêu lợi nhuận.
Quy định giá cả bằng luật pháp: Trong cơ chế thị trường, hầu hết các hàng
hóa đều được định giá dựa trên quan hệ cung – cầu. Giá cả hàng hóa được xác định
tại mức mà lượng cung bằng với lượng cầu. Tuy nhiên do những mục tiêu điều tiết
vĩ mô nhất định, sự can thiệp của Chính phủ vào thị trường là điều không thể tránh
khỏi, thậm chí tại Mỹ và các nước có nền kinh tế thị trường phát triển khác, sự can
thiệp này cũng diễn ra khá phổ biến. Bên cạnh việc trợ cấp, đánh thuế, các chính
phủ còn can thiệp trực tiếp vào thị trường bằng các biện pháp kiểm soát giá. Đó là
những quy định và luật lệ của Chính phủ cản trở việc hàng hóa, dịch vụ được mua
bán ở giá cân bằng trên thị trường. Các biện pháp kiểm soát giá có thể là giá trần
hay giá sàn.
- Quan hệ cung – cầu
Trong nền kinh tế thị trường, cung và cầu là những lực lượng hoạt động trên
thị trường. Cầu được hiểu là nhu cầu xã hội về hàng hóa được biểu hiện trên thị
trường ở một mức giá nhất định, nó bị giới hạn bởi khả năng thanh toán của dân cư.
15



Nói cụ thể hơn, cầu là lượng một mặt hàng mà người mua muốn mua ở mức giá
nhất định. Những nhân tố ảnh hưởng tới cầu là thu nhập trung bình của người tiêu
dùng, quy mô thị trường, giá cả và tình trạng các hàng hóa khác, khẩu vị hay sở
thích, trong đó thu nhập của người tiêu dùng là quan trọng nhất.
Cung được hiểu là toàn bộ hàng hóa có trên thì trường và có thể đưa đến
ngay thị trường ở một mức giá nhất định. Nói cụ thể hơn, cung là lượng một mặt
hàng mà người bán muốn ở mức giá nhất định. Những nhân tố ảnh hưởng tới cung
là chi phí sản xuất, đây là nhân tố lớn nhất ảnh hưởng đến cung, giá cả và tình trạng
các hàng hóa khác.
Giữa cung và cầu tồn tại một mối quan hệ biện chứng; sự tác động giữa
chúng hình thành nên giá cả cân bằng hay giá cả thị trường, giá cả đó không thể đạt
được ngay, mà phải trải qua một thời gian dao động quanh vị trí cân bằng. Đó là
thực chất của lý thuyết cung - cầu
Cung - cầu có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau trên
thị trường. Cầu xác định khối lượng, cơ cấu của cung về hàng hóa, hàng hóa nào
tiêu thụ được nhiều thì sẽ được cung ứng nhiều và ngược lại. Cung cũng tác động,
kích thích cầu, những hàng hóa được sản xuất phù hợp với nhu cầu, thị hiếu tiêu
dùng sẽ được yêu thích, bán chạy hơn, làm cho cầu của chúng tăng lên. Không chỉ
ảnh hưởng lẫn nhau, cung - cầu còn ảnh hưởng tới giá cả. Khi cung bằng cầu thì giá
cả bằng giá trị. Còn khi cung nhỏ hơn cầu thì giá cả cao hơn giá trị. Giá cả cũng tác
động lại cung và cầu điều tiết làm cung, cầu trở về xu hướng cân bằng với nhau.
- Cạnh tranh
Trong kinh tế thị trường, các chủ thể hành vi kinh tế vì lợi ích riêng của bản
thân mình mà tiến hành cạnh tranh với nhau. Cạnh tranh được hiểu là sự đấu tranh
giữa các chủ thể hành vi kinh tế nhằm giành lợi ích tối đa cho mình. Cạnh tranh là
yếu tố cơ bản của cơ chế thị trường. Nó là hiện tượng tự nhiên, tất yếu của kinh tế thị
trường, ở đâu có sản xuất và trao đổi hàng hóa, thì ở đó có cạnh tranh.
Cạnh tranh là cơ chế điều chỉnh linh hoạt sản xuất xã hội và do đó làm cho

sự phân bố các nguồn lực kinh tế của xã hội một cách tối ưu. Mục đích hoạt động
16


của các doanh nghiệp là lợi nhuận tối đa, do đó họ sẽ đầu tư vào nơi có lợi nhuận
cao, tức là các nguồn lực kinh tế của xã hội sẽ được chuyển đến nơi mà chúng được
sử dụng với hiệu quả cao nhất.
Cạnh tranh kích thích tiến bộ kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới vào sản xuất.
Người sản xuất nào có kỹ thuật và công nghệ sản xuất tiên tiến sẽ thu được lợi nhuận
siêu ngạch. Do đó cạnh tranh là áp lực đối với người sản xuất buộc họ phải cải tiến kỹ
thuật, nhờ đó kỹ thuật và công nghệ sản xuất của toàn xã hội được phát triển.
Cạnh tranh góp phần tạo nên cơ sở cho sự phân phối thu nhập lần đầu. Người
sản xuất nào có năng suất, chất lượng, hiệu quả cao sẽ có thu nhập cao, đồng thời
thông qua cạnh tranh nhu cầu của người tiêu dùng được đáp ứng.
Cạnh tranh thường xảy ra mạnh được yếu thua, các chủ thể hành vi kinh tế
thích ứng với thị trường sẽ tồn tại và phát triển và ngược lại các chủ thể hành vi
kinh tế không thích ứng với thị trường sẽ bị đào thải.
Bên cạnh mặt tích cực, cạnh tranh cũng có những mặt tiêu cực, thể hiện ở
cạnh tranh không lành mạnh như dùng những thủ đoạn vi phạm đạo đức hoặc vi
phạm pháp luật nhằm thu được nhiều lợi ích nhất cho mình, gây tổn hại đến lợi ích
của người khác, của tập thể, xã hội… như làm hàng giả, buôn lậu, trốn thuế, ăn cắp
bản quyền.
1.2. Vấn đề phát triển ngành thủy sản ở Việt Nam
1.2.1. Thực trạng phát triển ngành thủy sản ở Việt Nam
a. Tiềm năng và ưu thế
Việt nam có thế mạnh về khai thác và nuôi trồng thuỷ sản trên cả 3 vùng
nước mặn, ngọt, lợ. Khu vực đặc quyền kinh tế biển khoảng 1 triệu km2 thuộc 4
khu vực được phân chia rõ ràng về mặt thuỷ văn đó là: Vịnh Bắc Bộ ở phía Bắc,
khu vực biển miền Trung, khu vực biển Đông Nam và vùng Vịnh Tây Nam, hàng
năm có thể khai thác 1,2 –1,4 triệu tấn hải sản, có độ sâu cho phép khai thác ở nhiều

tầng nước khác nhau. Ở vùng vịnh Bắc bộ và Tây nam bộ có độ sâu phân bố giống
nhau với 50% diện tích sâu dưới 50m nước và độ sâu lớn nhất không quá 100m.
Biển Đông nam bộ, độ sâu từ 30-60m chiếm tới 3/4 diện tích, độ sâu tối đa ở khu
17


vực này là 300m. Biển miền Trung có độ sâu lớn nhất, mực nước 30-50m, 100m chỉ
cách bờ biển có 3- 10 hải lý, độ sâu từ 200-500m chỉ cách bờ 20-40 hải lý, vùng sâu
nhất đạt tới 4000-5000m.
Đặc điểm nguồn lợi hải sản
Biển Việt Nam có trên 2.000 loài cá, trong đó khoảng 130 loài cá có giá trị
kinh tế. Theo những đánh giá mới nhất, trữ lượng cá biển trong toàn vùng biển là 4,2
triệu tấn, trong đó sản lượng cho phép khai thác là 1,7 triệu tấn/năm, bao gồm 850
nghìn tấn cá đáy, 700 nghìn tấn cá nổi nhỏ, 120 nghìn tấn cá nổi đại dương.
Bên cạnh cá biển còn nhiều nguồn lợi tự nhiên như trên 1.600 loài giáp xác,
sản lượng cho phép khai thác 50 - 60 nghìn tấn/năm, có giá trị cao là tôm biển, tôm
hùm và tôm mũ ni, cua, ghẹ; khoảng 2.500 loài động vật thân mềm, trong đó có ý
nghĩa kinh tế cao nhất là mực và bạch tuộc (cho phép khai thác 60 - 70 nghìn
tấn/năm); hằng năm có thể khai thác từ 45 - 50 nghìn tấn rong biển có giá trị kinh tế
như rong câu, rong mơ v.v... Bên cạnh đó, còn rất nhiều loài đặc sản quí như bào
ngư, đồi mồi, chim biển và có thể khai thác vây cá, bóng cá, ngọc trai, v.v... Bị chi
phối bởi đặc thù của vùng biển nhiệt đới, nguồn lợi thuỷ sản nước ta có thành phần
loài đa dạng, kích thước cá thể nhỏ, tốc độ tái tạo nguồn lợi cao.
Về ngư cụ đánh bắt: Các loại lưới kéo chiếm tỷ lệ lớn nhất (khoảng 31%),
sau đến loại lưới rê trôi (21%), lưới vây là 8% và số còn lại là sử dụng các loại ngư
cụ khác. Số lượng thuỷ sản khai thác: Cá biển chiếm khoảng 65% tổng số sản phẩm
cá của Việt Nam, 35% còn lại là cá nuôi và cá nước ngọt. Các nguồn lợi hải sản ở
các vùng biển ven bờ với mức nước sâu dưới 50 m đã được xem là khai thác cạn
kiệt. Năm 2010, sản lượng đánh bắt xa bờ chiếm 35% tổng sản lượng đánh bắt.
Theo tính toán, tiềm năng về nguồn lợi thuỷ sản ước tính khoảng trên 4,2 triệu tấn.

Sản lượng khai thác bền vững ước tính là 1,7 triệu tấn/năm. Nguồn lợi hải sản chủ
yếu là các loại cá có khả năng di chuyển nhanh, lưu trú ở vùng biển Việt Nam trong
khoảng thời gian ngắn. Theo số liệu thống kê, tổng sản lượng hải sản đánh bắt năm
2014 là 2,45 triệu tấn. Trong đó, 82% sản lượng hải sản đánh bắt được là các loại
cá, số còn lại là cua, mực, tôm các loại và một số loại hải sản khác. Khoảng 60%
18


sản lượng khai thác được phục vụ cho nhu cầu tiêu thụ trong nước, 18% cho xuất
khẩu và khoảng 20% cho các mục đích khác.
Bên cạnh những thuận lợi về điều kiện tự nhiên, ngành thuỷ sản Việt nam
còn có lợi thế về tiềm năng lao động và giá cả sức lao động. Lao động nghề cá Việt
nam có số lượng dồi dào, thông minh, khéo tay, chăm chỉ, có thể tiếp thu nhanh
chóng và áp dụng sáng tạo công nghệ tiên tiến.
Thuận lợi về thị trường: Việt nam nằm cạnh Trung quốc một nước đông dân
nhất trên thế giới: hơn 1,4 tỉ người, đây là 1 thị trường đầy tiềm năng và tiêu thụ hải
sản rất mạnh, hầu như từ trước đến nay Việt nam chưa từng thoả mãn được nhu cầu
về hải sản của Trung quốc. Ngoài trung quốc ra còn có thị trường Nhật Bản và Hàn
Quốc cũng là 2 thị trường tiêu thụ rất mạnh các sản phẩm thuỷ sản của nước ta, vì
vậy trong tương lai thuỷ sản Việt nam còn có tiềm năng mở rộng thị trường, đẩy
mạnh kim ngạch xuất khẩu, vươn lên một tầm cao mới.
b. Những khó khăn còn tồn tại
Bên cạnh những thuận lợi kể trên, nhìn chung ngành thủy sản còn chưa thực
sự phát triển tương xứng với tiềm năng phong phú của nó, so với các nước còn thua
kém về nhiều mặt. Chúng ta về cơ bản mới chỉ là đánh bắt cá ven bờ, cả trong khâu
đánh bắt cũng như khâu chế biến còn rất thủ công, chưa thực sự đẩy ngành thủy sản
lên tầm vĩ mô, mang tính công nghiệp cao .
Xét về sản lượng, mức khai thác thấp hơn rất nhiều so với 1 số nước trong
khu vực như : Philipin, Thái Lan, Trung Quốc. Khai thác của ta còn chưa được hiện
đại hóa, thiếu khả năng vươn nhanh mạnh ra xa bờ. Hầu hết các tàu đánh bắt có

công suất nhỏ, năng suất thấp, mới chỉ khai thác ở độ sâu dưới 50 m, trong khi đó
vùng biển của Việt nam trải dài, nhiều vùng có độ sâu lớn. Đây thực sự là 1 trong
những hạn chế cản trở sự phát triển, dẫn đến tình trạng lạm thác ở ven bờ trong khi
nguồn lợi ở xa bờ lại chưa được sử dụng tới.
Nuôi trồng thủy sản vẫn chưa được qui hoạch, do không có kế hoạch tổng
thể lâu dài và chỉ chú trọng mở rộng diện tích nên hiệu quả kinh tế không cao, có
nơi còn gây hậu quả xấu về môi trường sinh thái cũng như bảo vệ nguồn lợi. Việc
19


nuôi trồng nhiều lúc còn tràn lan, thiếu tính khoa học nên chất lượng không cao,
hiện nay vẫn chưa tìm được hướng thích hợp để huy động vốn đầu tư cho phát triển,
đặc biệt là đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ tầng. Các chương trình nuôi trồng và khai
thác nhiều khi chồng chéo nhau, không nhất quán trong việc sử dụng đất, mặt nước
và tàu thuyền, đặc biệt là trong sử dụng vốn đầu tư.
Ngoài ra không thể không kể đến một nhân tố quan trọng còn tồn tại ảnh
hưởng trực tiếp tới giá trị thủy sản Việt nam đó là năng lực chế biến. Vấn đề đa
dạng hóa, nâng cao chất lượng sản phẩm, cải tiến mẫu mã đang trở thành đòi hỏi tất
yếu của kinh tế thị trường, đặc biệt là chất lượng chế biến. Có thể sản lượng đánh
bắt khai thác rất lớn, song nếu trình độ chế biến và bảo quản không cao thì điều đó
cũng chẳng có ý nghĩa gì cả, bởi thủy sản là mặt hàng tươi sống, phải qua sơ chế
nhiều khâu mới có thể xuất khẩu, đem lại giá trị kinh tế cao.
Ngoài ra năng lực quản lý của doanh nghiệp và của nhà nước còn yếu kém,
không đáp ứng kịp với yêu cầu phát triển của nền sản xuất trong giai đoạn chuyển
từ kinh tế thương mại đơn thuần sang kinh tế công nghiệp. Đội ngũ quản lý chậm
được đổi mới và đào tạo lại nên không theo kịp được với yêu cầu mới của thời kì
hội nhập và cạnh tranh.
Một khó khăn nữa của ngành thủy sản là vốn, nhất là vốn lưu động và vốn
đầu tư cho công nghệ. Bởi lẽ thủy sản là mặt hàng có gía trị cao nên vốn đầu tư lớn,
hầu hết sức đầu tư của ta còn nhỏ, lẻ, manh mún, không trường vốn đầu tư cho cơ

sở hạ tầng, hệ thống kho bảo quản, làm lạnh ... Chính vì thế mới có tình trạng hầu
hết các xí nghiệp chế biến thủy sản ở nước ta chỉ làm gia công cho 1 số công ty lớn
trong hoặc ngoài nước.
Nhìn chung, trước mắt, ngành thủy sản Việt nam còn có rất nhiều khó khăn
và thử thách cần phải giải quyết, nhằm nâng cao giá trị xuất khẩu thủy sản, mở rộng
thị trường, để cho ngành thủy sản thực sự xứng đáng với tiềm năng to lớn của nó.
1.3. Kinh nghiệm của một số địa phƣơng
1.3.1. Nghệ An
Nghệ An đang phát triển hiệu quả nghề nuôi trồng, đánh bắt thủy sản trên cơ
sở khai thác tiềm năng đất đai, mặt nước và kinh nghiệm của người dân. Tại các
20


×