DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết đầy đủ
Bảo đảm nhân lực
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Chính trị quốc gia
Giáo dục đào tạo
Kinh tế - Xã hội
Khoa học công nghệ
Khu công nghiệp
Khu chế xuất
Lao động Thương binh và xã hội
Sức lao động
Xã hội chủ nghĩa
Chữ viết tắt
BĐNL
CNH, HĐH
CTQG
GDĐT
KT - XH
KH - CN
KCN
KCX
LĐTB&XH
SLĐ
XHCN
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Trang
3
Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM NHÂN LỰC CHO
CÁC KHU CÔNG NGHIỆP Ở TỈNH BÌNH DƯƠNG
11
1.1. Những vấn đề chung về khu công nghiệp và bảo đảm
nhân lực cho các khu công nghiệp
1.2. Quan niệm, nội dung và những nhân tố tác động đến bảo
11
đảm nhân lực cho các khu công nghiệp ở tỉnh Bình Dương
21
Chương 2 THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM NHÂN LỰC CHO CÁC
KHU CÔNG NGHIỆP Ở TỈNH BÌNH DƯƠNG
2.1. Tổng quan về các khu công nghiệp ở tỉnh Bình Dương
2.2. Thành tựu và hạn chế trong bảo đảm nhân lực cho các
khu công nghiệp ở tỉnh Bình Dương
2.3. Nguyên nhân và những vấn đề đặt ra từ quá trình bảo
34
34
39
đảm nhân lực cho các khu công nghiệp ở tỉnh Bình
Dương
51
Chương 3 QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
NHẰM BẢO ĐẢM NHÂN LỰC CHO CÁC KHU
CÔNG NGHIỆP Ở TỈNH BÌNH DƯƠNG
61
3.1. Quan điểm cơ bản bảo đảm nhân lực cho các khu công
nghiệp ở tỉnh Bình Dương
3.2. Giải pháp chủ yếu bảo đảm nhân lực cho các khu công
nghiệp ở tỉnh Bình Dương
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
61
69
86
87
92
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nhân lực có vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế bền vững
của mọi quốc gia. BĐNL cho phát triển kinh tế nói chung và cho các KCN
nói riêng là vấn đề cần thiết và cấp bách nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc khi mà Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng
vào khu vực và thế giới.
Thực tiễn quá trình phát triển các KCN ở Bình Dương đã khẳng định
2
chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước, chứng minh tính chủ động, sáng
tạo của địa phương trong việc phát huy lợi thế, lựa chọn khâu trọng điểm, đột
phá phát triển KT - XH của Tỉnh theo hướng CNH, HĐH. Để xây dựng và
phát triển các KCN, tỉnh Bình Dương luôn quan tâm đến nhiều yếu tố như: cơ
sở hạ tầng, quản lý kinh tế, quản lý xã hội, môi trường đầu tư, nhân lực...trong
đó xác định chất lượng nhân lực là yếu tố giữ vai trò quyết định.
Trong những năm qua, chính quyền tỉnh Bình Dương luôn có những
định hướng khoa học và thực tiễn về phát triển nhân lực cũng như BĐNL cho
sự phát triển KT – XH nói chung, cho các KCN nói riêng để khai thác, sử
dụng đáp ứng yêu cầu của phát triển nhanh và bền vững. Chính vì vậy mà
nhân lực trong các KCN của tỉnh Bình Dương đã có sự thay đổi rất lớn không
những về số lượng và chất lượng, mà còn có sự phát triển cả về quan điểm, tư
duy, tác phong làm việc của người lao động, cán bộ quản lý nhà nước, các nhà
quản trị doanh nghiệp. Những nhân tố này đã tạo điều kiện hết sức thuận lợi
để các KCN ở tỉnh Bình Dương hoạt động có hiệu quả, góp phần thúc đẩy
phát triển công nghiệp, tăng trưởng kinh tế, đẩy nhanh quá trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH trên địa bàn Tỉnh.
Tuy đạt được những kết quả quan trọng, song do nhiều nguyên nhân
khách quan và chủ quan khác nhau, việc BĐNL cho các KCN ở tỉnh Bình
Dương đã bộc lộ những hạn chế, bất cập cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu.
Trong đó, trình độ tay nghề thấp do xuất phát điểm về trình độ học vấn, chuyên
môn nghiệp vụ hạn chế, tỷ lệ lao động được đào tạo nghề nghiệp và kỹ năng
còn thấp. BĐNL tại chỗ chưa đáp ứng cả về số lượng và chất lượng cho nhu
cầu ngày càng cao của các KCN, lao động chất lượng cao, những người lao
động có khả năng tiếp thu điều hành công nghệ mới vẫn còn thiếu trầm trọng.
Vì vậy, việc tiếp tục làm sáng tỏ lý luận và thực tiễn về BĐNL cho các
KCN ở tỉnh Bình Dương, từ đó đề xuất những quan điểm và giải pháp góp
phần phát huy những tích cực, hạn chế những tác động tiêu cực trong BĐNL
cho các KCN trên địa bàn là vấn đề có ý nghĩa cấp thiết cả về lý luận và thực
tiễn.. Với lý do đó, tác giả chọn vấn đề “Bảo đảm nhân lực cho các khu
công nghiệp ở tỉnh Bình Dương” làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sỹ.
3
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đế tài
Thực tiễn đã chứng minh rằng, chất lượng nhân lực có vai trò rất quan
trọng, ảnh hưởng lớn đến sự phát triển kinh tế. Các mô hình phát triển kinh tế
đều khẳng định điều này khi cho rằng sự phát triển bền vững đòi hỏi phải tích
lũy vốn, phát triển kỹ thuật và công nghệ. Đây là những nhân tố gắn liền và
phụ thuộc vào chất lượng nhân lực, khi chất lượng lao động thấp hay vốn
nhân lực ít thì việc tạo ra và thực hiện tích lũy vốn và phát triển kỹ thuật công
nghệ khó mà thực hiện được. Các bằng chứng cả vi mô và vĩ mô đều cho thấy
tầm quan trọng của chất lượng của nhân tố này với sự phát triển kinh tế.
Hiện nay, vấn đề BĐNL cho phát triển KT - XH ở nước ta nói chung và
phát triển các KCN ở tỉnh Bình Dương nói riêng là vấn đề rất quan trọng và cần
thiết đối với sự phát triển KT - XH của Tỉnh. Phạm vi bảo đảm nhân lực rộng
lớn, đã được nhiều học giả nghiên cứu và đề cập ở các khía cạnh khác nhau. Có
công trình nghiên cứu phân tích dưới góc độ tổng hợp, có công trình nghiên cứu
cụ thể về nhân lực. Trong đó, đáng chú ý một số công trình tiêu biểu sau:
* Nhóm tài liệu nghiên cứu dưới dạng sách có:
Trần Nhâm (2004) “Tư duy lý luận với sự nghiệp đổi mới”, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội. Cuốn sách bàn về phát triển nguồn lực, con người - nhân
tố quyết định thắng lợi của đổi mới và phát triển, tiếp tục khẳng định con
người là trung tâm của mọi sự phát triển, con người vừa là mục tiêu vừa là
động lực của phát triển KT - XH. Tác giả khẳng định chiến lược phát triển
con người không chỉ là phát triển từng mặt nào đó mà là phát triển toàn diện
cả đạo đức và tài năng, cả thể lực, trí lực, và tay nghề.
Trung tâm khoa học xã hội nhân văn quốc gia (1995), “Con người và
nguồn lực con người trong phát triển”, Nxb CTQG, Hà Nội. Cuốn sách đã tập
hợp các bài viết, công trình nghiên cứu của nhiều tác giả trên thế giới bàn về vấn
đề con người theo các góc độ khác nhau; về động cơ hoạt động của con người;
mô hình mới về sử dụng nguồn lực con người; trí tuệ hoá lao động và đào tạo
chuyên môn; tiếp cận mới đối với chính sách việc làm, con người và môi trường.
Trần Văn Tùng và Lê Ái Lâm (1998), “Phát triển nguồn nhân lực kinh nghiệm thế giới và thực tiễn nước ta”, Nxb CTQG, Hà Nội. Cuốn sách
4
đã khái quát những kinh nghiệm về phát triển nguồn nhân lực của các nước
phát triển trên thế giới. Tuy nhiên, cuốn sách chưa trình bày nội dung tổng
quát của phát triển nguồn nhân lực như chăm sóc sức khoẻ, nâng cao mức
sống, việc làm… mà tập trung vào lĩnh vực giáo dục đào tạo, yếu tố quyết
định đến phát triển nguồn nhân lực.
Viện phát triển giáo dục Hà Nội (2002), “Từ chiến lược phát triển giáo
dục đến chính sách phát triển nguồn nhân lực”, Nxb Hà Nội, Hà Nội. Cuốn
sách đã tập hợp kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học và các nhà quản lý ở
nhiều lĩnh vực khoa học kinh tế và xã hội khác nhau với mục tiêu thống nhất
quan điểm, chính sách về phát triển nguồn nhân lực. Đồng thời, đề xuất một
khung chính sách phát triển nguồn nhân lực nhằm triển khai thành công các
mục tiêu đề ra trong chiến lược phát triển GDĐT.
Hoàng Thị Bích Loan (2009), “Về giá cả sức lao động (tiền lương, tiền
công) trên thị trường sức lao động ở Việt Nam những năm qua”, Nxb Lao
động – xã hội, Hà Nội. Tác giả chỉ ra thực trạng chính sách tiền lương (những
thành công và hạn chế trong chính sách tiền lương), tiền công ở nước ta trong
thời gian qua, cả về chính sách tiền lương tối thiểu và tiền lương tối thiểu trong
doanh nghiệp, chỉ ra những hạn chế bất cập trong chính sách tiền lương, tiền
công. Đồng thời đề ra một số giải pháp tiếp tục hoàn thiện chính sách tiền
lương, tiền công, ý nghĩa của việc phát triển thị trường SLĐ ở nước ta hiện nay.
Nguyễn Thanh (2005), “Phát triển nguồn nhân lực phục vụ công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”, Nxb CTQG, Hà Nội. Tác giả cho rằng
phát triển nguồn nhân lực là yếu tố quyết định sự thành công của sự nghiệp
CNH, HĐH, đồng thời nêu lên một số thực trạng về phát triển nguồn nhân lực
có chất lượng, trên cơ sở đó đưa ra một số định hướng chủ yếu trong phát
triển nguồn nhân lực cho CNH, HĐH ở nước ta hiện nay.
Vũ Bá Thể (2002), “Phát huy nguồn lực con người để công nghiệp
hoá, hiện đại hoá”, Nxb Tài chính, Hà Nội. Trên cơ sở nghiên cứu kinh
nghiệm phát triển nguồn nhân lực của một số nước trên thế giới và thực trạng
nguồn nhân lực ở nước ta, tác giả đã đưa ra những quan điểm về nguồn nhân
lực và phát triển nguồn nhân lực; vai trò của nguồn nhân lực đối với tăng
5
trưởng kinh tế và sự nghiệp CNH, HĐH ở Việt Nam. Đồng thời, đưa ra định
hướng và những giải pháp nhằm phát huy nguồn lực con người ở nước ta hiện
nay.
Phạm Minh Hạc (2001), “Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực
đi vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Nxb, Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Tác giả đi sâu nghiên cứu về con người, những nhân tố tác động đến sự
phát triển toàn diện của con người như: sức khỏe, hình thể, trí tuệ, sự chăm
sóc y tế, giáo dục của gia đình, nhà trường, xã hội, giáo dục và đào tạo...
trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp chiến lược nhằm phát triển nguồn nhân
lực cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
* Nhóm tài liệu nghiên cứu dưới dạng đề tài khoa học, luận văn, luận án có:
Nguyễn Phan Hưng (2009), “Quản lí, đào tạo nhân lực đáp ứng nhu
cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế tỉnh Bình Thuận đến năm 2020”, luận án tiến
sĩ Quản lí giáo dục, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam, Hà Nội. Ở công trình
này, tác giả đã luận giải thực trạng quản lý đào tạo nhân lực và mối quan hệ
biện chứng giữa chuyển dịch cơ cấu kinh tế và dịch chuyển nhu cầu nhân lực
trong quá trình phát triển kinh tế ở tỉnh Bình Thuận.
Bạch Văn Bảy (1996) “Di dân, nguồn nhân lực, việc làm và đô thị hoá
ở thành phố Hồ Chí Minh” đề tài khoa học, Hồ Chí Minh. Đề tài đã luận giải
về thực trạng vấn đề di dân và sự ảnh hưởng đến nguồn nhân lực đáp ứng nhu
cầu của nền kinh tế trong điều kiện đô thị hóa ở thành phố Hồ Chí Minh.
Nguyễn Thanh (2001), “Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và vai trò
của giáo dục - đào tạo đối với phát triển nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp
CNH, HĐH ở nước ta hiện nay ”, Luận án Tiến sĩ Triết học,Viện Triết học, Hà
Nội. Tác giả đã luận giải rõ phát triển nguồn nhân lực là yếu tố quyết định sự
thành công của sự nghiệp CNH, HĐH, đồng thời nêu lên một số thực trạng về
phát triển nguồn nhân lực có chất lượng, trên cơ sở đó đưa ra một số định hướng
chủ yếu trong phát triển nguồn nhân lực cho CNH, HĐH ở nước ta hiện nay.
Nguyễn Thế Phong (2010), “Phát triển nguồn nhân lực trong các
doanh nghiệp Nhà nước kinh doanh nông sản khu vực phía Nam”, Luận án
tiến sĩ Kinh tế, Đại học kinh tế thành phố Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh. Tác
6
giả đã phân tích thực trạng nguồn nhân lực, các công cụ phát triển nguồn nhân
lực và đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển nguồn nhân lực trong các
doanh nghiệp Nhà nước kinh doanh nông sản ở phía Nam.
Phạm Thị Bích Thu (2008), “Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực của
công nghiệp dệt may Việt Nam”. Luận án tiến sĩ Kinh tế, Đại học Đà Nẵng,
Đà Nẵng.Tác giả đã hệ thống hóa, làm rõ và đưa ra một số quan điểm về đào
tạo và phát triển nguồn nhân lực cho ngành công nghiệp dệt may ở Việt Nam
đồng thời đề xuất một số giải pháp nhằm đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
cho công nghiệp dệt may Việt Nam.
Bùi Thị Ngọc Lan (2001),“Phát huy nguồn lực trí tuệ trong công cuộc
đổi mới ở nước ta hiện nay”, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Hành chính
Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Tác giả đã phân tích có hệ thống cấu trúc, đặc
trưng và nội dung của nguồn lực trí tuệ trong tương quan với nguồn lực con người
và các nguồn lực khác. Phê phán những quan điểm sai trái về vần đề này và dự
báo xu hướng phát triển, đề xuất phương hướng giải pháp chủ yếu để phát huy
nguồn lực trí tuệ của Việt Nam đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước.
Trần Thanh Bình (2003),“Đào tạo nguồn nhân lực phục vụ quá trình
CNH, HĐH ở nông thôn Việt Nam”, Luận án tiến sĩ Kinh tế, Đại học kinh tế
quốc dân, Hà Nội. Tác giả đã phân tích thực trạng đào tạo nguồn nhân lực và
đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác đào tạo nguồn nhân lực
phục vụ quá trình CNH, HĐH ở nông thôn Việt Nam.
Trần Du Lịch và Nguyễn Thị Cành (2005), “Phát triển và đào tạo nguồn
nhân lực”, Đề tài ứng dụng phát triển nguồn nhân lực, Hồ Chí Minh. Đề tài đã
trình bày những vấn đề chung nhất về công tác đào tạo và phát triển nguồn
nhân lực, hình thức và phương pháp đào tạo, cách xác định nhu cầu đào tạo và
đề xuất những vấn đề tổ chức nhà nước cần làm để xây dựng một chương
trình đào tạo đạt hiệu quả và chất lượng.
Lê Bá Phương (2008), “Phát triển nguồn nhân lực cho các khu công
nghiệp ở tỉnh Ninh Thuận giai đoạn 2008 – 2015”, Luận văn thạc sĩ Kinh tế,
Trường đại học kinh tế thành phố Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh. Luận văn đã luận
7
giải những vấn đề cơ bản về phát triển nguồn nhân lực, thực trạng đào tạo và sử
dụng nguồn nhân lực ở các KCN ở tỉnh Ninh Thuận. Chỉ ra chính sách phát triển
và dự báo nhân lực cho các KCN ở tỉnh Nình Thuận giai đoạn 2008 – 2015.
Lê Thanh An (2011), “Phát triển nguồn nhân lực cho các khu công nghiệp
thuộc vùng kinh tế mở Vân Phong tỉnh Khánh Hòa”, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Đại
học Đà Nẵng, Đà Nẵng. Tác giả đã luận giải những vấn đề về phát triển nguồn nhân
lực cho các khu công nghiệp, đề ra một số giải pháp nhằm phát triển nguồn nhân
lực cho các khu công nghiệp ở vùng kinh tế mở Vân Phong tỉnh Khánh Hòa.
Phạm Văn Quốc (2011),“Bảo đảm nguồn nhân lực cho kinh tế có vốn
đầu tư nước ngoài trên địa bàn tỉnh Đồng Nai”, Luận văn thạc sĩ Kinh tế,
Học viện Chính trị, Hà Nội. Ở công trình này, tác giả đã làm rõ khái niệm,
nội dung, phương thức đảm bảo nguồn nhân lực cho kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài trên địa bàn Đồng Nai; phân tích, đánh giá thực trạng các hoạt
động và kết quả bảo đảm nguồn nhân lực cho kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài ở Đồng Nai thời gian qua. Đồng thời tác giả đã đề xuất một số quan
điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu góp phần bảo đảm nguồn nhân lực cho kinh tế
có vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn Đồng Nai trong thời gian tới.
* Nhóm tài liệu nghiên cứu dưới dạng các bài báo khoa học có:
Phạm Công Nhất (2008), “Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp
ứng yêu cầu đổi mới và hội nhập quốc tế”, Tạp chí Lý luận chính trị, 3. Tác
giả đã khái quát kết quả hơn hai mươi năm đổi mới đất nước và hơn một năm
gia nhập Tổ chức thương mại thế giới, đồng thời chỉ rõ thực trạng phát triển
nguồn nhân lực ở nước ta và đưa ra một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế và sự
nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Bành Tiến Long (2008), "Tiếp tục đổi mới giáo dục đào tạo phát triển nguồn
nhân lực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc", Tạp chí Quốc phòng toàn dân,
4. Nguyễn Văn Thành (2008),“Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của hội
nhập kinh tế quốc tế”, Tạp chí Kinh tế và dự báo, (417). Những tác giả này tập trung
phân tích làm rõ tầm quan trọng của giáo dục đào tạo đối với việc phát triển nguồn
nhân lực trong giai đoạn hiện nay, không chỉ phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ
8
quốc mà còn đáp ứng yêu cầu mới của hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng của
nước ta.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu nói trên đã tập trung phân tích làm
rõ một số vấn đề phát triển, đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực và một số khía
cạnh về bảo đảm nguồn nhân lực trong phát triển KT - XH. Các quan điểm,
phương hướng và giải pháp của từng công đoạn, từng khâu bảo đảm nguồn nhân
lực ở Việt Nam. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có đề tài nào đi sâu nghiên cứu, tìm
hiểu một cách toàn diện cả ở phương diện lý luận và phương diện thực tiễn về
BĐNL cho các KCN ở tỉnh Bình Dương nhất là thực tiễn năng động, đa dạng
phong phú ở một địa bàn có tốc độ phát triển kinh tế nhanh như ở Bình Dương.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn BĐNL cho các KCN ở tỉnh Bình
Dương, đề xuất một số quan điểm cơ bản và những giải pháp chủ yếu góp phần
bảo đảm tốt nhân lực cho các KCN trên bàn Tỉnh trong thời gian tới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn về BĐNL cho các KCN ở tỉnh
Bình Dương.
- Đánh giá thực trạng BĐNL cho các KCN ở tỉnh Bình Dương thời gian qua.
- Đề xuất những quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm góp phần
BĐNL cho các KCN ở tỉnh Bình Dương thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Bảo đảm nhân lực cho các doanh nghiệp công nghiệp trong các KCN dưới
góc độ kinh tế chính trị.
* Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Luận văn tập trung nghiên cứu BĐNL cho các doanh
nghiệp công nghiệp trong các KCN ở tỉnh Bình Dương.
- Về thời gian: Luận văn tập trung phân tích, nghiên cứu, khảo sát số
liệu, tư liệu từ năm 2007 đến nay.
9
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận
Luận văn sử dụng phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
quan điểm, đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam.
* Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp trừu tượng hóa khoa học, kết hợp
với một số phương pháp khác như: thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp,
khảo sát thực tiễn và chuyên gia để giải quyết nhiệm vụ đặt ra.
Tiếp thu có chọn lọc các kết quả nghiên cứu về BĐNL cho các KCN của
các tác giả trong nước, vận dụng vào hoàn cảnh cụ thể của tỉnh Bình Dương.
Đồng thời, dựa vào các Nghị quyết của Đảng bộ tỉnh Bình Dương qua các kỳ Đại
hội, Báo cáo tổng kết, số liệu thống kê kinh tế của UBND, Cục Thống kê, Ban
quản lý các KCN tỉnh Bình Dương đã được công bố từ năm 2007 đến nay.
6. Ý nghĩa của luận văn
- Luận văn hoàn thành sẽ góp phần làm sâu sắc thêm những vấn đề lý luận và
thực tiễn về BĐNL cho các KCN ở một địa phương cụ thể. Đồng thời, góp phần cung
cấp luận cứ khoa học cho Đảng bộ, chính quyền tỉnh Bình Dương trong lãnh đạo, chỉ
đạo phát triển các KCN; trực tiếp là vấn đề BĐNL cho các KCN trên địa bàn Tỉnh.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho
việc giảng dạy, nghiên cứu môn học kinh tế chính trị Mác - Lênin.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, luận văn gồm 3 chương (7 tiết), kết luận, danh
mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM NHÂN LỰC
CHO CÁC KHU CÔNG NGHIỆP Ở TỈNH BÌNH DƯƠNG
1.1. Những vấn đề chung về khu công nghiệp và bảo đảm nhân lực
cho các khu công nghiệp
10
1.1.1. Những vấn đề chung về khu công nghiệp
* Quan niệm về khu công nghiệp.
KCN đã được hình thành và phát triển ở các nước tư bản phát triển
vào những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Ở các nước Châu Á, và
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á, KCN ra đời vào giữa sau của thế kỷ XX
(Singapor năm 1951, Đài Loan 1966, Hàn Quốc 1970, Thái Lan 1972…).
Đối với nước ta, KCN ra đời cùng với đường lối đổi mới, mở cửa do Đại
hội lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1986 khởi xướng. Từ đó
đến nay, phát triển KCN được xem là động lực thúc đẩy sự nghiệp CNH,
HĐH đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng. Theo đó, vấn đề phát triển các
KCN đã được đầu tư, quan tâm thỏa đáng cả về lý luận và thực tiễn.
Hình thức đầu tư vào KCN còn gọi là KCN tập trung xuất hiện tại Việt
Nam sau khi Chính phủ cho phép thực hiện đầu tư theo hình thức KCX. Đây
là khu vực tập trung những nhà đầu tư vào các ngành công nghiệp mà Nhà
nước cần khuyến khích, ưu đãi. Tại đây, Chính phủ nước sở tại sẽ dành cho
các nhà đầu tư những ưu đãi cao về thuế, về các biện pháp đối xử phi thuế
quan, về quyền chuyển lợi nhuận ra nước ngoài, để họ đưa công nghệ vào rồi
tiến tới chuyển giao công nghệ cho nước chủ nhà. KCN là một lãnh địa được
phân chia và phát triển có hệ thống theo một kế hoạch tổng thể nhằm cung
ứng các thiết bị kỹ thuật cần thiết, cơ sở hạ tầng, phương tiện công cộng phù
hợp với sự phát triển của một liên hiệp các ngành công nghiệp nhằm đạt hiệu
quả cao trong sản xuất công nghiệp và kinh doanh.
Tại Việt Nam, Điều 2: “Quy chế KCN, KCX, khu công nghệ cao”,
được Chính phủ ban hành năm 1997 có quy định:
KCN là khu tập trung các doanh nghiệp công nghiệp, chuyên sản xuất
hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh
giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống, do Chính phủ hoặc Thủ tướng
Chính phủ quyết định thành lập. Trong KCN có thể có doanh nghiệp chế xuất.
Luật đầu tư được Quốc hội thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2005 đã
hiệu chỉnh lại khái niệm về KCN như sau:
KCN là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp, và thực hiện các dịch
11
vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, được thành lập
theo quy định của Chính phủ.
Nghị định “Quy định về khu công nghiệp, khu chế xuất và khu
kinh tế của Chính phủ” ngày 14 tháng 3 năm 2008 đưa ra khái niệm: Khu
công nghiệp là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các
dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, được
thành lập theo điều kiện, trình tự và thủ tục quy định của Chính phủ.
Đến năm 2014 trong Luật Đầu tư được Quốc hội thông qua ngày
26 tháng 11 năm 2014 cũng chỉ rõ: KCN là khu vực có ranh giới địa lý
xác định, chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện dịch vụ cho
sản xuất hàng công nghiệp.
Từ khái niệm trên có thể hiểu, KCN là một tổ chức không gian lãnh thổ
công nghiệp luôn gắn liền phát triển công nghiệp với xây dựng cơ sở hạ tầng
và hình thành mạng lưới đô thị, phân bố dân cư hợp lý.
* Đặc điểm của KCN
Một là, KCN có chính sách kinh tế đặc thù, ưu đãi, nhằm thu hút vốn
đầu tư nước ngoài, tạo môi trường đầu tư thuận lợi, hấp dẫn cho phép các nhà
đầu tư nước ngoài sử dụng những phạm vi đất đai nhất định trong khu để
thành lập các nhà máy, xí nghiệp, các cơ sở kinh tế, dịch vụ với những ưu đãi
về thủ tục xin phép và thuê đất (giảm hoặc miễn thuế).
Hai là, KCN có vị trí địa lý xác định nhưng không hoàn toàn là một
vương quốc nhỏ trong một vương quốc như KCX. Các chế độ quản lý hành
chính, các quy định liên quan đến việc ra, vào KCN và quan hệ với doanh
nghiêp bên ngoài sẽ rộng rãi hơn. Hoạt động trong KCN sẽ là các tổ chức pháp
nhân, các cá nhân trong và ngoài nước tiến hành theo các điều kiện bình đẳng.
Ba là, KCN là mô hình tổng hợp phát triển kinh tế với nhiều thành
phần và nhiều hình thức sở hữu khác nhau cùng tồn tại song song; doanh
nghiêp có vốn đầu tư nước ngoài dưới các hình thức hợp đồng, hợp tác kinh
doanh, doanh nghiêp 100% vốn nước ngoài, doanh nghiêp liên doanh và cả
doanh nghiêp 100% vốn trong nước.
12
Bốn là, có Ban quản lí thống nhất để thực hiện quy chế quản lí, đồng thời
có sự phân cấp rõ ràng về quản lí và tổ chức sản xuất. Về phía các xí nghiệp, khả
năng hợp tác sản xuất phụ thuộc vào việc tự liên kết với nhau của từng doanh
nghiệp. Còn việc quản lí Nhà nước được thể hiện ở chỗ Nhà nước chỉ quy định
những ngành (hay loại xí nghiệp) được khuyến khích phát triển và những ngành
(hoặc loại xí nghiệp) không được phép đặt trong KCN vì các lí do nhất định (như
môi trường sinh thái, hay an ninh quốc phòng).
Năm là, các KCN tạo ra một hệ thống kết cấu hạ tầng tương đối đồng
bộ, có giá trị lâu dài, góp phần hiện đại hoá hệ thống kết cấu hạ tầng trên cả
nước, đóng góp không nhỏ vào tăng trưởng ngành sản xuất công nghiệp, nâng
cao giá trị xuất khẩu và sức cạnh tranh của nền kinh tế qua đó góp phần
chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các địa phương và cả nước theo hướng CNH,
HĐH, góp phần quan trọng trong việc giải quyết việc làm, đào tạo nhân lực,
nâng cao thu nhập, đời sống và trình độ của người lao động. Song hành cùng
với quá trình đổi mới và mở cửa nền kinh tế, Đảng và Nhà nước đã chủ
trương hình thành các KCN với ý nghĩa là các trung tâm sản xuất công
nghiệp, dịch vụ có kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại. Các KCN hiện đang là
điểm đến của nhiều tập đoàn hàng đầu thế giới trong các lĩnh vực khác nhau
với các sản phẩm đa dạng được xuất khẩu toàn cầu, góp phần khẳng định vị
thế của Việt Nam trong bản đồ địa kinh tế của khu vực và thế giới.
Định hướng phát triển KCN đã được đề cập trong các Nghị quyết của
Đảng thời gian gần đây. Chủ trương phát triển KCN bền vững và theo
chiều sâu được đề ra tại Nghị quyết Đại hội Đảng XI năm 2011: “Bố trí
hợp lý công nghiệp trên các vùng; phát huy hiệu quả các khu, cụm công
nghiệp hiện có và đẩy mạnh phát triển công nghiệp theo hình thức cụm,
nhóm sản phẩm, tạo thành các tổ hợp công nghiệp quy mô lớn, hiệu quả
cao” [24, tr.195]. Nghị quyết số 13-NQ/TW Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa XI cũng đưa ra 10 định hướng lớn xây dựng hệ
thống kết cấu hạ tầng đồng bộ nhằm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại, trong đó có định hướng phát triển kết cấu hạ
tầng KCN và nêu rõ: “Phát triển đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng KCN,
13
không lấy đất lúa để xây dựng các KCN mới. Đến năm 2015, giải quyết cơ
bản tình trạng thiếu nhà ở và các hạ tầng xã hội thiết yếu như nhà trẻ, mẫu
giáo, trường học, cơ sở khám chữa bệnh... cho lao động các KCN, đến năm
2020, hoàn chỉnh các công trình kết cấu hạ tầng trong các KCN”.
1.1.2. Quan niệm về nhân lực và bảo đảm nhân lực cho các khu
công nghiệp
* Quan niệm về nhân lực
Quan niệm nguồn nhân lực được sử dụng rộng rãi ở các nước có nền
kinh tế phát triển từ những năm 50 của thế kỷ thứ XX, với ý nghĩa là nguồn
lực con người, thể hiện một sự nhìn nhận lại vai trò yếu tố con người trong
quá trình phát triển. Hiện nay có nhiều quan niệm khác nhau về nhân lực,
các quan niệm xem xét nhân lực chủ yếu dưới góc độ là một nguồn lực trong
tổng thể các nguồn lực cho phát triển KT - XH. Theo đó, các quan điểm
thường đưa ra khái niệm nguồn nhân lực mà ít đề cập khái niệm nhân lực.
Theo Liên hợp quốc: “Nguồn nhân lực là trình độ lành nghề, là kiến thức
và năng lực của toàn bộ cuộc sống con người hiện có thực tế, hoặc tiềm năng
để phát triển kinh tế - xã hội trong một cộng đồng”. Theo giáo trình kinh tế
nguồn nhân lực của Nhà xuất bản đại học kinh tế quốc dân: “Nguồn nhân lực
được hiểu là tổng thể nguồn lực của từng cá nhân con người. Với tư cách là
nguồn lực của quá trình phát triển, nguồn nhân lực là nguồn lực con người có
khả năng sáng tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội được biểu hiện ra
là số lượng và chất lượng nhất định tại một thời điểm nhất định” [16, tr. 6].
Ngân hàng thế giới cho rằng: “Nguồn nhân lực là toàn bộ những gì vốn có của
con người bao gồm thể lực, trí lực, kỹ năng nghề nghiệp… của mỗi cá nhân”
[60]. Theo lý luận của kinh tế học phát triển, con người được xem xét, đề cập
với tư cách là lực lượng sản xuất chủ yếu, là phương tiện để sản xuất hàng hoá
và dịch vụ, được xem như là lực lượng lao động cơ bản nhất trong xã hội; nó là
yếu tố quan trọng nhất để đảm bảo cho tốc độ tăng trưởng sản xuất, dịch vụ
nhanh và bền vững.
Theo thuật ngữ trong lĩnh vực lao động của Bộ Lao động thương binh và xã
hội: “Nguồn nhân lực là tiềm năng về lao động trong một thời kỳ xác định của một
14
quốc gia, suy rộng ra có thể được xác định trên một địa phương, một ngành hay một
vùng. Đây là nguồn lực quan trọng nhất để phát triển kinh tế xã hội” [14, tr.13].
Khi bàn cụ thể về nhân lực, theo giáo trình nguồn nhận lực: “Nhân lực
là sức lực con người, nằm trong mỗi con người và làm cho con người hoạt
động. Sức lực đó ngày càng phát triển cùng với sự phát triển của cơ thể con
người và đến một mức độ nào đó, con người đủ điều kiện tham gia vào quá
trình lao động - con người có sức lao động” [14, tr.5].
Bao gồm tất cả các tiềm năng của con người trong một tổ chức hay xã
hội (kể cả những thành viên trong ban lãnh đạo doanh nghiệp) tức là tất cả các
thành viên trong doanh nghiệp sử dụng kiến thức, khả năng, hành vi ứng xử
và giá trị đạo đức để thành lập, duy trì và phát triển doanh nghiệp.
Từ những quan niệm trên, tiếp cận dưới góc độ của Kinh tế Chính trị có
thể hiểu: Nhân lực là sức lực con người, đó là tổng hoà thể lực và trí lực tồn
tại trong toàn bộ lực lượng lao động xã hội của một quốc gia, trong đó kết
tinh truyền thống và kinh nghiệm lao động sáng tạo của một dân tộc trong
lịch sử được vận dụng để sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần phục vụ
cho nhu cầu hiện tại và tương lai của đất nước.
Như vậy, với tư cách là một nguồn lực của quá trình phát triển, nhân lực
là nguồn lực con người có khả năng sáng tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho
xã hội. Với tính cách là một bộ phận cấu thành của lực lượng sản xuất, người
lao động hay nhân lực là những người có khả năng lao động, nghĩa là phải có
cả sức mạnh cơ bắp và sức mạnh trí tuệ mà C.Mác đã gọi cụ thể là có “đầu
óc” và “đôi bàn tay”. Điều đó tạo nên sức mạnh tổng hợp cho con người. Đó
là sức mạnh thể chất và trí tuệ - những yếu tố tạo nên khả năng lao động của
con người: “Để chiếm hữu được thực thể của tự nhiên dưới một hình thái có
ích cho đời sống của bản thân mình, con người vận dụng những sức tự nhiên
thuộc về thân thể của họ: Tay, chân, đầu và hai bàn tay” [34, tr.266]. Ngoài
ra, người lao động cũng cần phải có kinh nghiệm, những kĩ năng, kĩ xảo trong
lao động. C.Mác viết: “Chúng tôi hiểu sức lao động hay năng lực lao động là
toàn bộ những năng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong một cơ thể, trong
15
một con người đang sống, và được người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản
xuất ra một giá trị sử dụng nào đó” [34, tr.266].
Nhân lực của một quốc gia bao giờ cũng được biểu hiện ra là số lượng
và chất lượng tại một thời điểm nhất định.
Số lượng nhân lực chính là lực lượng lao động và khả năng cung cấp
sức lao động cho xã hội. Các chỉ số về số lượng nhân lực của một quốc gia,
một địa phương được xác định trên qui mô dân số thông qua số lượng dân cư,
tốc độ tăng dân số, cơ cấu dân cư, cơ cấu lao động trong các ngành, các khu
vực kinh tế… Trong đó, số dân trong độ tuổi lao động là chỉ số phản ánh một
cách rõ nhất về số lượng nhân lực. Số lượng nhân lực đóng vai trò quan trọng
đối với sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung, sự phát triển của các KCN nói
riêng. Nếu số lượng không tương xứng với tốc độ phát triển đều tác động xấu
tới sự phát triển kinh tế - xã hội cũng như KCN.
Chất lượng nhân lực là khái niệm tổng hợp bao gồm những nét đặc
trưng về trạng thái, thể lực, trí lực, kỹ năng, phong cách đạo đức, lối sống
và tinh thần của nhân lực. Nói cách khác là trình độ học vấn, trạng thái sức
khỏe, trình độ chuyên môn kỹ thuật, cơ cấu nghề nghiệp, thành phần xã
hội… của nhân lực, trong đó trình độ học vấn, kỹ năng nghề nghiệp là tiêu
chí quan trọng để đánh giá phân loại chất lượng nhân lực. Theo quan điểm
của chủ nghĩa Mác - Lênin, khi tham gia vào quá trình sản xuất, trước hết
con người đem nhập vào các yếu tố của lực lượng sản xuất sức mạnh cơ
bắp của mình. Tuy nhiên, nếu chỉ tiến hành sản xuất bằng các khí quan vật
chất thuần túy của cơ thể thì con người sẽ không bao giờ tiến xa hơn động
vật, vì con người là một sinh vật xã hội nên ngoài sức mạnh cơ bắp, khi
tham gia vào quá trình sản xuất, con người còn có cả trí tuệ và toàn bộ hoạt
động tâm sinh lý và ý thức của họ. Cái phần vật chất của con người trong
lực lượng sản xuất được điều khiển bằng trí tuệ nên nó trở nên khéo léo,
linh hoạt, uyển chuyển, năng động khiến con người trở thành yếu tố quyết
định của lực lượng sản xuất.
16
Chất lượng nhân lực chính là động lực trực tiếp cho sự phát triển kinh tế
- xã hội. Thông qua chất lượng nhân lực thể hiện rõ trình độ phát triển kinh tế xã hội của một quốc gia, chất lượng cuộc sống của dân cư hay mức độ văn
minh của một xã hội. Chất lượng nguồn lao động chính là trình độ khả năng
của năng lực thể chất và năng lực tinh thần cấu thành nên lực lượng lao động
xã hội. Nâng cao chất lượng nhân lực chính là sự tăng cường sức mạnh, kỹ
năng hoạt động sáng tạo của năng lực thể chất và năng lực tinh thần của lực
lượng lao động lên đến trình độ nhất định nhằm hoàn thành nhiệm vụ phát triển
KT - XH của một quốc gia trong một giai đoạn phát triển nhất định.
Nhân lực cho các KCN
Trên cơ sở khái niệm về KCN và khái niệm nhân lực nói chung, theo
tác giả, nhân lực cho các KCN là tiềm năng của lực lượng lao động đã, đang
và sẽ làm việc trong các KCN để thành lập, duy trì và phát triển các doanh
nghiệp tại các KCN.
Như vậy, nhân lực cho các KCN là toàn bộ lực lượng lao động đã, đang
và sẽ tham gia hoạt động sản xuất, kinh doanh trực tiếp hoặc gián tiếp trong
các doanh nghiệp trong các KCN, bao gồm: Bộ phận nhân lực quản lí và điều
hành sản xuất; bộ phận công nhân trực tiếp đứng máy sản xuất; bộ phận kĩ
thuật; bộ phận thực hiện công tác tuyển dụng và quản lí nhân lực; bộ phận
thực hiện các hoạt động dịch vụ bảo đảm cho hoạt động sản xuất kinh doanh
của các doanh nghiệp trong KCN.
Vai trò của nhân lực đối với sự phát triển của các KCN
Chủ nghĩa Mác - Lênin luôn đề cao nhân tố con người nhất là người lao
động, bởi họ chính là chủ thể của quá trình sản xuất. Theo C.Mác, sản xuất
vật chất là hoạt động đầu tiên và cơ bản của con người. Đó là quá trình con
người sử dụng những công cụ lao động tác động vào tự nhiên, tạo ra những
của cải vật chất nhằm phục vụ nhu cầu của bản thân mình và phát triển xã hội.
Để tiến hành sản xuất, con người phải sử dụng những tư liệu sản xuất như đối
tượng lao động, công cụ lao động và những điều kiện vật chất khác. Ngoài
việc nhấn mạnh đến vai trò của tư liệu sản xuất - yếu tố cần thiết của mỗi quá
trình sản xuất, C.Mác đã khẳng định, để quá trình sản xuất được tiến hành
17
không thể thiếu vai trò của người lao động. Lênin khẳng định sự vượt trội của
con người so với các yếu tố khác của quá trình sản xuất “Trong khi vật chất
có thể bị phá hủy hoàn toàn thì các kĩ năng của con người như công nghệ, bí
quyết tổ chức và nghị lực làm việc sẽ còn mãi” [30, tr.30].
Khẳng định trên của các nhà triết học mácxít là đúng đắn vì suy cho
cùng, hầu hết các tư liệu sản xuất chủ yếu (trừ những đối tượng sẵn có trong
tự nhiên) là sản phẩm lao động của con người, do con người tạo ra và không
ngừng đổi mới, cải tiến. Về thực chất, tư liệu sản xuất, đặc biệt là công cụ lao
động là sự phản ánh trình độ của con người trong quá trình chinh phục tự
nhiên. Trong mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau thường có những giai cấp nhất
định đóng vai trò là lực lượng lao động chủ yếu của xã hội, là bộ phận chính
cấu thành lực lượng sản xuất.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng luôn khẳng định vai trò quyết định của con
người đối với sự phát triển của một xã hội. Muốn có chủ nghĩa xã hội trước
hết phải có con người xã hội chủ nghĩa.
Kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, Đảng ta luôn đánh giá đúng vị trí và vai trò của việc phát triển nguồn
lực con người phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH, gắn với phát triển kinh tế tri
thức đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Đại hội XI, với quan điểm coi
“Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát
triển”, Đảng ta đã xác định phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực
chất lượng cao là một trong ba khâu đột phá chiến lược cho sự phát triển kinh
tế - xã hội trong thời gian tới: “Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược, là yếu
tố quyết định đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu
lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng và là lợi thế cạnh tranh quan
trọng nhất, bảo đảm cho phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững” [24, tr.130].
Chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam thời kì 2011 - 2020 Đảng ta xác định
mục tiêu tổng quát là đưa nhân lực Việt Nam trở thành nền tảng và lợi thế quan
trọng nhất để phát triển bền vững đất nước, hội nhập quốc tế và ổn định xã hội,
18
nâng trình độ năng lực cạnh tranh của nhân lực nước ta lên mức tương đương
các nước tiên tiến trong khu vực, trong đó một số mặt tiếp cận trình độ các
nước phát triển trên thế giới.
Với các KCN, sự tồn tại và phát triển phụ thuộc vào nhiều yếu tố, một
trong những yếu tố quan trọng nhất quyết định hiệu quả sản xuất kinh doanh
của các doanh nghiệp trong các KCN là nhân lực, đây là lực lượng nòng cốt
của doanh nghiệp, những người trực tiếp thực hiện công tác quản lí, vận hành
máy móc, thực hiện các khâu, các bước và các công đoạn của quá trình sản
xuất. Hiện nay, sự phát triển mạnh mẽ của KH – CN đã xuất hiện những dây
chuyền sản xuất tự động, việc sử dụng các máy móc, hiện đại làm năng suất
lao động trong các doanh nghiệp tăng lên đã làm không ít ý kiến cho rằng vai
trò quyết định của năng suất lao động là máy móc chứ không phải là con
người. Tuy nhiên, thực tiễn đã chứng minh, máy móc dù hiện đại đến đâu
cũng do con người chế tạo, và vận hành nó.
Nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao góp phần nâng cao năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp trong các KCN, nhân lực chất lượng cao là yếu tố
quyết định đến năng suất, chất lượng sản phẩm và giá thành sản phẩm, chất
lượng nhân lực ở đây thể hiện ra là trình độ, kĩ năng làm việc, và sử dụng nhân
lực đúng chuyên môn. Đồng thời, số lượng và chất lượng nhân lực giữ vai trò
quan trọng trong thu hút đầu tư vào các KCN, mục đích đầu tư của các doanh
nghiệp khi đầu tư vào các KCN, yếu tố đầu tiên họ mong muốn là có được lực
lượng lao động đáp ứng được công nghệ mà doanh nghiệp đưa vào sản xuất.
* Bảo đảm nhân lực cho các khu công nghiệp.
Bảo đảm nhân lực: Theo từ điển bách khoa Việt Nam thì bảo đảm là
làm cho chắc chắn thực hiện được, giữ gìn được hoặc có đầy đủ những gì
cần thiết [52, tr.211]. Nghiên cứu vấn đề bảo đảm nhân lực chính là nghiên
cứu cả quá trình thu hút, phân bổ và sử dụng nhân lực.
Từ những vấn đề nêu trên, có thể quan niệm: Bảo đảm nhân lực là
tổng thể các hoạt động của Đảng, Nhà nước, doanh nghiệp và người lao
19
động về tạo dựng, phân bổ và sử dụng nhân lực thông qua việc tạo dựng đủ
nhân lực về số lượng, chất lượng, phân bổ đúng kế hoạch, sử dụng đúng
chuyên môn, diễn ra trong những khoảng thời gian xác định nhằm đáp ứng
nhu cầu nhân lực của nền kinh tế.
Bảo đảm nhân lực cho các khu công nghiệp.
Bảo đảm nhân lực cho các KCN là tổng thể các hoạt động của Đảng,
Nhà nước, cơ quan quản lí các khu công nghiệp, doanh nghiệp, các cơ sở đào
tạo và người lao động về tạo dựng, phân bổ và sử dụng nhân lực thông qua
việc tạo dựng đủ nhân lực về số lượng, chất lượng, phân bổ đúng kế hoạch,
sử dụng đúng chuyên môn; diễn ra trong những khoảng thời gian xác định
nhằm đáp ứng nhu cầu nhân lực cho sản xuất kinh doanh của các KCN.
Quan niệm về BĐNL cho các KCN đã thể hiện rõ mục đích, chủ thể,
nội dung và phương thức trong bảo đảm nhân lực, đó là:
Mục đích BĐNL là nhằm đáp ứng yêu cầu về nhân lực cho phát triển
kinh tế, bảo đảm sử dụng tối đa và phân bổ nhân lực hợp lí. Chủ trương phát
triển các KCN là đúng đắn, phù hợp, đã góp phần đáng kể cho sự phát triển
công nghiệp nói riêng và toàn nền kinh tế nói chung. Việc hình thành và phát
triển các KCN đã tạo điều kiện để thu hút một khối lượng lớn vốn đầu tư cho
phát triển công nghiệp và phát triển KT - XH, theo đó nhu cầu về nhân lực cho
phát triển các KCN cũng không ngừng tăng lên cả số lượng và chất lượng.
Chủ thể BĐNL bao gồm Đảng, Nhà nước, cấp uỷ và chính quyền các
địa phương, doanh nghiệp và bản thân người lao động. Trong đó, nhân tố
trung tâm của quá trình bảo đảm là người lao động - chủ thể trực tiếp tham gia
quá trình lao động; Đảng, Nhà nước và cấp uỷ, chính quyền các địa phương là
chủ thể định hướng, hoạch định chiến lược và tổ chức thực hiện quá trình
BĐNL, doanh nghiệp là nơi tiếp nhận, sử dụng và duy trì kết quả BĐNL,
đồng thời là thực tiễn kiểm nghiệm kết quả của quá trình bảo đảm này.
Nội dung BĐNL bao gồm các hoạt động do Nhà nước, chính quyền
địa phương, nhà trường và doanh nghiệp tổ chức và cung cấp cho các KCN
một lượng người lao động thỏa mãn nhu cầu lao động của chủ thể sử dụng.
Các hoạt động này có thể được cung cấp trong vài giờ, vài ngày thậm chí
20
vài năm tuỳ thuộc vào mục tiêu đáp ứng. Nội dung đó được xem xét cả về số
lượng, chất lượng và cơ cấu nhân lực. Bảo đảm về số lượng nhân lực cho mọi
doanh nghiệp, mọi chủ thể sản xuất kinh doanh trong các KCN một cách đầy
đủ, thường xuyên bám sát sự biến động về nhu cầu, mà chủ yếu là sự gia tăng.
Số lượng ở đây bao gồm cả lực lượng lao động phổ thông, lao động qua đào
tạo và cả lực lượng lao động có trình độ tay nghề cao, lao động quản lý… Bảo
đảm về chất lượng nhân lực là vấn đề quan trọng trong nội dung BĐNL. Chất
lượng bao gồm chất lượng của mọi đối tượng lao động chứ không chỉ là lực
lượng lao động chuyên môn kỹ thuật, ngay cả lao động phổ thông cũng cần
bảo đảm về chất lượng, đó là thể lực, trí lực và tác phong lao động công
nghiệp. Bảo đảm về cơ cấu lao động phù hợp với mức độ cân đối nhu cầu
cũng như mức độ cân đối về ngành nghề và cả cơ cấu ưu đãi nếu cần thiết.
Phương thức BĐNL, là tổng hợp các cách thức, phương pháp nhằm tạo
dựng, phân bổ và sử dụng nhân lực một cách hiệu quả bao gồm các phương
thức: bảo đảm thông qua đào tạo và phân bổ trực tiếp; thông qua thị trường
lao động; các KCN tự bảo đảm thông qua tuyển dụng trực tiếp, thông tin
tuyển dụng trên các phương tiện truyền thông.
1.2. Quan niệm, nội dung và những nhân tố tác động đến bảo đảm
nhân lực cho các khu công nghiệp ở tỉnh Bình Dương
1.2.1. Quan niệm bảo đảm nhân lực cho các khu công nghiệp ở
tỉnh Bình Dương.
Từ quan niệm về BĐNL nói chung, có thể hiểu BĐNL cho các KCN ở
Bình Dương là tổng thể các hoạt động của Đảng bộ, chính quyền, các cơ
quan chức năng, các KCN tỉnh Bình Dương, các doanh nghiệp, các cơ sở
đào tạo và người lao động về tạo dựng, phân bổ và sử dụng nhân lực có
hiệu quả nhằm đáp ứng nhu cầu sản xuất, kinh doanh của các KCN ở tỉnh
Bình Dương.
Quan niệm trên đây cho thấy:
Mục đích BĐNL là nhằm đáp ứng nhu cầu về nhân lực cho các hoạt
động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong các KCN ở tỉnh Bình
Dương, bảo đảm sử dụng tối đa và phân bổ nhân lực hợp lí. Thực hiện mục tiêu
21
phát triển công nghiệp của tỉnh với chủ trương phát triển các KCN tập trung
làm đòn bẩy, đã góp phần đáng kể cho sự phát triển kinh tế của tỉnh. Việc hình
thành và phát triển các KCN ở tỉnh Bình Dương thời gian qua đã tạo điều kiện
để thu hút một khối lượng lớn vốn đầu tư cho phát triển công nghiệp và phát
triển KT - XH, theo đó nhu cầu về nhân lực cho phát triển các KCN cũng
không ngừng tăng lên cả số lượng và chất lượng.
BĐNL cho các KCN ở tỉnh Bình Dương là trách nhiệm của của Đảng
bộ, chính quyền, các cơ quan ban ngành, các doanh nghiệp hoạt động trên
địa bàn Tỉnh. Để thực hiện được mục tiêu thu hút đầu tư, tạo điều kiện và
khuyến khích phát triển KT - XH nói chung, KCN nói riêng đòi hỏi Tỉnh
phải thực sự quan tâm đến kế hoạch phát triển nhân lực (cả về số lượng,
chất lượng, cơ cấu, đào tạo, phân bổ và sử dụng lao động hợp lý…), nhằm
đáp ứng nhân lực cho các KCN. Thực hiện quá trình BĐNL cho các KCN
đòi hỏi xác định rõ trách nhiệm của từng chủ thể, có kế hoạch sát thực tế, nội
dung bảo đảm rõ ràng, với nhiều phương thức đa dạng, đạt hiệu quả cao.
Đảng bộ và chính quyền tỉnh Bình Dương là chủ thể trực tiếp lãnh đạo,
định hướng; xây dựng kế hoạch, cơ chế, chính sách, xác định phương thức
phù hợp đồng thời là người cùng trực tiếp tham gia vào quá trình BĐNL cho
các KCN trên địa bàn. Đảng bộ lãnh đạo mọi mặt của đời sống KT - XH của
Tỉnh, đối với các KCN Đảng bộ vừa lãnh đạo chặt chẽ việc thu hút vốn đầu tư
vừa lãnh đạo BĐNL.
Chính quyền tỉnh Bình Dương xác định kế hoạch BĐNL cho các KCN
trên cơ sở quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch phát triển các KCN
đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, chương trình phát triển nhân lực
chất lượng cao, nhu cầu lao động và kết quả bảo đảm trước đó. Tổ chức thực
hiện kế hoạch đó từ việc đào tạo, phân bổ và sử dụng nhân lực phù hợp với
nhu cầu và cơ cấu thông qua thị trường lao động. Cùng với đó là giáo dục
nâng cao nhận thức của doanh nghiệp và người lao động về việc BĐNL để họ
tham gia tích cực vào quá trình đó.
22
Ban quản lý các KCN trên địa bàn Bình Dương là chủ thể phối hợp với
chính quyền Tỉnh về BĐNL thông qua báo cáo hoạt động sản xuất kinh
doanh, về nhu cầu lao động; đồng thời tham gia trực tiếp hay gián tiếp vào
quá trình đào tạo và đào tạo lại lao động. Nơi trực tiếp sử dụng lao động, kiểm
nghiệm kết quả quá trình BĐNL ở các công đoạn bảo đảm trước đó. Cùng với
Đảng bộ và chính quyền Tỉnh nắm bắt thực tiễn và đề ra biện pháp, phương
hướng cho quá trình BĐNL trong giai đoạn tiếp theo.
Người lao động vừa là đối tượng vừa là chủ thể của quá trình BĐNL, là
lực lượng trực tiếp tham gia quá trình lao động trong các doanh nghiệp trong
các KCN của tỉnh Bình Dương. Lực lượng quyết định đến kết quả của quá trình
BĐNL cho các KCN; tham gia học tập, đào tạo, tiếp nhận tri thức; rèn luyện cả
thể lực, trí lực, về quan điểm, tư duy, tác phong làm việc để phục vụ quá trình
lao động, đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp trong các KCN.
Phương thức bảo đảm nhân lực cho các KCN ở tỉnh Bình Dương được
thực hiện thông qua đào tạo tại các cơ sở đào tạo, các trung tâm dạy nghề của
Tỉnh, thông qua hoạt động của thị trường lao động, thông qua việc liên kết
tuyển dụng của trung tâm giới thiệu việc làm, các KCN tự bảo đảm thông
qua tuyển dụng trực tiếp, thông tin tuyển dụng trên các phương tiện truyền
thông, mạng internet.
1.2.2. Nội dung bảo đảm nhân lực cho các khu công nghiệp ở tỉnh
Bình Dương.
Nội dung BĐNL cho các KCN ở tỉnh Bình Dương bao gồm cả về số
lượng, chất lượng và cơ cấu nhân lực.
Thứ nhất, bảo đảm về số lượng nhân lực.
Bảo đảm về số lượng nhân lực là bảo đảm số lượng lao động cho các
KCN hoạt động trên địa bàn Tỉnh nhằm đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh
doanh. Lao động trong các KCN ở tỉnh Bình Dương hiện nay là người địa
phương còn ít. Trong khi nhu cầu về số lượng lao động của các KCN ngày
càng tăng cao. Vì vậy, BĐNL ở đây trước hết phải đủ về số lượng cung cấp
cho các KCN trên địa bàn Tỉnh, đáp ứng yêu cầu phát triển của các KCN. Số
23
lượng lao động mà các KCN trên địa bàn tỉnh Bình Dương cần đáp ứng là cả
về lao động phổ thông, lực lượng trong độ tuổi lao động có đủ khả năng làm
các công việc bình thường không cần phải đào tạo qua trường, lớp mà chỉ
thông qua hướng dẫn công việc; lực lượng lao động đảm nhiệm các vị trí
chuyên môn, kỹ thuật đòi hỏi phải được đào tạo phù hợp với yêu cầu tiếp thu
và sử dụng được công nghệ mà các các KCN sử dụng; lực lượng lao động
quản lý có trình độ cao…Vì vậy, bảo đảm số lượng nhân lực là phải bảo đảm
cả các đối tượng và loại hình lao động phù hợp với nhu cầu của các các
KCN trên địa bàn.
Thứ hai, bảo đảm về chất lượng nhân lực.
Chất lượng nhân lực bao gồm những nét đặc trưng về trạng thái, thể lực,
trí lực, kỹ năng, phong cách đạo đức, lối sống và tinh thần của nhân lực. Nói
cách khác là trình độ học vấn, trạng thái sức khỏe, trình độ chuyên môn kỹ
thuật, cơ cấu nghề nghiệp, thành phần xã hội… của nhân lực, trong đó trình
độ học vấn, kỹ năng nghề nghiệp là tiêu chí quan trọng để đánh giá phân loại
chất lượng nhân lực. Chất lượng nhân lực thể hiện trạng thái nhất định của
nhân lực với tư cách là một khách thể vật chất đặc biệt, đồng thời là chủ thể
của mọi hoạt động kinh tế và các quan hệ xã hội.
Chất lượng nhân lực là sự tổng hợp, kết tinh của rất nhiều yếu tố và giá
trị cùng tham gia tạo nên. Chất lượng nhân lực cho phát triển kinh tế là yếu tố
được quan tâm nhất của mọi doanh nghiệp. Từ khi nước ta gia nhập tổ chức
Thương mại thế giới (WTO), sức cạnh tranh về thị trường SLĐ là rất lớn, các
doanh nghiệp đầu tư vào Bình Dương tăng cao, trong đó có các doanh nghiệp
nước ngoài sản xuất bằng công nghệ hiện đại, làm cho năng suất lao động
tăng lên và chất lượng sản phẩm tốt hơn, số lượng lao động trong và ngoài
nước vào làm việc (Giám đốc, quản lý, chuyên gia kỹ thuật…) trên địa bàn
Tỉnh tăng nhanh. Các doanh nghiệp ở tỉnh Bình Dương luôn luôn vận động,
thay đổi và có những chiến lược phát triển để nhằm hoàn thiện hơn quá trình
hoạt động kinh doanh của mình, trong đó chiến lược phát triển về máy móc
thiết bị mà đặc biệt là công nghệ không thể thiếu. Tuy nhiên, dù máy móc,
24
thiết bị hay công nghệ có tiên tiến, có hiện đại đến đâu mà thiếu đi sự vận
hành của con người thì tất cả cũng đều trở nên vô nghĩa. Vì vậy, mọi doanh
nghiệp đều quan tâm đến chất lượng của đội ngũ lao động, đòi hỏi bảo đảm
chất lượng nhân lực ở đây là nâng cao trình độ về chuyên môn, kỹ thuật, khả
năng tiếp thu và sử dụng công nghệ mới và năng lực tổ chức; cập nhật thông
tin, làm chủ khoa học cả về sản xuất và quản lý; nâng cao đạo đức nghề
nghiệp và tác phong công nghiệp. Bảo đảm chất lượng cả đội ngũ lao động
phổ thông, lao động qua đào tạo, chất lượng sức khỏe, tính năng động, sáng
tạo trong lao động, kỷ luật lao động và ý thức xã hội của người lao động.
Thứ ba, bảo đảm về cơ cấu nhân lực.
Bàn về cơ cấu lao động, theo C.Mác có nghĩa là bàn về cấu trúc bên
trong của quá trình phân công lao động xã hội. Đó là các quan hệ tỷ lệ cũng
như xu hướng vận động, phát triển nguồn lao động giữa các ngành kinh tế
(công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ...). Ở đây, bảo đảm cơ cấu nhân lực là bảo
đảm sự hợp lý về số lượng, chất lượng chuyên môn nghiệp vụ của nhân lực phù
hợp với nhu cầu về các lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh của các doanh nghiệp
trên địa bàn tỉnh Bình Dương. Xu thế phát triển chung là sự chuyển dịch cơ cấu
của ba nhóm ngành lớn theo hướng tích cực, giảm dần tỷ trọng của nông
nghiệp và tăng tỷ trọng của công nghiệp và dịch vụ đóng góp trong GDP.
Chuyển dịch cơ cấu của các thành phần kinh tế cũng làm cho thị trường lao
động biến động. Thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài cũng đòi hỏi
lao động trình độ cao, với chuyên môn kỹ thuật và trình độ quản lý đáp ứng
được yêu cầu hội nhập. Trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp thường
có lựa chọn các ngành nghề sản xuất kinh doanh khác nhau tạo nên sự phong
phú đa dạng của các ngành nghề đòi hỏi việc BĐNL phải có cơ cấu hợp lý về
trình độ tay nghề, cơ cấu độ tuổi cũng như cơ cấu về giới tính nhân lực. Để
đáp ứng nhu cầu nhân lực cả cán bộ chuyên môn và công nhân kĩ thuật không
chỉ phải bảo đảm chất lượng nhân lực mà còn phải cần chú ý bảo đảm đến cơ
cấu của nó. Nếu công nhân kĩ thuật là những người trực tiếp tham gia sản xuất
tăng tương ứng cùng với sự tăng lên của máy móc tiết bị, thì cán bộ chuyên
25