Tải bản đầy đủ (.pdf) (48 trang)

Bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ theo pháp luật lao động việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (568.56 KB, 48 trang )

Trang 1

LỜI MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài
Người phụ nữ Việt Nam kiên cường, dũng cảm, gan góc trong những cuộc chiến

tranh gìn giữ hòa bình dân tộc xưa thì ngày nay cũng đang dốc hết mình cho những
thành tựu phát triển của đất nước. Chiếm khoảng một nửa lực lượng lao động của xã
hội, người phụ nữ đang ngày càng chứng tỏ được bản lĩnh của mình, không những bản
lĩnh để thực hiện tốt thiên chức của người mẹ mà còn khẳng định mình trong học tập,
lao động, sản xuất. Việt Nam là một quốc gia nhỏ bé ở phương Đông, chịu ảnh hưởng
nặng nề của tư tưởng phong kiến. Với người phụ nữ, mặc dù hiện nay tư tưởng đó đã
xóa nhòa đi để phù hợp với nhịp sống của thời đại nhưng ít nhiều quan niệm “trọng
nam, khinh nữ” vẫn còn đeo đẳng họ. Do đó, vị thế của người phụ nữ trong các quan
hệ xã hội vẫn còn phần nào bị hạn chế so với nam giới. Bởi vậy, người phụ nữ cần
được quan tâm và hỗ trợ nhiều hơn từ phía cộng đồng xã hội mà trước hết phải được sự
quan tâm từ phía Đảng và Nhà nước.
Bảo hiểm xã hội là một chính sách cơ bản trong hệ thống an ninh xã hội của
Đảng và Nhà nước đối với người lao động nói chung và lao động nữ nói riêng. Trong
các giai đoạn lịch sử phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, Đảng và Nhà nước đã có
những chính sách xã hội phù hợp với điều kiện của lao động nữ. Trong lĩnh vực bảo
hiểm xã hội, lao động nữ được hoàn toàn bình đẳng với nam giới về nghĩa vụ tham gia
bảo hiểm xã hội. Tuy nhiên, chính sách bảo hiểm xã hội cũng dành nhiều sự quan tâm
đối với lao động nữ trong việc hưởng một số chế độ đặc thù.
Thời gian qua, pháp luật về bảo hiểm xã hội đã có những quy định riêng tương
đối phù hợp đối với những nét đặc thù của lao động nữ và có hiệu quả trong việc bảo
vệ lợi ích của họ, nhưng vẫn còn khá nhiều điểm cần phải tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi,
bổ sung cho phù hợp. Đó cũng là lý do mà tôi chọn đề tài “Bảo hiểm xã hội đối với lao
động nữ theo pháp luật lao động Việt Nam” làm khóa luận tốt nghiệp của mình. Trên


cơ sở làm sáng tỏ một cách có hệ thống các vấn đề lý luận cơ bản về bảo hiểm nói
chung, bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ nói riêng, nghiên cứu, đánh giá thực trạng
pháp luật bảo hiểm xã hội Việt Nam hiện hành đối với lao động nữ, so sánh, đối chiếu
với pháp luật bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ của một số nước, khóa luận đưa ra
một số phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm xã hội đối với lao
động nữ ở Việt Nam.
Sinh viên thực hiện: Phí Thị Vân Khóa luận tốt nghiệp


Trang 2

2.

Tình hình nghiên cứu

Một số bài viết về bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ chưa đi sâu nghiên cứu
chi tiết pháp luật cũng như thực trạng pháp luật về bảo hiểm xã hội đối với lao động
nữ. Ví dụ như: “Thay đổi quan trọng trong chế độ bảo hiểm xã hội từ năm 2016” – báo
Vnexpress.net; “Pháp luật về bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ ở Việt Nam” – Luận
văn thạc sĩ, người thực hiện Nguyễn Thị Lan Hương; vv... Trong xu thế hiện nay, việc
nghiên cứu một cách có hệ thống về vấn đề này mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu
sắc. Những giải pháp của đề tài hy vọng sẽ đem lại những kết quả thiết thực cho việc
hoàn thiện các quy định pháp luật về bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ ở Việt Nam.
3.

Cơ sở khoa học và thực tiễn của đề tài
a. Cơ sở khoa học

Chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước ta
hướng tới một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, đảm bảo quyền con người nên vấn

đề bảo đảm chế độ bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ là một trong những mục tiêu
lớn của chế độ xã hội chủ nghĩa.
Ngay từ khi có Hiến pháp năm 1946 Nhà nước ta đã rất quan tâm đến quyền lợi
của phụ nữ. Hiến pháp 1980, 1992 kế thừa và đảm bảo quyền bình đẳng của phụ nữ ở
mức độ cao hơn. Hiến pháp năm 2013 đã đề cập một cách toàn diện hơn bình đẳng
nam nữ, khẳng định quyền được bảo đảm an sinh xã hội của công dân.
b. Cơ sở thực tế
Trong nền kinh tế thị trường, quan hệ lao động trở nên bất ổn cho người lao
động làm công ăn lương nên cần có sự san sẻ rủi ro và chính sách trợ giúp của Nhà
nước và người sử dụng lao động đối với người già, trẻ em, người sinh con… giúp
thăng bằng thu nhập bị giảm sút hay bị mất. Với những đặc thù về giới như thể lực,
tâm sinh lý, cùng với chức năng làm mẹ và trách nhiệm chăm sóc gia đình nên lao
động nữ đã gặp rất nhiều khó khăn. Vì vậy, cần phải có chế độ bảo hiểm xã hội phù
hợp cho lao động nữ tham gia quan hệ lao động.
4.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu cả hai phương diện lý luận và thực tiễn của bảo hiểm xã hội
đối với lao động nữ theo pháp luật Việt Nam, bao gồm: Nghiên cứu khái quát chung về
bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ, thực trạng pháp luật về bảo hiểm xã hội đối với
Sinh viên thực hiện: Phí Thị Vân Khóa luận tốt nghiệp


Trang 3

lao động nữ. Từ đó, đưa ra những phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo
hiểm xã hội đối với lao động nữ.
5.


Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Khóa luận sử dụng các phương pháp nghiên cứu duy vật biện chứng và duy vật

lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin, phương pháp phân tích – tổng hợp, phương pháp
Luật học so sánh và phương pháp thu thập thông tin để giải quyết các vấn đề mà đề tài
đặt ra.
6.

Kết cấu của khóa luận

Ngoài lời nói đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận có
kết cấu gồm ba chương:
Chương1: Một số vấn đề lý luận về bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ và pháp
luật về bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ.
Chương 2: Bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ theo quy định của pháp luật
Việt Nam và thực tiễn thực hiện.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực hiện
pháp luật về bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ ở Việt Nam.

Sinh viên thực hiện: Phí Thị Vân Khóa luận tốt nghiệp


Trang 4

CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI ĐỐI VỚI LAO ĐỘNG
NỮ VÀ PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI ĐỐI VỚI LAO ĐỘNG NỮ
1.1.

Khái niệm bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ

Con người muốn tồn tại và phát triển, trước hết phải lao động. Lao động để tạo

ra của cải vật chất để nuôi sống bản thân cũng như gia đình. Tuy nhiên, trong thực tế
cuộc sống, đôi khi con người bị ảnh hưởng bởi những tác động bất lợi khách quan hoặc
chủ quan làm cho khả năng lao động của họ kém đi, thậm chí có thể mất đi. Khi đó, sẽ
kéo theo sự giảm hoặc mất thu nhập, khiến họ không tự đảm bảo cho cuộc sống của
mình được no đủ và hơn hết, họ rất cần sự tương trợ, đùm bọc từ phía xã hội.Sự tương
trợ dần dần được mở rộng và phát triển dưới nhiều hình thức khác nhau. Những yếu tố
đoàn kết, hướng thiện đó đã tác động tích cực đến ý thức và công việc xã hội của các
nhà nước dưới các chế độ khác nhau. Trong quá trình phát triển xã hội, đặc biệt là từ
sau cuộc cách mạng công nghiệp, hệ thống bảo hiểm xã hội đã có những cơ sở để hình
thành và phát triển.
Hệ thống bảo hiểm xã hội đầu tiên ra đời trên thế giới vào giữa thế kỉ XIX là
công trình của Chính phủ Đức dưới thời thủ tướng Bismark (1883-1889) với cơ chế ba
bên (Nhà nước - giới chủ - giới thợ) cùng đóng góp nhằm bảo hiểm cho người lao động
trong một số trường hợp họ gặp rủi ro. Chế độ bảo hiểm xã hội này bao gồm: chế độ
bảo hiểm ốm đau (1883), bảo hiểm tai nạn nghề nghiệp (1884) và bảo hiểm tuổi già,
tàn tật (1889). Trước tác dụng tích cực của bảo hiểm xã hội trong quan hệ lao động,
nhiều nước bắt đầu áp dụng hệ thống bảo hiểm xã hội. Trong những năm 30 của thế kỉ
XX, mô hình này của Đức đã lan dần ra Châu Âu, sau đó sang các nước Mỹ Latinh, rồi
đến Bắc Mỹ và Canada. Sau chiến tranh thế giới thứ II, bảo hiểm xã hội đã lan rộng
sang các nước dành được độc lập ở Châu Á, Châu Phi và vùng Caribe. Một số nước
còn mở rộng thêm những chế độ khác ngoài bảo hiểm xã hội và xuất hiện khái niệm
mới: Social Security (an sinh, an toàn xã hội). Tổ chức lao động quốc tế (ILO) đã có
Công ước số 102 năm 1952 về an sinh xã hội. Hiện nay, trên thế giới nói chung, người
ta coi bảo hiểm xã hội là một bộ phận cấu thành của an sinh xã hội và được tất cả các
nước thừa nhận là một trong những quyền của con người.
Ở nước ta, xét về mặt lịch sử, bảo hiểm xã hội xuất hiện vào những năm 30 của
thế kỷ XX, một số chế độ được áp dụng khi đó là chế độ ốm đau, chế độ tai nạn, chế độ
Sinh viên thực hiện: Phí Thị Vân Khóa luận tốt nghiệp



Trang 5

hưu trí và cũng chỉ áp dụng cho một số đối tượng làm việc, phục vụ trong bộ máy hành
chính, quân đội của Pháp.
Sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, tại văn bản pháp luật cao nhất
đã có những quy định về bảo hiểm xã hội, thể hiện sự quan tâm và nhận thức của Nhà
nước về vấn đề này. Điều 14 Hiến pháp 1946 quy định: “Những người công dân già cả
hoặc tàn tật, không làm được việc thì được giúp đỡ…”. Sau đó, Sắc lệnh số 29-SL ngày
12/3/1947, Sắc lệnh số76-SL ngày 20/5/1950, Sắc lệnh số 77-SL ngày 22/5/1950 ở các
mức độ khác nhau quy định về quyền hưởng bảo hiểm xã hội của người lao động thông
qua các chế độ cụ thể. Song vì tình hình chính trị - xã hội khi đó cũng như những khó
khăn về quỹ, về đối tượng tham gia và hưởng bảo hiểm xã hội… mà thực tế pháp luật
bảo hiểm xã hội chưa được áp dụng theo nghĩa đầy đủ về mặt nội dung pháp lý cũng
như xã hội của nó.
Pháp luật bảo hiểm xã hội được chính thức áp dụng rộng rãi kể từ khi Chính phủ
ban hành Nghị định số 218/CP ngày 27/12/1961 kèm theo Điều lệ tạm thời về bảo
hiểm xã hội đối với công nhân, viên chức nhà nước. Văn bản pháp luật này điều chỉnh
tất cả các vấn đề về bảo hiểm xã hội ở nước ta suốt một thời gian dài, từ khi được ban
hành cho đến những năm 80 của thế kỷ XX. Sau đó, với sự thừa nhận và phát triển nền
kinh tế thị trường, pháp luật nói chung và pháp luật bảo hiểm xã hội nói riêng đã có sự
đổi mới về chất và lượng. Điều 56 Hiến pháp 1992 (được sửa đổi, bổ sung năm 2001)
ghi nhận: “ Nhà nước quy định… chế độ bảo hiểm xã hội đối với viên chức nhà nước
và những người làm công ăn lương; khuyến khích phát triển các hình thức bảo hiểm xã
hội khác đối với người lao động”. Trên cơ sở đó, Chính phủ ban hành Nghị định số
43/CP ngày 22/6/1993 quy định tạm thời chế độ bảo hiểm xã hội.
Sau một thời gian thực hiện, trên cơ sở đúc rút kinh nghiệm và từ yêu cầu của
thực tế đời sống, pháp luật bảo hiểm xã hội được xây dựng thành một chương độc lập
(chương III) trong Bộ luật Lao động ngày 23/6/1994 đã tạo ra cơ sở pháp lý cho việc

đổi mới, cải cách chế độ bảo hiểm xã hội. Để cụ thể hóa các quy định của Bộ luật Lao
động, Chính phủ ban hành Nghị định số 12/CP ngày 26/01/1995 kèm theo Điều lệ Bảo
hiểm xã hội; Nghị định số 45/CP ngày 15/7/1995 của Chính phủ về việc ban hành Điều
lệ Bảo hiểm xã hội đối với sỹ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sỹ quan, binh sỹ
quân đội nhân dân và công an nhân dân và Nghị định số 19/CP ngày 16/02/1995 về
việc thành lập Bảo hiểm xã hội Việt Nam. Với sự sửa đổi, bổ sung một số điều của
Sinh viên thực hiện: Phí Thị Vân Khóa luận tốt nghiệp


Trang 6

Điều lệ bảo hiểm xã hội ban hành kèm theo Nghị định số 12/CP ngày 26/01/1995 được
ban hành. Tiếp đó, trên cơ sở các cam kết của Chính phủ Việt Nam trong việc gia nhập
WTO về chính sách an sinh xã hội cùng với sự chín muồi về nhận thức, về điều kiện
kinh tế - xã hội đất nước, nhu cầu của đời sống xã hội… ngày 29/6/2006 tại kỳ họp thứ
9, Quốc hội khóa XI nước ta đã thông qua Luật Bảo hiểm xã hội và có hiệu lực từ ngày
01/01/2007. Như vậy, việc xây dựng và pháp triển pháp luật bảo hiểm xã hội ở nước ta
luôn phản ánh và song hành với các nhu cầu của đời sống trên cơ sở điều kiện kinh tế xã hội cụ thể. Có thể nói, nhờ bảo hiểm xã hội mà những khó khăn, bất hạnh của con
người được khắc phục và giảm thiểu, từ đó góp phần làm cho xã hội tồn tại và phát
triển trong thế ổn định và bền vững.
Khi bàn đến khái niệm bảo hiểm xã hội thì tùy theo góc độ nhìn nhận mà khái
niệm bảo hiểm xã hội được tiếp cận ở nhiều khía cạnh khác nhau.
Theo Từ điển tiếng Việt, bảo hiểm xã hội là “sự bảo đảm những quyền lợi vật
chất cho công nhân, viên chức khi không làm việc được vì ốm đau, sinh đẻ, già yếu, bị
tai nạn lao động…”
Theo Từ điển Luật học, “bảo hiểm xã hội là bảo hiểm thu nhập cho người lao
động trong một số trường hợp do Nhà nước tổ chức quản lý”.
Xét dưới góc độ kinh tế, bảo hiểm xã hội là phạm trù kinh tế tổng hợp, là sự đảm bảo
thu thập nhằm đảm bảo cuộc sống cho người lao động khi bị giảm hoặc mất khả năng
lao động.

Xét dưới góc độ xã hội, bảo hiểm xã hội là một trong những chính sách xã hội
lớn của Đảng và Nhà nước nhằm mục đích đảm bảo cho đời sống xã hội là chính chứ
không nhằm mục đích kinh doanh. Tính xã hội còn biểu hiện ở tính tương trợ cộng
đồng và sự ưu đãi của xã hội dành cho người lao động và các thành viên khác trong xã
hội. Khi người lao động tham gia đóng bảo hiểm xã hội, họ không chỉ đóng góp cho
mình mà còn hộ trợ giúp đỡ người lao động khác đang gặp khó khăn, rủi ro trong cuộc
sống.
Xét dưới góc độ pháp lý, chế độ bảo hiểm xã hội là tổng hợp những quy định
của Nhà nước, quy định các hình thức đảm bảo điều kiện vật chất và tinh thần cho
người lao động và trong một số trường hợp là thành viên gia đình họ khi bị giảm hoặc
mất khả năng lao động.
Sinh viên thực hiện: Phí Thị Vân Khóa luận tốt nghiệp


Trang 7

Khoản 1 Điều 3 Luật bảo hiểm xã hội năm 2014 quy định: “Bảo hiểm xã hội là
sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm
hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất
nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ bảo hiểm xã hội”. Có thể
thấy, khái niệm bảo hiểm xã hội trong luật bảo hiểm xã hội năm 2014 đã khái quát
được các yếu tố như: điều kiện hưởng, phạm vi hưởng cũng như mục đích, ý nghĩa
nhân đạo của bảo hiểm xã hội đối với người lao động. Bởi vậy, quy định này thể hiện
được đầy đủ các yếu tố khi định nghĩa về bảo hiểm xã hội.
Bảo hiểm xã hội có ý nghĩa đối với người tham gia quan hệ lao động và đối với
xã hội. Bên cạch việc đảm bảo các quy định chung cho người lao động thì bảo hiểm xã
hội còn phải ban hành những quy định riêng đối với một số đối tượng đặc thù. Xuất
phát từ những đặc điểm tâm sinh lý cũng như việc sinh đẻ và nuôi con mà lao động nữ
được coi là một trong những đối tượng thuộc loại lao động đặc thù trong khung pháp
luật bảo hiểm xã hội. Do đó, việc thiết kế nên các quy định dành riêng cho lao động nữ

là một điều thực sự cần thiết và quan trọng.
Về khái niệm bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ, từ trước đến nay chưa có
một văn bản nào quy định về khái niệm này, nhưng từ định nghĩa chung về bảo hiểm
xã hội quy định tại Khoản 1 Điều 3 Luật bảo hiểm xã hội năm 2014 ta có thể đưa ra
cách hiểu chung nhất về bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ như sau:
Bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một
phần thu nhập cho lao động nữ khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản,
tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ
sở đóng vào quỹ bảo hiểm xã hội.
Trong quan hệ bảo hiểm xã hội, khi lao động nữ tham gia bảo hiểm xã hội cũng
sẽ được hưởng quyền lợi như những người lao động tham gia bảo hiểm xã hội khác.
Nhưng vì lao động nữ có những yếu tố đặc thù nên một số chế độ bảo hiểm xã hội chủ
yếu áp dụng cho họ và một số quyền lợi dành cho họ được xác định khác so với lao
động nam. Qua những quy định tại chương XII của Bộ luật Lao động 2012, Luật bảo
hiểm xã hội năm 2014 và các văn bản hướng dẫn, có thể thấy những chế độ bảo hiểm
xã hội mang tính chất đặc thù hay áp dụng đối với lao động nữ là các chế độ: chế độ
bảo hiểm ốm đau, chế độ thai sản và chế độ hưu trí.

Sinh viên thực hiện: Phí Thị Vân Khóa luận tốt nghiệp


Trang 8

1.2.


Sự cần thiết phải thực hiện bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ
Khái niệm lao động nữ và tính đặc thù của lao động nữ:

Lao động nam và lao động nữ khi tham gia quan hệ lao động đều được hưởng

những quyền lợi chung nhất định. Tuy nhiên, vốn dĩ lao động nữ đã mang trong mình
những đặc trưng về sinh lý, phẩm chất, tính cách… nên họ còn chịu sự điều chỉnh của
những chính sách phù hợp khác. Do đó, để đảm bảo bình đẳng cho lao động nữ và tạo
điều kiện cho họ thực hiện tốt chức năng của mình, pháp luật quốc tế cũng như hầu hết
các quốc gia đều có những quy định riêng cho lao động nữ. Có thể đưa ra cách hiểu
chung nhất về lao động nữ như sau: lao động nữ là người lao động mà xét về mặt giới
tính được xác định là phụ nữ. Từ khái niệm đã nêu trên, chúng ta có thể nhận thấy hai
yếu tố cơ bản về lao động nữ, đó là:
Thứ nhất,lao động nữ nhìn chung là người đủ tuổi lao động, có khả năng lao
động và có giao kết hợp đồng lao động. Lao động nữ phải có đủ năng lực pháp luật lao
động và năng lực hành vi lao động. Trường hợp ngoại lệ, lao động nữ còn có thể là
người lao động dưới 15 tuổi, có khả năng lao động và tham gia quan hệ lao động trong
một số ngành nghề, công việc mà Nhà nước cho phép (như diễn viên múa, hát, xiếc…)
với những điều kiện nhất định theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, lao động nữ là lao động có giới tính là nữ. “Giới tính” là khái niệm chỉ
những biểu hiện của sự khác nhau về thành tố sinh học của phụ nữ và nam giới. “Giới”
thể hiện mối quan hệ phức tạp về tâm sinh lý, những chuẩn mực trong thái độ và hành
vi ứng xử của mỗi người đối với gia đình và xã hội, và ngược lại của xã hội đối với
mỗi giới.
Như vậy, hiểu một cách đầy đủ thì lao động nữ là người lao động có giới tính
nữ, đủ tuổi lao động trở lên (trừ một số trường hợp), có khả năng lao động và có giao
kết hợp đồng lao động.
Mặc dù, tỷ lệ lao động nữ trong toàn bộ lực lượng lao động là khá lớn (hơn
50%), song lao động nữ vẫn được coi là lao động đặc thù. Và việc nghiên cứu tính đặc
thù này có ý nghĩa rất quan trọng, nhằm phát hiện những đặc điểm riêng của người lao
động là nữ so với người lao động là nam, từ đó có chính sách và hướng điều chỉnh
bằng pháp luật cho phù hợp.

Sinh viên thực hiện: Phí Thị Vân Khóa luận tốt nghiệp



Trang 9

Trước hết ta thấy, xét về mặt thể lực thì nữ giới yếu hơn nam giới nhưng bù lại
họ có đức tính kiên trì, khéo léo, cần cù, chịu khó… nên rất thích hợp đối với ngành
nghề, công việc đòi hỏi độ phức tạp, khéo léo, kiên trì như: dệt may, thêu, đan lát…
Ngoài ra, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh thì nói đến lao động nữ là nói đến một nửa nhân
loại; và nửa nhân loại này đã sinh ra nửa nhân loại còn lại. Đó chính là thiên chức làm
mẹ của lao động nữ, một đặc thù rất quan trọng của lao động nữ. Tuy nhiên, trên thực
tế và theo truyền thống (đặc biệt ở những nước phương Đông) ngoài chức năng sinh
con, trách nhiệm thực hiện các công việc gia đình, chăm sóc con cái… phần lớn thường
do người phụ nữ đảm nhiệm. Và chính những công việc gia đình mất nhiều thời gian
đã phần nào làm giảm đi cơ hội học tập, thăng tiến của lao động nữ, dẫn đến sự bất
bình đẳng giữa lao động nữ và lao động nam ngày càng lớn. Trước đây, do tập tục,
quan niệm, thói quen, cùng tư tưởng “trọng nam, khinh nữ” trong xã hội, người phụ nữ
thường chỉ được giao những công việc có tính chất nội trợ đòi hỏi sự kiên trì, khéo léo
thủ công mà ít được tham gia công việc có tính chất linh hoạt, áp dụng công nghệ, máy
móc… Song ngày nay, vai trò của người phụ nữ ngày càng được thừa nhận và được
khẳng định trong mọi ngành, nghề, lĩnh vực hoạt động xã hội. Kinh tế thị trường phát
triển đã và đang tạo ra rất nhiều thuận lợi và cơ hội cho lao động nói chung và lao động
nữ nói riêng. Xu hướng phụ nữ tham gia vào quá trình sản xuất ngày càng tăng cao cả
về số lượng và chất lượng. Và với tính đặc thù của mình, lao động nữ cần được quan
tâm đúng mức từ phía Nhà nước, xã hội để họ thực sự có được vị trí độc lập trong đời
sống xã hội và gia đình, là nền móng vững chắc cho sự phát triển và tiến bộ đầy đủ của
phụ nữ trong bối cảnh hội nhập hiện nay.


Sự cần thiết phải thực hiện bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ:

Trong lịch sử loài người từ trước đến nay, phụ nữ bao giờ cũng là một bộ phận

quan trọng trong đội ngũ đông đảo những người lao động của xã hội. Bằng trí óc sáng
tạo của mình, phụ nữ đã góp phần làm giàu cho đất nước, làm phong phú cuộc sống
con người cũng như đóng vai trò không thể thiếu trong các lĩnh vực của đời sống xã
hội.
Ở khu vực Á Đông, hiếm có khu vực nào phụ nữ lại đóng vai trò quan trọng
trong xã hội như ở Việt Nam.Trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc, phụ nữ Việt Nam đã
có những đóng góp to lớn cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất
nước. Lịch sử đã ghi nhận hàng vạn tấm gương phụ nữ, không chỉ sẵn sàng chiến đấu,
Sinh viên thực hiện: Phí Thị Vân Khóa luận tốt nghiệp


Trang 10

hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc mà còn lao động cần cù, gian khó để vượt lên
cảnh đói nghèo và lạc hậu, góp phần xây dựng đất nước ngày càng giàu đẹp hơn.
Khi đất nước bước vào kỷ nguyên hội nhập với thế giới, trong công cuộc xây
dựng đất nước trên con đường công nghiệp hóa - hiện đại hóa hiện nay, phụ nữ Việt
Nam tiếp tục đóng vai trò quan trọng, là động lực thúc đẩy sự phát triển chung của xã
hội. Trong quan hệ lao động, số lao động nữ chiếm tỷ lệ cao với gần 50% lực lượng lao
động, ngày càng có nhiều phụ nữ tham gia vào hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội
và giữ những chức vụ quan trọng trong bộ máy nhà nước. Trong công tác chuyên môn,
phụ nữ chiếm số động trong các bộ môn văn học, ngôn ngữ, y dược, khoa học xã hội,
khoa học tự nhiên và kinh tế. Đặc biệt, có tới 33,1% đại biểu nữ trong Quốc hội (khóa
XII) - cao nhất ở châu Á và là một trong những nước có tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội cao
nhất thế giới; số phụ nữ tham gia Hội đồng nhân dân các cấp trên 20%. Ngày càng có
nhiều người trở thành chính trị gia, nhà khoa học nổi tiếng, nhà quản lý năng động…
Trong nhiều lĩnh vực, sự có mặt của người phụ nữ là không thể thiếu như ngành dệt,
may mặc, du lịch, công nghệ dịch vụ… Điều đó chứng tỏ được rằng vị trí của lao động
nữ ngày nay không chỉ hạn hẹp ở một số lĩnh vực mà họ ngày càng khẳng định mình
trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội để góp phần đóng góp cho những thành tựu phát

triển của đất nước trong giai đoạn hiện nay và mai sau.
Tuy nhiên, với tính đặc thù của mình, bên cạnh những thuận lợi, lao động nữ đã
gặp không ít khó khăn khi tham gia vào các quan hệ lao động, cụ thể:
Thứ nhất, do lao động nữ có thể lực yếu hơn nam giới nên trong quá trình lao
động, thường khả năng bị ốm cao hơn đặc biệt khi làm việc trong các ngành nghề, công
việc nặng nhọc, độc hại. Mặt khác, với thiên chức làm mẹ của mình, khi con bị ốm
đau, lao động nữ thường phải nghỉ việc để chăm sóc con (thực tế lao động nam cũng
nghỉ việc để chăm sóc con khi con bị ốm song trong trường hợp này không nhiều, mà
chủ yếu là lao động nữ). Chính trong thời gian này, do phải nghỉ việc nên thu nhập của
lao động nữ tạm thời bị gián đoạn. Thêm vào đó, chi phí chữa trị bệnh tật cho bản thân
hay trong trường hợp con ốm tăng lên đáng kể. Do vậy, cần phải có nguồn đảm bảo
cho những chi phí tăng lên hoặc thu nhập bị mất đó, giúp lao động nữ nhanh chóng trở
lại làm việc, ổn định thu nhập.
Thứ hai, lao động nữ ngoài công việc hàng ngày, họ còn mang một trọng trách
rất lớn là tái sản xuất sức lao động cho toàn xã hội. Chỉ có lao động nữ mới có khả
Sinh viên thực hiện: Phí Thị Vân Khóa luận tốt nghiệp


Trang 11

năng mang thai và sinh nở. Trong suốt quá trình này, nguồn thu nhập của họ bị mất khi
công việc tạm thời bị gián đoạn, chi phí tăng lên đột xuất do người lao động cần phải
sắm sửa những vật dụng cần thiết cho việc nuôi con nhỏ và cần một chế độ ăn uống,
bồi dưỡng ở mức cao hơn bình thường. Do đó, để bù đắp khoản chi phí tăng thêm,
khoản thu nhập bị mất, mặt khác có điều kiện để chăm sóc sức khỏe của mình trong
thời gian mang thai, sinh nở, chuẩn bị những điều kiện tốt nhất cho sự ra đời của đứa
trẻ thì rất cần phải thực hiện chế độ bảo hiểm thai sản đối với lao động nữ.
Thứ ba, cũng như những lao động khác, khi về già, không còn khả năng lao
động thì tiền lương hưu cũng là một khoản thu nhập chủ yếu và là chỗ dựa chính nhằm
đảm bảo cuộc sống cả về vật chất lẫn tinh thần cho người lao động nữ trong suốt quãng

đời còn lại sau quá trình lao động. Khoản trợ cấp hưu trí sẽ giúp cho người lao động
nói chung và lao động nữ nói riêng không những tăng tuổi thọ, mà còn không bị mặc
cảm là gánh nặng của gia đình và xã hội, giúp họ yên tâm với cuộc sống hơn.
Như vậy, xuất phát từ những khó khăn và để tạo điều kiện cho người lao động
nữ trong lao động sản xuất cũng như thực hiện tốt thiên chức của mình thì vấn đề bảo
hiểm xã hội đối với lao động nữ là vô cùng cần thiết và có ý nghĩa to lớn, thể hiện:
Dưới góc độ kinh tế, việc đặt ra các quy định đối với lao động nữ nhằm tạo điều
kiện cho họ tham gia vào các quan hệ lao động, tận dụng mọi tiềm năng để phát triển
kinh tế, xã hội, tăng thu nhập cho người lao động và gia đình họ.
Dưới góc độ xã hội, việc bảo vệ quyền của lao động nữ thể hiện sự quan tâm của
Đảng và Nhà nước đối với lao động nữ, giúp họ hòa nhập vào cộng đồng, có cơ hội
được làm việc, cải thiện cuộc sống. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường, người lao
động so với người sử dụng lao động thường ở vị trí yếu hơn thì bảo hiểm xã hội càng
có ý nghĩa. Tuy nhiên, cũng cần phải hiểu rằng những chế độ bảo hiểm xã hội áp dụng
riêng đối với lao động nữ không phải là một đặc quyền, đặc lợi hoặc là sự phân biệt đối
xử mà chỉ là sự phù hợp đối với đặc điểm tâm sinh lý cũng như các yếu tố đặc thù của
họ.
Bảo đảm và nâng cao hơn nữa quyền lợi cho lao động nữ là điều mà các quốc
gia tiến bộ trên thế giới đang hướng tới cũng như phù hợp với quan điểm của Tổ chức
Lao động Quốc tế (ILO). Chúng ta đang hướng tới xây dựng một xã hội văn minh, tiến
bộ, nơi mà quyền con người được đảm bảo và không có bất kỳ một sự bất bình đẳng
nào giữa nam và nữ. Bởi vậy, bảo hiểm xã hội đối với người lao động là cần thiết và
Sinh viên thực hiện: Phí Thị Vân Khóa luận tốt nghiệp


Trang 12

càng cần thiết hơn đối với lao động nữ. Nó sẽ giúp lao động nữ phát huy khả năng, trí
tuệ của mình, góp phần xây dựng đất nước ngày một giàu đẹp, văn minh.
1.3.


Bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ theo quy định của ILO và pháp luật
của một số nước
Bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ là vấn đề mà ILO và các quốc gia hết sức

quan tâm. Ngay từ khi mới thành lập (1919), ILO đã dành những Công ước đầu tiên để
đảm bảo quyền lợi cho lao động như Công ước số 3, số 4 (năm 1919), đặc biệt ngày
28/6/1952 ILO đã thông qua Công ước số 102 về Quy phạm tối thiểu về an toàn xã hội.
Công ước quy định 9 dạng trợ cấp gồm: trợ cấp ốm đau, chăm sóc y tế, trợ cấp thai sản,
tuổi già, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, tàn tật, tử tuất, thất nghiệp và trợ cấp gia
đình. Trong đó, trợ cấp thai sản, tuổi già mang tính đặc thù, có những quy định riêng
đối với lao động nữ.
Đối với trợ cấp thai sản, các trường hợp được bảo vệ gồm: thai nghén, sinh đẻ
và những hậu quả tiếp theo và sự gián đoạn thu nhập nảy sinh. Công ước quy định mức
trợ cấp tối thiểu so với thu nhập trước đó của lao động nữ được hưởng là từ 45% 70%.
Về trợ cấp tuổi già, thì độ tuổi quy định không được quá 65, tuy nhiên cơ quan
có thẩm quyền có thể ấn định một độ tuổi cao hơn xét theo khả năng làm việc của
người cao tuổi trước đó. Và mức trợ cấp tối thiểu so với trước đó của đối tượng được
hưởng là 40%. Đồng thời để tránh sự lợi dụng tiền trợ cấp một khi chưa có đủ các điều
kiện ở mức độ thời gian làm việc và đóng bảo hiểm xã hội, Công ước có định ra thâm
niên tham gia bảo hiểm xã hội là không quá 30 năm đóng góp hoặc không quá 20 năm
thường trú. Với việc định ra các dạng trợ cấp bảo hiểm xã hội đặc biệt là các dạng trợ
cấp đặc thù dành cho lao động nữ, cũng như quy định các mức trợ cấp, cách thức trả
trợ cấp… Có thể coi Công ước số 102 như là một “Điều lệ mẫu về bảo hiểm xã hội” để
cho các thành viên của ILO áp dụng.
Hiện nay hầu hết pháp luật của các quốc gia đều có những quy định về bảo hiểm
xã hội và thực hiện bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ.
Đức là nước đầu tiên thiết lập bảo hiểm xã hội bắt buộc. Tuy nhiên, sự phát
triển của bảo hiểm được thực hiện từng bước: Bảo hiểm ốm đau và thai sản được thiết
lập năm 1883, Bảo hiểm tuổi già và tàn tật năm 1889, Bảo hiểm tai nạn lao động năm

1884, Bảo hiểm thất nghiệp năm 1927, Bảo hiểm phụ thuộc năm 1994. Những quy
Sinh viên thực hiện: Phí Thị Vân Khóa luận tốt nghiệp


Trang 13

định về bảo hiểm xã hội dành riêng cho lao động nữ cũng rất cụ thể. Ở trợ cấp thai
sản, pháp luật Đức quy định thời gian nghỉ thai sản bắt đầu 6 tuần trước khi sinh và kết
thúc 8 tuần sau. Trong thời kì này, lao động nữ có quyền được trợ cấp thai sản tương
ứng với lương của mình. Nếu số tiền vượt quá 25DM một ngày, người sử dụng lao
động hoặc Nhà nước chịu trách nhiệm đối với phần vượt quá trần. Đối với bảo hiểm
hưu trí, tuổi về hưu bình thường của lao động nữ là 60 tuổi (65 tuổi từ năm 2005). Đối
với công chức, từ năm 1997 đã tăng từ 62 tuổi lên 63 tuổi, một số có thể về hưu năm
61 tuổi. Tuổi về hưu tối thiểu cho đến năm 2010, lao động nữ có thể về hưu năm 60
tuổi với điều kiện tham gia bảo hiểm ít nhất 15 năm, trong đó 10 năm sau tuổi 40; từ
năm 2010, nữ có thể được nghỉ hưu từ năm 62 tuổi. Nếu các điều kiện nói trên không
đạt được, quyền nghỉ hưu sẽ từ 65 tuổi với điều kiện đã tham gia bảo hiểm ýt nhất 5
năm. Khả năng về hưu trước tuổi từ 62 tuổi sẽ được giữ, nhưng việc về hưu này sẽ kèm
theo việc trừ 0,3% mỗi tháng. Và số tiền trợ cấp hưu trí sẽ theo số tiền bảo hiểm hàng
tháng lên đến 78% của lương cuối cùng.
Ở Đan Mạch, các trợ cấp cơ bản của Đan Mạch gồm: Bảo hiểm ốm đau, thai
sản, trợ cấp hưu trí, vấn đề tái hòa nhập, trợ cấp gia đình, trợ cấp thất nghiệp, tai nạn
lao động và bệnh nghề nghiệp và thu nhập tối thiểu. Một điều cho thấy ở hệ thống bảo
hiểm xã hội ở Đan Mạch là khá đầy đủ, một số trợ cấp từ vấn đề tái hòa nhập, thu nhập
tối thiểu cũng cho thấy sự mới mẻ cũng như thể hiện sự chăm lo của hệ thống bảo hiểm
xã hội nước này tói người dân mà một quốc gia hiện nay chưa đề cập tới. Với bảo
hiểm ốm đau, nguyên tắc chung là trợ cấp hàng ngày do người sử dụng lao động chi
trả trong hai tuần đầu tiên vắng mặt. Sau đó sẽ được chi trả bởi Dịch vụ xã hội của
cộng đồng địa phương. Nhiều thỏa ước tập thể đã có thỏa thuận về việc giữ nguyên
lương trong tất cả thời gian ốm đau và trong trường hợp con cái bị ốm. Với trợ cấp

thai sản, thời gian nghỉ đẻ là 28 tuần (4 tuần trước khi sinh và 24 tuần sau khi sinh). 10
tuần cuối có thể được dành cho người cha thay vì cho người mẹ; Người cha có quyền
nghỉ phép dành cho cha mẹ 2 tuần trong thời gian 14 tuần đầu tiên khi sinh. Trợ cấp
đối với kì nghỉ dành cho cha mẹ có thể được lựa chọn dành cho người cha hoặc người
mẹ đang làm công ăn lương hoặc lao động tập thể để tạo điều kiện cho họ chăm sóc
con dưới 9 tuổi trong thời gian nhiều hơn thời gian nghỉ phép dành cho cha mẹ. Với
trợ cấp hưu trí, gồm: trợ cấp tuổi già và được bổ sung bằng trợ cấp do đóng góp. Pháp
luật Đan Mạch ấn định tuổi nghỉ hưu chung cho cả hai giới là 67 tuổi. Để thay thế cho
Sinh viên thực hiện: Phí Thị Vân Khóa luận tốt nghiệp


Trang 14

tuổi nghỉ hưu khá cao này, nhiều hệ thống hưu trí trước tuổi đã được thiết lập. Năm
2004 giảm xuống 65 tuổi đối với trợ cấp hưu trí cơ bản. Mức trợ cấp tuổi già được chi
trả theo tỷ lệ toàn phần cho tất cả người Đan Mạch cũng như người nước ngoài trong
khoảng thời gian từ 15 tuổi đến 67 tuổi đã có 40 năm cư trú thường xuyên ở Đan
Mạch. Tuổi để được trợ cấp này trong một thời gian dài là 67, nhưng từ năm 1999, tuổi
đó là 65 trong khi tuổi để được trợ cấp bổ sung vẫn là 67; số tiền này (44.508 cua – ron
một năm), được tính toán lại hàng năm dựa theo chỉ số lương của nhân viên và công
nhân, chiếm khoảng 40% lương trung bình. Riêng với trợ cấp do đóng góp được chi trả
từ nguồn đóng góp thuộc trách nhiệm của người sử dụng lao động và người lao động,
người sử dụng lao động đóng 2/3, người lao động đóng 1/3. Trợ cấp đó có mức được
hưởng theo thời gian tham gia vào chế độ đó và mức đóng góp, là trợ cấp bổ sung cho
trợ cấp quốc gia.
Ở Trung Quốc, đối với bảo hiểm dưỡng lão: pháp luật Trung Quốc quy định
tuổi nghỉ hưu là 55 tuổi cho nữ công nhân viên chức làm việc trong các ngành chuyên
môn và quản lý, 50 tuổi cho công nhân nữ làm việc trong các khu vực sản xuất. Khi
đến tuổi về hưu và đã đóng góp không dưới 10 năm cho quỹ bảo hiểm, thì sẽ nhận 2
phần bảo hiểm: quyền lợi dưỡng lão cơ bản là 20% mức lương trung bình của tổng số

năm đi làm; quyền lợi dưỡng lão lấy từ tài khoản các nhân là 1/120 của tổng giá trị có
trong tài khoản. Đối với công nhân viên chức đã đóng góp ít nhất 10 năm thì phần tài
khoản của cá nhân họ sẽ được trả một lần. Về bảo hiểm thai sản: năm 1988, Chính
phủ ban hành Điều lệ bảo hiểm lao động đối với nữ công nhân, trong đó có sửa đổi và
cải thiện chế độ nghỉ thai sản đối với nữ công nhân. Quy định này cấm hạ lương của
phụ nữ hoặc chấm dứt hợp đồng lao động đối với lao động nữ trong thời gian họ mang
thai hoặc chăm sóc con nhỏ. Thời gian nghỉ là 90 ngày, trong đó, người phụ nữ được
nghỉ 15 ngày trước khi sinh. Trong trường hợp mổ đẻ được nghỉ thêm 15 ngày; trong
trường hợp sinh đôi trở lên, mỗi đứa trẻ được sinh thêm sẽ được nghỉ thêm 15 ngày
nữa. Năm 1994 Trung Quốc cải tổ hệ thống bảo hiểm thai sản mà nội dung là xã hội
hóa các chi phí cho nghỉ thai sản. Các nguồn được huy động dựa trên các nguyên tắc
đóng góp phù hợp với thu nhập và chi phí thực tế. Các nhà máy, xí nghiệp đóng góp
cho cơ quan bảo hiểm xã hội một tỷ lệ % nhất định trong tổng quỹ lương của họ để
hình thành nên quỹ bảo hiểm thai sản. Tỷ lệ % này do chính quyền cơ sở quyết định có
tính đến số phụ nữ sẽ sinh đẻ, các quyền lợi về thai sản, các chi phí về thai sản. Tổng
Sinh viên thực hiện: Phí Thị Vân Khóa luận tốt nghiệp


Trang 15

số đóng góp không vượt quá 1% quỹ lương. Người lao động không phải đóng bảo hiểm
thai sản. Phụ cấp thai sản trong thời gian nghỉ được tính toán dựa trên mức lương trung
bình trong xí nghiệp vào năm trước đó và được lấy từ quỹ bảo hiểm thai sản để trả cho
người lao động.
Tóm lại, do xuất phát từ điiều kiện kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia mà những
quy định cụ thể về các chế độ bảo hiểm xã hội dành cho lao động nữ có khác nhau.
Song có thể khẳng định rằng, hầu hết các quốc gia trên thế giới trong hệ thống pháp
luật bảo hiểm xã hội của mình luôn dành một vị trí quan trọng cho các quy định về bảo
hiểm xã hội dành riêng cho lao động nữ, tạo điều kiện thuận lợi cho họ thực hiện tốt
thiên chức của mình, đồng thời phát huy hết năng lực trong các quan hệ lao động, góp

phần tạo ra của cải vật chất cho xã hội.

Sinh viên thực hiện: Phí Thị Vân Khóa luận tốt nghiệp


Trang 16

CHƯƠNG 2
BẢO HIỂM XÃ HỘI ĐỐI VỚI LAO ĐỘNG NỮ THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP
LUẬT VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN
Lao động nữ cũng như mọi người lao động khác khi tham gia bảo hiểm xã hội
sẽ đương nhiên được hưởng tất cả các chế độ bảo hiểm xã hội khi có các điều kiện bảo
hiểm xã hội phát sinh. Tuy nhiên, khóa luận chỉ xin đề cập đến một số chế độ bảo hiểm
xã hội mang tính đặc thù thường đựơc áp dụng đối với lao động nữ, gồm: Chế độ nghỉ
để chăm sóc con ốm, chế độ thai sản, chế độ hưu trí. Trong ba chế độ này, lao động nữ
có những quyền lợi mang tính đặc thù hoặc được xác định khác so với lao động nam
nhằm đảm bảo sự công bằng, bình đẳng về giới. Những quy định này nhìn ở một góc
độ nào đó là sự ưu tiên đối với lao động nữ song cũng cần phải hiểu rằng những chế độ
bảo hiểm xã hội áp dụng riêng đối với lao động nữ không phải là một đặc quyền, đặc
lợi hoặc là sự phân biệt đối xử mà chỉ là sự phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý cũng như
các yếu tố đặc thù của họ.
2.1.

Chế độ nghỉ để chăm sóc con ốm

Ở nước ta, chế độ bảo hiểm đối với người lao động chăm sóc con ốm đau ra đời
cùng với sự ra đời của bảo hiểm xã hội. Lúc đầu, do quan niệm người phụ nữ phải chịu
trách nhiệm chính trong việc chăm sóc con và xem chế độ này như một sự ưu tiên đặc
biệt đối với lao động nữ. Vì vậy, về nguyên tắc chung, đối tượng hưởng bảo hiểm chỉ
bao gồm những người mẹ nghỉ việc làm để chăm sóc con ốm. Chỉ trong những trường

hợp đặc biệt (chẳng hạn mẹ chết hoặc con ở với bố do mẹ đi công tác…) thì việc trợ
cấp mới có thể thực hiện cho người bố. Về sau, các quan niệm này đã thay đổi, chế độ
bảo hiểm chăm sóc con ốm được áp dụng cho cả lao động nam và nữ, tuy nhiên trên
thực tế khi con ốm đau hầu hết lao động nữ (người mẹ) thường là người nghỉ việc để
chăm sóc con con ốm nên thành ra chế độ này vẫn chủ yếu được thực hiện cho lao
động nữ.
Về điều kiện hưởng, theo quy định của Luật bảo hiểm xã hội năm 2014 người
lao động tham gia bảo hiểm xã hội khi phải nghỉ việc để chăm sóc con ốm đau được
bảo hiểm đủ các điều kiện sau đây:
-

Có con (con đẻ, con nuôi hợp pháp, con ngoài giá thú được pháp luật công

nhận) dưới 7 tuổi bị ốm đau;
Sinh viên thực hiện: Phí Thị Vân Khóa luận tốt nghiệp


Trang 17

-

Người lao động phải nghỉ việc để chăm sóc con và có xác nhận của cơ sở khám

bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền.
Trường hợp cả cha và mẹ đều tham gia bảo hiểm xã hội thì chỉ một người được
hưởng bảo hiểm. Riêng với lao động nữ, nếu nhờ người khác chăm sóc con mà bản
thân mình vẫn tiếp tục đi làm thì vẫn thuộc đối tượng được bảo hiểm.
Về thời gian nghỉ, thời gian hưởng bảo hiểm khi người lao động chăm sóc con
ốm được tính theo ngày làm việc và phụ thuộc vào độ tuổi của con ốm. Theo đó, người
lao động được nghỉ việc, hưởng bảo hiểm tối đa 20 ngày/năm nếu con dưới 3 tuổi và

tối đa 15 ngày/năm nếu con từ đủ 3 tuổi đến 7 tuổi.
Trường hợp cả cha và mẹ cùng tham gia bảo hiểm xã hội, nếu một người đã hết
thời hạn hưởng chế độ mà con vẫn ốm đau thì người kia được hưởng chế độ trong
khoảng thời gian nói trên.
Về mức hưởng, mức trợ cấp bảo hiểm khi nghỉ việc để chăm sóc con ốm đau
bằng 75% mức tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội của người lao động trước
khi nghỉ việc.
Như vậy, có thể thấy các quy định về bảo hiểm ốm đau đối với lao động nữ đều
hướng tới mục đích nhằm tạo điều kiện cho các bà mẹ có thời gian chăm sóc con cái
tốt hơn và trong thời gian nghỉ việc để chăm sóc con ốm, người lao động vẫn có trợ cấp
để trang trải cuộc sống gia đình. So với các quy định cũ trước đây thì Luật bảo hiểm xã
hội năm 2014 đã cho thấy sự mới mẻ và tiến bộ phải kể đến ở một số quy định như: lao
động nữ được hưởng trợ cấp khi nghỉ chăm sóc con ốm dù là con thứ ba, thứ tư… mà
chỉ cần có con dưới 7 tuổi ốm đau, không phân biệt bao nhiêu con và con thứ mấy;
Tách chế độ bảo hiểm đối với lao động nữ khi thực hiện các biện pháp kế hoạch hóa
gia đình ra khỏi chế độ ốm đau và đưa những quy định về chế độ này sang chế độ bảo
hiểm thai sản. Như vậy, về cơ bản, quy định trong Luật bảo hiểm xã hội năm 2014 về
chế độ nghỉ đẻ chăm sóc con ốm là hợp lý và mang lại ý nghĩa thiết thực cho lao động
nữ.
2.2.

Chế độ thai sản
Đây là chế độ có tính đặc thù với những quy định riêng chủ yếu áp dụng đối với

lao động nữ. Trong quá trình lao động khi gặp phải sự kiện mang thai, sinh con, nuôi
con… là những sự kiện gắn liền với thiên chức của người phụ nữ, người lao động
Sinh viên thực hiện: Phí Thị Vân Khóa luận tốt nghiệp


Trang 18


không thể tham gia quan hệ lao động bình thường mà cần phải có thời gian nghỉ ngơi,
chăm sóc con cái, phục hồi sức khỏe. Cũng vì vậy mà thu nhập trong quan hệ lao động
bị giảm hoặc mất. Bảo hiểm thai sản ra đời với ý nghĩa không chỉ bù đắp phần thu nhập
này mà còn góp phần bảo vệ sức khỏe cho lao động nữ trong quan hệ lao động.
2.2.1. Chế độ bảo hiểm khi lao động nữ khám thai
Mang thai là thời kì rất quan trọng và đầy rủi ro trong chức năng làm mẹ của
người phụ nữ. Khi có thai, người phụ nữ cần đến cơ sở y tế khám thai. Khám thai đầy
đủ, đúng định kì sẽ giúp cho người phụ nữ thực hiện chức năng làm mẹ an toàn. Tại
Điều 32 Luật bảo hiểm xã hội năm 2014 quy định: “Lao động nữ có tham gia bảo
hiểm xã hội mà có mang thai thì trong thời gian mang thai được nghỉ việc để khám thai
5 lần, mỗi lần 1 ngày. Trong trường hợp lao động có thai làm việc ở xa cơ sở y tế hoặc
người mang thai có bệnh lý hoặc thai không bình thường thì được nghỉ 2 ngày cho mỗi
lần khám thai”.
Mức trợ cấp bằng 100% mức bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng bảo
hiểm xã hội của 6 tháng liền kề trước khi nghỉ việc. Trường hợp người lao động đóng
bảo hiểm xã hội chưa đủ 6 tháng thì mức hưởng là mức bình quân tiền lương, tiền công
tháng của các tháng đã đóng bảo hiểm xã hội.
Thời gian nghỉ việc hưởng chế độ thai sản khi đi khám thai tính theo ngày làm
việc không kể ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết, ngày nghỉ hàng tuần. Quy định thời gian nghỉ
tính theo ngày làm việc góp phần làm hạn chế sự chuyên quyền của chủ sở hữu lao
động, nhiều khi do yêu cầu của công việc mà không đảm bảo đúng thời gian khám thai
định kỳ cho lao động nữ.
2.2.2. Chế độ bảo hiểm khi bị sẩy thai, nạo, hút thai hoặc chết lưu
Sẩy thai, nạo, hút thai hoặc thai chết lưu có thể do nhiều nguyên nhân khác
nhau. Dù cho là nguyên nhân nào, chủ quan hay khách quan thì sẩy thai, nạo, hút thai
hoặc chết lưu cũng ảnh hưởng rất lớn tới thể chất cũng như tinh thần của người phụ nữ.
Do vậy, để giúp lao động nữ nhanh chóng phục hồi sức khỏe, sớm ổn định nhịp sinh
học của cơ thể, pháp luật quy định trong trường hợp này lao động nữ được nghỉ việc
hưởng trợ cấp: 10 ngày nếu thai dưới 1 tháng; 20 ngày nếu thai từ 1 tháng đến dưới 3

tháng; 40 ngày nếu thai từ 3 tháng đến dưới 6 tháng; 50 ngày nếu thai từ 6 tháng trở
lên. Thời gian nghỉ việc hưởng chế độ thai sản khi sẩy thai, nạo, hút thai hoặc chết lưu
Sinh viên thực hiện: Phí Thị Vân Khóa luận tốt nghiệp


Trang 19

tính cả ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết, ngày nghỉ trong tuần. (Điều 33 Luật Bảo hiểm xã hội
2014)
Trong khoảng thời gian này, lao động nữ được hưởng mức trợ cấp bằng 100%
mức bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng bảo hiểm xã hội của 6 tháng liền kề
trước khi nghỉ việc. Trường hợp người lao động đóng bảo hiểm xã hội chưa đủ 6 tháng
thì mức hưởng là mức bình quân tiền lương, tiền công tháng của các tháng đã đóng bảo
hiểm xã hội.
Quy định hiện nay của pháp luật là phù hợp trong việc bảo vệ sức khỏe cho lao
động nữ khi bị rủi ro trong quá trình mang thai. Với thời gian nghỉ dài hơn so với quy
định trước đó cho mỗi trường hợp như vậy sẽ bảo vệ sức khỏe cho lao động nữ tốt hơn.
2.2.3. Chế độ bảo hiểm khi lao động nữ sinh con
Người phụ nữ gần đến ngày sinh rất cần được nghỉ ngơi để chuẩn bị cho việc
sinh đẻ cũng như để chuẩn bị cho đứa con ra đời. Sau khi sinh càng nhất thiết phải
được nghỉ ngơi để phục hồi sức khỏe và chăm sóc con sơ sinh. Nhằm đảm bảo sức
khỏe cho mẹ và con, đảm bảo chức năng làm mẹ được an toàn; cùng với Tổ chức Y tế
thế giới, các công ước của ILO đã quy định thời gian nghỉ sinh con bao gồm thời gian
nghỉ trước và sau khi sinh. Theo đó, thời gian nghỉ này sẽ được dựa trên cơ sở tính toán
một cách khoa học lượng thời gian cần và đủ để người phụ nữ ổn định nhịp sinh học
của cơ thể, đồng thời đủ để đứa trẻ phát triển, tách được mẹ; dựa vào điều kiện lao
động và môi trường sống của người lao động cũng như vào điều kiện kinh tế, chính trị,
xã hội của đất nước.
Ở nước ta, nhìn chung các quy định hiện hành về chế độ bảo hiểm thai sản nói
chung cũng như chế độ bảo hiểm khi lao động nữ sinh con nói riêng được đề cập khá

đầy đủ và chặt chẽ, nhiều quy định mới mẻ và phù hợp với tinh thần chung của pháp
luật bảo hiểm xã hội các quốc gia trên thế giới. Cụ thể:
Về điều kiện hưởng, là một chế độ trợ cấp bảo hiểm xã hội, chế độ bảo hiểm
đối với lao động nữ khi sinh con vẫn phải đảm bảo nguyên tắc trên cơ sở đóng góp của
chính người lao động. Do đó, để được hưởng chế độ thai sản, pháp luật hiện hành quy
định lao động nữ sinh con phải đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 6 tháng trở lên trong thời
gian 12 tháng trước khi sinh con.

Sinh viên thực hiện: Phí Thị Vân Khóa luận tốt nghiệp


Trang 20

Về thời gian hưởng, Điều 34 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 quy định lao
động nữ sinh con được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản như sau:
Lao động nữ sinh con được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản trước và sau khi
sinh con là 06 tháng. Trường hợp lao động nữ sinh đôi trở lên thì tính từ con thứ hai trở
đi, cứ mỗi con, người mẹ được nghỉ thêm 1 tháng. Thời gian nghỉ hưởng chế độ thai
sản trước khi sinh tối đa không quá 02 tháng.
- Trường hợp sau khi sinh con, nếu con dưới 2 tháng tuổi bị chết thì mẹ được nghỉ
việc 4 tháng tính từ ngày sinh con; nếu con từ 2 tháng tuổi trở lên bị chết thì mẹ được
nghỉ việc 2 tháng tính từ ngày con chết, nhưng thời gian nghỉ việc hưởng chế độ thai
sản không vượt quá thời gian quy định là 6 tháng; thời gian này không tính vào thời
gian nghỉ việc riêng theo quy định của pháp luật về lao động.
- Trường hợp chỉ có cha hoặc mẹ tham gia bảo hiểm xã hội hoặc cả cha và mẹ
đều tham gia bảo hiểm xã hội mà mẹ chết sau khi sinh con, thì cha hoặc người trực tiếp
nuôi dưỡng được hưởng chế độ thai sản đối với thời gian còn lại của người mẹ. Đây
được xem là quy định rất mới trong Luật bảo hiểm xã hội năm 2014, khi mà trước đó
chưa có bất kì một văn bản nào quy định về vấn đề này nhằm góp phần đảm bảo cho
trẻ sơ sinh được hưởng quyền chăm sóc, nuôi dưỡng kể cả trong trường hợp người mẹ

gặp rủi ro.
Thời gian hưởng chế độ thai sản khi lao động nữ sinh con tính cả ngày nghỉ lễ,
nghỉ Tết, ngày nghỉ hàng tuần. Hết thời hạn nghỉ việc sinh con theo những quy định
này, nếu có nhu cầu thì người mẹ có thể nghỉ thêm với điều kiện được người sử dụng
lao động đồng ý nhưng không được hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội. Trường hợp lao
động nữ muốn đi làm trước khi hết thời hạn nghỉ sinh con theo quy định thì phải báo
trước và được người sử dụng lao động đồng ý nếu đã nghỉ được từ đủ 60 ngày trở lên
tính từ khi sinh con và phải có xác nhận của cơ sở y tế về việc đi làm sớm không có hại
cho sức khỏe. Trong trường hợp này, ngoài tiền lương, tiền công lao động nữ vẫn được
hưởng trợ cấp thai sản cho đến hết thời gian nghỉ theo quy định của pháp luật.
Về mức hưởng, lao động nữ khi sinh con, ngoài việc được hưởng trợ cấp thay
lương (100% mức bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng bảo hiểm xã hội của 6
tháng liền kề trước khi nghỉ việc) còn được trả trợ cấp một lần (bằng 2 tháng lương tối
thiểu chung cho mỗi con). Quy định như vậy là hết sức hợp lý và đúng đắn. Bởi khi
sinh con, mọi chi phí dành cho con và mẹ đều cao hơn mức bình thường. Bởi vậy, mục
Sinh viên thực hiện: Phí Thị Vân Khóa luận tốt nghiệp


Trang 21

đích cơ bản của khoản trợ cấp này là nhằm giúp người lao động có đủ điều kiện vật
chất để nuôi con và tăng cường sức khỏe sau khi sinh.
Như vậy, thời gian nghỉ khi sinh con không chỉ tùy thuộc vào điều kiện lao
động, môi trường sống mà còn tùy thuộc vào tình trạng thể chất và số con một lần sinh;
con còn sống hay con đã chết và đặc biệt, để tạo điều kiện thuận lợi cho người lao
động, pháp luật còn quy định thời gian nghỉ theo thỏa thuận. Những quy định mở rộng
đó đã đáp ứng được thực tế đời sống cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho lao động nữ
vừa đảm bảo sức khỏe đồng thời vẫn phải đảm bảo được việc làm, thu nhập cũng như
các cơ hội khác.
2.2.4. Chế độ bảo hiểm khi lao động nữ nhận nuôi con nuôi

Pháp luật bảo hiểm xã hội Việt Nam không có sự phân biệt về chế độ bảo hiểm
thai sản đối với trường hợp lao động nữ sinh con và lao động nữ nhận nuôi con nuôi.
Quy định như vậy thể hiện rằng pháp luật đang tiến đến một xu hướng chung là mọi
lao động đều có quyền bình đẳng và được tạo điều kiện để hưởng chế độ thai sản.
Đồng thời cũng đảm bảo hơn sự công bằng, không phân biệt con đẻ con nuôi, thể hiện
sự phù hợp và thống nhất với các pháp luật khác. Cụ thể:
Về điều kiện hưởng, lao động nữ khi nhận nuôi con nuôi dưới 6 tháng tuổi được
hưởng chế độ bảo hiểm thai sản khi đã đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 6 tháng trở lên
trong 12 tháng trước khi nhận nuôi con nuôi.
Về thời gian hưởng, người lao động nhận nuôi con nuôi dưới 6 tháng tuổi được
hưởng chế độ thai sản cho đến khi con đủ 6 tháng tuổi.
Về mức hưởng, bằng 100% mức bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng
bảo hiểm xã hội của 6 tháng liền kề trước khi nghỉ việc. Ngoài ra, người lao động khi
nhận nuôi con nuôi dưới 6 tháng tuổi vẫn được trợ cấp một lần bằng hai tháng lương
tối thiểu chung cho mỗi con.
2.2.5. Chế độ bảo hiểm khi lao động nữ thực hiện các biện pháp tránh thai
Trước đây, người lao động khi thực hiện các biện pháp tránh thai nhằm mục
đích kế hoạch hóa dân số thì các chế độ đối với họ nằm trong quỹ kế hoạch hóa dân số
của y tế. Sau này, Nhà nước chuyển sang thực hiện bảo hiểm xã hội đối với họ và trong
một thời gian dài, các biện pháp như đặt vòng tránh thai, hút điều hòa kinh nguyệt, triệt
sản tính để hưởng chế độ ốm đau. Quy định như vậy là chưa hợp lý, vì về bản chất,
Sinh viên thực hiện: Phí Thị Vân Khóa luận tốt nghiệp


Trang 22

những biện pháp này đều thuộc diện thai sản, đều ảnh hưởng đến tâm sinh lý và chức
năng sinh sản của người lao động. Hơn nữa, mức hưởng chế độ ốm đau lại thấp hơn so
với mức hưởng chế độ thai sản. Vì thế, pháp luật về bảo hiểm xã hội hiện hành chuyển
những biện pháp này sang chế độ thai sản để đảm bảo hơn sự công bằng về quyền lợi

cho người lao động.
Theo Điều 37 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014, thời gian hưởng chế độ khi thực
hiện các biện pháp tránh thai như sau:
-

Khi đặt vòng tránh thai người lao động được nghỉ việc 7 ngày;
Khi thực hiện các biện pháp triệt sản người lao động được nghỉ việc 15 ngày.
Thời gian nghỉ việc cho các trường hợp trên tính cả ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết và

nghỉ hàng tuần.
Mức trợ cấp bằng 100% mức bình quân tiền lương, tiền công tháng đóng bảo
hiểm xã hội của 6 tháng liền kề trước khi nghỉ việc. Trường hợp, người lao động đóng
bảo hiểm xã hội chưa đủ 6 tháng thì mức hưởng là mức bình quân tiền lương, tiền công
của các tháng đã đóng bảo hiểm xã hội.
2.2.6. Chế độ nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe sau thai sản
Ngoài các chế độ trợ cấp thai sản ở trên, theo quy định tại Điều 41 Luật Bảo
hiểm xã hội năm 2014 và Điều 17 Khoản 2 Nghị định số 152/2007/NĐ-CP, những lao
động nữ chưa phục hồi sức khỏe sau thời gian hưởng chế độ khi bị sảy thai, nạo, hút
thai hoặc thai chết lưu, sinh con thì được nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe. Thời gian
nghỉ từ 5 đến 10 ngày trong một năm tính cả ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết, ngày nghỉ hàng
tuần, ngày đi và về nếu nghỉ tại cơ sở tập trung. Số ngày nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức
khỏe cho mỗi lao động nữ do người sử dụng lao động và Ban chấp hành công đoàn cơ
sở hoặc Ban chấp hành công đoàn lâm thời quyết định, cụ thể như sau:
-

Tối đa 10 ngày đối với lao động nữ sinh một lần từ 2 con trở lên;
Tối đa 7 ngày đối với lao động nữ sinh con phải phẫu thuật;
Tối đa 5 ngày đối với các trường hợp khác.
Mức hưởng dưỡng sức, phục hồi sức khỏe một ngày bằng 30% mức lương cơ


sở.

Sinh viên thực hiện: Phí Thị Vân Khóa luận tốt nghiệp


Trang 23

Nhận xét:
Luật Bảo hiểm xã hội Việt Nam năm 2014 đã có các quy định cụ thể về chế độ
bảo hiểm thai sản đối với lao động nữ, bao gồm các quy định về điều kiện hưởng chế
độ bảo hiểm thai sản và các quyền lợi được hưởng như thời gian nghỉ hưởng trợ cấp,
mức trợ cấp, chế độ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe sau khi sinh… Qua nhiều lần sửa
đổi, bổ sung từ các văn bản pháp luật trước nên chính sách bảo hiểm thai sản ngày càng
đầy đủ, hoàn thiện và phù hợp hơn với thực tế đời sống, đáp ứng được quyền lợi hợp
pháp, cũng như thể hiện chính sách đặc biệt ưu đãi đối với lao động nữ.
Về phạm vi hưởng trợ cấp thai sản, có thể thấy chế độ bảo hiểm thai sản ở Việt
Nam có phạm vi hưởng trợ cấp khá mở rộng, cụ thể bao gồm các trường hợp: khám
thai, sảy thai, nạo, hút thai, sinh con, nhận nuôi con nuôi dưới 4 tháng tuổi, thực hiện
các biện pháp tránh thai. Luật An sinh xã hội của Philipin quy định phạm vi hưởng bảo
hiểm thai sản của lao động nữ được mở rộng đối với cả trường hợp mang thai, sinh
con, sẩy thai, phá thai. Như vậy, quy định về phạm vi hưởng chế độ bảo hiểm thai sản
của pháp luật Việt Nam mang nhiều điểm tương đồng so với pháp luật Philipin. Khác
với pháp luật của Singapo và Thái Lan, quy định này chặt chẽ và hạn hẹp hơn, pháp
luật hai nước này không quy định hai trường hợp trên thuộc phạm vi hưởng trợ cấp,
phạm vi hưởng chế độ thai sản của nước ta được đề cập đầy đủ và bao quát hơn so với
các quốc gia trong khu vực, góp phần bảo vệ toàn diện hơn quyền và lợi ích của lao
động nữ, giúp bù đắp một phần thiệt thòi mà lao động nữ phải gánh chịu. Tuy nhiên,
không thể đánh giá một cách chủ quan rằng việc hạn chế phạm vi đối tượng hưởng chế
độ bảo hiểm thai sản là đồng nghĩa với việc pháp luật nước đó ít chú trọng bảo vệ toàn
diện cho lao động nữ mà tùy từng chính sách, chiến lược của từng quốc gia mà quy

định về phạm vi hưởng chế độ thai sản sẽ hoàn toàn khác nhau.
Về điều kiện hưởng trợ cấp thai sản, như đã nói pháp luật bảo hiểm xã hội Việt
Nam không khống chế số lần sinh con được hưởng bảo hiểm thai sản, song trong
trường hợp: lao động nữ sinh con và người lao động nói chung nhận nuôi con nuôi
dưới 6 tháng tuổi thì phải đóng bảo hiểm xã hôi từ đủ 6 tháng trở lên trong thời gian 12
tháng trước khi sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi; về vấn đề này pháp luật ở hầu hết
các nước cũng đều có quy định cụ thể về điều kiện thời gian đóng bảo hiểm xã hội
trước khi hưởng chế độ thai sản. Chẳng hạn, pháp luật bảo hiểm xã hội của Thái Lan
quy định phải có 7 tháng đóng góp trong vòng 15 tháng trước khi sinh; Singapore quy
Sinh viên thực hiện: Phí Thị Vân Khóa luận tốt nghiệp


Trang 24

định ít nhất phải có 6 tháng làm việc; Philipin quy định là 3 tháng phải có 12 tháng làm
việc trước đó… Tuy nhiên, pháp luật Singapore và Thái Lan lại có quy định lao động
nữ chỉ được hưởng chế độ thai sản khi thuộc trường hợp sinh 2 trẻ đầu tiên, riêng với
pháp luật Philipin giới hạn trợ cấp thai sản được thực hiện trong 4 lần sinh. Trong khi
đó, Việt Nam và đa số các nước đều không quy định số lần sinh con được hưởng chế
độ thai sản. Các quốc gia cần căn cứ vào tình hình dân số thực tế của nước mình để tiếp
thu kinh nghiệm này và vận dụng một cách phù hợp nhằm mang lại hiệu quả thiết thực
cho việc thực hiện chính sách dân số của đất nước.
Về mức trợ cấp, nhận thấy các quốc gia cũng có sự khác nhau trong việc quy
định mức hưởng chế độ bảo hiểm thai sản. Việt Nam chúng ta quy định lao động nữ
nghỉ chế độ thai sản sẽ được hưởng 100% mức bình quân tiền lương, tiền công tháng
đóng bảo hiểm xã hội của 6 tháng liền kề trước khi nghỉ việc, cao hơn mức trợ cấp tối
thiểu được quy định tại Công ước số 102 của ILO (45%-70%). Và cao hơn mức hưởng
của Thái Lan, chi bằng 50% tiền lương trong thời gian 90 ngày khi sinh con. Singapore
và Philipin cũng giống Việt Nam trong việc quy định mức hưởng 100% tiền lương cho
4 tuần trước và 4 tuần sau khi sinh (đối với Singapore) và cho 60 ngày nếu sinh thường

và 78 ngày nếu sinh mổ (đối với Philipin). Đây là quy định mà đa số các nước trong
khu vực và trên thế giới áp dụng trong đó có cả nước ta, việc quy định lao động nữ
được hưởng 100% tiền lương trong một khoảng thời gian khá dài như vậy là đúng đắn
và hợp lý, mang lại những lợi ích nhất định cho họ. Việc tiếp thu, áp dụng quy định
này là việc làm cần thiết đối với những quốc gia còn chưa chú trọng việc nâng cấp
quyền lợi của lực lượng lao động này. Bên cạnh đó, ngoài mức hưởng 100% tiền lương
thì lao động nữ Việt Nam còn được hưởng khoản trợ cấp bổ sung một lần bằng 2 tháng
tiền lương tối thiểu cho lao động nữ khi sinh con hoặc nuôi con nuôi dưới 4 tháng tuổi.
Thái Lan cũng bổ sung khoản trợ cấp này với mức tiền là 40 bath. Đây được xem là
một quy định mới trong khi các quốc gia chưa đề cập tới.
Về thời gian nghỉ thai sản, pháp luật hiện hành của chúng ta quy định linh hoạt
từ 4-6 tháng tùy từng điều kiện làm việc của lao động nữ. Về vấn đề này, Công ước số
3 (1919) và Công ước số 103(1592) quy định độ dài thời gian nghỉ thai sản là 12 tuần
(6 tuần trước và 6 tuần sau khi sinh). Phù hợp với điều kiện của mình, trên các nước
quy định khác nhau. Cộng hòa liên bang Đức quy định thời gian nghỉ thai sản là 14
hoặc 18 tuần (6 tuần trước khi sinh, 8 hoặc 12 tuần sau khi sinh). Liên bang Nga quy
Sinh viên thực hiện: Phí Thị Vân Khóa luận tốt nghiệp


Trang 25

định thời gian nghỉ thai sản 16 tuần đối với lao động nữ thể lực,12 tuần đối với lao
động làm công việc văn phòng, trí tuệ. Nhật Bản, Indonexia quy định thời gian nghỉ 3
tháng. Brunay, Singapore, Malaysia, Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc quy định thời
gian nghỉ 8 tuần hoặc 60 ngày. Thái Lan là 3 tháng. Philipin là 60 ngày nếu đẻ thường
và 78 ngày nếu đẻ mổ. Như vậy, tùy từng điều kiện kinh tế xã hội cũng như khả năng
chi trả của quỹ bảo hiểm mà mỗi nước có một cách quy định khác nhau về thời gian
nghỉ thai sản cho lao động nữ. Với Việt Nam chúng ta chỉ nhìn chung các quy định về
thời gian nghỉ thai cho lao động nữ là phù hợp với thông lệ quốc tế đồng thời được các
chuyên gia của Tổ chức lao động quốc tế đánh giá là rộng rãi và ưu đãi đối với lao

động nữ so với các nước trong khu vực.
Như vậy, có thể thấy về chế độ bảo hiểm thai sản thì ở hầu hết các quốc gia đều
quy định chế độ này với mục đích bù đắp thu nhập và bảo vệ sức khỏe cho lao động nữ
khi thực hiện chức năng làm mẹ với quá trình mang thai, sinh con. Tuy nhiên, mỗi
quốc gia lại thiết kế cho mình những quy định khác nhau về phạm vi chi trả trợ cấp,
thời gian tham gia tối thiểu khi hưởng trợ cấp, mức và căn cứ quy định mức trợ cấp,
các khoản trợ cấp bổ sung. Từ góc độ bảo vệ lao động nữ, quy định chế độ bảo hiểm
thai sản trong pháp luật Việt Nam được đánh giá là có nhiều ưu điểm từ việc thiết kế
chế độ với phạm vi chi trả mở rộng, điều kiện hưởng, mức hưởng, và thời gian hưởng
hợp lí; tiếp thu được những điểm tiến bộ, bắt kịp được tinh thần chung của pháp luật
bảo hiểm xã hội các nước trên thế giới. Về tổng quan, có thể thấy quy định về chế độ
bảo hiểm thai sản trong pháp luật Việt Nam được coi là tiến bộ và đúng đắn.
2.3. Chế độ hưu trí
Trong hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm hưu trí là chế độ dành cho những
người không còn tham gia quan hệ lao động nữa. Vì vậy nó rất cần thiết và không thể
thiếu được vì bất cứ người lao động nào cũng sẽ đến lúc già yếu, hết tuổi lao động
nhưng vẫn có nhu cầu đảm bảo cuộc sống và lương hưu sẽ là nguồn thu nhập chính của
họ. Do đó, được hưởng trợ cấp khi về hưu là một trong những mục đích, động lực cơ
bản để người lao động tham gia quan hệ bảo hiểm xã hội.
2.3.1. Chế độ bảo hiểm hưu trí bắt buộc
a.

Chế độ bảo hiểm hưu trí hàng tháng:

Tùy thuộc vào tuổi đời và thời gian đóng bảo hiểm xã hội mà người lao động
được hưởng chế độ hưu trí hàng tháng đầy đủ hoặc chế độ hưu trí hàng tháng với mức
Sinh viên thực hiện: Phí Thị Vân Khóa luận tốt nghiệp



×