Tải bản đầy đủ (.pdf) (52 trang)

Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về trách nhiệm hình sự của pháp nhân trong bộ luật hình sự năm 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (457.63 KB, 52 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

NGUYỄN TÙNG HOA
LKT 12-03

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA PHÁP
NHÂN TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2015
Ngành Luật Kinh tế
Mã số: 52380107

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

Hà Nội, 05/2016
1


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

NGUYỄN TÙNG HOA
LKT 12-03

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA PHÁP
NHÂN TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2015
Ngành Luật Kinh tế
Mã số: 52380107



KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Người hướng dẫn: PGS.TS. CAO THỊ OANH

Hà Nội, 05/2016

2
Hà Nội, 05/2016


LỜI CAM ĐOAN

Tác giả xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tác giả, do chính tác giả
thực hiện, không sao chép bất kỳ từ tài liệu nào và chưa công bố nội dung này ở bất kỳ
đâu. Các số liệu trong luận văn được sử dụng trung thực, nguồn trích dẫn có chú thích
rõ ràng, minh bạch. Tác giả hoàn toàn chịu trách nhiệm về tính xác thực của khóa luận
tốt nghiệp này.

Xác nhận của giáo viên hướng dẫn

Sinh viên

3


MỤC LỤC

Trang

PHẦN MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 6

CH

NG 1: LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA PHÁP NHÂN 11

1.1 Khái niệm trách nhiệm hình sự của pháp nhân .............................................. 11
1.1.1 Trách nhiệm hình sự .......................................................................................... 11
1.1.2 Trách nhiệm hình sự của pháp nhân .................................................................. 11
1.2 Sự cần thiết phải thiết lập chế định trách nhiệm hình sự của pháp nhân
trong pháp luật hình sự Việt Nam .......................................................................... 13
1.2.1. Mặt thực tiễn ..................................................................................................... 13
1.2.2 Mặt pháp luật ..................................................................................................... 15
1.3 Thực tiễn áp dụng trách nhiệm hình sự của pháp nhân ở một số nước trên
thế giới ........................................................................................................................ 17
1.3.1 Trách nhiệm hình sự của pháp nhân trong luật hình sự của các nước theo
truyền thống Common Law ........................................................................................ 18
1.3.2 Trách nhiệm hình sự của pháp nhân trong luật hình sự của các nước theo
truyền thống Civil Law ............................................................................................... 21
1.3.3 Trách nhiệm hình sự của pháp nhân trong luật hình sự của Cộng hòa dân chủ
nhân dân Trung Hoa .................................................................................................... 23
CH
NG 2: QUY ĐỊNH VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA PHÁP NHÂN TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ
NĂM 2015 .................................................................................................................. 24
2.1 Pháp nhân thuộc sự điều chỉnh của Bộ luật Hình sự 2015 ............................ 24
2.2. Nguyên tắc xử lý đối với pháp nhân thương mại phạm tội .......................... 27
2.3 Phạm vi và loại tội phạm mà pháp nhân thương mại phải chịu trách nhiệm
hình sự trong Bộ luật Hình sự năm 2015 ............................................................... 28
2.4 Điều kiện, thời hiệu chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại 31
2.4.1 Điều kiện chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại ...................... 31


4


2.4.2 Thời hiệu chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại ...................... 33
2.5 Các quy định về trách nhiệm hình sự được áp dụng đối với pháp nhân
thương mại phạm tội ................................................................................................ 34
2.5.1 Hình phạt áp dụng đối với pháp nhân thương mại phạm tội ............................ 34
2.5.2 Quyết định hình phạt như thế nào trong trường hợp pháp nhân thương mại
phạm nhiều tội ............................................................................................................. 39
2.5.3 Quy định về tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự áp
dụng đối với pháp nhân thương mại ........................................................................... 41
2.5.4 Các quy định về tổng hợp hình phạt, miễn hình phạt và xóa án tích đối với
pháp nhân thương mại phạm tội ................................................................................. 43
2.6 Giải pháp hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm hình sự của pháp nhân
trong Bộ luật Hình sự năm 2015 ............................................................................. 44
2.6.1 Quy định về pháp nhân thuộc sự điều chỉnh của Bộ luật Hình sự năm 2015 .. 45
2.6.2 Về điều kiện phải chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại ......... 46
2.6.3 Quy định về phạm vi chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại.... 48
2.6.4 Quy định hình phạt áp dụng đối với pháp nhân thương mại phạm tội ............. 48
KẾT LUẬN ................................................................................................................ 51

5


PHẦN MỞ ĐẦU

1.

Tính cấp thiết


Trong những năm qua, nền kinh tế nước ta đang có những bước phát triển
mạnh mẽ tạo ra nhiều lợi nhuận, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. Tuy
nhiên, sự phát triển của nền kinh tế thị trường cũng kéo theo các hành vi vi phạm
pháp luật trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất là lĩnh vực bảo vệ môi
trường, quản lý kinh tế, vi phạm nghiêm trọng lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của tổ chức và công dân. Do tâm lý hưởng thụ, tìm kiếm lợi nhuận cá
nhân bằng mọi cách của một số cá nhân, tổ chức.
Để bảo vệ quyền và lợi ích của Nhà nước, cơ quan tổ chức, công dân, ở
Việt Nam khi xây dựng Bộ luật Hình sự năm 1985, năm 1999, trong quá trình pháp
điển hóa chúng ta chỉ tuân theo nguyên tắc truyền thống – nguyên tắc trách nhiệm
hình sự của cá nhân. Song, chúng ta cũng đã tiến hành nghiên cứu quy định trách
nhiệm hình sự của pháp nhân, nhưng vấn đề này chưa được sự đồng thuận của các
đại biểu Quốc hội và các nhà khoa học. Đến năm 2009, khi bàn về (Dự thảo) Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự năm 1999 vấn đề trách nhiệm
hình sự của pháp nhân lại một lần nữa được đề cập đến nhưng vẫn chưa được bổ
sung.
Trước những yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước hội nhập thế giới, kết
hợp với thực tiễn xử lý các hành vi vi phạm pháp luật trong một số lĩnh vực của đời
sống xã hội, nhất là lĩnh vực bảo vệ môi trường, quản lý kinh tế...đã thúc đẩy ngày
càng mạnh mẽ các cơ quan có thẩm quyền, các nhà khoa học, các luật gia…quan
tâm nghiên cứu vấn đề trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân ở Việt Nam.
Nhận thức rõ điều này, ngày 27/11/2015, Quốc hội đã thông qua Bộ luật
Hình sự năm 2015 có hiệu lực từ ngày 01/07/2015, với nhiều nội dung mới được
sửa đổi, bổ sung trong Bộ luật Hình sự năm 2015, như quy định trách nhiệm hình sự
đối với pháp nhân thương mại. Đây là một nội dung hoàn toàn mới, quan trọng, làm
thay đổi cơ bản chính sách hình sự truyền thống, bên cạnh nguyên tắc cá thể hóa
trách nhiệm hình sự, luật hình sự Việt Nam đã đặt ra trách nhiệm hình sự đối với
pháp nhân thương mại trong một số tội theo quy định của Bộ luật hình sự.
Từ đó, tôi xin được nghiên cứu đề tài: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
về trách nhiệm hình sự của pháp nhân trong Bộ luật Hình sự năm 2015”.


6


Tình hình nghiên cứu

2.

Trong những năm gần đây việc các pháp nhân vi phạm pháp luật gây ra hậu
quả nghiêm trọng ngày càng nhiều và luôn có xu hướng ra tăng. Chính vì lẽ đó, việc
xác định phạm vi chủ thể của tội phạm hay những đối tượng có thể bị áp dụng trách
nhiệm hình sự là một trong những vấn đề được quan tâm hàng đầu trong khoa học
luật hình sự. Việc nghiên cứu thường tập trung vào những vấn đề:

Nghiên cứu so sánh cơ sở lý luận và thực tiễn của việc áp dụng trách nhiệm
hình sự đối với tổ chức,


Nghiên cứu pháp nhân có thể là chủ thể của tội phạm hay không,




Nghiên cứu trách nhiệm hình sự của pháp nhân trong luật hình sự,
Những vấn đề cơ bản về pháp luật hình sự của một số nước trên thế giới


Nghiên cứu mô hình trách nhiệm hình sự của pháp nhân trong luật hình sự
Việt Nam
Qua nghiên cứu, có thể thấy một số tài liệu tiêu biểu sau đây có liên quan

đến đề tài: Số chuyên đề về luật hình sự của một số nước trên thế giới, 1998; Phạm
Hồng Hải, Pháp nhân có thể là chủ thể của tội phạm hay không?, Tạp chí Luật học,
số 6/1999; Trịnh Quốc Toản, trách nhiệm hình sự của pháp nhân trong luật hình sự
nước Anh, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, Kinh tế-Luật, T.XVIII, Số
3. 2002; Trịnh Quốc Toản, trách nhiệm hình sự của pháp nhân trong luật hình sự Hà
Lan, Tạp chí Kiểm sát, số 5/2003; 17) Trịnh Quốc Toản, Phạm vi và điều kiện áp
dụng trách nhiệm hình sự của pháp nhân trong luật hình sự Anh, Tạp chí Khoa học
Đại học Quốc gia Hà Nội, Kinh tế-Luật, T.XIX, số 1. 2003; Trịnh Quốc Toản, trách
nhiệm hình sự của pháp nhân trong luật hình sự Canada, Tạp chí Nhà nước & Pháp
luật, số 4/2006…
Ngoài ra, còn một số công trình nghiên cứu khác như: Cao Thị Oanh
(2011), Nghiên cứu so sánh cơ sở lý luận và thực tiễn của việc áp dụng trách nhiệm
hình sự đối với tổ chức, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, Bộ tư pháp, Hà Nội;
GS.TS. Nguyễn Ngọc Hoà (chủ biên), Giáo trình luật hình sự, NXb. Công an nhân
dân, Hà Nội, 2013; Trần Văn Độ (2011), “Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc quy
định trách nhiệm hình sự đối với tổ chức, pháp nhân trong luật hình sự Việt Nam”;
Chuyên đề trong công trình nghiên cứu khoa học cấp bộ “Nghiên cứu so sánh cơ sở
lý luận và thực tiễn của việc áp dụng trách nhiệm hình sự đối với tổ chức” do
TS.Cao Thị Oanh chủ nhiệm, Hà Nội; Trịnh Quốc Toản (2005), trách nhiệm hình
sự của pháp nhân trong luật hình sự nước ngoài và mô hình lý luận của nó trong

7


pháp luật Việt nam tương lai, Báo cáo tổng kết khoa học đề tài, Đại học Quốc gia
Hà Nội, Hà Nội,…
Tuy nhiên, do mục đích, phạm vi nghiên cứu và đồng thời Bộ luật Hình sự
năm 2015 mới được ban hành ngày 27/11/2015 nên chưa có nghiên cứu nào nghiên
cứu về chế định trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại. Trong đó, tất cả
các công trình nghiên cứu trong nước trước đây đều tập trung nghiên cứu về trách

nhiệm hình sự của tổ chức hoặc pháp nhân (rộng hơn pháp nhân thương mại) và chủ
yếu giới thiệu những quy định về áp dụng trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân ở
một số nước trên thế giới như: Anh, Pháp, Canada, Mỹ… Một số bài viết khác có
phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn về trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân ở Việt
Nam nhưng những phân tích này chỉ dừng lại ở mức sơ lược và thiếu tính hệ thống,
chủ yếu thể hiện quan điểm của cá nhân, do tính mới và phức tạp của vấn đề.

Ý nghĩa khoa học và thực tiễn

3.

Bằng việc nghiên cứu và phân tích khoa học sẽ giải quyết một cách đồng
bộ, có hệ thống một số vấn đề lý luận và thực tiễn của việc quy định trách nhiệm
hình sự đối với pháp nhân trong Bộ luật Hình sự năm 2015. Từ nhận thức chung đó,
đề tài đặt ra những vấn đề cần nghiên cứu là:

Thứ nhất: Nghiên cứu trách nhiệm hình sự của tổ chức trong luật hình sự
một số nước đại diện cho các hệ thống pháp luật khác nhau.

Thứ hai: Đưa ra một số cơ sở lý luận và thực tiễn của việc quy định trách
nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại trong Bộ luật Hình sự năm 2015.


Thứ ba: Đánh giá và đưa ra giải pháp bảo đảm hiệu quả xử lý pháp nhân

thương mại ở Việt Nam.

4.

Mục đích nghiên cứu


Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân
thương mại là nhằm phục vụ công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, nhất là
những năm gần đây tình hình vi phạm pháp luật của pháp nhân ngày càng gia tăng
như: buôn lậu, xâm phạm sở hữu trí tuệ, gian lận thương mại, ô nhiễm môi
trường…gây nên những hậu quả đặc biệt nghiêm trọng cho xã hội.

8


Vấn đề trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại là một vấn đề mới
và rất quan trọng trong Luật hình sự của nước ta hiện nay. Cho nên, trong quá trình
tìm hiểu và áp dụng quy định của pháp luật vào thực tiễn còn nhiều vướng mắc. Vì
lẽ đó mà mục đích nghiên cứu vấn đề trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương
mại trước hết đặt ra nhận thức. Qua đó, đưa ra các lý luận và thực tiễn quy định về
trách nhiệm hình sự của pháp nhân trong Bộ luật Hình sự năm 2015 về vấn đề này,
ưu điểm của việc quy định các biện pháp xử lý hình sự so với các biện pháp hành
chính, dân sự. Ngoài ra, đóng góp một số ý kiến của cá nhân để góp phần hoàn thiện
hệ thóng pháp luật, nâng cao hiệu quả xử lý pháp nhân thương mại phạm tội.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

5.

Đối tượng nghiên cứu trong đề tài này là về vấn đề quy định trách nhiệm
hình sự của pháp nhân.
Phạm vi nghiên cứu là nghiên cứu quy định trách nhiệm hình sự của pháp
nhân thương mại trong Bộ luật Hình sự của Việt Nam được ban hành ngày
27/11/2015 có hiệu lực từ ngày 01/07/2016.


Phương pháp nghiên cứu

6.

Các phương pháp nghiên cứu đươc áp dụng trong bài, cụ thể:


Các phương pháp nghiên cứu đặc thù của khoa học xã hội được sử dụng

nghiên cứu đề tài bao gồm: phương pháp so sánh; phương pháp xã hội học; phương
pháp logic; phương pháp lịch sử; phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp hệ
thống hóa...


Các phương pháp nghiên cứu đặc thù của khoa học luật so sánh như: so

sánh theo thời gian và không gian; so sánh bên trong và bên ngoài; so sánh vi mô và
so sánh vĩ mô; so sánh khách thể nghiên cứu; so sánh quy phạm (tiêu chuẩn)...
Khi nghiên cứu về vấn đề trách nhiệm hình sự của pháp nhân không thể chỉ
sử dụng một trong hai phương pháp. Đồng thời cũng cần kết hợp phương pháp
chung là phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lich sử với những phương
pháp riêng trên. Vì phương pháp riêng hay phương pháp chung chỉ mang lại hiệu
quả tốt nhất khi chúng được kết hợp với nhau.

9


7.

Kết cấu của khóa luận

Ngoài phần mở bài và kết luận thì nội dung của khóa luận gồm 02 chương:

Chương 1: Những vấn đề lý luận về trách nhiệm hình sự của pháp nhân
Chương 2: Quy định và giải pháp hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm hình sự của
pháp nhân trong Bộ luật Hình sự năm 2015

10


CH

NG 1: LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA PHÁP NHÂN

1.1

Khái niệm trách nhiệm hình sự của pháp nhân

1.1.1

Trách nhiệm hình sự
Trách nhiệm hình sự là một dạng của trách nhiệm pháp lý bao gồm: “nghĩa

vụ phải chịu sự tác động của hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự, chịu bị kết tội,
chịu biện pháp cưỡng chế của trách nhiệm hình sự (hình phạt, biện pháp tư pháp, và
mang án tính”. Vậy trách nhiệm hình sự là hậu quả pháp lý của việc phạm tội thể
hiện ở trách nhiệm của người phạm tội hay pháp nhân thương mại phạm tội trước
nhà nước phải chịu những tác động pháp lý bất lợi được quy định trong luật hình sự
do tòa án áp dụng theo một trình tự tố tụng nhất định.
Đặc điểm của trách nhiệm hình sự: Trách nhiệm hình sự là hậu quả pháp lý
của việc thực hiện hành vi phạm tội; Trách nhiệm hình sự là loại trách nhiệm pháp

lý có tính cưỡng chế cao nhất là hình phạt, biện pháp tước bỏ hoặc hạn chế một số
quyền hoặc lợi ích hợp pháp; Trách nhiệm hình sự phải được thể hiện thông qua
một trình tự, thủ tục được quy định trong Bộ luật Tố tụng Hình sự; Trách nhiệm
hình sự là trách nhiệm mà các cá nhân hay pháp nhân phạm tội phải gánh chịu trước
Nhà nước; Trách nhiệm hình sự phải được thể hiện thông qua bản án hoặc quyết
định của tòa án có hiệu lực pháp luật.

1.1.2

Trách nhiệm hình sự của pháp nhân

1.1.2.1 Pháp nhân
Muốn làm rõ khái niệm trách nhiệm hình sự của pháp nhân ta phải làm rõ
khái niệm pháp nhân. Cụ thể, Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định một tổ chức được
công nhận là pháp nhân tại điểm a khoản 1 Điều 74 khi có đủ các điều kiện sau đây:
“a) Được thành lập theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan; b) Có cơ
cấu tổ chức theo quy định tại Điều 83 của Bộ luật này; c) Có tài sản độc lập với cá
nhân, pháp nhân khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình; d) Nhân danh
mình tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập.” (so với quy định tại Điều 84
Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: “Một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi
có đủ các điều kiện sau đây: 1. Được thành lập hợp pháp; 2. Có cơ cấu tổ chức
chặt chẽ; 3. Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm

11


bằng tài sản đó; 4. Nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc
lập” thì chưa thực sự đột phá hay có quy định rõ rãng hơn). Như vậy, pháp nhân
không phải là con người mà là một tổ chức thống nhất, độc lập, hợp pháp có tài sản
riêng và chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình, nhân danh mình tham gia vào các

quan hệ một cách độc lập.
Trong Bộ luật Dân sự năm 2015 chia pháp nhân ra làm hai loại sau: pháp
nhân thương mại (Điều 74) và pháp nhân phi thương mại (Điều 75).

1.1.2.2 Pháp nhân thương mại
Theo Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định, không phải mọi pháp nhân đều là
chủ thể phạm tội mà chỉ có pháp nhân thương mại thực hiện hành vi phạm tội mới
phải chịu trách nhiệm hình sự. Điều 75 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: Pháp
nhân thương mại là pháp nhân có mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận và lợi nhuận
được chia cho các thành viên; Pháp nhân thương mại bao gồm doanh nghiệp và các
tổ chức kinh tế khác; Việc thành lập, hoạt động và chấm dứt pháp nhân thương mại
được thực hiện theo quy định của Bộ luật dân sự, Luật doanh nghiệp và quy định
khác của pháp luật có liên quan.

1.1.2.3 Trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại
Bộ luật hình sự năm 2015 tại khoản 2 Điều 2 quy định chỉ pháp nhân
thương mại nào phạm một tội đã được quy định tại Điều 76 của Bộ luật này mới
phải chịu trách nhiệm hình sự. Do đó, trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương
mại cũng chỉ là một loại trách nhiệm hình sự áp dụng cho pháp nhân thương mại,
không vượt ra khỏi nội hàm của khái niệm trách nhiệm hình sự, chỉ khác ở điểm,
thay vì trước đây trách nhiệm hình sự chỉ áp dụng cho cá nhân người phạm tội thì
nay có thể áp dụng cho pháp nhân thương mại. Như vậy, trách nhiệm hình sự của
pháp nhân trong khoa học pháp luật hình sự có thể hiểu là hậu quả pháp lý của việc
thực hiện tội phạm và được thể hiện bằng việc áp dụng hình phạt đối với pháp nhân
thương mại do luật hình sự quy định. Với quy định này, trách nhiệm hình sự của
pháp nhân thương mại được thu hẹp hơn, không phải mọi pháp nhân đều phải chịu
trách nhiệm hình sự.
Theo đó khi pháp nhân thực hiện hành vi bị coi là tội phạm, xâm hại đến
các giá trị, quan hệ xã hội được Nhà nước và pháp luật bảo vệ thì pháp nhân sẽ phải


12


chịu trách nhiệm - hậu quả pháp lý bất lợi được biểu hiện cụ thể ở những biện pháp
cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước áp dụng, tước bỏ hay hạn chế các quyền
và lợi ích của pháp nhân không bị bất kỳ sự cản trở nào. Pháp nhân thương mại phải
tự mình gánh chịu trách nhiệm hình sự, không thể ủy thác hoặc chuyển cho một
pháp nhân khác như cơ quan quản lý cấp trên hay cho một pháp nhân con của mình
chịu thay được.
Trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại mại sẽ được áp dụng thông
qua một trình tự thủ tục chặt chẽ do pháp luật quy định để đảm bảo tính khách quan,
trung thực thông qua hoạt động tố tụng. Trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương
mại cũng phải được thể hiện rõ ràng trong bản án hay quyết định của Tòa án và một
pháp nhân thương mại cũng chỉ bị coi là có tội khi bị kết án bằng bản án của Tòa án
đã có hiệu lực pháp luật. Bản án hay quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật
sẽ được đưa ra thi hành và có hiệu lực bắt buộc đối với các cơ quan nhà nước, trách
nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại sẽ được bảo đảm thi hành trên thực tế.
Từ trước tới nay, trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại chưa được
công nhận trong bất cứ văn bản pháp luật nào của nước ta. Tuy nhiên, không phải
vậy mà pháp nhân đến tận khi Bộ luật Hình sự năm 2015 có hiệu lực mới bắt đầu bị
xử lý. Cụ thể: pháp nhân cũng phải chịu trách nhiệm hành chính hay trách nhiệm
dân sự do mình gây ra (đây là tiền đề để quy định trách nhiệm hình sự của pháp
nhân). Trên cơ sở đó đặc điểm của trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại:
trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại là hậu quả pháp lý bất lợi mà pháp
nhân thương mại phạm tội phải chịu trước nhà nước do thực hiện hành vi phạm tội.

1.2
Sự cần thiết phải thiết lập chế định trách nhiệm hình sự của pháp nhân
trong pháp luật hình sự Việt Nam
1.2.1.


Mặt thực tiễn

Hiện nay, trong nền kinh tế thị trường thì vai trò tập thể trong hoạt động
kinh tế của các công ty, tập đoàn, doanh nghiệp, trong hoạt động quản lý điều hành
cơ quan, tổ chức chiếm phần lớn và ngày càng rõ ràng. Các thành viên của tổ chức
luôn có sự liên kết chặt chẽ, thống nhất. Hành vi của các cá nhân được thực hiện
chủ yếu là nhân danh pháp nhân, tổ chức, thay mặt pháp nhân, tổ chức hoặc vì lợi
ích của pháp nhân, tổ chức chứ không phải luôn vì lợi ích cá nhân. Nhiều hành vi vi
phạm pháp luật có tính chất và mức độ nguy hiểm đáng kể cho xã hội do các pháp
nhân này thực hiện, chủ yếu trong các lĩnh vực môi trường và trật tự quản lý kinh

13


tế. Nên nếu chỉ áp dụng nguyên tắc trách nhiệm hình sự của cá nhân thì chúng ta chỉ
đấu tranh được với từng thành viên trong tổ chức phạm tội.
Cụ thể, nhiều khu công nghiệp, cơ sở sản xuất sử không xử lý nước thải, xả
thải vào tự nhiên, với các hệ thống ngầm đưa nước thải chưa qua xử lý này ra môi
trường, gây ô nhiễm nghiêm trọng ảnh hưởng đến sức khỏe cũng như việc sản xuất
kinh doanh của người dân như vụ Nhà máy sản xuất bột ngọt Vedan (2008), Nhà
máy sản xuất khung nhôm định hình thuộc Công ty cổ phần công nghiệp Tung
Kuang (Đài Loan) tại Cẩm Giàng, Hải Dương (2010); Công ty Hào Dương (huyện
Nhà Bè) tại Thành phố Hồ Chí Minh (2014)... đang có xu hướng gia tăng. Mặt
khác, các doanh nghiệp còn nhập phế liệu nhựa về nước ta dưới hình thức nhập
nguyên liệu sản xuất hoặc tạm nhập, tái xuất vẫn tiếp tục xảy ra, phổ biến tại Hải
Phòng, Quảng Ninh và TP. Hồ Chí Minh. Ngoài ra, có những doanh nghiệp dùng
thủ đoạn gian dối trong khai báo, móc nối với một số tổ chức kiểm định, giám định
để có kết luận hàng hoá đạt tiêu chuẩn về môi trường, làm cho ô nhiễm nguồn nước,
ô nhiễm không khí và đất của nước ta trong tình trạng báo động.

Các doanh nghiệp, tập đoàn còn có hành vi vi phạm như trốn thuế, trón
đóng bảo hiểm, buôn lậu, vận chuyển hàng hóa, tiền tệ qua biên giới, gian lận trong
kinh doanh, thao túng thị trường, quy định về khai thác, bảo vệ rừng và quản lý lâm
sản, vi phạm quy định về quản lý, bảo vệ động vật hoang dã.... cũng ngày càng gia
tăng.
Tuy nhiên, các vụ việc nêu trên hầu như không thể bị xử lý hình sự hoặc có
cũng chỉ đối với một số cá nhân nhất định. Các biện pháp xử phạt hành chính, dân
sự đối với các vụ vi phạm này đã và đang bộc lộ những bất cập trong chính sách
hình sự đối với việc xử lý các hành vi vi phạm về môi trường hay trật tụ quản lý
kinh tế, từ đó ta không thể không nghi ngờ các trường hợp phạm tội đã bị bỏ lọt do
chưa có quy định làm ảnh hưởng không nhỏ đến công tác quản lý. Mặt khác, theo
quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về tội phạm môi trường với 10 tội danh thì
chỉ có hai tội danh bị khởi tố, điều tra và xét xử trên thực tế là Tội hủy hoại rừng và
Tội vi phạm các quy định về bảo vệ động vật hoang dã quý hiếm.
Trong quá trình hội nhập quốc tế và phát triển kinh tế của Việt Nam hiện
nay, phải có sự tương thích về pháp luật, tư pháp giữa pháp luật Việt Nam và pháp
luật các nước. Đối với phần lớn quốc gia trên thế giới có quy định về trách nhiệm
hình sự của pháp nhân thì việc pháp luật nước ta cũng phải tiếp thu và vận dụng một
cách phù hợp, linh hoạt vấn đề này.

14


Vì chính những lý lo đó, mà Bộ luật Hình sự Việt Nam năm 2015 quy định
trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân.

1.2.2

Mặt pháp luật
Pháp nhân đã được pháp luật ghi nhận và tổ chức nó trên phương diện pháp


lý từ trước đến nay. Pháp nhân là một tổ chức thống nhất, độc lập, hợp pháp có tài
sản riêng và chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình, nhân danh mình tham gia vào
các quan hệ một cách độc lập, nó không chỉ là các ý chí tâm lý của các cá nhân
thành viên pháp nhân, tập đoàn được pháp nhân hoá. Hay nói cách khác, các pháp
nhân của các cá nhân được hình thành bởi những lợi ích chung thống nhất và được
tổ chức thông qua các cấu trúc pháp lý. Trong các pháp nhân, những định hướng
chủ đạo thể hiện những mục tiêu của chính mỗi tập thể được đưa ra không chỉ hoàn
toàn giới hạn bởi tổng số các ý chí riêng của một hay một nhóm thành viên pháp
nhân. Pháp nhân hoàn toàn có chí hướng mục đích kinh doanh phát triển của riêng
nó. Dưới đây là một số cơ sở để hình thành quy định này:


Thứ nhất, việc đưa ra vấn đề trách nhiệm hình sự của pháp nhân trong điều

kiện của nước ta hiện nay không phải là vấn đề tạo nên sự phức tạp cho việc quản lý
và điều chỉnh luật hình sự, nó hoàn toàn cần thiết và thực tế. Chế định của trách
nhiệm hình sự của pháp nhân đã chỉ ra cho ta thấy một loại chủ thể và chủ thể đó
hoàn toàn có khả năng hiện hành vi phạn tội. Trước khi Bộ luật Hình sự năm 2015
ra đời, có rất nhiều ý kiến cho rằng pháp nhân không thể tự mình thực hiện hành vi
phạm tội vì pháp nhân không phải con người nó không thể có suy nghĩ hay hành
động được, nhưng một hành vi phạm tội của pháp nhân có thể thông qua người đại
diện của pháp nhân đó và hành động đó mang lại lợi ích cho chính pháp nhân đó.


Thứ hai, người đại diện khi thực hiện một hành vi thì hành vi đó cũng được

coi như là đang thực hiện chỉ thị hay mệnh lệnh của cấp trên vì lợi ích của pháp
nhân. Để đảm bảo nguyên tác công bằng của pháp luật và cụ thể là pháp luật hình
sự thì pháp nhận cũng phải chịu trách nhiệm trước pháp luật, đồng thời đối với

người đại diện của nó


Thứ ba, trong Luật hành chính thì pháp nhân đươc coi là chủ thể, tại khoản

1 Điều 2 Luật xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định: “Vi phạm hành chính
là hành vi có lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện, vi phạm quy định của pháp luật về
quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị

15


xử phạt vi phạm hành chính”. Điều đó ghi nhận trách nhiệm pháp lý của pháp nhân.
Một pháp nhân khi thực hiện hành vi trốn thuế với số lượng nhỏ thì sẽ bị xử lý hành
chính với số tiền gấp đôi cá nhân. Tại Điều 161 Bộ luật Hình sự năm 1999 có quy
định tội danh này đối với cá nhân. Do đó, cùng một hành vi trốn thuế song pháp luật
nước ta có sự phân biệt đối tượng phải chịu trách nhiệm hình sự vả ở đây là chỉ chủ
thể trực tiếp thực hiện hành vi trốn thuế đó là cá nhân. Vậy trong trường hợp pháp
nhân thực hiện nhiều lần hay đã bị xử lý mà còn tái phạm, trốn thuế với số lượng
lớn thì chỉ truy cứu trách nhiệm hành chính có đủ sức răn đe. Vậy có cần đưa ra vấn
đề truy cứu trách nhiệm hình sự hay không?


Thứ tư, ý chí và hành vi của pháp nhân được thể hiện thông qua ý chí và

hành vi của người đại diện, khi phát hiện ra một hành vi phạm tội thi không nhất
thiết là người đại diện cho pháp nhân đó chiu trách nhiệm hình sự. Rõ ràng, ta thấy
pháp nhân cunagx pahir chịu trách nhiệm hình sự nhất là khi pháp luật hình sự có
các biện pháp cưỡng chế về hình sự có thể áp dụng cho pháp nhân (trước thời điểm
ban hành Bộ luật Hình sự năm 2015) như phạt tiền và đương nhiên còn nhiều biện

pháp nữa.

Cuối cùng, các vi phạm trong lĩnh vực kinh tế môi trường luôn là do cá
nhân hoặc pháp nhân, vì vậy nếu không coi pháp nhân là chủ thể của tội phạm thì
dù pháp nhân có thực hiện hành vi phạm tội có gây nguy hiểm cho xã hội như thế
nào cũng không được coi là tội phạm và không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Sẽ
rất khó để Nhà nước ta có thể quản lý hay kiểm soát được các hành vi vi phạm pháp
luật của pháp nhân và hơn nữa dẫn đến bỏ lọt tội phạm gây nguy hại cho xã hội.
Truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân cũng có ý nghĩa to lớn trong công
cuộc phòng chống tội phạm.
Sẽ luôn xảy ra bất cập trong việc xử lý các hành vi vi phạm, nhưng việc
truy cứu cá nhân trong nhiều trường hợp không thể đảm bảo tính phòng ngừa, ngăn
chặn pháp nhân đó tiếp tục có những hành vi gây thiệt hại cho môi trường, xã hội.
Nếu chỉ có cá nhân bị truy cứu trách nhiệm hình sự, pháp nhân lại không thể bị truy
cứu trách nhiệm hình sự thì pháp nhân đó có thể tìm cá nhân khác thay thế để thực
hiện các hành vi tương tự vì mục đích của pháp nhân. Đồng thời, nếu chỉ truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với cá nhân hành động nhân danh, thay mặt hoặc vì lợi ích
của pháp nhân là không được công bằng. Cuối cùng, việc truy cứu trách nhiệm hình
sự các pháp nhân tỏ ra hiệu quả hơn trong việc thi hành hình phạt và bồi thường
thiệt hại cho người bị hại.

16


Tổng kết, việc quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân là điều tất yếu
và cơ sở của trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại được quy định tại
khoản 2 Điều 2 Bộ luật Hình sự năm 2015: “2. Chỉ pháp nhân thương mại nào
phạm một tội đã được quy định tại Điều 76 của Bộ luật này mới phải chịu trách
nhiệm hình sự”


1.3
Thực tiễn áp dụng trách nhiệm hình sự của pháp nhân ở một số nước
trên thế giới
Quan điểm coi pháp nhân là chủ thể của tội phạm và pháp điển hóa đã có từ
lâu và hiện nay đã có 119 nước quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân như
Mỹ, Anh, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc…và 06 quốc gia thuộc khối ASEAN
đã hình sự hóa trách nhiệm của pháp nhân. Nhưng cũng còn nhiều nước không quy
định trách nhiệm hình sự của pháp nhân, tùy thuộc vào chế độ chính trị, kinh tế,
truyền thống lập pháp riêng của nước đó; ngoài ra còn phụ thuộc vào các yếu tố
khác. Quốc gia coi pháp nhân là tội phạm là những quốc gia phát triển hoặc đang
phát triển và phụ thuộc vào mức độ pháp luật quốc gia pháp nhân cũng phải chịu
những hình phạt nhất định do luật pháp quy định. Việc quy định trách nhiệm hình
sự của pháp nhân đang trở thành xu hướng trong sự phát triển luật hình sự thế giới.
Ở các quốc gia theo hệ thống Ănglô – xắcxông, hệ thống thông luật
(Common Law), hay gọi đơn giản hơn là hệ thống pháp luật Anh – Mỹ, thì trách
nhiệm hình sự của pháp nhân đã được quy định tương đối lâu (bắt đầu từ thế kỷ
XIX) còn ở các quốc gia theo hệ thống pháp luật lục địa (Continetal Law), hệ thống
Luật dân sự (Civil Law), hay gọi đơn giản hơn là hệ thống pháp luật Pháp - Đức ra
đời muộn hơn nhưng cũng không thể bỏ qua quan điểm trách nhiệm hình sự của
pháp nhân để phòng ngừa và đấu tranh có hiệu quả với tình hình tội phạm trong xã
hội ngày nay. Đối với các quốc gia chưa quy định vcủa pháp nhân, vấn đề trách
nhiệm của pháp nhân vẫn được đề cập trong pháp luật dân sự và hành chính. Theo
đó pháp nhân của các quốc gia này nếu gây thiệt hại thì phải phải bồi thường thiệt
hại hoặc phải khắc phục hậu quả và bị xử phạt trước Nhà nước.
Nếu xét đến pháp luật quốc tế thì ngày càng có nhiều công ước quốc tế
cũng như khu vực có ghi nhận trách nhiệm hình sự của pháp nhân và được các quốc
gia thành viên áp dụng. Có thể kể đến như: Công ước Liên hợp quốc về chống tham
nhũng (Điều 26), Công ước Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên
quốc gia (Điều 10), Tổ chức vì công ước quốc tế về hợp tác và phát triển kinh tế


17


chống nạn hối lộ công chức nước ngoài (Điều 2), Công ước Cộng đồng châu Âu về
chống tham nhũng bằng luật hình sự (Điều 18)... và còn nhiều điều luật khác.
Tuy nhiên, mỗi quôc gia lại có quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân
khác nhau xuất phát từ các quan niệm khác nhau về lý luận cho nên phạm vi, mức
độ cũng như hình thức trách nhiệm hình sự được áp dụng cũng khác nhau. Trong
pháp luật hình sự, pháp nhân phải chịu trách nhiệm hình sự về loại tội phạm nào,
chủ thể theo quy định là, loại hình phạt áp dụng nào, các biện pháp tư pháp được áp
dụng như thế nào?

1.3.1

Trách nhiệm hình sự của pháp nhân trong luật hình sự của các nước theo

truyền thống Common Law
1.3.1.1 Trách nhiệm hình sự của pháp nhân trong luật hình sự của nước Anh
Vào giữa thế kỷ XIX tại một số nước trên thế giới, đi đầu là nước Anh các
công ty, tập đoàn kinh tế lớn phát triển mạnh mẽ. Vai trò của các tổ chức kinh tế
này ngày càng lớn mạnh có khả năng khống chế chính trị, kinh tế, xã hội. Lúc này,
chủ nghĩa tư bản độc quyền hình thành, những khuyết điểm của nền kinh tế thị
trường bộc lộ sâu sắc. Các tổ chức kinh tế lớn này vì lợi nhuận của mình mà đưa ra
những quyết định và thực hiện nhiều vụ áp phe lớn, dẫn đến nhiều hệ lụy. Mà tại
thời điểm đó nếu áp dụng các chế tài xử phạt của các ngành luật như hành chính hay
dân sự thì không còn đủ sức răn đe. Vì những lý do trên, các tòa án common law
của Anh đã thiết lập trách nhiệm hình sự của pháp nhân trong luật hình sự nước
này.
Trong thời kỳ đầu, áp dụng nguyên tắc này trongtrường hợp pháp nhân
không thực hiện các nghĩa vụ thuộc về pháp nhân và vì lý do không hành động này

mà pháp nhân đã phạm tội gây hại cho cộng đồng. Buộc pháp nhân chịu trách
nhiệm hình sự về loại tội phạm này sẽ không gặp khố khăn, vì nó không đồi hỏi tội
phạm thực hiện bằng hình thức hành động. Sau đó, Tòa án Anh đã tuyên phạt pháp
nhân phải chịu trách nhiệm hình sự về các tội này trong cả trường hợp hành động
phạm tội vi phạm nghĩa vụ pháp lý gây hại cho cộng đồng. Đây là một sự phát triển
quan trọng trong việc quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân trong luật hình
sự của nước Anh. Trong các phán quyết đối với các vụ án năm 1915, đã cho thấy sự
hình thành của lý thuyết đồng nhất hóa, một sự tiến triển quan trọng của nguyên tắc
trách nhiệm hình sự của pháp nhân.

18


Trên cơ sở này, trách nhiệm hình sự của pháp nhân đã được các Tòa án Anh
thừa nhận có thể được áp dụng đối với các tội phạm khác- các tội phạm cần thỏa
mãn các dấu hiệu khách quan và cả các dấu hiệu chủ quan, chứ không chỉ riêng với
tội theo chế độ khách quan không cần bằng chứng về lỗi. Cuối cùng, lý thuyết này
được áp dụng thống nhất trong luật hình sự nước Anh năm 1971 (sau khi có quyết
định về vụ án Tesco).
Đến năm 1987, Ủy ban cải cách luật hình sự của Anh đã trình nghị viện Dự
thảo Bộ luật Hình sự, trong đó thiết lập chế định trách nhiệm hình sự của pháp nhân
trong mục 30, đã thừa nhận: “Pháp nhân chịu trách nhiệm hình sự cùng một tư
cách như đối với thể nhân về những tội phạm theo chế độ trách nhiệm tuyêt đối và
trách nhiệm thay thế; Pháp nhân cũng phải chịu trách nhiệm hình sự đối với những
tội phạm khác, nếu những tội phạm này được thực hiện bởi một trong những người
có trách nhiệm kiểm tra, giám sát hoạt động khuân khổ chức năng của pháp nhân
với mức độ lỗi cần thiết.”
Trách nhiệm hình sự của pháp nhân bắt đầu từ Anh sau đó dần được tiếp
thu sang các nước thuộc truyền thống common law như: Canada, Mỹ, Na uy...
1.3.1.2 Trách nhiệm hình sự của pháp nhân trong luật hình sự của nước Mỹ

Ở Mỹ, chế định trách nhiệm hình sự của pháp nhân được hình thành vào
cuối thế kỷ thứ XIX đến nay đã tồn tại hơn 100 năm, do các tập đoàn, công ty ở Mỹ
tăng trưởng kinh tế nhanh chóng. Đồng thời số lượng các “vi phạm trật tự công
cộng” đã tăng lên đáng kể, các thẩm phán Mỹ đã theo trường phái Anh thừa nhận:
pháp nhân có thể bị trừng phạt trên phương diện hình sự về những loại tội pham
không đòi hỏi yếu tố ý định phạm tội. Nhưng phải đến dầu thế kỷ XX, các tòa án
Mỹ mới áp dụng trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân phạm tội có yếu tố ý định
phạm tội và xác định những hành vi phạm tội của những cá nhân nhất định – những
người quản lý mới dẫn đến trách nhiệm hình sự của pháp nhân. Năm 1962, Bộ luật
Hình sự mẫu được soạn thảo bởi viện pháp luật Mỹ, đã dự liệu các khả năng truy
cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân, tổ chức.
Bộ luật Hình sự mẫu của Mỹ cũng áp dụng thuyết đồng nhất hóa như đã
được phát triển và áp dụng tại Anh, đối với những tội chịu chế độ trách nhiệm tuyệt
đối.
Trong pháp luật Mỹ hiện hành, dưới Hiến pháp Mỹ, quyền lực để áp đặt
trách nhiệm hình sự nhìn chung là dành chủ yếu cho các tiểu bang và do đó luật

19


hình sự của Mỹ được pháp điển hóa trong năm mươi hai bộ luật hình sự khác nhau
vẫn còn có những tương đồng giữa các bộ luật. Đối với trách nhiệm hình sự của
doanh nghiệp, cách tiếp cận của Bộ luật là “hạn chế hơn so với đa số các thẩm
quyền phán quyết được sử dụng tại Mỹ. Xử phạt doanh nghiệp trong các trường hợp
vi phạm đáng bị phạt chỉ áp dụng nếu doanh nghiệp vi phạm một nghĩa vụ nào đó
do luật định hoặc nếu việc phạm tội là do bất cẩn của ít nhất một lãnh đạo cấp cao”.
Tại Mỹ, “pháp nhân được coi là chủ thể có thể bị đưa ra xét xử và bị kết án
đối với những tội phạm do cá nhân giám đốc, người quản lý và thậm chí cả nhân
viên ở cấp thấp thực hiện”. Mỹ là quốc gia áp dụng trách nhiệm hình sự đặc trưng
để bổ sung cho những quy định dân sự và hành chính điều mà những quốc gia khác

sử dụng với tư cách là công cụ để điều chỉnh những hoạt động của các pháp nhân.
Đồng thời, trong pháp luật hình sự Mỹ về cơ bản có bốn loại văn bản pháp
luật ở cấp độ Liên Bang đề cập đến việc đấu tranh phòng chống hoạt động phi pháp
của các tập đoàn bằng các chế tài pháp lý hình sự là: Các đạo luật chống Tớt; các
đạo luật chống việc quảng cáo giả dối; Các đạo luật chống các vi phạm trong quan
hệ lao động; các đạo luật chống các vi phạm về quyền tác giả và các quy định về
nhãn hiệu hàng hóa. Không chỉ vậy, chế địn trách nhiệm hình sự của pháp nhân còn
được quy định tại các văn bản pháp luật khác.

1.3.1.3 Trách nhiệm hình sự của pháp nhân trong luật hình sự của nước Canada
Tiếp thu kinh nghiệm của các tòa án Anh trong việc giải quyết trách nhiệm
hình sự của pháp nhân, từ đó, vào cuối thế kỷ XIX, Tòa án Canada đã tiến hành xử
lý về hình sự với pháp nhân phạm tội. Giai đoạn đầu, các cơ quan xét xử chỉ trừng
phạt pháp nhân phạm tội xâm phạm tài sản, sau đó là các tội gây hại cho công đồng
như gây ô nhiễm, tiếng ồn…rồi đến xử lý các pháp nhân thực hiện những tội phạm
khác.
Dựa trên cơ sở phán quyết của từng vụ án mà Canada đã xây dựng nên chế
định trách nhiệm hình sự của pháp nhân trong luật hình sự của nước mình.
Trong luật thực định, thì lần đầu tiên trách nhiệm hình sự của pháp nhân
được ghi nhân trong Bộ luật Hình sự của nước này. Trong đó Điều 2 quy định các
pháp nhân, các hội, các công ty, giáo sứ, hội đồng chính … là chủ thể của trách
nhiệm hình sự. Sau đó, Canada tiếp tục cải cách pháp luật hình sự vào những năm
70 của thế kỷ XX. Mười năm sau dó, thì trách nhiệm hình sự của pháp nhân chính

20


thức được đề nghị pháp điển hóa.Sau một thời gian dài soạn thảo và chỉnh lý, ngày
13/06/2003, Dự án luật wesstray hay Dự án luật C-45, luật sửa đổi bổ sung này
được trình và xem xét, và được thông qua ngày 07/11/2003 có hiệu lưc ngày

31/03/2004.

1.3.2

Trách nhiệm hình sự của pháp nhân trong luật hình sự của các nước theo

truyền thống Civil Law
Trách nhiệm hình sự đối với tổ chức, pháp nhân được công nhận và áp dụng
muộn hơn ở các nước thuộc hệ thống châu Âu lục địa và châu Á, những quốc gia
vốn rất coi trọng tính đầy đủ, chặt chẽ của luật nội dung. Pháp luật hình sự của các
quốc gia đã tiếp nhận những yếu tố tích cực, khắc phục những yếu tố hạn chế của
các học thuyết trên để xác định được phạm vi hợp lý của việc truy cứu trách nhiệm
hình sự đối với tổ chức, pháp nhân đáp ứng yêu cầu phòng chống tội phạm không
chỉ từ phía các thể nhân mà cả từ phía các tổ chức, pháp nhân. Theo đó, tinh thần
này thể hiện tương đối đầy đủ tại Điều 19 Dự thảo Bộ luật hình sự Macedonia và
Điều 10 Công ước châu Âu về rửa tiền, truy tìm, thu giữ, tịch thu tiền do phạm tội
mà có và tài trợ khủng bố.
Đầu thế kỷ XX vấn đề trách nhiệm hình sự của pháp nhân ngày càng được
thừa nhận, pháp luật hình sự của các nước theo truyền thống Civil law cũng như các
nước khác trên thế giới cũng đã đề cập đến. Tuy vậy, tại các quốc gia này đặc điểm
quan trọng là việc xác định những giới hạn của những điều cấm hình sự mà các
pháp nhân có thể vi phạm. Về cơ bản, các pháp nhân bị coi là phạm tội và phải chịu
trách nhiệm hình sự khi: thể nhân thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật
hình sự cấm.
Trách nhiệm hình sự của pháp nhân được thừa nhận tại Pháp năm 1670
trong dụ của vua và tiếp theo được lan rộng sang các nước khác.
Sau cách mạng Pháp năm 1789, nguyên tắc trách nhiệm hình sự đối với
hành vi của người khác và nguyên tắc trách nhiệm hình sự của Pháp nhân trong luật
hình sự bị xóa bỏ tại Pháp và các nước khác. Do ảnh hưởng của trường phái khai
sáng – nhân văn và phong trào cải cách luật hình sự cùng với sự ghi nhận nguyên

tắc lỗi và nguyên tắc cá thể hóa hình phạt.

21


Sang thế kỉ XIX, cùng với cuộc cách mạng công nghiệp và sự phát triển
kinh tế nhanh chóng ở châu Âu, châu Mỹ, hàng loat các công ty, tập đoàn thương
mại xuất hiện với sức ảnh hưởng mạnh mẽ sang các lĩnh vực khác.
Đến đầu thế kỉ XX, theo xu hướng của thế giới lúc bấy giờ mà trách nhiệm
hình sự của pháp nhân ngày cũng ngày càng được thừa nhận và được ghi nhân trong
luật hình sự của môt số quốc gia châu Âu.
Năm 1950, sau khi nghiên cứu và tiếp thu những kinh nghiệm của các nước
đi trước như Anh, Mỹ Hà lan đã quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân về các
tội phạm kinh tế. Năm 1976, trách nhiệm hình sự của pháp nhân được quy định
chính thức trong Bộ luật Hình sự và trở thành nguyên tắc chung áp dụng đối với
mọi tội phạm. Bồ Đào Nha ghi nhận năm 1982, Pháp 1994, Phần Lan, Bỉ năm 1999
và Liên bang Thụy Sỹ năm 2003.
Trong pháp luât cộng đồng chung châu Âu cũng có quy định về trách nhiệm
hình sự của pháp nhân và yêu cầu bắt buộc các nước thành viên thừa nhận vấn đề
này. Tại mục 9.2 khuyến cáo số R ngày 20/10/2988 ủy ban đã chỉ đạo trực tiếp và
duy nhất về vấn đề này, khuyến khiachs các thành vien thiết lập chế định vcủa pháp
nhân để xử lý các hành vi phạm tội của pháp nhân cũng như đấu tranh phòng ngừa
tội phạm.
Năm 1997, Tổ chức quốc tế về Thương mại và Phát triển (OCDE) của hội
đồng châu Âu đã ban hành Công ước liên quan tới việc đấu tranh chống tham nhũng
của các viên chức nước ngoài trong các gia dịch quốc tế. Cụ thể: tại Điều 2 xác định
các bên tham gia cần phải áp dụng các biện pháp cần thiết phù hợp với các nguyên
tắc pháp lý của mình để thiết lập trách nhiệm hình sự của pháp nhân trong trường
hợp tham gia của viên chức nước ngoài. Do đó, các nước khi tham gia công ước
phải có nghĩa vụ thiết lập chế độ của pháp nhân trong pháp luật hình sự nước mình

ít nhất là trong lĩnh vực chuyên biệt trên.
Năm 1973, khi môi trường thiên nhiên trên thế giớ đang đứng trước nguy
cơ bị hủy hoại nghiêm trọng, ủy ban về các vấn đề tình trang phạm tội của hội đồng
chung châu Âu đã đề nghị với nghị viện của các nước coi pháp nhân là chủ thể của
trách nhiệm hình sự đối với hành vi xâm hại môi trường. Vào năm 1992, đề nghị
này được chính thức thông qua.
Cho đến nay thì trách nhiệm hình sự của pháp nhân đã được thừa nhận
trong luật hình sự của một số nước theo truyền thống Civil Law. Tại một số nước

22


tuy chưa quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân nhưng cũng đã thừa nhận
trách nhiệm pháp lý trong lĩnh vực hành chính, dân sự.

1.3.3

Trách nhiệm hình sự của pháp nhân trong luật hình sự của Cộng hòa dân

chủ nhân dân Trung Hoa
Trước đây, pháp luật hình sự của nước này cũng không quy định trách
nhiệm hình sự của Pháp nhân. Tuy nhiên, đến năm 1997 trong Bộ luật Hình sự mới
ban hành đã có quy định pháp nhân cũng có thể là chủ thể của tội phạm. Tại tiết 4
chương 3 Bộ luật Hình sự luật hình sự của Trung Hoa ghi nhận “tội phạm có chủ
thể là các cơ quan, đơn vị, tổ chức” có điều luật quy định về trách nhiệm hình sự
của pháp nhân tại Điều 30, Điều 31. Trong đó Điều 30 quy định: “Công ty xí nghiệp
nào, cơ quan, tổ chức, đoàn thể thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội thì cũng bị
coi là phạm tội và phải chịu trách nhiệm hình sự”, Điều 31 ghi “công ty, xí ngiệp,
cơ quan, tổ chức, đoàn thể phạm tội sẽ bị phạt tiền, người phụ trách và những người
có trách nhiệm khác của đơn vị cũng phải chịu trách nhiệm hình sự. Phần riêng của

Bộ luật này và những luật khác có những quy định liên quan đều phải dựa trên quy
định này”

Kết luận: Từ kết quả nghiên cứu chế định trách nhiệm hình sự của pháp nhân
trong luật hình sự của các nước theo truyền thống Common Law, Civil Law và
nước Cộng hòa dân chủ nhân dân trung Hoa cho ta thấy: Quy định chủ thể chịu
trách nhiệm hình sự gồm cả pháp nhân của mỗi nước là rất khác nhau, nhưng việc
quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân là tất yếu, không thể bỏ qua hay xem
nhẹ, nhất là khi mà những nước lớn lại càng quy định sớm và cụ thể. Việc ý thức
tầm quan trọng của việc quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân trong Bộ luật
Hình sự của nước ta là không thể chối bỏ, ta có thể nhìn thấy từ tiến triển của luật
hình sự Việt nam về vấn đề trách nhiệm hình sự của pháp nhân và lịch sử của nó.
Qua đó, ngày 27/11/2015 Bộ luật Hình sự của Viêt Nam chính thức được ban hành
trong đó có quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại là tất yếu với
gian đoạn phát triển của đất nước ta hiện nay.

23


CH

NG 2: QUY ĐỊNH VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ

TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ CỦA PHÁP NHÂN TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ
NĂM 2015

Tội phạm là sự kết hợp giữa hành vi nguy hiểm của con người và thái độ lỗi
bên trong của người đó theo quan niệm truyền thống của khoa học luật hình sự.
Nhưng thực tiễn vi phạm của pháp nhân trong thời gian vừa qua và những bất cập
của hệ thống pháp luật hiện nay khi xử lý vi phạm cũng như xu thế của quốc tế đòi

hỏi Việt Nam cần đưa ra những quy định về trách nhiệm hình sự của pháp nhân.
Ngày 27/11/2015, Quốc hội nước Công hòa xã hội chủ nghĩaViệt Nam đã thông qua
Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi). Trong đó cơ bản nhất là việc lần đầu tiên quy
định pháp nhân là chủ thể của một số tội phạm. Cơ sở trách nhiệm hình sự của pháp
nhân thương mại được quy định gồm các vấn đề sau:

2.1

Pháp nhân thuộc sự điều chỉnh của Bộ luật Hình sự 2015

Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định, pháp nhân phải chịu trách nhiệm hình
sự là pháp nhân thương mại phạm tội được quy định trong Điều 76 Bộ luật Hình sự
năm 2015 mới trở thành chủ thể của tội phạm.
Khoản 2 Điều 2 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định: "Chỉ pháp nhân
thương mại nào phạm một tội đã được quy định tại Điều 76 của Bộ luật này mới
phải chịu trách nhiệm hình sự." đây là lần đầu tiên trong lịch sử hình thành và phát
triển pháp luật hình sự nước ta quy định cơ sở trách nhiệm hình sự đối với pháp
nhân thương mại. Đây là quy định mang tính tiền đề, làm nền tảng cho những quy
định khác về trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại trong Bộ luật Hình
sự năm 2015.
Theo đó khái niệm pháp nhân thương mại của Bộ luật Hình sự năm 2015 là
chỉ đặt vấn đề trách nhiệm hình sự đối với các pháp nhân kinh tế. Còn những pháp
nhân khác hoặc những tổ chức không có tư cách pháp nhân như: cơ quan nhà nước,
lực lượng vũ trang, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp…, thì sẽ không là chủ thể phải chịu trách nhiệm hình sự.
Điều 74 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định: “Áp dụng quy định của Bộ
luật hình sự đối với pháp nhân thương mại phạm tội: Pháp nhân thương mại phạm
tội phải chịu trách nhiệm hình sự theo những quy định của Chương này; theo quy

24



định khác của Phần thứ nhất của Bộ luật này không trái với quy định của Chương
này”, đây là quy định cụ thể hơn cho quy định tại khoản 2 Điều 2 Bộ luật Hình sự
năm 2015 về cơ sở của trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân.
Khoản 1 Điều 8 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định: "Tội phạm là hành vi
nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực
trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý,
xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm
chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn
xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi
ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã
hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự."
Đây là một quy định mới và khác biệt hoàn toàn với Bộ luật Hình sự năm
1999, qua đó tạo cơ sở vững chắc để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp
nhân, với bốn đặc trưng của tội phạm là: tính nguy hiểm cho xã hội, tính trái pháp
luật hình sự, tính có lỗi, tính phải chịu hình phạt và đối với pháp nhân còn phải đảm
bảo quy định tại Điều 84 Bộ luật Dân sự năm 2005 và Điều 74 Bộ luật Dân sự năm
2015.
Điều 75 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về pháp nhân thương mại như
sau: "1. Pháp nhân thương mại là pháp nhân có mục tiêu chính là tìm kiếm lợi
nhuận và lợi nhuận được chia cho các thành viên. 2. Pháp nhân thương mại bao
gồm doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế khác. 3. Việc thành lập, hoạt động và
chấm dứt pháp nhân thương mại được thực hiện theo quy định của Bộ luật này,
Luật doanh nghiệp và quy định khác của pháp luật có liên quan."
Do đó, pháp nhân thương mại chính là pháp nhân hoạt động vì mục đích lợi
nhuận gồm; các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, nhóm doanh nghiệp nhà
nước, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, các hợp tác xã và các tổ chức
kinh tế khác.
Năng lực trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại xuất hiện từ thời
điểm pháp nhân này được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận tư cách pháp

nhân ( như ngày giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp có hiệu lực, giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh có hiệu lực...). Việc thành lập, hoạt động và chấm dứt
pháp nhân thương mại được thực hiện theo Bộ luật Dân sự năm 2015, Luật Doanh
nghiệp 2014 và quy định khác của pháp luật hiện hành có liên quan.

25


×