ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUT
PH
MT S V C TIN
V T T
Chuyên ngành:
Mã số: 60 38 01 04
LUT HC
ng dn khoa hc: PGS. TS. TRNH QUC TON
I - 2014
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
MC LC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục bảng
M U 1
Chương 1: MT S V CHUNG V
PHT T T T T
VIT NAM 7
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ VÀ Ý NGHĨA CỦA THI
HÀNH HÌNH PHẠT TỬ HÌNH 7
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của thi hành hình phạt tử hình 7
1.1.2. Vai trò và ý nghĩa của việc thi hành hình phạt tử hình 13
1.2. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ CÁC QUY ĐỊNH VỀ THI HÀNH
HÌNH PHẠT TỬ HÌNH Ở VIỆT NAM TỪ CÁCH MẠNG
THÁNG 8 NĂM 1945 ĐẾN TRƯỚC KHI CÓ BỘ LUẬT TỐ
TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2003 15
1.3. THI HÀNH HÌNH PHẠT TỬ HÌNH TRONG LUẬT TỐ TỤNG
HÌNH SỰ MỘT SỐ NƯỚC 24
Chương 2: NHNH V T T
T T T VIT
NAM HI C TING 29
2.1. NHỮNG QUY ĐỊNH VỀ THI HÀNH HÌNH PHẠT TỬ
HÌNH THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
HIỆN HÀNH 29
2.1.1. Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về các
cơ quan có nhiệm vụ thi hành hình phạt tử hình 29
2.1.2. Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về trình
tự, thủ tục xem xét bản án tử hình trước khi đưa ra thi hành 34
2.1.3. Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về trình
tự, thủ tục thi hành hình phạt tử hình 42
2.2. THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
HÌNH SỰ VỀ THI HÀNH HÌNH PHẠT TỬ HÌNH Ở VIỆT
NAM TRONG THỜI GIAN QUA 58
2.2.1. Thực tiễn xem xét bản án tử hình trước khi đưa ra thi hành 58
2.2.2. Thực tiễn thi hành hình phạt tử hình 65
2.3. NHỮNG TỒN TẠI, HẠN CHẾ VỀ THI HÀNH HÌNH PHẠT
TỬ HÌNH VÀ NGUYÊN NHÂN CỦA NÓ 69
Chương 3: MT S GI P T N
T T T NH VIC THI
T T U
QU NG 76
3.1. NHU CẦU VÀ QUAN ĐIỂM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT TỐ
TỤNG HÌNH SỰ VỀ THI HÀNH HÌNH PHẠT TỬ HÌNH VÀ
NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG 76
3.2. NHỮNG GIẢI PHÁP TIẾP TỤC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ THI HÀNH HÌNH PHẠT TỬ HÌNH 79
3.3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG
CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ
THI HÀNH HÌNH PHẠT TỬ HÌNH 85
3.3.1. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục những quy
định của pháp luật tố tụng hình sự và thi hành án hình sự về thi
hành hình phạt tử hình 85
3.3.2. Giải pháp về công tác tổ chức, cán bộ có nhiệm vụ thi hành hình
phạt tử hình 86
3.3.3. Tăng cường công tác hợp tác quốc tế trong thi hành hình phạt
tử hình 90
KT LUN 93
DANH MU THAM KHO 96
DANH MC BNG
Số hiệu bảng
Tên bảng
Trang
Bảng 2.1:
Số người bị thi hành hình phạt tử hình từ
năm 2008 - 2013
67
1
M U
p thit c
Từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, đất nước ta
chuyển sang nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường,
có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, mở rộng quan
hệ kinh tế đối ngoại với nhiều nước trên thế giới. Sự vận hành của nền kinh tế
thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã và đang đem lại sự chuyển
biến tích cực trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, được bạn bè
quốc tế đánh giá cao.
Bên cạnh những mặt tích cực đã nêu ở trên, nền kinh tế thị trường cũng
đã làm nảy sinh nhiều vấn đề tiêu cực, trong đó tình hình tội phạm diễn biến
phức tạp. Các vụ án giết người, cướp tài sản, hiếp dâm, hiếp dâm trẻ em, lừa
đảo chiếm đoạt tài sản, tham nhũng, buôn lậu, các tội phạm về ma túy… xảy
ra nhiều, với tính chất, mức độ ngày càng nghiêm trọng. Tình hình trên không
những xâm hại tính mạng, sức khỏe của người dân, lợi ích hợp pháp của Nhà
nước, tổ chức làm thiệt hại đến nền kinh tế đất nước, mà còn thực sự đe dọa
phá vỡ chính sách kinh tế xã hội, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với sự
lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước, gây ra những hậu quả
nặng nề về kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội. Thậm chí tình hình tội phạm còn
tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan tình báo nước ngoài lợi dụng tiến
hành các hoạt động mua chuộc, thu thập tình báo, phá hoại sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Trước tình hình trên, các cơ quan bảo vệ pháp luật đã thực hiện các
biện pháp có hiệu quả trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, xử lý kịp thời,
nghiêm minh mọi hành vi phạm tội và người phạm tội. Tòa án các cấp đã xét
xử phạt tử hình nhiều người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, có tác dụng răn
đe, phòng ngừa tội phạm, phục vụ yêu cầu chính trị chung. Việc thi hành hình
2
phạt tử hình đã được các cơ quan chức năng tiến hành theo đúng quy định của
pháp luật, được dư luận nhân dân đồng tình, đồng thời có tác dụng đề cao sự
cần thiết phải áp dụng hình phạt này trong đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Tuy nhiên, thực tiễn thi hành hình phạt tử hình cũng đã đặt ra nhiều vấn
đề vướng mắc đòi hỏi khoa học luật tố tụng hình sự phải nghiên cứu giải
quyết như: khái niệm thi hành hình phạt tử hình, nội dung của luật thi hành án
hình sự với luật TTHS, Luật hình sự chưa tương thích; cơ sở vật chất, cán bộ
cho việc thi hành hình phạt tử hình; hình thức thi hành hình phạt tử hình bằng
hình thức tiêm thuốc độc nhưng không có nguồn cung ứng thuốc để phục vụ
thi hành án, bởi không có quốc gia nào cho phép một quốc gia khác nhập
khẩu; xác định rõ tiêu chí áp dụng hình phạt tử hình theo hướng hình phạt này
chỉ được áp dụng đối với người phạm một số ít các tội đặc biệt nghiêm trọng
có tính chất dã man, tàn bạo, mất nhân tính hoặc việc phạm tội cũng như
người phạm tội là mối đe dọa nghiêm trọng cho an ninh quốc gia, trật tự an
toàn xã hội, mặt khác đề xuất bỏ hình phạt tử hình đối với một số tội phạm cụ
thể Trong khi đó, xét về mặt lý luận, chế định thi hành hình phạt tử hình kể
từ khi Luật thi hành án hình sự được ban hành chưa được quan tâm nghiên
cứu một cách xác đáng và xung quanh chế định này còn nhiều ý kiến khác
nhau, thậm chí trái ngược nhau.
Vì vậy, tác giả quyết định chọn đề tài: “Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn về thi hành hình phạt tử hình” làm đề tài luận văn tốt nghiệp cao học luật.
u c
Việc nghiên cứu về thi hành hình phạt tử hình đã được một số học giả
nghiên cứu như:
* Về sách, đề tài nghiên cứu:
- Tác giả Võ Khánh Vinh và Nguyễn Mạnh Kháng với cuốn sách “Pháp
luật thi hành án hình sự Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Nxb Tư
pháp năm 2006. Trong tác phẩm này, nhóm tác giả đã trình bày những vấn đề
3
lý luận cơ bản về pháp luật thi hành án hình sự, trong đó có các vấn đề như vị
trí, vai trò của pháp luật thi hành án hình sự, các nhóm vấn đề cụ thể của pháp
luật thi hành án hình sự như thi hành án phạt tù, thi hành án tử hình và thi
hành các hình phạt không giam giữ. Công trình cũng đã trình bày về vấn đề
thi hành hình phạt tử hình tuy nhiên mới chỉ dừng lại ở việc phân tích những
vấn đề cơ bản nhất về thi hành án tử hình và cũng chỉ trình bày trong giới hạn
của một chương nằm trong tổng thể cuốn sách.
- Tác giả Phạm Văn Beo với cuốn sách “Về hình phạt tử hình trong
luật hình sự Việt Nam”, Nxb. Chính trị quốc gia năm 2010. Đây là công trình
nghiên cứu cơ bản đầu tiên có hệ thống nhất về hình phạt tử hình trong luật
hình sự Việt Nam. Tuy nhiên, do chỉ nghiên cứu dưới góc độ luật hình sự do
đó việc phân tích vấn đề thi hành hình phạt tử hình trong cuốn sách này còn
rất hạn chế.
- Tác giả Vũ Trọng Hách với cuốn sách “Hoàn thiện các quy định quản
lý về thi hành án hình sự” Nxb. Tư pháp năm 2010. Công trình nghiên cứu này
đã trình bày một cách có hệ thống nhất về hệ thống các quy định về quản lý
hoạt động thi hành án hình sự, trong đó có thi hành hình phạt tử hình. Tuy
nhiên do chỉ nghiên cứu vấn đề về các quy định quản lý về thi hành án hình sự
nên việc đề cập một cách toàn diện nhất đến vấn đề thi hành hình phạt tử hình
còn hạn chế trong tác phẩm.
- Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) với đề tài khoa học cấp bộ “Áp
dụng và thi hành hình phạt tử hình – những vấn đề lý luận và thực tiễn”,
Hà Nội, 2002.
* Về bài viết khoa học:
- Tác giả Đỗ Minh Giang với bài viết “Một số vấn đề về thi hành án tử
hình” Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 9 năm 2006. Công trình đã nghiên
cứu trực tiếp về vấn đề thi hành hình phạt tử hình theo quy định của BLTTHS
4
năm 2003. Tuy nhiên, do được nghiên cứu vào năm 2006 khi mà chưa ban
hành Luật thi hành án hình sự năm 2010 nên công trình chưa giải quyết một
số vấn đề có tính thời sự nhất về thi hành án tử hình trong Luật thi hành án
hình sự mới.
- Tác giả Vũ Trọng Hách với bài viết “Nhu cầu hoàn thiện pháp luật về
thi hành án hình sự ở nước ta hiện nay” Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 5
năm 2002. Công trình nghiên cứu về hoàn thiện pháp luật về thi hành án hình
sự nói chung, trong đó có trình bày về vấn đề thi hành hình phạt tử hình.
- Tác giả Phạm Văn Beo với bài viết “Một số ý kiến về thi hành án tử
hình trong Dự thảo Luật thi hành án hình sự” Tạp chí Nhà nước và pháp luật
số 6 năm 2010. Công trình của tác giả tập trung phân tích về dự thảo Luật thi
hành án hình sự năm 2010, với những đóng góp hết sức thiết thực.
- Tác giả Nguyễn Xuân Yêm với bài viết “Về đổi mới thủ tục thi
hành hình phạt tử hình trong tiến trình cải cách tư pháp” Tạp chí Nghề
luật số 2 năm 2006.;
3. Mm v u ca lu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích những quy định của luật hình sự Việt Nam về mục
đích, ý nghĩa của hình phạt nói chung, hình phạt tử hình nói riêng; xem xét
thực tiễn áp dụng hình phạt tử hình cũng như tham khảo pháp luật hình sự của
một số nước trên thế giới quy định về vấn đề này, người viết nhằm lý giải về
sự tồn tại mang tính cần thiết khách quan của hình phạt tử hình trong luật hình
sự Việt Nam. Từ việc phân tích những vấn đề cơ bản về hình phạt tử hình, đề
tài tập trung nghiên cứu về thi hành hình phạt tử hình trong quy định của luật
TTHS và luật THAHS như trình tự, thủ tục ra quyết định thi hành án, kháng
nghị, bác đơn xin ân giảm, quy trình thi hành án tử hình theo quy định của
luật THAHS Bên cạnh việc nghiên cứu những vấn đề lý luận về hình phạt
5
tử hình và thi hành hình phạt tử hình, đề tài còn phân tích thực trạng tình hình
áp dụng hình phạt tử hình và thi hành hình phạt tử hình tại Việt Nam hiện
nay. Qua nghiên cứu về lý luận và thực tiễn của việc thi hành hình phạt tử
hình, đề tài có đề xuất các phương hướng hoàn thiện quy định của luật TTHS
và luật THAHS liên quan đến chế định thi hành hình phạt tử hình, và các giải
pháp nâng cao hiệu quả thi hành hình phạt tử hình.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm sáng tỏ khái niệm thi hành hình phạt tử hình, các hình thức thi
hành hình phạt tử hình.
- Phân tích, làm rõ sự hình thành và phát triển các quy định của pháp
luật về thi hành hình phạt tử hình ở Việt Nam.
- Nghiên cứu, làm rõ các quy định của pháp luật về thi hành hình phạt
tử hình của một số nước trên thế giới.
- Làm sáng tỏ các quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng các quy
định của pháp luật về thi hành hình phạt tử hình ở nước ta.
- Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả áp việc áp dụng các quy định
của pháp luật về thi hành hình phạt tử hình.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu các vấn đề nêu trên chủ yếu dựa trên cơ sở quy
định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 và Luật thi hành án hình sự năm
2010 và có sự so sánh, đối chiếu với các quy định tương ứng trong Bộ luật tố
tụng hình sự năm 1988 và các quy định của Bộ luật hình sự năm 2010 về hình
phạt tử hình. Về thực tiễn, luận văn nghiên cứu thực trạng thi hành hình phạt
tử hình tại Việt Nam trong 5 năm từ 2008 đến 2013.
u
Cơ sở phương pháp luận của luận văn là chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
6
Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta.
Trong luận văn tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp lịch sử, so sánh; phương pháp
thống kê, khảo sát thực tiễn.
5. Nhm ma lu
Đây là công trình nghiên cứu ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật học, nghiên
cứu một cách toàn diện, có hệ thống về những vấn đề lý luận và thực tiễn của
việc thi hành hình phạt tử hình trong luật tố tụng hình sự Việt Nam, trên cơ sở
đó, đề xuất các giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình
sự về thi hành hình phạt tử hình ở Việt Nam. Có thể xem những nội dung sau
đây là những đóng góp mới của luận văn:
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về thi hành hình phạt tử hình.
- Phân tích làm rõ thực trạng những quy định của pháp luật tố tụng hình
sự hiện hành về thi hành hình phạt tử hình và thực tiễn áp dụng ở nước ta.
- Nghiên cứu, so sánh những quy định của pháp luật tố tụng hình sự của
Việt Nam về thi hành hình phạt tử hình với những quy định tương ứng trong
pháp luật tố tụng hình sự của một số nước trên thế giới để rút ra những giá trị
hợp lý về hoạt động lập pháp tố tụng hình sự.
- Đề xuất phương hướng nâng cao hiệu quả việc áp dụng các quy định
của pháp luật tố tụng hình sự về thi hành hình phạt tử hình
6. Kt cu ca lu
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về thi hành hình phạt tử hình theo
pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam
Chương 2: Những quy định về thi hành hình phạt tử hình theo pháp
luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành và thực tiễn áp dụng
Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện thi hành hình phạt tử hình
7
Chương 1
MT S V CHUNG V T T
T T T VIT NAM
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ VÀ Ý NGHĨA CỦA THI
HÀNH HÌNH PHẠT TỬ HÌNH
1.1.1m m ct t
Để có thể hiểu về khái niệm của thi hành hình phạt tử hình, trước hết
chúng ta cần nghiên cứu về khái niệm hình phạt tử hình. Hình phạt tử hình là
hình phạt nghiêm khắc nhất do Nhà nước áp dụng đối với người phạm tội đặc
biệt nghiêm trọng (thường gọi là tội chết, tội tử) để loại trừ vĩnh viễn người
đó ra khỏi đời sống xã hội. Hình phạt tử hình chỉ áp dụng đối với người phạm
tội có tính nguy hiểm đặc biệt cao cho xã hội. Trong hệ thống hình phạt thì tử
hình là một hình phạt nghiêm khắc nhất, thể hiện mức độ trừng trị cao nhất
của Nhà nước đối với người phạm tội, bởi lẽ nó tước bỏ đi quyền sống của
người bị kết án, loại bỏ sự tồn tại của người phạm tội khỏi đời sống cộng
đồng. Hiện nay, trên thế giới còn tồn tại hai loại quan điểm trái ngược nhau về
hình phạt tử hình:
Quan điểm thứ nhất cho rằng, để bảo đảm an ninh xã hội, công bằng và
công lý, cần thiết phải duy trì hình phạt tử hình đối với những tội phạm đặc
biệt nghiêm trọng; đối với những kẻ khủng bố quốc tế, giết người hàng loạt,
thì không thể có biện pháp giáo dục nào có tác dụng, ngoài việc tước đi sự tồn
tại của chúng.
Quan điểm thứ hai cho rằng, cần phải bỏ hình phạt tử hình, vì sự sống
của con người là thiêng liêng nhất mà tạo hóa đã dành cho họ; việc áp dụng
hình phạt này là tàn khốc, vô nhân tính, không thể chấp nhận được trong xã hội
văn minh. Mặt khác, các cơ quan tố tụng có thể sai lầm khi áp dụng hình phạt
8
này và khi phát hiện ra sai lầm, thì lại không thể khắc phục được, bởi lẽ người
đã chết, thì không thể có biện pháp nào có thể khắc phục để họ sống trở lại.
Thể hiện hai quan điểm trên, theo số liệu chính thức của Ủy ban về
quyền con người của Liên hợp quốc, hiện có 71 quốc gia vẫn duy trì hình phạt
tử hình, 15 quốc gia xóa bỏ hình phạt tử hình đối với các tội thông thường,
nhưng vẫn duy trì hình phạt tử hình đối với tội giết người; 77 quốc gia hoàn
toàn xóa bỏ hình phạt tử hình, 33 quốc gia tuy còn quy định hình phạt tử hình,
nhưng không thi hành hình phạt tử hình trên thực tế. Như vậy, 110 quốc gia
đã xóa bỏ hình phạt tử hình hoặc không thi hành hình phạt tử hình trên thực
tế, chỉ còn 86 quốc gia vẫn duy trì loại hình phạt này. Đáng chú ý, một số
quốc gia lớn và đông dân như Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Cộng hòa Ấn
Độ, Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, Vương quốc Nhật Bản, Cộng hòa Inđônêxia
vẫn còn duy trì hình phạt này.
Việt Nam là quốc gia vẫn duy trì hình phạt tử hình. Cơ sở lý luận của
việc duy trì hình phạt này là: do tính chất đặc biệt nghiêm trọng của tội phạm
đã được thực hiện và những đặc điểm về nhân thân người phạm tội, Nhà nước
ta xét thấy không còn khả năng giáo dục, cải tạo họ. Vì vậy, hình phạt tử hình
không đặt ra mục đích giáo dục, cải tạo đối với người bị kết án. Việc tước bỏ
mạng sống của người bị kết án là nhằm loại bỏ hoàn toàn khả năng thực hiện
tội phạm ở họ, đồng thời răn đe mạnh mẽ những người không vững vàng, dễ
bước vào con đường phạm tội, ngăn ngừa họ phạm tội, góp phần nâng cao khí
thế đấu tranh phòng, chống tội phạm của người dân. Cơ sở thực tiễn của việc
duy trì hình phạt tử hình này là thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm ở
nước ta cho thấy, địa phương nào hữu khuynh, không áp dụng hình phạt
nghiêm khắc nhất đối với những kẻ phạm tội đặc biệt nghiêm trọng với nhiều
tình tiết tăng nặng, thì ở đó tình hình tội phạm diễn biến phức tạp cả về tính
chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội và phong trào quần chúng tham gia đấu
9
tranh phòng, chống tội phạm không mạnh. Vì vậy, hình phạt tử hình cần được
áp dụng đối với những người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, gây ảnh hưởng
xấu đến an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, bị dư luận kịch liệt lên án.
Do những đặc điểm tâm lý, thể chất của người chưa thành niên, phụ nữ có
thai và xuất phát từ quan điểm nhân đạo, luật hình sự Việt Nam quy định
không áp dụng hình phạt tử hình đối với người chưa thành niên phạm tội, phụ
nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi.
Như vậy có thể hiểu hình phạt tử hình là hình phạt đặc biệt, tước đi
mạng sống của người phạm tội và chỉ được áp dụng đối với những người
phạm tội có tính nguy hiểm đặc biệt cao cho xã hội.
Vấn đề cần làm rõ thứ hai là khái niệm thi hành án hình sự, Hiến pháp
hiện hành của nước ta khẳng định: các bản án, quyết định của Tòa án nhân dân
đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ
chức xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân tôn trọng, những
người và đơn vị hữu quan phải chấp hành nghiêm chỉnh. Yêu cầu mang tính
nguyên tắc hiến định này đã khẳng định hiệu lực thi hành của tất cả các phán
quyết của Tòa án khi có hiệu lực pháp luật, đồng thời khẳng định ý nghĩa quan
trọng của vấn đề thi hành án nói chung và thi hành án hình sự nói riêng.
Trong khoa học pháp lý hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về bản
chất của thi hành án hình sự. Có người cho rằng thi hành án hình sự là một
giai đoạn của quá trình tố tụng hình sự. Song cũng có ý kiến cho rằng, thi
hành án hình sự là một hoạt động hành chính - tư pháp hình sự, có những nét
đặc thù riêng khác với hoạt động tố tụng hình sự. Một số khác thì coi thi hành
án hình sự như là luật hình sự kéo dài. Việc xác định thi hành án hình sự là
một giai đoạn tố tụng, luật hình sự kéo dài hay là hoạt động hành chính tư
pháp có ý nghĩa quan trọng để làm sáng tỏ bản chất thi hành án hình sự, mà
xác định bản chất của thi hành án hình sự là một trong những vấn đề lý luận
cơ bản của thi hành án hình sự.
10
"Thi hành" theo Hán Việt Từ điển của tác giả Đào Duy Anh là "đem
cái việc đã định sẵn mà làm cho có hiệu quả"[2, tr.398]; theo Từ điển tiếng
Việt của Viện Ngôn ngữ học Việt Nam, "thi hành" là "làm cho thành, có
hiệu lực điều đã được chính thức quyết định"[70, tr.936]; còn theo Đại từ
điển tiếng Việt thì "thi hành" được hiểu là "thực hiện điều đã chính thức
quyết định"[73, tr.1559]. Thi hành bản án và quyết định có hiệu lực pháp
luật của Tòa án có thể được hiểu theo một cách chung nhất là “việc các cơ
quan nhà nước, tổ chức xã hội và các cá nhân có liên quan theo quy định của
pháp luật nhằm đưa bản án, quyết định đó ra thi hành làm cho nó phát huy
hiệu lực trên thực tế”[21, tr.371].
Từ sự phân tích ở trên, có thể đưa ra khái niệm thi hành án hình sự như
sau: Thi hành án hình sự là việc các các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội,
các cá nhân có liên quan đưa bản án và quyết định hình sự đã có hiệu lực
pháp luật của Tòa án ra thi hành làm cho nó phát huy hiệu lực trên thực tế.
Từ khái niệm trên có thể rút ra các đặc điểm của thi hành án hình sự
như sau:
Một là, thi hành án hình sự là giai đoạn cuối cùng của hoạt động tố
tụng hình sự, phản ánh kết quả của toàn bộ hoạt động tố tụng hình sự của
các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong việc giải quyết
vụ án hình sự.
Hai là, mục đích của hình phạt chỉ có thể được thực hiện thông qua thi
hành án hình sự. Điều đó có nghĩa, thi hành án hình sự chính là quá trình thực
tiễn hóa mục đích của hình phạt. Ngoài ra, thi hành án hình sự còn có mục
đích: đưa vào cuộc sống một cách đúng đắn và đầy đủ mọi nội dung của hình
phạt đã được Tòa án phán quyết trong bản án, quyết định hình sự, khắc phục
hậu quả do chính tội phạm đó gây ra cho xã hội, làm mất khả năng phạm tội
của kẻ phạm tội, giáo dục, cải tạo kẻ phạm tội thành người lương thiện và tái
hòa nhập cộng đồng người đó thành người có ích cho gia đình và xã hội.
11
Ba là, thi hành án hình sự trước hết được điều chỉnh bằng các quy
phạm pháp luật tố tụng hình sự và do nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân thi hành
nhằm bảo đảm sự nghiêm minh của pháp luật và công bằng xã hội. Ngoài ra,
do thi hành án hình sự thường diễn ra trong thời gian dài, liên quan đến nhiều
lĩnh vực, cho nên, ngoài các quy phạm pháp luật tố tụng hình sự, cho nên thi
hành án hình sự còn được điều chỉnh bằng các quy phạm pháp luật khác như
hành chính, dân sự, lao động
Bốn là, trong quá trình thi hành, các cơ quan thi hành án tác động trực
tiếp tới đối tượng phải thi hành án để họ tự giác thi hành hoặc áp dụng biện
pháp buộc họ phải thi hành nghĩa vụ đã được xác định trong bản án, quyết
định của Tòa án.
Thi hành hình phạt tử hình cũng là một bộ phận của thi hành án hình
sự. Bởi lẽ, hình phạt tử hình là một hình phạt trong hệ thống hình phạt được
quy định trong BLHS và trên thực tế hình phạt tử hình vẫn được áp dụng trên
thực tế ở nước ta hiện nay. Thi hành hình phạt tử hình cũng có những đặc
điểm chung và đặc điểm riêng như thi hành án hình sự. Từ khái niệm thi hành
án hình sự theo phân tích trên ta có thể đưa ra khái niệm thi hành hình phạt tử
hình như sau: Thi hành hình phạt tử hình là hoạt động của cơ quan nhà nước,
cá nhân có thẩm quyền nhằm đưa bản án tử hình của Tòa án đã có hiệu lực
pháp luật ra thực hiện trên thực tế theo những trình tự, thủ tục do pháp luật
quy định nhằm mục đích tước bỏ quyền sống của người chấp hành án
Thi hành hình phạt tử hình cũng mang đầy đủ các đặc điểm của thi
hành án hình sự, ngoài ra còn có những đặc điểm riêng sau:
Thứ nhất, thi hành hình phạt tử hình là sự thực hiện trên thực tế việc
tước đi quyền sống của người phạm tội, do đó cơ quan thi hành án hình sự
phải tuân theo những thủ tục hết sức nghiêm ngặt, chặt chẽ. Đây là đặc điểm
chủ yếu nhất để có thể phân biệt việc thi hành hình phạt tử hình với thi hành
12
các loại hình phạt, biện pháp tư pháp khác. Việc tước bỏ tính mạng của người
bị áp dụng là đặc điểm cơ bản nhất của hình phạt tử hình và đồng thời nó
cũng là một đặc điểm cơ bản nhất của thi hành hình phạt tử hình. Ví dụ: trong
Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988, cũng như trong Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2003, đều đã quy định thủ tục xem xét bản án tử hình trước khi đưa ra thi
hành, trong đó quy định rất cụ thể về trình tự, thủ tục gửi hồ sơ vụ án lên
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, gửi bản án cho Viện trưởng Viện Kiểm sát
nhân dân tối cao, thời hạn quy định Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện
trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao phải quyết định kháng nghị hoặc quyết
định không kháng nghị giám đốc thẩm hoặc tái thẩm; thủ tục xin ân giảm
trình lên Chủ tịch nước Đây là những thủ tục mà đối với việc thi hành các
hình phạt, biện pháp tư pháp khác, pháp luật tố tụng hình sự không quy định.
Thứ hai, khác với việc thi hành các hình phạt, biện pháp tư pháp khác,
nếu việc thi hành hình phạt tử hình có sai lầm, thì không thể khắc phục được
hậu quả. Đặc điểm này bắt nguồn từ bản chất của hình phạt tử hình là tước đi
quyền sống của người bị kết án, vì vậy, nếu như thi hành hình phạt tử hình
không đúng đối tượng bị kết án, thì sai lầm này không thể khắc phục được.
Đây là một đặc điểm của hình phạt tử hình cũng như đặc điểm của thi hành
hình phạt tử hình. Hiện nay, các luồng quan điểm cho rằng cần loại bỏ hình
phạt tử hình ra khỏi hệ thống hình phạt cũng xuất phát từ quan điểm này khi
cho rằng nếu áp dụng hình phạt tử hình sẽ không thể khắc phục được các sai
lầm (nếu có). Bởi bản chất của hình phạt tử hình nếu đã được thi hành thì
không thể khắc phục được. Điều này cũng là lý do mà khi thi hành hình phạt
tử hình cần những thủ tục hết sức chặt chẽ và có những bước xem xét lại bản
án, đơn xin ân giảm rất phức tạp. Tất cả những hoạt động đó để đảm bảo
nếu đã thi hành hình phạt tử hình thì không có những sai lầm đáng tiếp xảy ra.
Thứ ba, việc thi hành hình phạt tử hình không những tước đi sự sống
13
của người bị kết án, mà còn gây ra nỗi đau thương, mất mát lâu dài cho người
thân của họ, đồng thời có những tác động tâm lý tiêu cực nhất định lên những
cá nhân trực tiếp thực hiện việc thi hành hình phạt tử hình. Đây là đặc điểm
chúng ta cần lưu ý khi thực hiện công tác chính trị, tư tưởng đối với người
thân của người bị kết án, cũng như đối với số cán bộ, chiến sĩ trực tiếp làm
nhiệm vụ tước đi mạng sống của người bị kết án.
Thứ tư, thi hành hình phạt tử hình không có tính linh hoạt trong quá
trình thi hành. Về lý luận cũng như thực tế đã chỉ ra rằng hình phạt tử hình
bản thân nó chứa đựng duy nhất chỉ một mức độ không thể tăng lên hay giảm
xuống trong những trường hợp tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm khác
nhau. Bên cạnh đó, việc thi hành hình phạt tử hình cũng chỉ có áp dụng duy
nhất một lần và một mức độ. Hình phạt tử hình khi đã được áp dụng thì không
có các hoạt động miễn, giảm chấp hành án như hình phạt tù chung thân, tù có
thời hạn, cải tạo không giam giữ Chính vì vậy, việc thi hành hình phạt tử
hình cần phải thông qua các bước xem xét, ân giảm cần thiết trước khi đưa ra
thi hành trên thực tế.
1.1.2 a vit t
Chế định thi hành hình phạt tử hình lần đầu tiên được quy định trong
Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 của nước
ta, có ý nghĩa về mặt lập pháp hết sức to lớn. Nó đánh dấu sự trưởng thành về
kỹ thuật lập pháp tố tụng hình sự của nước ta.
Trong chế định thi hành hình phạt tử hình, khái niệm thi hành hình phạt
tử hình là khái niệm cơ bản, khái niệm xuất phát, để từ đó xác định các quy
phạm khác của chế định thi hành hình phạt tử hình như hình thức thi hành hình
phạt tử hình, trình tự, thủ tục xem xét bản án tử hình trước khi đưa ra thi hành,
trình tự, thủ tục thi hành hình phạt tử hình, thủ tục hoãn thi hành án Việc
nhận thức và áp dụng đúng đắn chế định thi hành hình phạt tử hình trong thực
14
tiễn là bảo đảm quan trọng cho việc thực hiện nguyên tắc pháp chế xã hội chủ
nghĩa trong lĩnh vực thi hành án hình sự, nhằm thi hành hình phạt tử hình đúng
người, không để xảy ra oan, sai trong lĩnh vực cực kỳ nhạy cảm này.
Trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự nói
chung, thi hành hình phạt tử hình nói riêng, đóng vai trò hết sức quan trọng
trong việc bảo đảm hiệu quả đạt được của toàn bộ hoạt động tố tụng hình sự. Vì
vậy, việc quy định chế định thi hành hình phạt tử hình trong luật tố tụng hình
sự góp phần tích cực vào việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ sự an toàn, vững
mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa, tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm,
tài sản của công dân. Tuy nhiên, việc áp dụng chế định thi hành hình phạt tử
hình một cách tùy tiện, không đúng pháp luật, bị coi là những hành vi vi phạm
pháp luật nghiêm trọng, bởi nó xâm phạm quyền được sống là một trong những
quyền con người cơ bản, xâm phạm đến tình cảm thiêng liêng của những người
thân thích của họ. Những hành vi vi phạm pháp luật về thi hành hình phạt tử
hình không những xâm hại hoạt động đúng đắn của các cơ quan bảo vệ pháp
luật, xâm hại quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân, mà còn làm
giảm sút lòng tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của
Nhà nước. Do vậy, việc quy định một cách chặt chẽ chế định thi hành hình phạt
tử hình trong luật tố tụng hình sự thể hiện sự tôn trọng quyền con người của
Nhà nước ta, bảo đảm sự giám sát của nhân dân, xã hội trong hoạt động thi
hành án hình sự nói chung, thi hành hình phạt tử hình nói riêng.
Việc quy định trình tự, thủ tục thi hành hình phạt tử hình trong luật tố
tụng hình sự, ngoài ý nghĩa về mặt lập pháp tố tụng hình sự, còn có ý nghĩa
nâng cao nhận thức của nhân dân nói chung, cán bộ các cơ quan bảo vệ pháp
luật nói riêng về sự cần thiết phải tuân thủ các quy định chặt chẽ của pháp
luật tố tụng hình sự trong lĩnh vực thi hành hình phạt tử hình. Mặt khác, việc
quy định cụ thể, chi tiết trình tự, thủ tục thi hành hình phạt tử hình còn giúp
15
các cơ quan bảo vệ pháp luật nắm vững nội dung, bản chất pháp lý, từ đó áp
dụng đúng đắn chế định này, góp phần nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh
phòng, chống tội phạm, động viên quần chúng nhân dân tham gia tích vào
cuộc đấu tranh này.
Ngoài ra, chế định thi hành hình phạt tử hình, còn có ý nghĩa là cơ sở
pháp lý cho một số ngành khoa học pháp lý có liên quan chặt chẽ với khoa
học luật tố tụng hình sự như tội phạm học, tâm lý học tư pháp, khoa học kỹ
thuật hình sự Đối với tội phạm học, chế định thi hành hình phạt tử hình
trong luật tố tụng hình sự là cơ sở quan trọng cho việc nghiên cứu về nhân
thân người bị kết án tử hình, từ đó tìm ra quy luật phạm tội của những người
này. Đối với tâm lý học tư pháp, chế định thi hành hình phạt tử hình có ý
nghĩa quan trọng trong việc nghiên cứu đặc điểm tâm lý của người bị kết án
tử hình ở giai đoạn xem xét bản án tử hình trước khi đưa ra thi hành, cũng
như ở giai đoạn thi hành hình phạt tử hình, nhất là ở thời điểm trước khi thi
hành án. Kết quả nghiên cứu đặc điểm tâm lý của những người bị kết án tử
hình trong hoạt động thi hành hình phạt tử hình, sẽ là tài liệu quan trọng phục
vụ cho công tác điều tra, truy tố, xét xử những người phạm tội đặc biệt
nghiêm trọng và góp phần nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống tội
phạm. Đối với khoa học kỹ thuật hình sự, việc quy định trình tự, thủ tục thi
hành hình phạt tử hình là cơ sở quan trọng cho việc nghiên cứu, đề xuất các
hình thức thi hành hình phạt tử hình tiết kiệm, dễ áp dụng, "nhân đạo" nhất
cho phù hợp với điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước.
1.2. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ CÁC QUY ĐỊNH VỀ THI HÀNH HÌNH
PHẠT TỬ HÌNH Ở VIỆT NAM TỪ CÁCH MẠNG THÁNG 8 NĂM 1945
ĐẾN TRƯỚC KHI CÓ BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2003
Cách mạng tháng 8 thành công, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
ra đời. Là nhà nước công nông đầu tiền ở khu vực Đông Nam Á. Ngay sau
16
khi cách mạng thành công, thực dân Pháp đã bắt đầu quay lại xâm chiếm
nước ta một lần nữa. Vì vậy, trong suốt thời kỳ từ khi bắt đầu cuộc xâm lược
của thực dân Pháp cho đến năm 1954 là thời điểm ký Hiệp định Giơnevơ,
Quốc hội ta là Quốc hội kháng chiến, Chính phủ ta là Chính phủ kháng chiến,
pháp luật của ta cũng là pháp luật kháng chiến.
Theo Sắc lệnh số 64-SL ngày 23/11/1945 quy định án tử hình do Tòa
án đặc biệt tuyên sẽ được thi hành trong vòng 48 giờ. Ngoài án tử hình được
tuyên bởi Tòa án đặc biệt, án tử hình tuyên bởi Tòa án binh tối cáo, Tòa á
binh khu Trung ương, Tòa án binh Khu, phạm nhân đều có quyền đệ đơn lên
Chủ tịch nước để xin ân giảm. Khi đơn xin ân giảm bị bác, phạm nhân mới bị
đem đi hành hình. Đối với bản án tử hình của Tòa án nhân dân thường, theo
Thông tư số 335/TTg, sau khi Tòa án đã tuyên án tử hình, phạm nhân cũng có
quyền đệ đơn lên Chủ tịch Chính phủ xin ân giảm, ân xá. Đơn xin ân giảm, ân
xá do Uỷ ban kháng chiến hành chính liên khu chuyển lên Bộ Tư pháp và Bộ
này sẽ làm tờ trình lên Chủ tịch chính phủ quyết định. Ngoài ra, Sắc lệnh số
4-SL ngày 28/12/1946 còn quy định: Uỷ ban bảo vệ khu có quyền ân xá, ân
giảm, phóng thích tội nhân do các Tòa án nhân dân, Tòa án quân sự hoặc Tòa
án binh kết án. Khi bị kết án tử hình, phạm nhân chỉ được ân giảm hoặc ân xá
sau khi được toàn thể ủy ban và giám đốc tư pháp đồng ý. Tuy nhiên, quy
định này được Sắc lệnh số 26-SL sửa lại như sau: “Nếu tội nhân bị kết án tử
hình thì chỉ được ân xá hay ân giảm sau khi được đa số trong Hội đồng gồm
có toàn thể Uỷ ban kháng chiến và Giám đốc Tư pháp khu ưng thuận”.[18]
Về hình thức thi hành án tử hình, Thông tư số 498/P-4 ngày 31-6-1946,
Bộ Tư pháp đã ban hành thông tư số 498, trong đó quy định: "Thi hành hình
phạt tử hình từ nay dùng súng thay máy chém"[13]. Quy định về hình thức tử
hình này thể hiện bản chất nhân đạo của chế độ mới, khác về chất so với hình
thức tử hình dã man dùng máy chém của chế độ thực dân phong kiến.
17
Trong Quy tắc trại giam được ban hành ngày 12-6-1951, đã quy định
vấn đề chuẩn bị và kết thúc việc thi hành án tử hình tại Điều 6: "Mỗi khi đưa
phạm nhân ra chịu án tử hình, Ban Giám thị phải xét kỹ căn cước để đề
phòng nhầm lẫn" và tại Điều 21 quy định: "Khi thi hành xong một án tử hình,
Tòa án phải báo cho Ủy ban hành chính sở tại để đăng ký việc tử". Vấn đề
xét ân giảm án tử hình cũng đã được quy định trong Thông tư số 335/TTg
ngày 6-7-1954 của Thủ tướng phủ. Theo đó sau khi Tòa án nhân dân đã lên án
tử hình, phạm nhân vẫn có quyền đệ đơn lên Chủ tịch nước xin ân giảm. Đơn
xin ân xá, ân giảm do Ủy ban kháng chiến hành chính liên khu chuyển lên Bộ
Tư pháp. Bộ Tư pháp làm tờ trình lên Chủ tịch nước quyết định.
Nghiên cứu các văn bản pháp luật quy định việc thi hành hình phạt tử
hình trong thời kỳ này, chúng ta có thể rút ra một số nhận xét như sau:
Thứ nhất, pháp luật trong giai đoạn này mang tính chất thời chiến,
nhưng cũng đã kịp thời quy định một số vấn đề cơ bản của việc thi hành hình
phạt tử hình. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc thi hành hình phạt tử
hình, góp phần vào cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp và tay sai.
Thứ hai, việc thi hành hình phạt tử hình được quy định trong nhiều
văn bản pháp luật dẫn tới khó khăn trong việc thống nhất áp dụng pháp
luật. Mặt khác, các văn bản quy định về việc thi hành hình phạt tử hình đều
là những văn bản dưới luật do cơ quan hành pháp ban hành, hiệu lực pháp
lý không cao.
Thứ ba, nhiều vấn đề về thi hành hình phạt tử hình chưa được pháp luật
điều chỉnh như cơ quan chịu trách nhiệm thi hành hình phạt tử hình, trình tự,
thủ tục xử bắn tại pháp trường Đây là những nhược điểm cần được khắc
phục trong thời gian tới.
Từ năm 1954 đến năm 1974, việc thi hành án tử hình do các khu, sở, ty
Công an phối hợp với Viện Kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân ở địa phương
18
thi hành. Ngày 13- 2-1974, Bộ Công an ra Chỉ thị số 138-KC1 quy định cụ
thể về công việc chuẩn bị, thủ tục và trình tự những việc làm từ lúc bắt đầu
cho đến khi kết thúc cuộc thi hành án, những trường hợp cần tạm hoãn thi
hành án. Về địa điểm pháp trường, thời gian thi hành án, Chỉ thị quy định:
Tùy trường hợp, pháp trường có thể bố trí gần trại giam, hoặc ở nơi xảy
ra vụ án, nhưng nguyên tắc là phải bảo đảm tuyệt đối an toàn cho nhân dân
(xa nhà ở của dân, không để dân qua lại khu vực pháp trường)
Ngày giờ thi hành án, nếu không phải trường hợp cấp bách, thì không
nên định vào ngày kỷ niệm, ngày tết và các ngày lễ chính của các tôn giáo,
dân tộc.[12]
Quy định này hoàn toàn phù hợp với phong tục, tập quán của dân tộc và
bảo đảm sự an toàn của nhân dân trong quá trình thi hành hình phạt tử hình.
Về công tác chuẩn bị thi hành án tử hình, Chỉ thị quy định:
Lãnh đạo Khu, Sở, Ty Công an phải thành lập Hội đồng thi hành án tử
hình, lập kế hoạch và định ngày, giờ, địa điểm, pháp trường, bố trí lực lượng
vũ trang. Thành phần Hội đồng thi hành án tử hình bao gồm:
- Một đại diện của cơ quan Công an (Chánh hoặc Phó giám đốc,
Trưởng hoặc Phó ty Công an).
- Một đại diện của Viện kiểm sát nhân dân (Viện trưởng, Viện phó hoặc
Ủy viên kiểm sát).
- Một đại diện của Tòa án nhân dân (Chánh án, Phó chánh án hoặc Ủy
viên thẩm phán).
- Một bác sĩ pháp y (do Hội đồng giám định pháp y ở địa phương chỉ định).
- Một đại diện của trại giam (Chánh hoặc Phó giám thị).
Người chứng kiến việc thi hành án là một đại diện của Ủy ban hành
chính cơ sở nơi bố trí pháp trường. Người này có nhiệm vụ lập giấy khai tử
cho kẻ bị áp dụng hình phạt tử hình sau khi bắn.
19
Trước khi đưa phạm nhân ra pháp trường, cán bộ căn cước của Sở, Ty
Công an phải đến trại giam, lập danh chỉ bản mới, đem đối chiếu với danh chỉ
bản cũ và các tài liệu khác đầy đủ, chính xác và xác định phạm nhân đó đúng
là phạm nhân bị kết án tử hình và đúng là kẻ sắp bị thi hành án trong kế hoạch
đã định.[12]
Về trình tự, thủ tục thi hành hình phạt tử hình, Chỉ thị quy định:
4. Sau khi trói tay phạm nhân vào cọc đã trông sẵn, thì đại
diện Tòa án nhân dân công bố tóm tắt tội trạng của phạm nhân và
đọc phần kết luận trong bản quyết định duyệt án tử hình hoặc quyết
định bác đơn xin ân giảm của phạm nhân.
5. Bịt mắt phạm nhân bằng một vải băng đen.
6. Hội đồng thi hành án ra lệnh thì cán bộ chỉ huy lực lượng
thi hành án hô đội viên (5 đội viên bắn giỏi được lựa chọn) bắn một
loạt súng trường nhằm thẳng vào tim phạm nhân. Để kết thúc việc
thi hành án tử hình, cán bộ chỉ huy bắn thêm một phát súng ngắn
vào thái dương của phạm nhân.
7. Bác sĩ pháp y khám nghiệm, xác định là phạm nhân đã
chết hẳn.
8. Chôn phạm nhân ngay tại gần nơi thi hành án (không cho
phép thân nhân xin xác đem về chôn); tại mả có cắm một biển gỗ
nhỏ ghi rõ họ, tên tuổi và nguyên quán phạm nhân.[12]
Việc không cho phép thân nhân người bị kết án xin xác về chôn trong
Chỉ thị số 138-KC1 là phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh chiến tranh lúc đó.
Đặc biệt, trong Chỉ thị này quy định rất rõ các trường hợp tạm hoãn thi
hành hình phạt tử hình. Đây là những quy định, mặc dù không có trong Bộ
luật tố tụng hình sự hiện hành, nhưng hiện nay vẫn được áp dụng:
- Phạm nhân tự thú những tội phạm nghiêm trọng khác của y
mà xét thấy những việc ấy cần điều tra, xác minh thêm để kết luận.
20
- Phạm nhân tố giác tội phạm của người khác mà xét thấy
việc ấy có tính chất nghiêm trọng và việc điều tra, kết luận nhất
thiết phải có mặt phạm nhân.
- Phạm nhân kêu oan mà xét thấy việc đó có thể có căn cứ.[12]
Bên cạnh đó, ngày 12/3/1974, Tòa án nhân dân tối cao cũng ra Chỉ thị số
07/TATC xác định nhiệm vụ của Tòa án nhân dân trong việc thi hành án tử hình.
Theo đó, nhiệm vụ của Tòa án nhân dân phải tống đạt cho phạm nhân quyết định
của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao duyệt án tử hình (trường hợp
phạm nhân không xin ân giảm) và công bố tóm tắt tội trạng của phạm nhân trước
khi bị hành hình. Việc hành hình sẽ được tiến hành bằng xử bắn.
Theo quy định của Pháp lệnh về việc ân giảm án tử hình và xét duyệt án
tử hình ngày 30-11-1978 quy định: “Thời hạn xin ân giảm án tử hình do các
Tòa án nhân dân thường và Tòa án quân sự xử phạt là bảy ngày kể từ ngày
bản án có hiệu lực pháp luật"[65]. Theo Bản hướng dân về trình tự tố tụng
phúc thẩm về hình sự kèm theo Thông tư số 19/TATC ngày 02/10/1974 của
Tòa án nhân dân tối cao, bản án tử hình sẽ có hiệu lực pháp luật 30 ngày sau
khi tuyên án. Về thẩm quyền xét duyệt bản án tử hình, Điều 2 Pháp lệnh nêu rõ
"Uỷ ban Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao" có quyền xét duyệt án tử hình.
Về thủ tục xét đơn xin ân giảm, ngày 28-8-1981 Hội đồng Nhà nước đã
ban hành Nghị quyết số 14-NQ-HĐNN7, theo Điều 1 của Nghị quyết này,
Đối với những vụ án tử hình mà tội trạng và chứng cứ đã rõ ràng, xét không
thể ân giảm được thì áp dụng thủ tục lấy ý kiến tại nhà của các thành viên Hội
đồng Nhà nước. Khi đó, các thành viên của Hội đồng Nhà nước sẽ nhận được
tờ trình về vụ án, sau đó ghi ý kiến của mình, ký tên vào tờ trình gửi lại Chủ
nhiệm Văn phòng Quốc hội và Hội đồng Nhà nước. Nếu toàn thể Hội đồng
Nhà nước nhất trí tán thành việc bác đơn xin ân giảm thì Chủ tịch Hội đồng
Nhà nước ký nghị quyết (Điều 2). Tuy nhiên, đối với những bản án tử hình