Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Giải pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư để phát triển nông, lâm nghiệp, thủy sản tỉnh phú thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (965.56 KB, 86 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN NHƯ TUẤN

GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ
ĐỂ PHÁT TRIỂN NÔNG, LÂM NGHIỆP,
THUỶ SẢN TỈNH PHÚ THỌ

Chuyên ngành: Quản lý kinh tế
Mã số

: 60.34.04.10

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ KINH TẾ

HÀ NỘI, 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số
liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung
thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong
bất kỳ công trình khoa học nào khác.
Tác giả luận văn

TRẦN NHƯ TUẤN


MỤC LỤC



MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN
NÔNG, LÂM NGHIỆP, THUỶ SẢN........................................................................ 7
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ CỦA VỐN ĐẦU TƯ ............................. 7
1.2. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, NỘI DUNG THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ ............... 21
1.3. NHÂN TỐ CHỦ YẾU ẢNH HƯỞNG VÀ TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ THU HÚT
VỐN ĐẦU TƯ .......................................................................................................... 25
Chương 2: THỰC TRẠNG THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN NÔNG,
LÂM NGHIỆP, THUỶ SẢN TỈNH PHÚ THỌ ................................................... 34
2.1. KHÁI QUÁT VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI ẢNH
HƯỞNG ĐẾN THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN NÔNG, LÂM NGHIỆP,
THUỶ SẢN CỦA TỈNH PHÚ THỌ ........................................................................ 34
2.2. KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN TRÊN
ĐỊA BÀN TỈNH PHÚ THỌ GIAI ĐOẠN 2011 - 2015 ........................................... 37
2.3. ĐÁNH GIÁ THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN NÔNG, LÂM
NGHIỆP, THUỶ SẢN TỈNH PHÚ THỌ ................................................................. 44
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG THU HÚT
VỐN ĐẦU TƯ ĐỂ PHÁT TRIỂN NÔNG, LÂM NGHIỆP, THUỶ SẢN TỈNH
PHÚ THỌ ................................................................................................................ 61
3.1. QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN NÔNG, LÂM NGHIỆP, THUỶ
SẢN CỦA TỈNH ....................................................................................................... 61
3.2. ĐỊNH HƯỚNG TĂNG CƯỜNG THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ VÀ NHU CẦU
VỐN ĐẦU TƯ .......................................................................................................... 63
3.3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ PHÁT
TRIỂN NÔNG, LÂM NGHIỆP, THUỶ SẢNTỈNH PHÚ THỌ .............................. 66
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 80

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………... 81



DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: Một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội chủ yếu của tỉnh giai đoạn 2011 - 2015 . 36
Bảng 2.2: Giá trị GRDP các ngành của tỉnh giai đoạn 2011 - 2015 ....................... 37
Bảng 2.3: Kết quả thu hút vốn đầu tư phát triển tỉnh giai đoạn 2011 - 2015 .......... 38
Bảng 2.4: Hệ số ICOR của tỉnh giai đoạn 2011 - 2015 (Giá thực tế) ..................... 39
Bảng 2.5: Vốn đầu tư phát triển nông nghiệp của tỉnh giai đoạn 2011 - 2015 ............ 44
Bảng 2.6: Hệ số ICOR ngành nông nghiệp của tỉnh giai đoạn 2011 - 2015 ............ 45
Bảng 2.7: Nguồn vốn thu hút đầu tư phát triển nông nghiệp của tỉnh giai đoạn 2011
- 2015......................................................................................................................... 46
Bảng 2.8: Quy mô và cơ cấu nguồn vốn đầu tư từ ngân sách cho phát triển nông
nghiệp của tỉnh giai đoạn 2011 - 2015 ..................................................................... 47
Bảng 2.9: Quy mô và cơ cấu nguồn vốn tín dụng đầu tư cho phát triển nông nghiệp
của tỉnh giai đoạn 2011 - 2015 ................................................................................. 48
Bảng 2.10: Quy mô và cơ cấu nguồn vốn đầu tư từ tư nhân và dân cư cho phát triển
nông nghiệp của tỉnh giai đoạn 2011 - 2015 ............................................................ 49
Bảng 2.11: Quy mô và cơ cấu nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cho phát triển
nông nghiệp của tỉnh giai đoạn 2011 - 2015 ............................................................ 51
Bảng 2.12: Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của Phú Thọ................................. 57
Bảng 2.13: Kết quả thu ngân sách nhà nước của tỉnh giai đoạn 2011 - 2015.............. 59
Bảng 3.1: Dự kiến nhu cầu vốn đầu tư phát triển nông nghiệp của tỉnh Phú Thọ ... 65


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Muốn tăng trưởng và phát triển kinh tế cần phải có vốn đầu tư. Kết quả thu
hút vốn đầu tư là một trong những nhân tố quyết định sự tăng trưởng và phát triển
của nền kinh tế nói chung và ngành nông nghiệp nói riêng.
Để phát triển kinh tế nông, lâm nghiệp, thuỷ sản tỉnh Phú Thọ đã và đang rất
cần vốn đầu tư. Cùng với chính sách đổi mới của Đảng và nhà nước, trên địa bàn

tỉnh đã có chính sách, hình thức thu hút vốn đầu tư để phát triển nông, lâm nghiệp,
thuỷ sản. Những kết quả phát triển nông, lâm nghiệp, thuỷ sản trên địa bàn tỉnh đã
chứng tỏ lượng vốn thu hút đã được sử dụng bước đầu có hiệu quả. Tuy nhiên, do
đặc điểm kinh tế - xã hội, các nguyên nhân khách quan và chủ quan, việc thu hút và
sử dụng vốn đầu tư để phát triển nông, lâm nghiệp, thuỷ sản trên địa bàn tỉnh đã bộc
lộ những tốn tại, hạn chế làm cho ngành nông nghiệp Phú Thọ phát triển chưa tương
xứng với tiềm năng. Đó là cơ chế quản lý chưa thật sự thông thoáng, thủ tục đầu tư
còn rườm rà gây trở ngại cho các nhà đầu tư, chính sách của nhà nước và môi
trường đầu tư cho sản xuất nông nghiệp chưa đủ hấp dẫn để thu hút các nhà đầu tư
vào lĩnh vực nông nghiệp, bên cạnh đó phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt của
các địa phương khác trong thu hút vốn. Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ sản xuất
nông, lâm nghiệp, thuỷ sản còn lạc hậu, trình độ khoa học công nghệ chưa cao, khả
năng đáp ứng yêu cầu sản xuất hàng hóa quy mô lớn còn thấp, giá trị sản lượng
nông nghiệp không tăng nhanh được vì diện tích canh tác bị thu hẹp do quá trình đô
thị hóa và công nghiệp hóa. Đặc biệt, tình hình thu hút cho đầu tư phát triển nông,
lâm nghiệp, thuỷ sản còn nhiều hạn chế, dẫn đến khả năng khai thác nguồn lực và
lợi thế của tỉnh trong phát triển kinh tế - xã hội chưa hiệu quả. Hơn nữa, trong điều
kiện hội nhập kinh tế quốc tế, nông sản của Phú Thọ không chỉ cạnh tranh với các
sản phẩm trong nước mà còn phải cạnh tranh với nông sản nhập khẩu của các nước
trong khu vực. Đây chính là một thách thức lớn đối với nông, lâm nghiệp, thuỷ sản
của tỉnh trong thời gian tới.

1


Để phát triển ngành nông nghiệp cần phải được thực hiện nhiều giải pháp
đồng bộ, trong đó thu hút vốn đầu tư là một trong những vấn đề quan trọng. Vì vậy,
nghiên cứu đề tài: "Giải pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư để phát triển nông,
lâm nghiệp, thuỷ sản tỉnh Phú Thọ" có ý nghĩa lý luận và thực tiễn trong việc phát
triển kinh tế - xã hội nói chung, phát triển nông, lâm nghiệp, thuỷ sản nói riêng của

tỉnh Phú Thọ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Phạm trù tư bản (vốn), tích tụ và tập trung vốn, vai trò của vốn trong quá
trình tăng trưởng và phát triển kinh tế đã được các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác
- Lênin luận bàn trong nhiều tác phẩm. Hiện nay, nhiều nhà kinh tế học cũng đang
tiếp tục nghiên cứu vấn đề này.
- Việt Nam là một quốc gia nông nghiệp, do đó, giải pháp phát triển nông
nghiệp nói chung và thu hút đầu tư vào nông nghiệp nói riêng đã được nhiều tác giả
nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau. Ở nước ta, vấn đề vốn đầu tư phát triển
nền kinh tế quốc dân nói chung, vốn đầu tư phát triển nông, lâm nghiệp, thuỷ sản
nói riêng được các nhà khoa học rất quan tâm nghiên cứu, có một số nghiên cứu
đáng chú ý sau đây: Hoàn thiện chính sách tài chính hỗ trợ phát triển nông nghiệp
và kinh tế nông thôn ở Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ của Học viện
Tài chính, Bộ Tài chính, 2002; Một số giải pháp tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài tại thành phố Đà Nẵng, Luận văn thạc sĩ của Ngô Quang Vinh, Đà
Nẵng 2003; Huy động vốn phát triển nông nghiệp hàng hóa vùng đồng bằng sông
Hồng nước ta, Luận án TS kinh tế của Phạm Thị Khanh, Học viện Chính trị và
Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, 2003; Giải pháp thu hút vốn đầu tư phát triển
công nghiệp ở tỉnh Hưng Yên hiện nay, Luận văn thạc sĩ kinh tế của Hồ Ngọc Hà
(2006), Hà Nội; Tổng quan nghiên cứu về môi trường đầu tư nông thôn Việt Nam”
của Viện Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn năm 2005;
Huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển kinh tế thành phố Đà Nẵng - thực trạng
và giải pháp, Luận án tiến sĩ kinh tế của Nguyễn Đẩu (2005), Hà Nội; Đặng Kim
Sơn, Kinh nghiệm quốc tế về nông nghiệp, nông thôn, nông dân trong quá trình

2


công nghiệp hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008; Hoàng Thị Bích Loan (chủ
biên), Thu hút đầu tư trực tiếp của các công ty xuyên quốc gia vào Việt Nam,

Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia (2008); Nguyễn Danh Sơn (chủ biên), Nông
nghiệp, nông thôn, nông dân Việt Nam trong quá trình phát triển đất nước theo
hướng hiện đại, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2010; Đặng Kim Sơn, Phát triển
nông nghiệp, nông thôn từ lý thuyết áp dụng cho chính sách và chiến lược Việt
Nam: Các lý thuyết kinh tế vận dụng vào Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2012; Trung tâm Nghiên cứu và phát triển hệ thống nông nghiệp, Kỷ yếu 20
năm nghiên cứu và phát triển hệ thống nông nghiệp, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội,
2009; Thu hút đầu tư của doanh nghiệp vào nông nghiệp tỉnh Bắc Ninh Luận án
Tiến sỹ kinh tế của Nguyễn Xuân Đương, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh, năm 2015...
- Ngoài ra, còn có các bài nghiên cứu liên quan đến vấn đề vốn đầu tư và vai
trò của vốn đầu tư đối với phát triển kinh tế; nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng
tới đầu tư trong lĩnh vực nông nghiệp được đăng tải trên nhiều sách, báo, tạp chí...
Trong các công trình nghiên cứu trên, ở khía cạnh này hay khía cạnh khác, các tác
giả đã đề cập đến những vấn đề cần thiết để thu hút vốn đầu tư phát triển kinh tế; có
công trình nghiên cứu đã khảo sát xu hướng đầu tư của doanh nghiệp trong và ngoài
nước (FDI) vào nông nghiệp nông thôn, đồng thời đưa ra những hạn chế về môi
trường đầu tư, trong việc thu hút đầu tư, hỗ trợ doanh nghiệp nông nghiệp phát triển
và tác động của các chính sách, các quy định hiện hành ảnh hưởng tới hoạt động
của doanh nghiệp; cũng có tác giả cho ta thấy toàn cảnh bức tranh của công ty đa
quốc gia trong dòng lưu chuyển vốn FDI toàn cầu, chiến lược đầu tư trực tiếp của
các công ty đa quốc gia, thực trạng đầu tư trực tiếp của các công ty đa quốc gia vào
Việt Nam. Tuy nhiên, do góc độ tiếp cận và quan điểm khác nhau nên các tác giả
đều có hướng đi riêng của mình nhằm đạt được mục đích nghiên cứu; có công trình
nghiên cứu hướng về thu hút vốn đầu tư trong tổng thể nền kinh tế trên bình diện
quốc gia; có công trình nghiên cứu về một khía cạnh trong thu hút vốn đầu tư tại
một địa phương, một khu vực hay trên toàn đất nước; có công trình lại đi sâu nghiên

3



cứu vốn đầu tư phát triển một ngành như công nghiệp, nông nghiệp; có công trình lại
nghiên cứu về việc thu hút đầu tư của doanh nghiệp vào nông nghiệp; có công trình
thực hiện rà soát và tổng kết các nghiên cứu lý thuyết quốc tế về mô hình đầu tư nói
chung và đầu tư trong nông nghiệp nói riêng nhằm hệ thống hóa các nhân tố ảnh
hưởng tới đầu tư trong nông nghiệp..., cho đến nay, chưa có công trình khoa học nào
nghiên cứu việc thu hút vốn đầu tư phát triển nông, lâm nghiệp, thuỷ sản một cách cơ
bản, có hệ thống, phù hợp với điều kiện cụ thể của tỉnh Phú Thọ - mang đặc trưng của
vùng Trung du và Miền núi phía Bắc nước ta, với những đặc trưng riêng có về tiềm
năng huy động và khai thác vốn đầu tư phát triển nông nghiệp.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích: Luận văn tập trung làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề
thu hút và sử dụng vốn đầu tư để phát triển nông, lâm nghiệp, thuỷ sản của tỉnh Phú
Thọ giai đoạn 2011 - 2015, trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm tăng
cường thu hút vốn đầu tư để phát triển nông, lâm nghiệp, thuỷ sản trên địa bàn tỉnh
đến năm 2020.
- Nhiệm vụ:
+ Hệ thống hóa những vấn đề lý luận chung về vốn đầu tư: Khái niệm, đặc
điểm, vai trò của vốn đầu tư; khái niệm, nội dung thu hút vốn đầu tư; những nhân tố
chủ yếu ảnh hưởng và tiêu chí đánh giá thu hút vốn đầu tư.
+ Phân tích thực trạng thu hút vốn đầu tư phát triển nông, lâm nghiệp, thuỷ
sản tỉnh Phú Thọ những năm qua. Đánh giá chung những kết quả đạt được và tồn
tại, hạn chế; phát hiện những nguyên nhân cản trở quá trình thu hút vốn đầu tư phát
triển nông, lâm nghiệp, thuỷ sản tại tỉnh Phú Thọ.
+ Luận chứng phương hướng, giải pháp cơ bản nhằm tăng cường thu hút vốn
đầu tư có hiệu quả để phát triển nông, lâm nghiệp, thuỷ sản tỉnh Phú Thọ.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn
đềlý luận và thực tiễn liên quan đến vốn đầu tư; cơ chế, chính sách của cơ quan
quản lý nhà nước cấp tỉnh nhằm thu hút có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư phát triển


4


nông nghiệp ở tỉnh Phú Thọ.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Luận văn chỉ nghiên cứu việc thu hút vốn đầu tư để phát triển nông, lâm
nghiệp, thuỷ sản trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.
+ Chủ thể thu hút đầu tư là chính quyền tỉnh Phú Thọ.
+ Phạm vi nghiên cứu được giới hạn trên địa bàn tỉnh Phú Thọ, thời gian
khảo sát thực trạng chủ yếu từ giai đoạn 2011 - 2015, các giải pháp đề xuất hướng
đến năm 2020.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Xem xét, đánh giá thực tiễn thu hút vốn đầu tư
vào nông, lâm nghiệp, thuỷ sản theo quá trình phát triển; xem xét mối quan hệ tác
động qua lại giữa nguồn vốn đầu tư ngành nông nghiệp với các ngành, lĩnh vực
khác, giữa các nguồn vốn đầu tư vào nông, nghiệp, giữa thu hút và sử dụng vốn đầu
tư…
- Tiếp thu, kế thừa những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, những kiến thức kinh tế học hiện
đại và kế thừa chọn lọc những công trình khoa học có liên quan đến vấn đề này.
- Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu, chủ yếu là
phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; coi trọng phương pháp hệ
thống, phân tích, tổng hợp, thống kê. Tùy từng nội dung, Luận văn đã sử dụng
những phương pháp phù hợp: Đối với những vấn đề lý thuyết ở Chương 1 phương
pháp được sử dụng là nghiên cứu tài liệu và tổng hợp những tài liệu trong và ngoài
nước.... qua đó, xây dựng khung khổ lý thuyết cho các nội dung nghiên cứu tiếp
theo. Ở nội dung chương 2, phân tích, đánh giá thực trạng thu hút vốn đầu tư phát
triển vào nông, lâm nghiệp, thuỷ sản của tỉnh, phương pháp được sử dụng là

phương pháp thu thập tư liệu, dữ liệu từ các văn bản liên quan tới số liệu thống kê từ
UBND tỉnh, các cơ quan chức năng thuộc UBND tỉnh: Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở

5


Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh,…. Ở nội dung chương 3, chủ yếu là đề
xuất nhóm giải pháp dựa trên kết quả phân tích ở các nội dung trước...
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Hệ thống hóa cơ sở khoa học về vốn đầu tư, thu hút vốn đầu tư phát triển
nông, lâm nghiệp, thuỷ sản.
- Phân tích đặc điểm nông, lâm nghiệp, thuỷ sản tỉnh Phú Thọ, góp phần làm
rõ tiềm năng, thế mạnh cũng như khó khăn trong phát triển nông, lâm nghiệp, thuỷ
sản của tỉnh.
- Phân tích thực trạng thu hút vốn đầu tư phát triển nông, lâm nghiệp, thuỷ
sản tỉnh Phú Thọ, rút ra những tồn tại hạn chế và nguyên nhân cần khắc phục.
- Đề xuất những phương hướng, giải pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư để
phát triển nông, lâm nghiệp, thuỷ sản tỉnh Phú Thọ.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về thu hút vốn đầu tư phát triển nông, lâm nghiệp,
thuỷ sản.
Chương 2: Thực trạng thu hút vốn đầu tư phát triển nông, lâm nghiệp, thuỷ
sản tỉnh Phú Thọ.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư để
phát triển nông, lâm nghiệp, thuỷ sản tỉnh Phú Thọ.

6



Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN
NÔNG, LÂM NGHIỆP, THUỶ SẢN
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ CỦA VỐN ĐẦU TƯ
1.1.1. Khái niệm vốn đầu tư
Vốn đầu tư là một bộ phận của nguồn lực biểu hiện dưới dạng giá trị của các
tài sản quốc gia được thể hiện bằng các tài sản hữu hình và vô hình nhằm sử dụng
vào mục đích đầu tư để sinh lời. Đó là những chi phí bỏ ra làm tăng tài sản cố định,
tài sản lưu động, tài sản trí tuệ, nguồn nhân lực, nâng cao mức sống dân cư và mặt
bằng dân trí, bảo vệ môi trường sinh thái trong một thời gian nhất định.
Nguồn lực trên phải nằm trong một dự án đầu tư thì mới được gọi là nguồn
vốn đầu tư. Nếu không chúng mới chỉ là nguồn lực tích lũy và dự trữ dưới dạng
tiềm năng. Nói cách khác, vốn đầu tư phải là nguồn lực trong trạng thái "động".
Khái niệm về vốn đầu tư được thể hiện làm rõ hơn qua những đặc trưng cơ
bản sau đây:
Thứ nhất, vốn phải được biểu hiện bằng giá trị của những tài sản, điều này có
nghĩa là vốn phải đại diện cho một lượng giá trị có thực của tài sản (tài sản hữu hình
và vô hình). Tài sản hữu hình là những tài sản có hình thái vật chất cụ thể như: Máy
móc, trang thiết bị, phương tiện vận tải, nguyên vật liệu... Tài sản vô hình là những
tài sản không có hình thái vật chất cụ thể. Tài sản vô hình rất phong phú và đa dạng
như: Vị trí kinh doanh, bản quyền, phát minh sáng chế, uy tín trong kinh doanh,...
Như vậy, một lượng tiền phát hành không đưa vào lưu thông hoặc các khoản nợ
không có khả năng thanh toán thì không thể được gọi là vốn.
Thứ hai, vốn phải được vận động nhằm mục đích sinh lời. Vốn là tiền nhưng
không phải mọi đồng tiền đều là vốn. Tiền chỉ là vốn ở dạng tiềm năng, khi nào
chúng được dùng vào đầu tư kinh doanh thì chúng mới biến thành vốn. Tiền là
phương tiện để trao đổi, lưu thông hàng hóa còn vốn là để sinh lời, nó luôn chu
chuyển và tuần hoàn. Cách vận động và phương thức vận động của tiền vốn lại do


7


phương thức đầu tư kinh doanh quyết định. Các phương thức đầu tư có thể mô
phỏng theo sơ đồ sau:
- Trường hợp đầu tư vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh:
TLSX
... SX... H’ - T’

T-H
SLĐ

- Trường hợp đầu tư vào lĩnh vực thương mại:
T - H - T’
- Trường hợp đầu tư mua cổ phiếu, trái phiếu, góp vốn liên doanh...:
T - T’
Ngoài sự phân biệt giữa vốn và tiền, cần phân biệt sự khác nhau giữa vốn và
tài sản. Vốn là biểu hiện bằng tiền của một bộ phận tài sản, nhưng không phải mọi
tài sản đều được gọi là vốn. Tài sản có nhiều loại: Có loại do thiên nhiên ban tặng,
có loại do thành quả lao động của con người sáng tạo ra; có loại là hữu hình, có loại
là vô hình. Những tài sản đó nếu được giá trị hóa thành tiền và đưa vào đầu tư thì
đều được gọi là vốn đầu tư. Những tài sản này được gọi là tài sản hoạt động (để
phân biệt với tài sản bất động, tức là tài sản ở dạng tiềm năng).
Thứ ba, vốn bao giờ cũng gắn liền với một chủ sở hữu nhất định, không có
khái niệm vốn vô chủ. Chủ sở hữu vốn có thể là một chủ nhưng cũng có thể là nhiều
chủ như các cổ đông là chủ sở hữu vốn trong các công ty cổ phần. Tùy theo hình
thức đầu tư mà người chủ sở hữu có thể đồng nhất hoặc không đồng nhất với người
sử dụng vốn. Ở đâu không xác định được rõ chủ sở hữu của vốn và tài sản thì ở đó
việc quản lý, sử dụng vốn sẽ kém hiệu quả, gây ra lãng phí và tiêu cực.
Thứ tư, trong nền kinh tế thị trường, vốn là một loại hàng hóa đặc biệt. Sở dĩ

coi vốn là một loại hàng hóa, vì nó cũng có giá trị và giá trị sử dụng như mọi loại
hàng hóa khác. Nhưng vốn là một loại hàng hóa đặc biệt khác với hàng hóa thông
thường, ở chỗ người bán vốn không mất đi quyền sở hữu mà chỉ bán quyền sử dụng
vốn. Người mua nhận được quyền sử dụng vốn trong một khoảng thời gian nhất

8


định và phải trả cho người bán vốn một tỷ lệ nhất định tính trên số vốn đó, gọi là lãi
suất. Như vậy, lãi suất chính là giá cả của quyền sử dụng vốn.
Việc mua bán quyền sử dụng vốn được diễn ra trên thị trường tài chính. Thị
trường tài chính là nơi diễn ra các hoạt động mua bán quyền sử dụng các nguồn tài
chính thông qua những phương thức giao dịch và các công cụ tài chính nhất định, là
tổng hòa quan hệ cung và cầu về vốn. Thị trường tài chính bao gồm hai bộ phận:
- Thị trường tiền tệ: Là nơi diễn ra các hoạt động mua bán quyền sử dụng các
nguồn vốn ngắn hạn. Thị trường tiền tệ diễn ra chủ yếu thông qua hoạt động của hệ
thống ngân hàng thương mại. Các ngân hàng thương mại là chủ thể quan trọng nhất
trong việc thu hút và cung cấp các nguồn vốn ngắn hạn.
- Thị trường vốn: Là nơi diễn ra các hoạt động mua bán quyền sử dụng các
nguồn vốn dài hạn. Thị trường vốn cung cấp tài chính cho các khoản đầu tư dài hạn
của Chính phủ, chính quyền địa phương, các doanh nghiệp, các hộ gia đình và các
cá nhân. Thị trường vốn gồm thị trường vay nợ dài hạn và thị trường chứng khoán.
Chỉ khi nào có lợi tức thỏa đáng thì người sở hữu vốn mới bán quyền sử
dụng vốn của mình. Đây là một nguyên lý có tính chất nguyên tắc để thu hút, huy
động vốn trong cơ chế thị trường.
Thứ năm, đồng vốn có giá trị về mặt thời gian. Ở các thời điểm khác nhau thì
giá trị của vốn cũng khác nhau. Vì vậy, một vấn đề đặt ra là phải hiện tại hóa hoặc
tương lai hóa giá trị của vốn để làm cơ sở tính toán và phân tích hiệu quả đầu tư.
Thứ sáu, vốn phải được tích tụ và tập trung. Tích tụ vốn là việc tăng số vốn
cá biệt của từng doanh nghiệp, từng hộ sản xuất. Tập trung vốn là làm tăng quy mô

vốn đơn vị toàn xã hội. Có tích tụ vốn mới có tập trung vốn. Tập trung vốn sẽ biến
những tác dụng nhỏ bé của từng khoản vốn tích tụ cá biệt thành sức mạnh của
nguồn vốn đầu tư của toàn xã hội.
Trong giai đoạn hiện nay, nhiều quốc gia đặc biệt là các nước đang phát triển
đang đứng trước những thiếu hụt về vốn cho đầu tư phát triển, do chưa có tích luỹ
hoặc mức độ tích luỹ thấp. Nước ta đang ở thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, nhu cầu vốn rất lớn, nhưng vốn trong nước còn hạn hẹp nên phải huy động

9


và đa dạng hóa các nguồn vốn, đặt biệt là bổ sung nguồn vốn từ bên ngoài cho nhu
cầu đầu tư phát triển.
1.1.2. Cơ cấu và mối quan hệ giữa các nguồn vốn đầu tư
Nguồn vốn đầu tư phát triển của xã hội được hình thành trên cơ sở động viên
các nguồn lực trong nước và ngoài nước, thông qua các công cụ chính sách, cơ chế,
luật pháp. Nguồn vốn trong nước bao gồm: Nguồn vốn từ ngân sách nhà nước, nguồn
vốn tín dụng (tín dụng nhà nước và tín dụng ngân hàng), các nguồn vốn khác (vốn đầu
tư của các doanh nghiệp, các tổ chức và dân cư). Nguồn vốn ngoài nước gồm có: Đầu
tư trực tiếp nước ngoài, nguồn vốn vay, viện trợ và các nguồn vốn khác.
1.1.2.1. Nguồn vốn trong nước
 Nguồn vốn từ ngân sách nhà nước
Ngân sách nhà nước được đặc trưng bằng sự vận động của các nguồn tài
chính gắn liền với quá trình tạo lập và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước
nhằm thực hiện các chức năng của Nhà nước trên cơ sở luật định. Nó phản ánh các
quan hệ kinh tế giữa Nhà nước và các chủ thể khác trong xã hội, phát sinh khi Nhà
nước tham gia phân phối các nguồn tài chính quốc gia theo nguyên tắc không hoàn
trả trực tiếp là chủ yếu.
Nguồn vốn ngân sách nhà nước được hình thành từ tiết kiệm của ngân sách
nhà nước, đó là khoản chênh lệch giữa thu và chi của ngân sách nhà nước. Thu của

ngân sách nhà nước được thực hiện chủ yếu là từ thuế và một phần nhỏ là các khoản
thu từ phí, lệ phí và thu khác... Chi của ngân sách nhà nước bao gồm: Chi cho đầu
tư phát triển và chi thường xuyên cho quản lý hành chính, an ninh quốc phòng, sự
nghiệp văn hóa, y tế, giáo dục và đào tạo, nghiên cứu khoa học, thể dục thể thao và
xã hội, chi các sự nghiệp kinh tế... Xu hướng chi tiêu công của Nhà nước có chiều
hướng ngày càng tăng lên, vì Nhà nước ngày càng phải đảm nhận việc cung cấp
nhiều hàng hóa công hơn cho xã hội. Một quan hệ thường thấy trong cân đối ngân
sách quốc gia là có bội thu hoặc bội chi. Nếu bội thu ngân sách thì Nhà nước có
nguồn tiết kiệm để hình thành nên vốn đầu tư phát triển. Nhưng một vấn đề cần lưu
ý là có thể trong trường hợp bội chi ngân sách thì ngân sách nhà nước vẫn tiết kiệm

10


một phần để dành cho đầu tư phát triển, vì trong các khoản chi của Nhà nước có
khoản chi cho đầu tư phát triển. Điều này có nghĩa là muốn có tiết kiệm từ ngân
sách nhà nước thì tốc độ tăng chi đầu tư phát triển phải luôn lớn hơn tốc độ tăng chi
thường xuyên. Vấn đề không phải là bội chi ít hay nhiều mà là định hướng đầu tư.
Nhưng một thực tế là hầu hết các nước đang phát triển, tiết kiệm của Chính phủ
không phải là nguồn đầu tư chủ yếu, vì thường ngân sách của các nước này nguồn
thu rất hạn chế, mà nhu cầu chi tiêu thường xuyên lại cao, nên Nhà nước chỉ có thể
tập trung vốn đầu tư phát triển ở những lĩnh vực thật sự thấy cần thiết.
Muốn tăng nguồn tích lũy của ngân sách nhà nước phải phấn đấu tăng thu và
tiết kiệm chi. Vốn đầu tư phát triển qua kênh ngân sách nhà nước, được thể hiện qua
hai phần: Một phần vốn đầu tư xây dựng cơ bản tập trung của Nhà nước, một phần
từ nguồn kinh phí sự nghiệp kinh tế hàng năm.
 Nguồn vốn tín dụng nhà nước
Là hình thức vay nợ của Nhà nước thông qua kho bạc, được thực hiện chủ
yếu bằng cách phát hành trái phiếu Chính phủ, do Bộ Tài chính phát hành.
Trong trường hợp nhu cầu chi tiêu của ngân sách lớn, nhưng nguồn thu lại

không thể đáp ứng được. Để thỏa mãn nhu cầu này, Chính phủ thường cân đối ngân
sách bằng cách phát hành trái phiếu Chính phủ. Cũng có thể Chính phủ tiến hành
một dự án nào đó, nhưng không muốn sử dụng vốn ngân sách, thì dự án này có thể
được thực hiện bằng vốn vay dưới hình thức phát hành trái phiếu Chính phủ. Ở
nước ta hiện nay, trái phiếu Chính phủ có các hình thức sau đây:
- Tín phiếu kho bạc: Là loại trái phiếu có thời hạn dưới một năm, được phát
hành với mục đích bù đắp thiếu hụt tạm thời của ngân sách nhà nước, đồng thời tạo
thêm công cụ cho thị trường tiền tệ.
- Trái phiếu kho bạc: Là loại trái phiếu có thời hạn một năm trở lên, được
phát hành nhằm mục đích huy động vốn theo kế hoạch ngân sách nhà nước hàng
năm đã được Quốc hội thông qua.
- Trái phiếu đầu tư: Là loại trái phiếu Chính phủ có thời hạn một năm trở lên,
bao gồm: Trái phiếu huy động vốn cho từng công trình cụ thể thuộc diện ngân sách

11


đầu tư, theo kế hoạch đầu tư đã được Chính phủ phê duyệt nhưng chưa được bố trí
vốn ngân sách trong năm kế hoạch; trái phiếu huy động vốn cho Quỹ hỗ trợ phát triển
theo kế hoạch tín dụng đầu tư phát triển hàng năm được Chính phủ phê duyệt.
Đối với vốn đầu tư phát triển, hình thức tín dụng nhà nước có thể tác động
lên hai mặt: Chính phủ vay ngắn hạn tạo điều kiện cân đối ngân sách đảm bảo kế
hoạch đầu tư phát triển kinh tế và phát hành trái phiếu để đầu tư cho một số dự án
nào đó.
Hình thức tín dụng nhà nước tuy lãi suất không cao, nhưng có sự đảm bảo
của Nhà nước nên dễ huy động vốn. Nếu vận dụng tốt sẽ tạo ra nguồn vốn đầu tư
phát triển quan trọng.
 Nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước
Hiện nay, ở các quốc gia đều tồn tại khu vực kinh tế nhà nước (trong đó có
doanh nghiệp nhà nước) vì nhiều lý do khác nhau: Bảo đảm những ngành, lĩnh vực

then chốt, mũi nhọn, kinh doanh ở những lĩnh vực mà tư nhân không đủ sức, đủ vốn
hoặc không muốn làm vì hiệu quả kinh tế thấp, nhất là ở những lĩnh vực như: Giao
thông, thủy lợi, năng lượng, dịch vụ công...
Vốn đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước được hình thành từ rất nhiều
nguồn khác nhau: Là nguồn vốn do ngân sách nhà nước cấp cho các doanh nghiệp
nhà nước lúc mới hình thành doanh nghiệp, tuy nhiên nguồn vốn này có xu hướng
giảm đáng kể cả về tỷ trọng và số lượng; nguồn vốn thu hút thông qua phát hành
trái phiếu, cổ phiếu (đối với các doanh nghiệp nhà nước đã thực hiện cổ phần hóa);
tiền khấu hao cơ bản của tài sản cố định, lợi nhuận tích lũy được phép để lại doanh
nghiệp...
 Nguồn vốn tín dụng ngân hàng
Các ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính trung gian khác như công
ty tài chính, quỹ tín dụng nhân dân, công ty bảo hiểm,... có vai trò rất quan trọng
trong việc huy động vốn đầu tư phát triển. Các tổ chức này có ưu điểm là có thể
thỏa mãn được mọi nhu cầu về vốn của các pháp nhân và thể nhân trong nền kinh
tế, nếu những đối tượng vay vốn chấp hành đầy đủ những quy chế tín dụng. Sở dĩ

12


các tổ chức này có thể thu hút, huy động nguồn vốn bằng tiền nhàn rỗi trong nền
kinh tế với khối lượng lớn, bởi vì đã sử dụng dưới nhiều hình thức huy động khác
nhau rất phong phú và đa dạng. Mặt khác, thời hạn cho vay cũng linh hoạt (bao gồm
vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn), tùy thuộc vào nhu cầu của người đi vay. Do
nguồn vốn của các tổ chức này huy động được có thời gian nhàn rỗi cũng khác nhau
(tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn) và là nguồn vốn bằng tiền nên có thể điều
chỉnh giữa các nguồn vốn với nhau để đáp ứng nhu cầu về thời gian của người đi
vay; phạm vi cho vay cũng rộng. Bởi vậy, trong lĩnh vực đầu tư phát triển thì vấn đề
huy động vốn qua tín dụng ngân hàng và các tổ chức tài chính trung gian là hình
thức không thể thiếu được trong nền kinh tế thị trường.

 Nguồn vốn đầu tư của khu vực dân doanh
Nguồn vốn đầu tư của khu vực dân doanh được hình thành từ nguồn tiết
kiệm của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và tiết kiệm của dân cư:
- Đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh (công ty cổ phần, công ty trách
nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp tư nhân,...): Lợi nhuận sau thuế của các doanh nghiệp
này sẽ được chia làm hai phần: Một phần chia cho các cổ đông và một phần để lại
cho doanh nghiệp. Khoản lợi nhuận không chia này là khoản tiết kiệm của các doanh
nghiệp để hình thành nên nguồn vốn đầu tư. Bên cạnh đó, để tiến hành đầu tư các
doanh nghiệp ngoài quốc doanh sử dụng thêm cả phần vốn khấu hao tài sản cố định.
Ngoài ra, các doanh nghiệp cũng có thể vay tín dụng ngân hàng hoặc phát
hành cổ phiếu đối với công ty cổ phần và phát hành trái phiếu để thu hút vốn đầu tư
phát triển sản xuất kinh doanh, vay lẫn nhau giữa các doanh nghiệp có vốn tạm thời
nhàn rỗi, vay thông qua mua hàng trả chậm và vay thương mại. Theo xu hướng phát
triển hiện nay, nguồn vốn này có chiều hướng gia tăng vì ngày càng có nhiều doanh
nghiệp ngoài quốc doanh ra đời, dưới nhiều hình thức, quy mô, lĩnh vực hoạt động
khác nhau và phát triển với tốc độ tương đối nhanh.
Trong giai đoạn hiện nay ở nước ta, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh
thường được đầu tư với quy mô doanh nghiệp vừa và nhỏ, thích hợp với điều kiện
và hoàn cảnh cụ thể của từng doanh nghiệp, nhưng lại rất linh hoạt và hiệu quả

13


trong hoạt động sản xuất kinh doanh, đã có những đóng góp quan trọng vào sự
nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.
- Tiết kiệm của dân cư: Phụ thuộc vào thu nhập và chi tiêu của mỗi hộ gia
đình. Thu nhập của các hộ gia đình lại phụ thuộc vào thu nhập có thể sử dụng như
tiền lương, tiền công, thu nhập từ sản xuất kinh doanh và các khoản thu nhập khác
(vay, mượn...).
Một khi thu nhập nhỏ hơn mức chi tiêu sẽ không có tiết kiệm và phải vay

mượn thêm để chi tiêu. Khi thu nhập có thể sử dụng vừa bằng mức chi tiêu thì tiết
kiệm bằng không. Nếu thu nhập lớn hơn mức chi tiêu thì mới có tiết kiệm. Một xu
hướng chung là các hộ gia đình có mức thu nhập cao hơn sẽ tiết kiệm nhiều hơn
(mức tiết kiệm ở thành thị lớn hơn ở nông thôn) và những nước phát triển cũng có
tỷ lệ tiết kiệm cao hơn những nước kém phát triển.
Đối với nước ta hiện nay, do thu nhập của dân cư ở mức thấp, ở nông thôn tỷ
lệ hộ đói nghèo còn cao, nên mức tiết kiệm trong dân cư rất thấp, đây là vấn đề khó
khăn trong việc thu hút vốn đầu tư. Tuy nhiên, theo đà phát triển của đất nước, thu
nhập của dân cư ngày càng tăng, thì nguồn vốn này sẽ có xu hướng tăng lên.
Trong nền kinh tế mức tiết kiệm và mức đầu tư mà ta mong muốn không
phải ngẫu nhiên bằng nhau, bởi vì nói chung tiết kiệm và đầu tư do những người
khác nhau thực hiện và vì những lý do rất khác nhau: Đầu tư chủ yếu do các doanh
nghiệp tiến hành bằng nguồn vốn tích lũy, bằng nguồn vốn vay ngân hàng, phát
hành cổ phiếu, trái phiếu... Ngược lại, tiết kiệm chủ yếu do các hộ gia đình, các cá
nhân, các quỹ tập thể (hưu trí, bảo hiểm). Cá nhân mong muốn tiết kiệm vì nhiều lý
do: Đề phòng khó khăn, dự phòng tài chính cho tương lai, lãi suất cao thúc đẩy tiết
kiệm hoặc do thói quen, tập quán... Trong khi đó thị trường không phối hợp được
nhanh chóng giữa tiết kiệm và đầu tư: Nó không tự động chuyển những thay đổi
trong khoản tiết kiệm mong muốn của người tiêu thụ thành những thay đổi trong
đầu tư của người kinh doanh. Tức là, khoản tiết kiệm chỉ được đưa ra đầu tư khi
người đầu tư thấy có lợi.

14


Khoảng cách giữa tiết kiệm và đầu tư đòi hỏi Nhà nước phải có vai trò điều
tiết vĩ mô thích hợp mới có thể có một chính sách huy động vốn có hiệu quả. Cho
đến nay, hầu hết các nhà kinh tế và hoạch định chính sách đều nhận thấy rằng có tiết
kiệm mới có đầu tư. Để tăng nguồn vốn trong nước thì phải kích thích tăng trưởng
kinh tế để tăng tiết kiệm và đầu tư. Tăng trưởng kinh tế là điều kiện cần để có vốn

đầu tư. Điều này rất quan trọng vì nếu toàn bộ số thu nhập đều sử dụng cho tiêu
dùng thì sẽ không có nguồn tiết kiệm. Song có tiết kiệm mà không bỏ vào đầu tư lại
đem cất trữ thì nguồn tiết kiệm chỉ là nguồn tiềm năng, nguồn vốn "chết" mà thôi.
Đối với những nước đang phát triển như nước ta, nguồn vốn trong nước chưa
thể thỏa mãn nhu cầu cho đầu tư phát triển, nhất là trong điều kiện hạ tầng kinh tế xã hội còn thấp như hiện nay. Để tăng cường hoạt động đầu tư, góp phần thúc đẩy
nền kinh tế đất nước ngày càng phát triển thì điều quan trọng hàng đầu là phải thực
hiện chính sách nền kinh tế mở, trên cơ sở cân nhắc các điều kiện và khả năng có
liên quan đến mối quan hệ kinh tế đối ngoại, phải có sự hòa nhập về không gian
kinh tế, xóa bỏ hàng rào địa lý. Có như vậy mới thực hiện thắng lợi các mục tiêu
phát triển kinh tế và các yêu cầu về đầu tư phát triển.
Với tình hình thực tế ở nước ta cho thấy, việc khai thác các nguồn vốn trong
nước có thể nhiều khi còn gặp khó khăn, thì nguồn vốn ngoài nước là rất quan trọng
và hết sức cần thiết.
1.1.2.2. Nguồn vốn ngoài nước
Trong giai đoạn đầu của các nước đang phát triển mức thu nhập còn thấp nên
khả năng tiêu dùng cũng như khả năng tích lũy ở mức thấp. Trong khi đó lại cần
khoản vốn đầu tư lớn để hoàn chỉnh kết cấu cơ sở hạ tầng và xây dựng các công
trình quan trọng nhằm phát triển kinh tế. Mặt khác, ở giai đoạn này hàng hóa xuất
khẩu chủ yếu là hàng nông sản và công nghiệp tiêu dùng có giá trị chưa cao. Trong
khi đó hàng hóa nhập khẩu là những máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ hiện
đại có giá trị cao, nên cán cân thanh toán thường bị thâm hụt. Các nước đang phát
triển luôn phải đối mặt với một vấn đề thiếu hụt ngoại tệ.

15


Nguồn vốn ngoài nước góp phần tích cực để giải quyết hai vấn đề nan giải
nêu trên, đồng thời với xu hướng quốc tế hóa, toàn cầu hóa đời sống kinh tế - xã
hội, quan hệ giao lưu kinh tế và khoa học kỹ thuật phát triển sôi động đã trở thành
nhu cầu bức xúc của tất cả các nước trên thế giới. Mỗi nước dù nhỏ hay lớn đều có

thể và cần phải tham gia vào phân công lao động trong khu vực và quốc tế để tận
dụng những khả năng to lớn của nền kinh tế thế giới về di chuyển các luồng tài
chính, mở rộng thị trường, chuyển giao công nghệ, kinh nghiệm quản lý... từ đó
xuất hiện nhu cầu đầu tư và nhu cầu nhận đầu tư.
Ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, vấn đề thu hút các nguồn vốn ngoài nước
và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn này để phát triển kinh tế, thực hiện sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là hết sức quan trọng và cần thiết. Nguồn
vốn đầu tư ngoài nước tại Việt Nam hiện nay gồm các nguồn chủ yếu sau:
 Vốn thuộc các khoản vay nước ngoài của Chính phủ và các nguồn vốn hỗ
trợ phát triển chính thức (ODA)
Đây là nguồn vốn hết sức quan trọng, vì nguồn vốn vay lớn, lãi suất không
cao, có một số ưu đãi, do vậy thường đầu tư vào các lĩnh vực kết cấu hạ tầng, xóa đói
giảm nghèo, phát triển nông nghiệp, nông thôn, văn hóa, giáo dục, đô thị, đây là
những lĩnh vực khả năng thu hồi vốn chậm, ít có khả năng sinh lời,... Nguồn vốn này
được quản lý thống nhất theo Luật Ngân sách Nhà nước và theo hướng dẫn quản lý
vốn nước ngoài của Chính phủ và các bộ, ngành. Mặc dù tình hình kinh tế của thế
giới còn gặp nhiều khó khăn, nhưng nhờ chính sách đối ngoại tốt, mà các nhà tài trợ
nước ngoài vẫn tiếp tục ủng hộ Việt Nam. Kể từ khi nối lại quan hệ với các nhà tài
trợ từ tháng 11.1993, Việt Nam đã nhận được sự cam kết viện trợ vốn ODA của
nhiều quốc gia và tổ chức quốc tế. Từ năm 1993 đến cuối năm 2014, tổng số vốn
ODA được các nhà tài trợ cam kết dành cho VN đạt tới hơn 89,5 tỉ USD, tổng vốn đã
ký kết đạt 73,68 tỷ USD bình quân 3,5 tỷ USD/năm, vốn ODA và vốn vay ưu đãi giải
ngân đạt 53,89 tỷ USD, chiếm trên 73,2% tổng vốn ODA đã ký kết [28].
 Vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI)

16


Là những khoản đầu tư do những tổ chức và cá nhân người nước ngoài đưa
vào một nước để sản xuất kinh doanh hoặc để góp vốn liên doanh với các tổ chức,

cá nhân trong nước theo quy định của pháp luật về đầu tư tại nước đó. Đây là nguồn
vốn lớn có ý nghĩa quan trọng, vì một mặt cũng giống như nguồn vốn ODA, vốn
đầu tư trực tiếp của nước ngoài tạo điều kiện cho nước sở tại có thể thu hút được kỹ
thuật và công nghệ tiến tiến, kinh nghiệm quản lý kinh doanh của nước ngoài. Mặt
khác, FDI gắn trách nhiệm bảo toàn và phát triển vốn với bản thân phía nước ngoài,
về phía chủ nhà không làm tăng gánh nặng nợ nước ngoài.
Hoạt động thu hút FDI tại Việt Nam thời gian qua đã đóng góp tích cực vào
việc thực hiện mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. FDI là
nguồn vốn rất quan trọng bổ sung cho vốn đầu tư phát triển, đóng góp vào sự tăng
trưởng kinh tế, là một trong những điều kiện quyết định đến sự thành công của sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
 Viện trợ của các tổ chức phi chính phủ (NGO)
Trước đây, viện trợ của các tổ chức phi Chính phủ chủ yếu là cho các nhu
cầu nhân đạo như: Cung cấp thuốc men, lương thực, quần áo cho nạn nhân bị thiên
tai, dịch bệnh,... Hiện nay, hình thức viện trợ này đã thay đổi chính sách chuyển dần
từ viện trợ nhân đạo sang hỗ trợ cho việc phát triển các công trình cơ sở hạ tầng có
quy mô vừa và nhỏ. Nếu chúng ta biết tranh thủ, khai thác các dự án của NGO thì
có tác dụng tốt đối với các công trình có quy mô vừa và nhỏ ở nông thôn, tạo điều
kiện thúc đẩy nông nghiệp phát triển.
 Vốn của những người Việt Nam sinh sống ở nước ngoài
Có trên 2 triệu người Việt Nam hiện đang sinh sống ở nước ngoài, với lực
lượng đông đảo đội ngũ trí thức, nhà khoa học trong đó có nhiều người là chuyên
gia giỏi về các lĩnh vực khoa học và công nghệ, quản lý kinh doanh,... Đây là một
tiềm năng lớn cần phải được quan tâm khai thác. Riêng về khối lượng ngoại tệ,
hàng hóa gửi từ nước ngoài về nước hàng năm có hàng tỷ USD, đây cũng là một
nguồn vốn lớn, góp phần không nhỏ vào việc đáp ứng nhu cầu về vốn đầu tư ngày
càng tăng lên trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

17



1.1.3. Đặc điểm của vốn đầu tư
Vốn đầu tư phát triển nông nghiệp ở nước ta có những đặc trưng bắt nguồn
từ đặc điểm của nền sản xuất nông nghiệp trong nước, đó là:
- Tính chất sản xuất nhỏ, tự cung, tự cấp và đầu tư phân tán. Kinh tế nông
nghiệp Việt Nam chủ yếu là sản xuất nhỏ, tự cấp, tự túc, ruộng đất manh mún và
chưa chuyên môn hóa. Cơ cấu sản xuất chưa định hình rõ nét, đang từng bước biến
đổi theo hướng thị trường. Các khoản vốn đầu tư nhỏ, thiếu đồng bộ và thiếu tầm
nhìn dài hạn, phần lớn các hộ đầu tư nhờ vào nguồn vốn tự có của mình. Các chủ
thể sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn phần lớn là các hộ gia đình, sản xuất
kinh doanh theo phương thức truyền thống, đa số chưa được đào tạo về chuyên môn
quản lý, kỹ thuật. Hầu hết các hộ, cơ sở sản xuất tự bỏ vốn đầu tư mua sắm vật tư
sản xuất như: Giống, phân bón, thuốc, trả công lao động, cải tạo đồng ruộng, xây
dựng chuồng trại chăn nuôi,… Đặc điểm này hạn chế quan hệ với các tổ chức tín
dụng và liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp ở nông thôn.
- Tính chất mùa vụ của sản xuất đã ảnh hưởng đến nhu cầu vốn đầu tư và tiết
kiệm. Nhu cầu đầu tư lao động theo mùa vụ và quy mô sản xuất của từng hộ, trang
trại, cơ sở chế biến,... Các hộ cần tiền đầu tư vào đầu vụ mới và thời kỳ chăm sóc
cây trồng và chỉ có các khoản thu vào cuối vụ.
- Tính rủi ro cao, hiệu quả đầu tư thấp và chưa ổn định. Hoạt động sản xuất
nông nghiệp diễn ra ở vùng nông thôn rộng lớn, điều kiện tự nhiên khó khăn, lệ
thuộc vào thời tiết, kết cấu hạ tầng chưa phát triển; sản phẩm mang tính mùa vụ, dễ
hư hỏng, dễ bị ảnh hưởng của dịch bệnh,…. Từ khi nền nông nghiệp Việt Nam
chuyển sang sản xuất hàng hóa gắn với hội nhập kinh tế quốc tế, thì càng phụ thuộc
vào sự thay đổi thường xuyên của quan hệ cung - cầu, giá cả nông sản trên thị
trường quốc tế. Những yếu tố này làm cho các hoạt động sản xuất kinh doanh ở
nông thôn và sản xuất nông nghiệp kém hấp dẫn đối với các nhà đầu tư. Mặt khác,
sản xuất nông, lâm nghiệp, thuỷ sản thường có tỷ suất lợi nhuận thấp, mức thu nhập
và tiết kiệm không cao nên nguồn vốn đầu tư thường thấp hơn các khu vực khác của
nền kinh tế.


18


- Tính gắn kết giữa hoạt động sản xuất nông, lâm nghiệp, thuỷ sản và các
khâu bảo quản, chế biến nông sản chưa cao. Sản xuất nông, lâm nghiệp, thuỷ sản là
một chuỗi các hoạt động liên kết với nhau từ khâu chuẩn bị các yếu tố đầu vào đến
thu hoạch, bảo quản, tiêu thụ. Vì vậy, có lúc nhu cầu vốn rất cao nhưng có lúc vốn
lại nhàn rỗi và phân tán ở nhiều chủ thể tham gia quá trình này. Do đó, cần có sự
điều chỉnh mức cung ứng vốn để giúp giải tỏa phần vốn dư thừa và cung ứng kịp
thời phần vốn còn thiếu.
Theo yêu cầu của sản xuất hàng hóa, nhu cầu về vốn của các hộ, các nông,
lâm, ngư trại rất lớn mà bản thân họ không thể tự giải quyết được. Thực tế ở các
vùng phát triển sản xuất hàng hoá cho thấy, vốn tín dụng cho các hộ sản xuất nông,
lâm nghiệp - thủy sản thường chiếm từ 50-60% tổng dư nợ của hệ thống Ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Các hộ đã có thể sử dụng vốn vay cùng với
vốn tự có đầu tư thâm canh, tăng năng suất, tăng giá trị cây trồng vật nuôi; nhiều hộ,
trang trại đã mạnh dạn ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, chuyển đổi cây trồng
vật nuôi, nhờ đó sản lượng hàng hóa nước ta không ngừng tăng trong những năm
vừa qua.
1.1.4. Vai trò của vốn đầu tư
Vốn đầu tư có vai trò quan trọng đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế,
nhất là đối với các nước đang phát triển như Việt Nam. Có thể thấy rõ thông qua mô
hình kinh tế Harrod - Domar, mô hình tăng trưởng kinh tế rất nổi tiếng được sử
dụng khá phổ biến trên thế giới để phân tích sự phát triển kinh tế:
Mô hình này được hai nhà kinh tế học Roy Harrod và Evsey Domar nêu ra từ
những năm 1940 của thế kỷ XX - đã chỉ ra mối quan hệ giữa hệ số gia tăng tư bản đầu ra (ICOR) và tỷ lệ đầu tư như sau:

g 


s
k

Trong đó:
g: Tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế (GDP)

19


s: Tỷ lệ đầu tư của nền kinh tế (Với giả định toàn bộ số tiền tiết kiệm chỉ
dành cho đầu tư).
k: Hệ số gia tăng tư bản - đầu ra (ICOR).
Hệ số ICOR chỉ ra rằng: Để làm ra 1 đồng sản lượng đầu ra thì cần bao nhiêu
đồng đầu vào.
Như vậy, theo mô hình Harrod - Domar ở phương trình trên thì: Tốc độ tăng
trưởng của nền kinh tế tỷ lệ thuận với tỷ lệ tích luỹ của nền kinh tế và tỷ lệ nghịch
với hệ số ICOR. Điều đó có nghĩa là để duy trì được tốc độ tăng trưởng cao và lâu
dài của nền kinh tế cần phải giữ vững và gia tăng tỷ lệ đầu tư và khống chế ở mức
chấp nhận được đối với hệ số gia tăng vốn. Hệ số ICOR thường gắn chặt với hiệu
quả đầu tư, nếu hiệu quả đầu tư thấp hay nói cách khác là sử dụng các nguồn vốn đã
thu hút được không có hiệu quả, sẽ làm cho ICOR tăng theo chiều hướng tiêu cực
và làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế không cao, không bền vững.
Mặc dù, trên thực tế tốc độ tăng trưởng kinh tế, đặc biệt là chất lượng tăng
trưởng còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhưng công thức này cũng phản ánh
được vai trò và hiệu quả của vốn đầu tư.
Vai trò của thu hút vốn đầu tư đối với phát triển nông nghiệp được thể hiện
cụ thể qua một số tác động chính của nó đối với sự phát triển kinh tế - xã hội nói
chung cũng như đối với phát triển nông nghiệp nói riêng, như sau:
Thứ nhất, Giải quyết tình trạng thiếu vốn cho đầu tư phát triển của nền kinh
tế quốc dân nói chung, nông nghiệp nói riêng.

Thứ hai, vốn để đầu tư kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn theo yêu cầu
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn.
Thứ ba,vốn đầu tư vào khoa học - công nghệ tạo ra động lực để nâng cao khả
năng cạnh tranh, phát triển một nền nông, lâm nghiệp, thuỷ sản chất lượng cao và
bền vững, gắn với bảo vệ môi trường sinh thái.
Thứ tư, vốn đầu tư góp phần phát triển nguồn nhân lực, tạo thêm nhiều việc
làm mới cho nền kinh tế và nâng cao thu nhập cho người lao động.

20


1.2. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, NỘI DUNG THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ
1.2.1. Khái niệm thu hút vốn đầu tư
Thu hút vốn đầu tư là các hoạt động, biện pháp, chính sách của các chủ thể
quản lý ở các quốc gia, địa phương nhằm xúc tiến, kêu gọi, tạo điều kiện thuận lợi
để các nhà đầu tư bỏ vốn thực hiện các dự án đầu tư trong các lĩnh vực mà cả nhà
đầu tư và các chủ thể của chính sách thu hút vốn đầu tư đều muốn thực hiện. Thu
hút vốn đầu tư có nghĩa là làm gia tăng sự chú ý và quan tâm của các nhà đầu tư qua
sự phát triển và xúc tiến các dự án đầu tư cụ thể có thể đem lại những lợi ích cho
các nhà đầu tư.
Thu hút vốn đầu tư là hoạt động làm gia tăng sự chú ý và quan tâm của các
nhà đầu tư nhằm khai thác, huy động các nguồn lực đầu tư để đáp ứng nhu cầu đầu
tư cho phát triển kinh tế. Thu hút vốn đầu tư gồm tổng hợp các cơ chế, chính sách
của Nhà nước biểu hiện thông qua các quy định, điều kiện, khung khổ pháp lý, kết
cấu hạ tầng kỹ thuật - xã hội, các nguồn tài nguyên, môi trường,…để thu hút vốn,
khoa học công nghệ, kinh nghiệm quản lý từ nhà đầu tư vào sản xuất, kinh doanh.
Thu hút vốn đầu tư là tổng thể các biện pháp, cách thức, các chính sách mà chính
quyền lựa chọn sử dụng nhằm gia tăng số lượng nhà đầu tư, gia tăng số lượng các
dự án mới hoặc các dự án mở rộng đầu tư vào một ngành nghề, lĩnh vực hoặc một
vùng, địa phương.

Với nghĩa như vậy, chúng ta có thể định nghĩa: Thu hút vốn đầu tư vào nông
nghiệp ở địa phương (tỉnh) là việc chính quyền tỉnh tổ chức thực hiện tổng thể các
biện pháp, chính sách nhằm gia tăng sự chú ý, quan tâm và hiện thực hóa hành động
để các nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp của địa phương (tỉnh).
1.2.2. Đặc điểm của thu hút vốn đầu tư
Một là, thu hút vốn đầu tư vào nông nghiệp có đối tượng rộng. Sản xuất nông
nghiệp chủ yếu được thực hiện bởi người sản xuất cá nhân, do đó, tính phân tán
trong sản xuất khá cao.
Hai là, thu hút vốn đầu tư vào nông nghiệp đòi hỏi các biện pháp mạnh. Do
đặc điểm rủi ro cao trong sản xuất cho nên tỷ suất lợi nhuận ngành nông nghiệp

21


×