Tải bản đầy đủ (.pdf) (49 trang)

Cải cách kinh tế xã hội ở liên bang nga dưới thời tổng thống enxim và tác động của nó đến vị thế của liên bang nga giai đoạn 1992 1998

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (891.34 KB, 49 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC

LƢỜNG THỊ TỈNH

CẢI CÁCH KINH TẾ - XÃ HỘI Ở LIÊN BANG NGA DƢỚI THỜI
TỔNG THỐNG ENXIM VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ
ĐẾN VỊ THẾ CỦA LIÊN BANG NGA GIAI ĐOẠN 1992 - 1998

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

SƠN LA, NĂM 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC

LƢỜNG THỊ TỈNH

CẢI CÁCH KINH TẾ - XÃ HỘI Ở LIÊN BANG NGA DƢỚI THỜI
TỔNG THỐNG ENXIM VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ
ĐẾN VỊ THẾ CỦA LIÊN BANG NGA GIAI ĐOẠN 1992 - 1998

Chuyên ngành: Lịch Sử Thế Giới

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn: ThS. Điêu Thị Vân Anh

SƠN LA, NĂM 2015



LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khoá luận này, em xin gửi lời cảm ơn trân thành tới cô
giáo - Th.s Điêu Thị Vân Anh người luôn giúp đỡ, chỉ bảo tận tình trong suốt
quá trình làm khoá luận.
Qua đây em cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các thầy cô giáo trong
khoa Sử - Địa trường Đại học Tây Bắc và tập thể lớp K52 Đại học sư phạm Lịch
sử đã giúp đỡ em trong quá trình tìm kiếm tài liệu để hoàn thành khoá luận.
Khoá luận hoàn thành không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận
được sự góp ý và bổ sung của thầy cô và các bạn !
Em xin chân thành cảm ơn !
Sơn La, tháng 05 năm 2015
Ngƣời thực hiện
Lƣờng Thị Tỉnh


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .............................................................................. 2
3. Đối tượng nghiên cứu ..................................................................................... 4
4. Phạm vi nghiên cứu ........................................................................................ 4
5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................ 4
6. Bố cục của khoá luận ...................................................................................... 4
NỘI DUNG .......................................................................................................... 5
CHƢƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ HOÀN CẢNH, MỤC TIÊU, BIỆN PHÁP
VÀ ĐƢỜNG LỐI CẢI CÁCH KINH TẾ - XÃ HỘI LIÊN BANG NGA GIAI
ĐOẠN (1992 - 1998). ........................................................................................ 5
1. Bối cảnh lịch sử .............................................................................................. 5
1.1. Bối cảnh quốc tế .......................................................................................... 5
1.2. Bối cảnh trong nước .................................................................................... 7

2. Đường lối, mục tiêu và biện pháp tiến hành cải cách kinh tế - xã hội Liên bang
Nga giai đoạn 1992 – 1998............................................................................... 12
2.1. Đường lối cải cách..................................................................................... 12
2.2. Mục tiêu và biện pháp tiến hành cải cách.................................................. 17
CHƢƠNG 2: QUÁ TRÌNH CẢI CÁCH KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA LIÊN BANG NGA
GIAI ĐOẠN (1992 – 1998) VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐẾN VỊ THẾ CỦA
LIÊN BANG NGA.......................................................................................... 20
1. Quá trình cải cách kinh tế ............................................................................. 20
1.1. Giai đoạn 1992 - 1994 ............................................................................... 20
1.1.1. Cải cách tài chính - tiền tệ....................................................................... 20
1.1.2. Cải cách thương nghiệp .......................................................................... 21
1.1.3. Cải cách chế độ sở hữu ........................................................................... 24


1.2. Giai đoạn 1994 -1998 ................................................................................ 26
1.2.1. Cải cách tài chính tiền tệ......................................................................... 26
1.2.2. Cải cách kinh tế đối ngoại ...................................................................... 27
1.2.3. Cải cách chế độ sở hữu thông qua tư nhân hoá ........................................ 30
2. Cải cách xã hội ở Liên bang Nga (1992 - 1998)…………………………….31
2.1. Chính sách về giáo dục .............................................................................. 32
2.2. Các chính sách xã hội khác......................................................................... 33
3. Tác động của công cuộc cải cách kinh tế - xã hội giai đoạn (1992 - 1998) đến
vị thế của Liên bang Nga .................................................................................. 34
3.1. Tác động tích cực ...................................................................................... 34
3.2. Tác động tiêu cực ...................................................................................... 37
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 41
TÀI LIỆU THAM KHẢO


PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Lịch sử đã ghi nhận Liên Xô từng là siêu cường thế giới, trong suốt 7 thập
kỷ tồn tại của mình đã tạo ra tiềm lực kinh tế, quân sự, khoa học khổng lồ.
Tháng 12/1991 Liên bang các nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xô Viết chấm
dứt sự tồn tại của mình với tư cách là một thực thể địa - chính trị thống nhất, các
nước thành viên trở thành các quốc gia độc lập. Nước Nga sau khi Liên Xô tan
rã chính thức có tên “Liên bang Nga”. Đây không đơn thuần chỉ là sự thay đổi
tên gọi mà là sự thay đổi cả một thể chế chính trị, kinh tế của một quốc gia: “Hai
lần trong một kỷ nguyên cùng một lúc đã xảy ra hai sự biến đổi hệ thống cả về
kinh tế lẫn chính trị”. Khi nghiên cứu về Liên bang Nga trong thập kỷ cuối của
thế kỷ XX, nhiều nhà nghiên cứu đã khẳng định: Liên bang Nga đã đánh mất
mình từ tiềm lực kinh tế, chính trị, quân sự đến vị thế thế quốc tế. Sự ra đời thay
thế vai trò của Liên bang Xô viết trên trường quốc tế đã phải đối mặt với hàng
loạt thách thức của hoàn cảnh trong nước cũng như quốc tế đặt ra. Trong đó, vấn
đề lựa chọn con đường, biện pháp thúc đẩy cải cách kinh tế, khắc phục những
yếu kém của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung; giải quyết các vấn đề xã hội và
ồn định đời sống nhân dân có ý nghĩa hết sức quan trọng để đưa Liên bang Nga
hoà nhập với xu thế phát triển chung của thế giới, đẩy lùi khủng hoảng kinh tế
và khôi phục, nâng cao tiềm lực, vị thế của Liên bang Nga trên trường quốc tế.
Trong bối cảnh lịch sử đó, với cương vị là người đứng đầu, sau khi lên cầm
quyền được một năm Tổng thống B.Enxin đã tiến hành cuộc cải cách toàn diện
nhưng trọng tâm là cải cách kinh tế - xã hội từ năm 1992 đến năm 1998.
Mọi sự vận động từ vật chất đến tinh thần, từ kinh tế đến xã hội luôn là một
quá trình liên tục, nối tiếp và kế thừa nhau. Vì vậy, muốn hiểu sâu sắc tình hình
kinh tế - xã hội, bộ mặt của Liên bang Nga hôm nay thì không thể không nghiên
cứu và tìm hiểu các đặc trưng, bản chất và những bước thăng trầm trong quá
trình phát triển của Liên bang Nga trong quá khứ. Đặc biệt là bộ mặt của Liên
bang Nga trong cuộc cải cách của Tổng thống B.Enxin trong giai đoạn (19921998), mặc dù cải cách thất bại nhưng nó cũng có những đóng góp nhất định và
1



để lại bài học quý giá cho các cuộc cải cách sau này. Đồng thời, nó cũng là cơ sở
để đánh giá đầy đủ về Liên bang Nga hiện nay và dự báo xu thế phát triển của
quốc gia này trong tương lai.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Do tầm quan trọng đặc biệt của Liên bang Nga đối với toàn bộ nền kinh tế,
chính trị và an ninh thế giới, ở mọi thời đại Nga luôn là tâm điểm chú ý của các
quốc gia nói chung và giới khoa học nói riêng. Vì vậy, công cuộc cải cách của
Liên bang Nga (1992- 1998) luôn được chú ý ở mọi lĩnh vực, mọi góc độ cải
cách, đặc biệt trong lĩnh vực cải cách kinh tế - xã hội. Đứng ở nhiều góc độ,
phương diện, lập trường khác nhau nên xuất hiện nhiều quan điểm đánh giá đa
dạng, phong phú, thậm chí trái ngược nhau của các học giả trong và ngoài nước.
Cần khẳng định rằng có rất nhiều những nghiên cứu, những bài báo, bài
viết…về công cuộc cải cách kinh tế - xã hội của Liên bang Nga thời B.Enxin
(1992-1998), phần lớn là những bài viết nằm trong các báo, tạp chí: Nghiên cứu
Châu Âu, Thông tin khoa học xã hội, Những vấn đề kinh tế thế giới, Các vấn đề
quốc tế... Tiêu biều như:
+ PTS. Kim Văn Chính, Tổng luận phân tích: “Một số vấn đề cải cách kinh
tế ở Nga và những bài học kinh nghiệm”, Trung tâm Thông tin khoa học và
công nghệ quốc gia, Hà nội năm 1994. Tác phẩm này đã trình bày những vấn đề
cơ bản của công cuộc cải cách kinh tế ở Liên bang Nga (1992 - 1994) về biện
pháp tiến hành “liệu pháp sốc”, về thực trạng kinh tế Liên bang Nga và nguyên
nhân của thực trạng đó. Tuy nhiên nội dung của các vấn đề xem xét, đánh giá
mới chỉ dừng lại ở thời điểm 1994.
+ Tác phẩm “Nước Nga mười năm sóng gió”, NXB Thông tấn, Hà Nội,
2002. Nội dung chủ yếu của tác phẩm gắn liền với hoạt động chính trị trên
cương vị Tổng thống của B.Enxin. Tác phẩm cũng đề cập đến chủ trương chính
sách của nước Nga trong 10 năm.
+ Tài liệu: “Nước Nga thời kinh tế thị trường”, thư viện quân đội sao lục,
năm 1999. Tư liệu này cung cấp khá đẩy đủ những thông tin về thực trạng kinh


2


tế Nga từ 1991 đến 1998 và tác động của cuộc cải cách kinh tế thị trường đối với
đời sống xã hội Nga.
+ Tài liệu về các nước SNG, là tập tài liệu tổng hợp phục vụ nghiên cứu,
bàn về hai con đường cải cách ở Nga và Trung Quốc. Từ đó rút ra điểm chung,
nguyên nhân thành công, thất bại ở hai nước.
+ TS Tô Thanh Toàn, chuyên nghiên cứu về kinh tế Liên bang Nga với
những tác phẩm tiêu biểu: “Về công cuộc cải tổ cơ cấu kinh tế ở Nga trong
mười năm qua (1992 - 2002”, Tạp chí những vấn đề kinh tế thế giới, số 6.2002
với các nội dung cơ bản: quá trình chuyển đổi cơ cấu sở hữu doanh nghiệp ở
Nga; chính sách tài chính tiền tệ của Chính phủ Nga trong quá trình cải cách;
chính sách đổi mới cơ cấu và thu hút đầu tư nước ngoài ở Nga.
+ PTS. Nguyễn Quang Thuấn, với các bài viết tiêu biểu “Một số vấn đề về
tư nhân hoá ở Liên bang Nga và Châu Âu”, Nghiên cứu Châu Âu, số 3 và
4.1997. Nội dung bài viết đề cập khá sâu về khái niệm tư nhân hoá, quá trình và
những kết quả bước đầu của công cuộc tư nhân hoá ở Nga và Đông Âu.
“Tư nhân hoá ở Liên bang Nga - chặng đường đầy chông gai”, Nghiên
cứu Châu Âu, số 5.1997. Nội dung chủ yếu viết về các bước tiến hành tư nhân
hoá ở Nga và kết quả của nó.
+ GS. Nguyễn Điền, Tập trung mối quan tâm về vấn đề nông nghiệp với
bài viết tiêu biểu: “Nông nghiệp Liên bang Nga hiện nay”, Nghiên cứu Châu
Âu, số 2.1995.
+ Vấn đề cải cách giáo dục được các tác giả: Bùi Hiền trong Nghiên cứu
Châu Âu số 1. 1999 và Trần Phương Hoa trong nghiên cứu Châu Âu số 5.1997
và số 4.1998 nghiên cứu khá tỉ mỉ.
Với các công trình trên, em đã tìm hiểu, nghiên cứu và nhận thấy hầu hết
đây là những bài nghiên cứu riêng rẽ chưa có hệ thống về toàn bộ công cuộc cải

cách kinh tế - xã hội Liên bang Nga dưới thời tổng thống B.Enxin. Trên cơ sở
nghiên cứu, chọn lọc và tham khảo những công trình nghiên cứu về Liên bang
Nga (1992 - 1998), em xin mạnh dạn chọn vấn đề “Qúa trình cải cách kinh tế -

3


xã hội ở Liên bang Nga giai đoạn (1992 - 1998) và tác động của nó đến vị thế
của Liên bang Nga” làm đề tài nghiên cứu.
3. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là “Công cuộc cải cách kinh tế - xã hội ở
Liên bang Nga giai đoạn (1992 - 1998) và tác động của cuộc cải cách này tới vị
thế của Liên bang Nga.
4. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: gồm hoàn cảnh lịch sử tiến hành cải cách, đường lối, mục tiêu,
biện pháp, quá trình tiến hành cải cách và tác động của nó đến Liên bang Nga.
Về thời gian mà đề tài nghiên cứu: từ năm 1992 (khi B.Enxin bắt đầu thực
hiện công cuộc cải cách) đến năm 1998 (nền tài chính - tiền tệ của Liên bang
Nga sụp đổ hoàn toàn với sự kiện 17/8/1998).
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành khoá luận này, em đã sử dụng
hai phương pháp chủ yếu sau: phương pháp lịch sử (để tái hiện lại quá trình phát
triển kinh tế - xã hội của Liên bang Nga từ 1992 đến 1998) và phương pháp
lôgic (để phân tích, đánh giá đặc điểm tình hình kinh tế, xã hội). Ngoài ra, còn
sử dụng các phương pháp tổng hợp, thống kê, phân loại trong công tác sưu tầm
và xử lý tư liệu.
6. Bố cục của khoá luận
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung khoá luận bao gồm có 2 chương :
Chương 1 : Khái quát về hoàn cảnh, đường lối, mục tiêu và biện pháp cải
cách kinh tế - xã hội ở Liên bang Nga giai đoạn (1992- 1998).

Chương 2 : Quá trình cải cách kinh tế - xã hội Liên bang Nga giai đoạn
(1992 - 1998) và tác động của nó đến vị thế của Liên bang Nga.

4


NỘI DUNG
CHƢƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ HOÀN CẢNH, MỤC TIÊU, BIỆN PHÁP
VÀ ĐƢỜNG LỐI CẢI CÁCH KINH TẾ - XÃ HỘI LIÊN BANG NGA
GIAI ĐOẠN (1992 - 1998).
1. Bối cảnh lịch sử
1.1. Bối cảnh quốc tế
Sự sụp đổ của Liên Xô vào tháng 12/1991 là một sự kiện lịch sử quan trọng
đối với Liên bang Nga và các nước xã hội chủ nghĩa, tác động sâu sắc đến cục
diện của thế giới. Từ đây thế giới chấm dứt thời kỳ chiến tranh lạnh, chạy đua
vũ trang giữa 2 phe đối đầu nhau do Liên Xô và Mỹ đứng đầu. Quan hệ quốc tế
chuyển từ thế giới hai cực sang đa cực, chuyển từ chạy đua vũ trang quân sự
sang cạnh tranh về kinh tế, khoa học công nghệ. Trong đó, sức mạnh kinh tế có
vai trò quyết định để khẳng định vị thế quốc tế. Các yếu tố chính trị - khoa học kỹ thuật - môi trường và công nghệ ngày càng có vai trò quan trọng. Trong bối
cảnh lịch sử mới, xu hướng cạnh tranh hợp tác quốc tế trên nhiều lĩnh vực vừa là
thời cơ vừa là thách thức đối với Liên bang Nga, yêu cầu đặt ra lúc này là đòi
hỏi Nga phải tìm ra con đường đi cho mình nhằm nhanh chóng khắc phục tình
trạng suy thoái nền kinh tế trong nước, hội nhập và khẳng định nền kinh tế của
mình trên trường quốc tế.
Chiến tranh lạnh kết thúc với sự sụp đổ của Liên Xô, mặc dù là nước thắng
trận trong hệ tư tưởng, giới cầm quyền Mỹ và các nước Phương Tây vẫn coi
Liên bang Nga là một trong những đối thủ lớn trong cuộc chạy đua giành địa vị
bá quyền thế giới. Do đó ngay sau khi Liên Xô tan rã, Mỹ cùng các nước
Phương Tây nhanh chóng thay đổi thái độ với Liên bang Nga từ công khai đối
lập trong thời kỳ chiến tranh lạnh sang chính sách “hoà bình thân thiện”. Nhất là

những năm đầu sau khi Liên Xô sụp đổ, quan hệ Nga - Mỹ đạt tới thời điểm
“trăng mật”, “trên cơ sở hoà bình cùng có lợi” và “thừa nhận lợi ích của mỗi
quốc gia”. Có thể nói Liên bang Nga luôn là mối quan tâm chiến lược hàng đầu
của Mỹ, ở hai nước từ năm 1992 - 1998 là thời kỳ cầm quyền của hai tổng thống
B.Clintơn và B.Enxin đã có sự hợp tác khá chặt chẽ trên nhiều lĩnh vực từ kinh
5


tế - thương mại đến chính trị - ngoại giao, khoa học - kỹ thuật và quân sự - an
ninh… với sức mạnh tiềm tàng của Liên bang Nga, Mỹ tỏ ra muốn hợp tác với
Liên bang Nga trên mọi lĩnh vực. Đồng thời, tìm mọi cách để cản trở Liên bang
Nga nâng cao vị thế quốc tế của mình. Mỹ là siêu cường duy nhất thực hiện
chính sách vừa hợp tác vừa kiềm chế Liên bang Nga. Chính vì vậy “sau chiến
tranh lạnh để củng cố thành quả, đề phòng Nga quay lại thể chế Liên Xô cũ, Mỹ
đã giúp Nga thực hiện “liệu pháp sốc” trong cải cách kinh tế bằng viện trợ tài
chính lớn lao nhằm đẩy nhanh tiến trình tư nhân hoá, biến nước Nga thành quốc
gia Phương Tây thực thụ”. Theo đó thì đến năm 1992 dự án “liệu pháp sốc”
Havward do cơ quan “phát triển kinh tế” của Mỹ đã được soạn thảo cho Liên
bang Nga. Đây là bản kế hoạch, đồng thời cũng là điều kiện của Mỹ và các nước
Phương Tây đặt ra cho Liên bang Nga khi nhận các khoản viện trợ của Ngân
hàng thế giới (WB) và quỹ tiền tệ quốc tế (IMB) mà Mỹ là cổ đông lớn nhất.
Ngoài ra, sau chiến tranh lạnh, một thế giới đa cực dần được hình thành đó
là sự vươn lên mạnh mẽ của các trung tâm kinh tế của các nước Tây Âu, Nhật
Bản, Trung Quốc, các nước Châu Á – Thái Bình Dương… đã tạo ra nhiều cơ hội
cho Liên bang Nga trong việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại và hợp tác trên
nhiều lĩnh vực với các nước lớn trên thế giới.
Từ sau năm 1991, trên thế giới có nhiều quốc gia cùng hoàn cảnh và điểm
xuất phát kinh tế - xã hội bằng hoặc thậm chí thấp hơn Liên bang Nga cũng bắt
đầu thức hiện chuyển đổi mô hình kinh tế từ kế hoạch hoá tập trung sang nền
kinh tế thị trường. Ngay từ những năm 80 của thế kỷ XX làn sóng tư nhân hoá,

phát triển kinh tế thị trường đã phổ biến khắp Châu Âu, Châu Á…Cùng thời
điểm với Liên bang Nga vào đầu những năm 90 của thế kỷ XX còn có các nýớc
Trung – Ðông Âu (Ba Lan, Hunggari, Slovakia, Sec…), Trung Quốc, Việt
Nam…cũng tiến hành cải cách. Kinh nghiệm của các nýớc này trong quá trình
cải cách góp phần giúp các nhà cải cách của Liên bang Nga đề ra được đường
lối chính sách phù hợp với nước mình. Điều này chứng tỏ công cuộc cải cách
chuyển đổi mô hình kinh tế - xã hội từ cơ chế quản lý tập trung sang cơ chế quản
lý tự do của Liên bang Nga tiến hành trong xu hướng vận động chung của thế
6


giới, nó không còn là một hiện tượng đơn nhất, không phải là quá trình mò mẫn,
khai phá đường.
Bối cảnh lịch sử thế giới sau chiến tranh lạnh tưởng chừng như chấm dứt
sự đối đầu và bắt đầu đi vào ổn định, tạo ra nhiều cơ hội, nhiều thuận lợi cho
Liên bang Nga phát triển kinh tế - xã hội. Thực chất, đó là một quá trình vận
động phức tạp, đầy dẫy những nguy cơ thách thức. Trong bối cảnh phát triển
quốc tế mới này sức mạnh quân sự dần nhường chỗ cho sức mạnh kinh tế - sự
quyết định cán cân quyền lực giữa các nước lớn trên thế giới. Điều này đặt ra
cho Liên bang Nga một yêu cầu là muốn khôi phục lại vị thế cường quốc của
mình trên thế giới chỉ có một lựa chọn duy nhất là tập trung phát triển kinh tế xã hội.
1.2. Bối cảnh trong nƣớc
Tổng thống B.Enxin tiến hành cải cách kinh tế - xã hội trong bối cảnh đất
nước hết sức phức tạp và gặp khó khăn, thử thách trên tất cả các lĩnh vực.
Ngày 8/12/1991, Tổng thống ba nước Nga, Ucraina, Belarut ra tuyên bố
chung: Liên bang Xô Viết không còn tồn tại nữa và quyết định thành lập một
hình thức liên minh mới gọi là Cộng đồng các quốc gia độc lập (SNG). Sự kiện
này đánh dấu sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa và sự tan vỡ của Liên bang
cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xô Viết sau 74 năm tồn tại. Đây là sự kiện làm đảo
lộn trật tự thế giới với sự xuất hiện của một loạt các quốc gia độc lập, mỗi nước

đều tìm con đường đi cho riêng mình. Liên Xô tan rã, “Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Xô Viết Liên bang Nga” được thay thế bằng Cộng Hoà Liên bang Nga và
trở thành một thực thể kinh tế - chính trị - xã hội độc lập: “Hai lần trong kỷ
nguyên (chúng ta nhớ lại năm 1917) cùng một lúc đã sảy ra hai sự biến đổi hệ
thống cả về kinh tế lẫn chính trị”. Giờ đây, Liên bang Nga quay trở lại thể chế
kinh tế - chính trị tư bản chủ nghĩa.
* Về chính trị
Chính trường Liên bang Nga diễn ra một cuộc tranh giành quyền lực giữa
các phe nhóm, đảng phái, trong đó quyết liệt nhất là cuộc đấu tranh giữa phe do
Tổng thống B.Enxin đứng đầu (chủ trương thành lập thể chế nhà nước theo mô
7


hình cộng hoà Tổng thống) và phe do tổng thống Rutxkôi và chủ tịch Xô Viết
tối cao Khaxbulatốp đứng đầu (chủ trương xây dựng nhà nước theo mô hình
Nghị viện). Đỉnh cao của cuộc khủng hoảng diễn ra vào tháng 9/1993, Tổng
thống B.Enxin ra sắc lệnh đặc biệt về quyền điều hành nhà nước, đồng thời dùng
vũ lực trấn áp sự chống đối của phe đối lập (Tổng thống ra lệnh cho xe bắn vào
nhà trắng - trụ sở của Xô Viết tối cao, sau đó quyết định giải tán cơ quan này).
Từ nay Liên bang Nga bước vào thời kỳ hậu Xô Viết với Hiến pháp mới – Hiến
pháp 1993. Đây là cột mốc lịch sử hình thành chế độ chính trị mới của nước
Nga: Thể chế cộng hoà Tổng thống, vai trò của Tổng thống ngày càng được đề
cao và khẳng định bao trùm lên mọi tổ chức quyền lực nhà nước: Tổng thống là
người đảm bảo cho Hiến pháp, đảm bảo cho các quyền của công dân Nga; thông
qua các biện pháp cần thiết bảo vệ chủ quyền, độc lập và toàn vẹn lãnh thổ;
Tổng thống là là trung tâm quyền lực, đứng đầu bộ máy hành pháp, xác định
phương hướng trong chính sách đối nội, đối ngoại của Liên Bang, chi phối hoạt
động của cơ quan lập pháp và tư pháp. Liên bang Nga từ 1992 đến 1998, vận
động dưới sự điều hành hoàn toàn của Tổng thống B.Enxin và chính phủ do ông
lập nên. Do đó quá trình phát triển về kinh tế - xã hội Liên bang Nga (1992 –

1998) cũng được quyết định bởi đường lối, chính sách của chính phủ B.Enxin.
Là nhà nước Liên bang nên đặc điểm nổi bật về phân chia hành chính của
Liên bang Nga bao gồm 89 đơn vị hành chính: 16 lãnh thổ cộng hoà tự trị, 5
tỉnh tự trị, 10 khu tự trị, 6 vùng và 19 miền [13; 202]. Điều này tạo ra tính chất
đa dạng, phức tạp trong quản lý hành chính - kinh tế - chính trị từ Trung ương
đến địa phương. Vì lợi ích kinh tế, chính quyền địa phương luôn gây sức ép với
chính quyền Liên bang, buộc Trung ương phải cải thiện địa vị, đời sống kinh tế
của họ. Hơn nữa Liên bang Nga là nơi sinh sống của hàng trăm dân tộc, mỗi dân
tộc có lịch sử, văn hoá, ngôn ngữ, tôn giáo riêng, đây là một trong những đặc
điểm có ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống kinh tế, chính trị của chính quyền
Liên bang, đòi hỏi chính quyền Liên bang phải thật khôn khéo trong việc quản
lý đất nước cũng như phải có chính sách thật hợp lý cả về kinh tế và chính trị để
xoá bỏ những cản trở trong việc thống nhất từ Trung ương đến địa phương.
8


* Về kinh tế
Vấn đề quan trọng tác động đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội Liên
bang Nga (1992 – 1998) là trước năm 1992 Liên bang Nga với tư cách là trụ cột
của Liên bang Xô Viết trong suốt hơn 7 thập kỷ đã xây dựng, duy trì mô hình
quản lý kinh tế - xã hội điển hình nhất của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung.
Khu vực kinh tế nhà nước chiếm vị trí độc tôn, có tỷ trọng gần như 100% ở tất
cả các ngành của nền kinh tế quốc dân. Đó là nền kinh tế dựa trên cơ sở công
hữu cao độ về tài sản, tư liệu sản xuất được coi là sở hữu của toàn dân do nhà
nước quản lý: trong công nghiệp (các tổ hợp công nghiệp quân sự, năng
lượng…) tất cả đều thuộc quản lý nhà nước; trong lĩnh vực nông nghiệp cho đến
năm 1980, khu vực sở hữu tư nhân chỉ chiếm 2% đất nông nghiệp, hầu hết đất
đai, hoạt động sản xuất nông nghiệp nằm trong hai tổ chức sản xuất chính là
nông trang và nông trường quốc doanh; trong hoạt động ngoại thương cũng là cơ
chế quản lý kế hoạch hoá tập trung, nguyên tắc chủ đạo, bất di bất dịch trong

hoạt động quản lý kinh tế đối ngoại là nhà nước độc quyền ngoại thương. Trên
thực tế nguyên tắc này đã tách biệt thị trường trong nước với thị trường thế giới,
sản xuất với tiêu dùng… kìm hãm sự phát triển của kinh tế. Việc thực hiện xã
hội hoá tư liệu sản xuất một cách duy ý chí trong thời kỳ xây dựng và cải tạo
chủ nghĩa xã hội Xô Viết thực chất là việc tiêu thủ sở hữu riêng, xác lập sở hữu
chung không thuộc về ai thông qua các biện pháp quốc hữu hoá. Đó là nguyên
nhân quan trọng nhất đưa nền kinh tế các nước này (Liên bang Nga và một số
nước Châu Âu) đến tình trạng sản xuất trì trệ, thiếu hụt triền miên thực phẩm,
hàng tiêu dùng, tình trạng lãng phí phổ biến trong các hoạt động kinh tế. Có thể
nói sự tồn tại quá lâu dài, dai dẳng mô hình quản lý kinh tế xã hội theo cơ chế kế
hoạch hoá tập trung, quan liêu đến cao độ ở Liên bang Nga đã chi phối khá sâu
sắc quá trình chuyển đổi mô hình quản lý kinh tế xã hội theo cơ chế thị trường
trên mọi lĩnh vực thời hậu kỳ Xô Viết nó dự báo một quá trình chuyển đổi đầy
khó khăn, phức tạp. Cùng là điểm xuất phát từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập
trung nhưng Liên bang Nga khác với Ba Lan, Trung Quốc. Ở Ba Lan từ những
năm 80 của thế kỷ XX yếu tố thị trường đã phát triển mạnh trong lĩnh vực nông
9


nghiệp. Còn ở Trung Quốc, những năm tiến hành đại cách mạng văn hoá đã gây
ra sự hốn loạn và làm giảm thực sự vai trò của kế hoạch hoá tập trung và điều
tiết vĩ mô, chính quyền địa phương phải thiết lập các doanh nghiệp vừa và nhỏ
của mình. Như vậy, so với các nước khác điểm xuất phát của Liên bang Nga khi
tiến hành chuyển đổi khó khăn hơn nhiều. Hơn nữa nền kinh tế của Liên bang
Nga chỉ bó gọn trong mối quan hệ với các nước thuộc khối SEV, Liên bang Nga
đóng cửa với thế giới các nước Phương Tây phát triển – nơi đại diện cho nền
văn minh kỹ thuật của nhân loại. Chính sự tách biệt này cộng thêm do chịu ảnh
hưởng quá lâu của nền kinh tế tập trung xã hội chủ nghĩa đã tác động không nhỏ
đến công cuộc cải cách của Liên bang Nga dưới thời Tổng thống B.Enxin.
* Về xã hội

Năm 1998, Nga đứng đầu thế giới về mức độ nợ, chiếm 80% GDP, nhưng
bên cạnh đó tình trạng chảy vốn ra bên ngoài lớn do vai trò điều tiết vĩ mô của
nhà nước không hiệu quả: 20 tỷ USD/năm. Vì thế 1/10 dân số Nga sống dưới
mức nghèo khổ, thu nhập khoảng 40 USD tháng. Hàng triệu ha ruộng bị biến
thành hoang mạc, nông sản khi thu hoạch không có kho bảo quản, công nghệ khí
đốt chưa đầu tư hợp lý, kỹ thuật mới và công nghệ cao chưa được đầu tư và sử
dụng, năng suất lao động thấp. Hơn nữa y tế, giáo dục thả nổi chưa được quan
tâm đúng mức, tỷ lệ trẻ em thất nghiệp cao, tệ nạn xã hội đến mức báo động. Từ
đó các chi tiêu xã hội, mức tiêu dùng của người dân, sản xuất nông nghiệp giảm
từ 1,7 – 1,8 lần, giao thông vận tải giảm 2 lần, chi phí cho quân sự giảm 4 lần,
đã tạo điều kiện cho các phần tử nổi loạn ngóc đầu nổi dậy. Đời sống nhân dân
giảm sút do bất ổn kinh tế - chính trị kéo dài: tỷ lệ mẹ chết sau khi sinh tăng gấp
3 lần các nước phát triển, số trẻ em nghiện rượi tăng 40%, trẻ em nghiện hút
tăng 5 lần. Ngoài ra, các tệ nạn xã hội như tham nhũng, mại dâm, ma tuý… ngày
càng ra tăng và có ảnh hưởng sâu sắc đến lòng tin của nhân dân đối với Chính
phủ Nga.
* Về an ninh – quốc phòng – đối ngoại
An ninh quốc phòng: Khi Liên Xô tan rã, quân sự Liên bang Nga gặp nhiều
khó khăn, binh lính và binh sỹ Nga thiếu chỗ ở nghiêm trọng. Số sỹ quan, binh
10


lính không có nhà ở và sống rất nghèo khổ ngày càng tăng như năm 1992 có
200.000 binh lính. Điều này đã khiến cho tinh thần binh sỹ suy sụp, mất lòng tin
vào sự nghiệp cống hiến…dẫn đến xung đột vũ trang và chiến tranh. Lực lượng
vũ trang Nga không thể đảm bảo an ninh quốc gia khi có biến động, xung đột
khu vực, điển hình như ở Tresnia.
Về đối ngoại: Liên bang Nga bước lên vũ đài quốc tế từ sau 1991 không
chỉ với tư cách là một trong những nước kế thừa chính thống của Liên Xô mà
còn được tiếp nhận quy chế “quốc gia – người kế tục của Liên Xô” với sự thừa

hưởng chiếc ghế Uỷ viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc là thuận
lợi song cũng là thách thức đối với Liên bang Nga khi khẳng định vị thế của
mình. Có thể nói, Liên bang Nga được thừa hưởng phần lớn gia sản vĩ đại của
Liên Xô: chiếm 76% lãnh thổ, 52% dân số của Liên Xô cũ, được “thừa hưởng
75% tiềm lực kinh tế của công nghiệp nói riêng, 70% tiềm lực kinh tế của Liên
Xô nói chung” [19; 64]. Ngoài ra, Liên bang Nga còn được kế thừa một hệ
thống cơ sở vật chất kỹ thuật rất hùng hậu với cơ sở hạ tầng vào loại cao trên thế
giới (hệ thống đường xá, nhà máy, xí nghiệp, phương tiện thông tin liên lạc…)
và một nền khoa học kỹ thuật phát triển cao. Hầu hết các viện nghiên cứu, các
trường Đại học, các trung tâm khoa học lớn nhất Liên Xô trước kia đều nằm trên
lãnh thổ Liên bang Nga. Bên cạnh đó, người dân Nga còn có trình độ học vấn
cao, có nền văn hoá lâu đời mang đậm giá trị truyền thống…đây là những ưu
điểm mà Liên bang Nga hơn hẳn các nước cộng hoà khác thuộc Liên Xô cũ
cũng đang trong quá trình chuyển đổi mô hình kinh tế, xã hội. Tuy nhiên, trong
bối cảnh lịch sử mới lĩnh vực ngoại giao đòi hỏi những cải cách thật khôn khéo
thì mới khôi phục lại vị thế của nước Nga trong việc giải quyết các vấn đề quốc
tế, cũng như thúc đẩy nội lực kinh tế, ổn định chính trị trong nước.
Như vậy bối, cảnh trong nước và quốc tế giai đoạn cuối thế kỷ XX đầu thế
kỷ XXI khiến cho việc tiến hành cải cách kinh tế - xã hội ở Liên bang Nga là tất
yếu để phù hợp với xu thế phát triển của nền kinh tế thế giới và hoàn cảnh của
nước Nga ngay sau khi Liên Xô tan rã. Lúc này trọng trách đè nặng lên vai
người đứng đầu Liên bang Nga đó chính là thời kỳ cầm quyền của Tổng thống
11


B.Enxin (1991 – 1998), ông chính là người đặt những viên gạch đầu tiên, xây
dựng nền móng phát triển cho Liên bang Nga trong thời kỳ lịch sử mới. Đó cũng
là những nhân tố quan trọng tác động trực tiếp đến đường lối, biện pháp và nội
dung cải cách kinh tế - xã hội của Tổng thống B.Enxin.
2. Đƣờng lối, mục tiêu và biện pháp tiến hành cải cách kinh tế - xã hội

Liên bang Nga giai đoạn 1992 – 1998
Yêu cầu cấp thiết đặt ra cho nước giới cầm quyền và nhân dân Nga sau khi
Liên Xô tan rã là phải tìm ra chiến lược phát triển kinh tế - xã hội mới nhằm đưa
đất nước thoát khỏi tình trạng khủng hoảng, phải tìm cách giải phóng sức sản
xuất trong nước, toàn bộ hệ thống kinh tế - xã hội khổng lồ vốn chứa đựng tiềm
năng lớn nhưng hiện tại đang trì trệ thì cần phải tìm ra biện pháp để nó có thể
tiếp tục vận hành, phát triển và khẳng định vị trí xứng đáng với tầm cỡ của Liên
bang Nga.
Khi lên nắm quyền Tổng thống Liên bang Nga, B.Enxin và chính quyền
của ông được thừa hưởng một gia sản đổ nát, một “nền kinh tế phá sản, đang ở
trong ngõ cụt của cuộc khủng hoảng chế độ” [11; 230]. Trong đống đổ nát, hỗn
độn của nền kinh tế, xã hội cùng với sự thay đổi lớn về chính trị, giới cầm quyền
Liên bang Nga đứng đầu là Tổng thống B.Enxin nhận thấy cải cách là nhiệm vụ
cấp bách, không thể chậm trễ đối với Liên bang Nga. Trong một thời gian ngắn
sau khi lên làm tổng thống, B.Enxin đã nhanh chóng thiết lập một chính phủ đủ
mạnh để tiến hành công cuộc cải cách. Người mà B.Enxin tin tưởng, lựa chọn
đầu tiên và giao phó trọng trách xây dựng đường lối cải cách kinh tế - xã hội
chính là thủ tướng E. Gaiđa. Cuộc cải cách kinh tế - xã hội Liên bang Nga dưới
sự điều hành của B.Enxin và Chính phủ của ông trong gần một thập kỷ đã gây
xáo động mạnh không chỉ đối với nước Nga mà còn ảnh hưởng đến thế giới.
2.1. Đƣờng lối cải cách
Công cuộc cải cách của Tổng thống B.Enxin bắt đầu từ năm 1992, được
tiến hành trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, xã hội, chính trị, pháp luật…trọng tâm
của cuộc cải cách đó là cải cách kinh tế - xã hội. Đường lối cải cách kinh tế - xã
hội Liên bang Nga trong giai đoạn (1992 -1998) được thể hiện trong các văn
12


kiện như: Hiến pháp Liên bang Nga (1993), sắc lệnh về tự do hoá giá cả, tự do
hoá nội ngoại thương, sắc lệnh về các vấn đề công nghiệp, nông nghiệp, kinh tế

đối ngoại, văn hoá - giáo dục của B.Enxin. Đường lối cải cách kinh tế - xã hội
của B.Enxin bao gồm có các nội dung sau:
* Thực hiện tự do hoá giá cả:
Nội dung này được thể hiện thông qua sắc lệnh của Tổng thống về “các
biện pháp tự do hoá giá cả” được ban hành vào ngày 2/1/1992, quy định:
“ 1.Từ ngày 2/1/1992 chuyển sang áp dụng cơ chế giá cả tự do, dựa trên
cơ sở cung cầu đối với các sản phẩm mang tính kỹ thuật sản xuất, các mặt hàng
gia dụng, dịch vụ.
2. Từ ngày 2/1/1992, quy định cho các doanh nghiệp không phân biệt thuộc
quyền sở hữu như thế nào, chỉ áp dụng mức giá do nhà nước điều chỉnh đối với
số lượng hạn chế các sản phẩm mang tính kỹ thuật.
Nhà Nước trực tiếp điều chỉnh giá của các mặt hàng sau: điện, than, dầu
mỡ, khí đốt, nhiên liệu cho máy nồi hơi, kim loại quý, dịch vụ vận chuyển đường
sắt, đường bộ, một số loại thực phẩm cho trẻ em...”[11; 232]. Có thể nói, thực
hiện tự do hoá giá cả chính là biện pháp quan trọng làm cơ sở cho chính sách
chuyển đổi sang cơ chế thị trường.
* Thực hiện “tự do buôn bán”.
Ngày 29/1/1992, Chính phủ Nga ban hành sắc lệnh số 65, một sắc lệnh
mang tính lịch sử, sau khi ban hành sắc lệnh này thì chính sách “tự do buôn bán”
cũng đã được thực hiện với nội dung như sau:
“1. Các doanh nghiệp thuộc bất kỳ hình thức sở hữu nào, cũng như các
công dân được quyền buôn bán, môi giới mà không cần giấy phép đặc biệt nào,
ngoại trừ việc buôn bán vũ khí, đạn dược, ma tuý, thuốc men và các mặt hàng bị
cấm và hạn chế buôn bán theo luật hiện hành.
2. Những mặt hàng được công dân đưa vào lãnh thổ Liên bang Nga hoặc
giử cho họ, không thuế hải quan.

13



3. Tài sản của các công ty thương mại và ăn uống thuộc sở hữu Nhà nước
sẽ được bán cho các tập thể tư cách pháp nhân và cả các công dân trong vòng
14 ngày kể từ ngày được công bố.
4. Các doanh ngiệp và cá nhân, các công dân có quyền buôn bán ở bất kỳ
chỗ nào mà họ thấy thuận tiện, ngoại trừ chỗ qua đường trên các đường phố,
bến tàu điện ngầm và những khu vực nằm gần trụ sở của các sơ quan nhà
nước” [11; 236].
Sắc lệnh của Tổng thống B.Enxin được coi là nhát búa đầy uy lực chặt đứt
xiềng xích trói buộc hoạt động nội, ngoại thương của Liên bang Nga từ trước tới
nay. Vì trước đây mọi hoạt động trao đổi buôn bán của các cơ quan, tổ chức, cá
nhân đều dưới sự kiểm soát chặt chẽ của nhà nước thì đến nay họ được quyền
trao đổi buôn bán mà không bị nhà nước ngăn cấm (trừ một số mặt hàng bị pháp
luật cấm). Sắc lệnh có tác dụng mạnh mẽ, kích thích, khuyến khích đẩy mạnh
hoạt động tự do buôn bán của nhân dân, nhất là hoạt động ngoại thương. Cùng
với việc tiến hành tự do hoá hoạt động thương ngiệp, đồng thời cũng tạo ra khả
năng thúc đẩy quá trình tích luỹ tư bản và hình thành các tầng lớp kinh doanh tý
nhân – cõ sở của nền kinh tế thị trýờng.
* Thực hiện tƣ nhân hoá
Nguyên nhân của những yếu kém căn bản trong nền kinh tế xã hội chủ
nghĩa kiểu Xô viết được quy là do thủ tiêu hoặc o ép sở hữu tư nhân cũng như
các yếu tố khác của thị trường. Do đó, tư nhân hoá được coi là giải pháp quan
trọng nhất của cải cách thị trường. “Tư nhân hoá được hiểu là quá trình chuyển
giao hoàn toàn hoặc từng phần một cách hợp lý các quyền sở hữu từ tay nhà
nước (hoặc các tổ chức công cộng khác) sang tay các thực thể tư nhân” [16;15].
Bản chất của tư nhân hoá là “chuyển việc quản lý các nguồn lực khỏi trạng thái
vô chủ sang các thực thể tư nhân có chủ” [16;15]. Đây là cách hiểu tư nhân hoá
theo nghĩa hẹp, còn theo nghĩa rộng thì “tư nhân hoá” bao hàm bất kỳ sự gia
tăng nào trong các hoạt động tư nhân kể cả sự tạo lập các xí nghiệp tư nhân mới
mà không có sự suy giảm nào trong các hoạt động xí nghiệp nhà nước. Ở Liên


14


bang Nga thời B.Enxin tư nhân hoá được hiểu theo nghĩa hẹp và chính sách tư
nhân hoá của ông được xây dựng trên cơ sở khái niệm này.
Không phải đợi đến khi B.Enxin lên làm Tổng thống công cuộc tư nhân
hoá mới được tiến hành mà ngay từ những năm cuối thập kỷ 80 đã diễn ra quá
trình tư nhân hoá thầm lặng các doanh nghiệp nhà nước. Tuy nhiên, phải đến khi
chính sách tư nhân hoá của B.Enxin chính thức được ban hành thì hoạt động tư
nhân hoá mới phát triển mạnh mẽ ở Liên bang Nga. Chính sách tư nhân hoá của
Tổng thống B.Enxin được công bố từ năm 1991, song nó trải qua một quá trình
hoàn thiện lâu dài. Cụ thể là:
- Tháng 7/1991 Liên bang Nga đã ban hành luật tư nhân hoá, cụ thể hoá
toàn bộ vấn đề pháp lý có liên quan đến tư nhân hoá như quyền sở hữu, phương
pháp bán các xí nghiệp quốc doanh, định giá tài sản xí nghiệp, mua cổ phần, sử
dụng nguồn vốn thu được do bán các xí nghiệp quốc doanh [16;16].
- Ngày 29/12/1991 B.Enxin ký sắc lệnh về việc đẩy nhanh quá trình tư
nhân hoá trong các doanh nghiệp nhà nước của các thành phố. Sắc lệnh quy
định những điều khoản chủ yếu trong chương trình tư nhân hoá doanh nghiệp
nhà nước cũng như địa phương. Đây là văn kiện có chức năng điều chỉnh tư
nhân hoá ở Liên bang Nga, làm cho nó được tiến hành theo một chương trình
nhất định, chứ không phải một quá trình tự phát [11;401].
- Tháng 6/1992, B.Enxin ký sắc lệnh công bố những thay đổi và bổ sung
luật năm 1991. Cụ thể thêm về mặt pháp lý quá trình tư nhân hoá và cải tổ kết
cấu kinh tế quốc dân. Tiếp đó chính phủ đã xây dựng một chương trình tư nhân
hoá: qui định hơn 25 loại xí nghiệp, đối tượng thuộc diện không được tư nhân
hoá. Nhìn chung, việc tư nhân hoá được thực hiện rộng rãi với tất cả các đối
tượng được coi là ảnh hưởng đến kết cấu hạ tầng kinh tế mà hiện đang hoạt
động không có hiệu quả, kìm hãm sự hình thành kinh tế thị trường [16;16].
- Trong hiến pháp Liên bang Nga năm 1993 khẳng định: “quyền sở hữu

tư nhân là nguyên tắc hiến pháp của nhà nước Nga và là cải cách cơ bản nhất
trong lĩnh vực kinh tế”. Quy định ngyên tắc chỉ đạo về việc công nhận và bảo vệ

15


bình đẳng sở hữu cá nhân, sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể và các hình thức sở
hữu khác [12;113].
Ngoài ra, Tổng thống còn ban hành nhiều sắc lệnh hỗ trợ, bổ sung cho
chính sách tư nhân hoá như Sắc lệnh về “đưa hệ thống séc tư nhân hoá vào hoạt
động” (14/8/1992); sắc lệnh về “nguyên tắc cơ bản của chính sách nhà nước
trong việc tư nhân hoá các xí nghiệp quốc doanh và tập thể ở Liên bang Nga”
Như vậy chương trình tư nhân hoá bắt đầu thực hiện từ năm 1993 dựa trên cơ sở
các nguyên tắc của Tổng thống.
Đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp, tư nhân hoá được quy định khá chặt
chẽ được thể hiện qua hệ thống các sắc lệnh, pháp luật và quy định của Tổng
thống như sắc lệnh 323 “về liệu pháp cấp bách để thực hiện cải cách ruộng đất
của Liên bang Nga”; quy định 86 “về phương thức tư nhân hoá và cải cách các
xí nghiệp và tổ chức thuộc lĩnh vực công nông nghiệp”; Hiến pháp năm 1993
của Liên bang Nga thay thế luật cải cách ruộng đất của Liên bang Nga năm
1990. Đặc biệt, qui định 708 của Tổng thống đã làm rõ một số điểm của tư nhân
hoá đất đai và tổ chức lại các nông trang, nông trường quốc doanh, nêu các điều
kiện tư nhân hoá và chuyên môn hoá trang trại nhà nước.
Có thể nói tư nhân hoá đã trở thành vấn đề chủ chốt, trọng điểm trong
đường lối cải cách của Liên bang Nga. Việc đưa ra hệ thống các chính sách, sắc
lệnh đó cuối cùng nhằm thực hiện các mục đích sau:
+ Mục tiêu chính trị: nhanh chóng tạo ra một tầng lớp đông đảo các chủ
sở hữu tư nhân chiến lược và có hiệu quả, ủng hộ công cuộc cải tổ, tách nhà
nước khỏi độc quyền sở hữu về tư liệu sản xuất, từ đó tách nhà nước ra khỏi sự
điều hành quan liêu, kém hiệu quả đối với các doanh nghiệp.

+ Mục tiêu kinh tế: nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp,
tạo ra môi trường cạnh tranh, thu hút các nguồn đầu tư trong và ngoài nước,
tăng nguồn thu cho ngân sách các cấp, ổn định tài chính quốc gia.
+ Mục tiêu xã hội: bảo đảm tốt hơn phúc lợi xã hội, bảo hiểm xã hội cho
nhân dân, phát triển các cơ sở hạ tầng xã hội dựa vào các nguồn thu từ tư nhân
hoá, bảo vệ quyền lợi của các chủ sở hữu tư nhân [7; 42].
16


Ngay từ đầu chính phủ Liên bang Nga đã xác định: thực hiện tư nhân hoá
trước hết nhằm mục đích đảm bảo sự ổn định của hệ thống các mối quan hệ sở
hữu mới, tạo điều kiện cho hoạt động kinh doanh đạt hiệu quả ở tầm vĩ mô lẫn vi
mô. Còn các mục tiêu như bổ sung nguồn thu ngân sách nhà nước, giảm gánh
nặng… được đặt vào vị trí thứ hai.
Xét về mặt lý thuyết, đường lối cải cách của B.Enxin được coi là điểm nút
giải phóng, cởi trói cho toàn bộ nền kinh tế - xã hội. Là biện pháp cần và đủ để
chuyển đổi nền kinh tế từ kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường; là cơ
sở để để hình thành kết cấu hạ tầng cho thiết chế nhà nước tư bản chủ nghĩa ở
Liên bang Nga. Đây là đường lối cải cách của tất cả những chính quyền thân
Phương Tây trong thập niên 90. Hầu hết các nước đều tiến hành cải cách chuyển
đổi từ mô hình kinh tế xã hội chủ nghĩa quay về với tư bản chủ nghĩa như Liên
bang Nga, Ba Lan, Hungarri…
2.2. Mục tiêu và biện pháp tiến hành cải cách
Do nắm được tình hình khó khăn của đất nước nên B.Enxin nhận thức sâu
sắc rằng nhất định không thể quay lại mô hình cũ nữa mà phải nhanh chóng từ
bỏ cơ chế kế hoạch hoá tập trung với nền kinh tế chỉ huy thời Xô Viết. Vậy nên
khi tiến hành công cuộc cải cách ông đã xác định rõ mục tiêu nhiệm vụ đó là:
“Phá bỏ hệ thống bao cấp (nhất định phải có đơn đặt hàng của nhà nước,
phân phối sản phẩm, quy định mức giá..) và thay vào đó các phương pháp điều
hành kinh tế mới xoá bỏ độc quyền, thiết lập cơ sở cho kết cấu hạ tầng của thị

trường, tư nhân hoá. Đồng thời cần phải xây dựng một Nhà nước mới, đưa các
cơ chế quản lý ra khỏi tình trạng “tê liệt”, không hoạt động, cứu vãn nền kinh tế
và lĩnh vực xã hội và cuối cùng là xây dựng các đạo luật mới vì các đạo luật cũ
không còn phù hợp với tình hình” [11; 231].
Có thể nói, đây là nhiệm vụ, mục tiêu cấp thiết nhưng cũng hết sức khó
khăn, phức tạp đặt ra cho cuộc cải cách. Nó không đơn giản là cải tạo lại những
quan hệ kinh tế, cải tạo lại cơ chế quản lý hành chính trên cơ sở của những cái
cũ. Mà nó phải thay đổi hẳn cả một hình thái kinh tế - xã hội, xoá bỏ thiết chế
Nhà nước xã hội chủ nghĩa, hình thái kinh tế xã hội chủ nghĩa vốn đã tồn tại gần
17


một thế kỷ ở Liên bang Nga. Đồng thời, phải xây dựng quan hệ sản xuất mới
dựa trên hình thái kinh tế - xã hội mới đối lập về chất đối hình thái kinh tế - xã
hội, quan hệ sản xuất, thiết chế chính trị xã hội chủ nghĩa trước đó. Thực chất là
nhiệm vụ đưa Liên bang Nga quay trở lại phát triển theo con đường tư bản chủ
nghĩa, biến Liên bang Nga trong một thời gian ngắn nhất từ một nước xã hội chủ
nghĩa điển hình trở thành nước tư bản chủ nghĩa thực thụ. Do vậy, công cuộc cải
cách, chuyển đổi mô hình kinh tế - xã hội từ kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế
thị trường chính là công cuộc xây dựng cơ sở cho việc thiết lập một mô hình nhà
nước mới – Nhà nước tư bản chủ nghĩa.
Điều đáng nói ở đây là những quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, cơ chế
quản lý, phương thức làm việc…vốn dĩ đã ăn sâu vào trong tiềm thức của nhân
dân Liên bang Nga từ nhiều thập kỷ nay, thậm chí nó đã trở thành lề thói cốt
hữu trong nhân dân. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để xoá bỏ được nó? đó là một
nhiệm vụ hết sức khó khăn. Trước tình hình đó thì chính phủ B.Enxin đã đứng
trước hai sự lựa chọn về con đường, biện pháp tiến hành cải cách đó là:
Thứ nhất là tiến hành cải cách tuần tự. Tức là cải cách có mức độ dưới sự
kiểm soát của Nhà nước. Con đường cải cách này đã được Trung Quốc tiến hành
khá thành công.

Thứ hai là tiến hành “Liệu pháp sốc”. Nghĩa là dựa vào động cơ thị trường
để cho cơ chế thị trường tự điều tiết tất cả, đồng thời buông lỏng vai trò can
thiệp của Nhà nước. Con đường này đã được các nước ở Trung và Đông Âu (Ba
Lan, hungari, Sec…) và nhiều nước thực hiện khá thành công, tiêu biểu nhất là
Ba Lan.
Đứng trước hai sự lựa chọn mang tính nguyên tắc trên, buộc Chính phủ
Nga phải xem xét, phân tích thật kỹ càng để đựa chọn con đường phù hợp và
cuối cùng Liên bang Nga đã lựa chọn biện pháp thứ hai – “liệu pháp sốc”. Về
bản chất “liệu pháp sốc” tức là “giải pháp áp dụng đồng bộ, triệt để, nhất quán
và nhanh những biện pháp mạnh làm thay đổi trong một thời gian ngắn nhất
toàn bộ những thiết chế cơ bản của cơ chế kinh tế, làm cho nó chuyển sang vận
hành theo những nguyên lý cơ bản của cơ chế thị trường” [3; 3]. Có rất nhiều ý
18


kiến khác nhau xung quanh vấn đề Liên bang Nga lựa chọn con đường cải cách
bằng “liệu pháp sốc”. Một số học giả cho rằng sự lựa chọn này là do có sự đạo
diễn của Phương Tây đứng đầu là Mỹ. Các nước Phương Tây đã thông qua các
tổ chức như Ngân hàng thế giới (WB) và Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF) để chi phối
Liên bang Nga bằng con đường viện trợ ngân sách. Lại có ý kiến khác cho rằng:
Liên bang Nga chọn con đường “liệu pháp sốc” đơn giản là vì ở Liên bang Nga
sau năm 1991 thiếu các cơ chế quyền lực đủ khẳ năng để đưa nghị quyết vào
cuộc sống.
Việc lựa chọn “liệu pháp sốc” đồng nghĩa với việc Liên bang Nga phải
chấp nhận những ưu và nhược điểm của nó. Về mặt ưu điểm: trong lĩnh vực
kinh tế liệu pháp sốc giúp huy động nguồn vốn, kĩ thuật, kinh nghiệm quản lý
của các tư nhân trong xây dựng kinh tế một cách nhanh nhất. Trong lĩnh vực
chính trị, nó giúp thực hiện cải cách mau lẹ, làm cho các lực lượng chống đối
không đủ thời gian để thiết lập sự phản kháng, làm tăng uy tín cải cách, đảm bảo
cơ hội thắng lợi nhiều hơn cho cải cách. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm thì

“liệu pháp sốc” cũng còn nhiều hạn chế đúng như các nhà phân tích đã khẳng
định: việc cải cách sở hữu nhanh tức là từ bỏ vai trò đầu tư của nhà nước vào các
xí nghiệp đã là suy giảm mạnh các tiềm năng sản xuất của đất nước và nếu như
trong điều kiện chuyển đổi bất ổn định, “liệu pháp sốc” sẽ dẫn đến sản xuất trì
trệ, đời sống nhân dân giảm sút mạnh và kéo theo một loạt các vấn đề xã hội
khác. Hơn nữa cải cách sở hữu quá nhanh cũng dẫn tới việc hình thành các thể
chế kinh tế thị trường thiếu hụt, không vững chắc. Có thể nói “liệu pháp sốc”
không phải là chìa khoá vạn năng để mở cánh cửa nền kinh tế thị trường.

19


CHƢƠNG 2: QUÁ TRÌNH CẢI CÁCH KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA LIÊN
BANG NGA GIAI ĐOẠN (1992 – 1998) VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐẾN VỊ
THẾ CỦA LIÊN BANG NGA

1. Quá trình cải cách kinh tế
Thực hiện đường lối cải cách do Tổng thống đề ra, công cuộc cải cách đã
được tiến hành liên tục suốt thời kỳ cầm quyền của B.Enxin.
Trên cơ sở đường lối chung về tự do hoá giá cả, tự do buôn bán và tư nhân
hoá quá trình cải cách còn thường xuyên được bổ sung điều chỉnh bằng những
sắc lệnh, quy định khác nhau do Tổng thống ban hành trong từng thời kỳ cụ thể.
Công cuộc cải cách tiến hành trên tất cả các lĩnh vực đời sống kinh tế - xã hội,
song không phải lúc nào việc cải cách cũng được thực hiện bằng những biện
pháp giống nhau. Do đó chỉ hiểu được quá trình cải cách của B.Enxin khi tìm
hiểu nó trong từng giai đoạn cụ thể. Tiến trình cải cách phụ thuộc vào biện pháp
thực hiện nó. Vì vậy việc phân chia các giai đoạn của công cuộc cải cách phải
căn cứ vào chính sách, biện pháp mà Chính phủ đề ra cùng với kết quả của
chúng trong những thời điểm nhất định. Nhìn một cách khái quát các mặt: cải
cách tài chính – tiền tệ, cải cách thương nghiệp và cải cách sở hữu tư nhân.

Chúng ta có thể phân chia quá trình cải cách kinh tế của của B.Enxin thành hai
giai đoạn sau:
1.1. Giai đoạn 1992 - 1994
1.1.1. Cải cách tài chính - tiền tệ
Bước đi đầu tiên trong tiến trình cải cách kinh tế thị trường ở tất cả các
nước vào thập niên 90 thường bắt đầu từ lĩnh vực tài chính tiền tệ. Ngày
2/1/1992 Liên bang Nga bắt đầu thực hiện chính sách cải cách tài chính tiền
tệ, cụ thể là chính sách “tự do hoá giá cả”. Thả nổi giá cả là biện pháp tất yếu,
không tránh khỏi để xây dựng nền kinh tế thị trường. Mục tiêu đầu tiên của
chính sách này là nhằm giải quyết tình trạng khan hiếm về hàng hoá. Với
“liệu pháp sốc”, chính sách tài chính tiền tệ của Liên bang Nga thể hiện ở
chỗ: tự do hoá đồng loạt giá cả hàng hoá. Đầu năm 1992, chỉ trong vòng thời
20


×